



















Preview text:
         
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP HCM  KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 
Bộ môn: Những NLCB của CNMLN   ----------             TIỂU LUẬN 
TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN     
Đề tài: Số 36: Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến 
trúc thượng tầng và sự vận dụng để giải quyết mối 
quan hệ giữa phát triển kinh tế với đổi mới chính trị ở  Việt Nam hiện nay   
 Nhóm SVTT: STT 81.Hồ Thị Thu Nhàn- 21136190   
 82. Nguyễn Lê Đức Nhân- 21136192 
 85. Nguyễn Ngọc Nhi- 21136194 
 87. Trần Thị Bảo Nhi- 21136196 
 90. Huỳnh Trần Hiệp Nữ- 21136063     
 GVHD: TS. Nguyễn Thị Thúy Cường      Tp  HCM, 12-2021               
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP HCM  KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 
Bộ môn: Những NLCB của CNMLN   ----------             TIỂU LUẬN 
TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN     
Đề tài: Số 36: Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến 
trúc thượng tầng và sự vận dụng để giải quyết mối 
quan hệ giữa phát triển kinh tế với đổi mới chính trị ở  Việt Nam hiện nay   
 Nhóm SVTT: STT 81.Hồ Thị Thu Nhàn- 21136190   
 82. Nguyễn Lê Đức Nhân- 21136192 
 85. Nguyễn Ngọc Nhi- 21136194 
 87. Trần Thị Bảo Nhi- 21136196 
 90. Huỳnh Trần Hiệp Nữ- 21136063     
 GVHD: TS. Nguyễn Thị Thúy Cường        Tp HCM, 12-2021       
DANH SÁCH THÀNH VIÊN TAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN 
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2020-2021 
Tên đề tài: Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng và sự vận 
dụng để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với đổi mới chính trị ở 
Việt Nam hiện nay  TỈ LỆ %  STT 
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN  HOÀN THÀNH  1  Nguyễn Lê Đức Nhân  21136192  100%  2  Nguyễn Ngọc Nhi  21136194  100%  3  Huỳnh Trần Hiệp Nữ  21136063  100%  4  Hồ Thị Thu Nhàn  21136190  100%  5  Trần Thị Bảo Nhi  21136196  100%  Ghi chú: 
- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.  - Trưởng nhóm: N  guyễn Lê Đức Nhân  SĐT: 0384167768 
- Nhận xét của giáo viên 
……………………………………………………………………………………. 
……………………………………………………………………………………. 
…………………………………………………………………………………….            MỤC LỤC 
A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 1 
B. PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 2 
I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ 
BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG 
TẦNG.................................................................................................................. 2 
1.1 Khái niệm. .................................................................................................. 2 
1.1.1. Cơ sở hạ tầng và các yếu tố cấu thành ................................................... 3 
1.2 Mối quan hệ xã hội giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.............. 3 
1.2.1 Cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng ....... 5 
1.2.2 Kiến trúc hạ tầng mang tính độc lập tương đối và tác động trở lại cơ sở 
hạ tầng .............................................................................................................. 5 
II. SỰ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ 
TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG ĐỂ GIẢI QUYẾT QUAN HỆ 
GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT 
NAM HIỆN NAY............................................................................................... 6 
2.1. Thời kì trước đổi mới ( trước 1986) ......................................................... 6 
2.1.1. Thực trạng nền kinh tế trước khi tiến hành đổi mới .............................. 6 
2.1.2.Những thiếu sót còn tồn tại ................................................................... 12 
2.2. Thời kỳ đổi mới ( từ 1986 đến nay) ....................................................... 13 
2.2.1. Những thành tựu về kinh tế- chính trị đã đạt được .............................. 13 
2.2.2. Những thiếu sót còn tồn tại .................................................................. 15 
2.3 Các giải pháp và phương hướng đề nghị ................................................. 16 
2.3.1.Xây dựng kiến trúc thượng tầng chính trị phù hợp với cơ sở hạ tầng .. 18 
2.3.2.Vai trò định hướng của nhà nước trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam ................................................................................ 19 
III. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN ....................................................... 20 
3.1 Tích cực học tập và rèn luyện các kỹ năng cần thiết: .............................. 20 
3.2. Vận dụng lý thuyết để phát triển thực hành ............................................ 21 
3.3 Tích cực tham gia các hoạt động xây dựng bảo vệ tổ quốc ..................... 21 
3.4 Tích cực tham gia vào việc phòng chống Covid-1 
9 ................................ 23 
C. KẾT LUẬN ................................................................................................. 24 
D. PHẦN TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 25          A. PHẦN MỞ ĐẦU 
Trong quá trình nghiên cứu xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen không chỉ nghiên cứu 
xã hội thông qua mối quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản 
xuất mà còn nghiên cứu cả những quan hệ khác. Trong đó mối quan hệ biện chứng 
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũng được xem là một quy luật chung 
chi phối sự vận động và phát triển của xã hội loài người. Trong quá trình phát triển 
của bất kỳ chế độ xã hội nào từ xưa đến nay, mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và 
kiến trúc thượng tầng cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Đây là một trong 
những nội dung cơ bản của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy 
vật lịch sử, là phương pháp luận khoa học để nhận thức, cải tạo xã hội, vạch ra 
những quy luật cơ bản của sự vận động phát triển xã hội. Tuy nhiên, đây là một kết 
cấu kinh tế năng động, phong phú được phản chiếu trên nền kiến trúc thượng tầng 
và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải đổi mới để đáp 
ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Do đó, trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều 
thành phần theo định hướng xã hội ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ 
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Chính vì vậy nên việc 
nghiên cứu tìm hiểu và giải quyết mối quan hệ này là rất cần thiết, nó giúp chúng 
ta tìm hiểu và xác định những định hướng đúng đắn để khắc phục những mâu 
thuẫn nội tại trong xã hội nhằm duy trì và củng cố sự ổn định của chế độ xã hội 
hiện thời. Việt Nam cũng không là một ngoại lệ, trong công cuộc đổi mới ở đất 
nước ta hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng 
và kiến trúc thượng tầng, từ đó dựa trên cơ sở điều kiện thực tiễn của nước ta nhằm 
mục đích vận dụng và quán triệt mối quan hệ này vào việc định hướng phát triển 
nền kinh tế kết hợp với củng cố hệ thống chính trị, đổi mới một cách toàn diện và 
triệt để sâu sắc, tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 
Trong khuôn khổ nhỏ của tập tiểu luận này nhóm em xin trình bày một cách ngắn 
gọn về Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng và sự vận dụng để  1     
giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với đổi mới chính trị ở Việt Nam 
hiện nay, cùng một số giải pháp, ý kiến đề xuất của nhóm em. Do kiến thức của tụi 
em còn rất có hạn và vốn hiểu biết hạn hẹp nên không thể tránh khỏi những thiếu 
sót trong quá trình viết tiểu luận, rất mong nhận được sự đóng góp của cô.  B. PHẦN NỘI DUNG 
I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ MỐI QUAN 
HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC  THƯỢNG TẦNG  1.1 Khái niệm. 
- Cơ sở hạ tầng (CSHT): là toàn bộ những quan hệ sản xuất (QHSX) hợp thành cơ 
cấu kinh tế của một hình thái kinh tế- xã hội nhất định. 
Khái niệm CSHT phản ánh chức năng xã hội của các QHSX với tư cách là cơ sở 
kinh tế của các hiện tượng xã hội. CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm những 
CSHT thống trị, những QHSX tàn dư của xã hội trước và những QHSX là mầm 
mống của xã hội sau. Trong một CSHT có nhiều thành phần kinh tế, nhiều QHSX 
thì kiểu QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần 
kinh tế và các kiểu QHSX khác; nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng 
chung của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính 
giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu QHSX thống trị quy định. Tính chất đối 
kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ ngay  trong CSHT. 
- Kiến trúc thượng tầng (KTTT): là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, 
những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành 
trên một cơ sở hạ tầng nhất định. 
KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và thể chế giai cấp 
thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm và tổ chức  2     
của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định 
tính chất cơ bản của KTTT trong một hình thái xã hội nhất định. Trong đó bộ phận 
mạnh nhất của KTTT là nhà nước- công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế 
độ xã hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai 
cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội. [1] 
1.1.1. Cơ sở hạ tầng và các yếu tố cấu thành  - Cơ sở hạ tầng 
+ Cấu trúc của cơ sở hạ tầng: 
* Quan hệ sản xuất thống trị 
* Quan hệ sản xuất mầm mống 
* Quan hệ sản xuất tàn dư 
- Kiến trúc thượng tầng 
+ Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng: 
* Tư tưởng xã hội: tư tưởng chính trị, đạo đức, pháp quyền, triết học, nghệ thuật,  tôn giáo... 
* Thiết chế xã hội: nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể , công đoàn và tổ  chức xã hội. [2] 
1.2. Mối quan hệ xã hội giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 
- Vài nét về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong chủ nghĩa xã hội: 
+ Cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa và kiến trúc thượng tầng không phát sinh một 
cách tự phát trong xã hội cũ mà nảy sinh thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa.  3     
+ Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến 
trúc thượng tầng phải được thực hiện từng bước với những hình thức và quy mô 
phù hợp, tránh khuynh hướng chủ quan, duy ý chí. 
+ Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa khi được phát triển đầy 
đủ và hoàn thiện sẽ có tính ưu việt: cơ sở hạ tầng không còn mâu thuẫn đối kháng , 
cơ cấu kinh tế không có sự đối lập về lợi ích kinh tế; Kiến trúc thượng tầng là sự 
nhất trí về chính trị và tinh thần trong toàn xã hội, dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp 
công nhân, thể hiện vai trò của nhà nước và pháp luật. 
- Ý nghĩa trong đời sống xã hội: 
+ Đây Là cơ sở khoa học để nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính 
trị. Kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng, trong đó kinh tế quyết định 
chính trị, chính trị tác động trở lại đối với kinh tế. 
- Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời và tuyệt đối hóa một yếu tố nào đều là  sai lầm: 
* Nếu tuyệt đối hóa kinh tế, hạ thấp,coi thường hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là 
rơi vào quan điểm duy vật tầm thường, dẫn đến vô chính phủ, bất chấp kỉ cương,  pháp luật. 
* Nếu tuyệt đối hóa chính trị, hạ thấp, coi thường, bỏ qua hoặc phủ nhận vai trò 
của kinh tế sẽ dẫn đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn. 
- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm đến 
việc nâng cao nhận thức và thực hiện quy tắc này. Trong thời kì đổi mới, Đảng ta 
chủ trương đổi mới toàn diện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là 
trung tâm, đồng thời đổi mới chính trị từng bước, thận trọng, vững chắc với những 
hình thức và bước đi thích hợp. [3]  4     
1.2.1. Cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng  tầng 
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng 
+ Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung, tính chất của kiến trúc thượng tầng: 
* Mỗi cơ sở hạ tầng đều tạo nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng. 
* Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị 
thống trị về chính trị, đời sống tinh thần của xã hội. 
+ Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng: 
* Khi cơ sở hạ tầng thay đổi, thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay 
đổi theo. Nguyên nhân của sự thay đổi đó, xét đến cùng là do sự phát triển của lực  lượng sản xuất. 
* Quá trình này không chỉ diễn ra từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái 
kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội. 
* Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng kéo theo sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng là 
rất phức tạp. Có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng 
cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng (chính trị, pháp luật.), Có những yếu tố thay 
đổi chậm (nghệ thuật, tôn giáo), hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã  hội mới. [4] 
1.2.2. Kiến trúc hạ tầng mang tính độc lập tương đối và tác động 
trở lại cơ sở hạ tầng 
Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối và có vai trò tác động trở lại lên  cơ sở hạ tầng.  5     
+ Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng thể hiện trước tiên ở chức năng 
chính trị xã hội của nó 
+ Trong xã hội chủ nghĩa, kiến trúc thượng tầng, đặc biệt là nhà nước giữ vai trò  cực kỳ quan trọng. 
+ Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng nếu có cùng chiều với cơ sở hạ tầng 
thì sự tác động này thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nếu không cùng chiều mà là trường 
hợp ngược chiều (trái quy luật), tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở 
hạ tầng sẽ là tiêu cực, cản trở và ảnh hưởng đến sự phát triển xã hội.[5] 
II. SỰ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ 
HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG ĐỂ GIẢI QUYẾT 
QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI ĐỔI MỚI CHÍNH 
TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
2.1. Thời kì trước đổi mới (trước 1986) 
2.1.1. Thực trạng nền kinh tế trước khi tiến hành đổi mới 
Trước năm 1986,nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế có hai hình thức sở hữu , hai 
loại hình kinh tế chủ yếu là xí nghiệp quốc doanh và tập thể , chỉ có một ít là loại 
hình kinh tế cá thể ,chưa có kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài . 
Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ 
thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới . Các doanh nghiệp hoạt 
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu 
pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất nguồn vật tư , tiền vốn, định 
giá sản phẩm,tổ chức bộ máy , nhân sự , tiền lương… điều độ các cấp có thẩm 
quyền quyết định . Trong quá trình sản xuất và trao đổi , các yếu tố thị trường như 
cung cầu , giá cả có tác động điều tiết quá trình sản xuất hàng hóa , phân bổ các 
nguồn lực kinh tế và tài nguyên thiên nhiên như vốn , tư liệu sản xuất , sức lao 
động ,…Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất ,kinh 
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và  6     
pháp lý đối với các quyết định của mình . Thiệt hại vật chất do các doanh nghiệp 
làm chủ hoạt động kinh doanh , nền kinh tế xuất hiện dựa trên cơ sở phân công lao 
động xã hội và các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất . Các doanh nghiệp không 
có quyền tự chủ sản xuất , kinh doanh ,cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối 
với kết quả sản xuất , kinh doanh. 
Lịch sử kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986 hay còn gọi là Thời kỳ bao cấp 
đồng thời là giai đoạn của những tìm tòi để thoát khỏi mô hình này. Gồm 3 thời kỳ 
chủ yếu: Thời kì xác lập mô hình kinh tế chung cho cả nước, thời kỳ đổi mới, thời  kỳ siết lại. 
Thời kì xác lập mô hình kinh tế chung cho cả nước : Ngày 30 tháng 4 năm 1975, 
Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, nước Việt Nam thống nhất. Tại đây, Đại hội quyết 
nghị đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đổi tên Đảng thành 
Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả 
nước. Nội dung chính của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội là: 
Thứ nhất, thực hiện sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Sản xuất lớn có nghĩa là nền 
kinh tế dựa vào những đơn vị có quy mô lớn, huyện trở thành pháo đài kinh tế-xã 
hội, các tỉnh được sáp nhập lại còn 29 tỉnh. Còn sản xuất xã hội chủ nghĩa tức là 
nền kinh tế dựa vào 2 thành phần kinh tế cơ bản: quốc doanh (trong công và 
thương nghiệp) và tập thể (trong nông nghiệp - với hợp tác xã cấp cao là nòng cốt). 
Để thực hiện được sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cần tiến hành đồng thời 3 cuộc 
cách mạng: quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật, và văn hóa tư tưởng. Cách mạng 
quan hệ sản xuất có nội dung cơ bản là cải tạo các thành phần kinh tế tư nhân, cá 
thể, biến chúng thành các thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể - gọi chung là 
cải tạo xã hội chủ nghĩa. 
Thứ hai, làm chủ tập thể. Đây là một tư tưởng do Lê Duẩn sáng tạo mà rất ít người 
hiểu, kể cả các nhà triết học.  7     
Thứ ba, áp dụng chế độ kế hoạch hóa tập trung. Đây là mô hình chung ở các nước  xã hội chủ nghĩa. 
Thứ tư, công nghiệp nặng được lựa chọn làm ngành động lực chính của tăng 
trưởng và phát triển kinh tế. 
Thứ năm, Nhà nước độc quyền về kinh tế đối ngoại. 
Cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam: 
Hợp tác hóa: Việc hợp tác hóa ở miền Nam được tiến hành khẩn trương trong các 
năm từ 1977 đến 1980.Theo kế hoạch thì ruộng đất được tập hợp lại để tổ chức 
canh tác tập thể, sản phẩm được phân chia căn cứ theo mức đóng góp. Máy móc 
nông nghiệp của nông dân bị trưng mua để thành lập các tập đoàn phục vụ sản xuất 
nông nghiệp. Tuy nhiên tình hình kinh tế Miền Nam không thích hợp với mô hình 
hợp tác hóa vì chương trình "Người cày có ruộng" vào đầu thập niên 1970 đã phân 
phối ruộng đất khiến đa số nông dân Miền Nam thuộc hạng trung nông với năng 
suất khá cao. Hơn nữa chính quyền cũng đã nhận thấy lịch sử hợp tác hóa ở miền 
Bắc đã gặp nhiều thất bại nên hợp tác hóa ở miền Nam cũng bị bỏ dở. 
Cải tạo công thương nghiệp: Cuối tháng 8 năm 1975, Bộ Chính trị Đảng Lao động 
Việt Nam đã chỉ đạo tiến hành các chiến dịch cải tạo. Tiếp theo, Thường vụ Trung 
ương Cục miền Nam thông qua một kế hoạch nhắm vào tư sản mại bản, gọi bằng 
mật danh là Chiến dịch X2. Trong Chiến dịch X2, nhiều nhà tư sản lớn của miền 
Nam đã bị bắt, tài sản của họ bị tịch thu. các hoạt động cải tạo công thương ở miền 
Nam cho đến trước năm 1978 vẫn diễn ra một cách thận trọng.Từ năm 1978, hoạt 
động cải tạo công thương nghiệp diễn ra mạnh hơn. 
Thống nhất tiền tệ :Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam thống nhất lãnh thổ 
và tiếp sau đó là thống nhất về chế độ chính trị. Một trong số đó là việc tồn tại 
đồng thời 2 đơn vị tiền tệ: Đồng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đồng của  8     
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặt khác, quốc hiệu của Việt 
Nam đã được đổi thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không dùng quốc 
hiệu cũ vẫn ghi trên các đơn vị tiền tệ đang lưu thông. Ngày 02 tháng 5 năm 1978, 
Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam đã ra quyết nghị số 230 NQ-QH/K về việc 
Thống nhất tiền tệ trong cả nước, thu đổi tiền Ngân hàng Nhà nước hiện đang lưu 
hành ở hai miền Việt Nam và phát hành tiền mới của Ngân hàng Nhà nước Việt  Nam. 
Hội nhập kinh tế: Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ lập tức triển khai cấm 
vận kinh tế đối với Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ khoảng 1 năm sau, Hoa Kỳ đã có dấu 
hiệu muốn cải thiện quan hệ với Việt Nam. Tổng thống Gerald Ford đề nghị Quốc 
hội Hoa Kỳ tạm ngừng cấm vận Việt Nam trong 6 tháng để tạo điều kiện cho trao 
đổi giữa 2 nước. Hoa Kỳ tuyên bố sẵn sàng bỏ cấm vận Việt Nam và tiến hành 
viện trợ nhân đạo nếu Việt Nam trao trả hài cốt binh sĩ Hoa Kỳ và không đặt vấn 
đề bồi thường chiến tranh. Ngày 4 tháng 5 năm 1977, Hoa Kỳ đồng ý để Việt Nam 
vào Liên Hợp Quốc. Đông Nam Á muốn tạo dựng mối quan hệ hữu nghị với Việt 
Nam. Dù có quan hệ quốc tế khá thuận lợi để đẩy mạnh hội nhập kinh tế rộng rãi, 
nhưng Việt Nam đã không tranh thủ 
Việc thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm 1976-1980 gặp nhiều khó khăn. Trước tiên 
là nguồn viện trợ từ phía các nước xã hội chủ nghĩa giảm sút. Các nguồn viện trợ 
này gồm những mặt hàng quan trọng như gạo, sợi, đường, sữa, vải vóc, thuốc men, 
v.v… Sau khi tham gia Hội đồng Tương trợ Kinh tế, Việt Nam phải theo thể chế 
giá của khối này, trong đó có nguyên tắc giá trượt. Thứ hai, từ năm 1978, Khmer 
Đỏ tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Chi tiêu cho quốc phòng của Việt 
Nam vì vậy tăng mạnh. Thứ ba, cuối năm 1978 và cả năm 1979, đồng bằng sông 
Cửu Long chịu những trận lũ lớn. Diện tích canh tác bị ngập úng tới 5-6 tháng. 
Thứ tư, và quan trọng, là cơ chế kinh tế mới áp dụng ở miền Nam đã khiến cho nền 
kinh tế miền Nam nói riêng và cả nước nói chung sa sút.  9     
Thời kỳ đổi mới 
Xé rào ở cơ sở : Do đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn, do sản xuất ách 
tắc, các cơ sở kinh tế và địa phương đã tìm những cách thức để giải quyết khó khăn 
và ách tắc của mình. Sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế, Liên 
Xô đã cử các chuyên gia kinh tế sang giúp Việt Nam. Nội dung của lớp học phù 
hợp với nhu cầu tìm tòi hướng đi mới của các cán bộ Việt Nam, vừa là cái ô che 
chở cho những cán bộ có tinh thần đổi mới bởi lẽ Đổi mới tư duy ở Trung ương: 
Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, từ những kết quả tích cực của 
phong trào «phá rào» ở cơ sở, Nhà nước Việt Nam cũng bắt đầu có một số thay đổi 
trong chính sách quản lý kinh tế. 
Cho phép kết hợp kế hoạch hóa với cơ chế thị trường: 
 Sử dụng lại kinh tế tư nhân bao gồm cả tư bản tư nhân dưới sự quản lý  của Nhà nước. 
 Sửa lại giá lương thực và giá các nông sản khác theo hướng dựa trên  thỏa thuận. 
 Cho phép địa phương tiến hành xuất nhập khẩu. 
Cải cách giá-lương: Thời kỳ 1979-1982 là thời kỳ có những chuyển biến trong tư 
duy về kế hoạch hóa kinh tế, về chính sách giá thu mua nông sản, về khoán sản 
xuất. Tuy nhiên, cũng có những hậu quả tiêu cực như tình trạng tranh mua, tranh 
bán đẩy giá lên cao, tình trạng kế hoạch tập trung của nhà nước bị các đơn vị kinh 
tế không chấp hành do mải chạy theo kế hoạch 2 (kế hoạch liên doanh liên kết) và 
kế hoạch 3 (kế hoạch làm ăn kiểu thị trường). Những mặt tiêu cực này đã khiến 
hình thành chủ trương xét lại, thể hiện rõ qua Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ 
V vào tháng 3 năm 1982, hội nghị lần thứ 1 (tháng 9/1982), thứ 3 (tháng 12/1982), 
thứ 4 (tháng 6/1983)và thứ 5 (12/1983) của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 
V, chiến dịch Z-30, v.v... Giữa lúc chủ trương uốn nắn lại được đẩy mạnh thì Chủ  10     
tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh trước vốn là được xem là người bảo thủ đã 
có những thay đổi lớn về tư duy, đặc biệt là sau khi nghiên cứu những kết quả của 
các cải cách thời kỳ 1979-1982 và đi thực tiễn địa phương ở nhiều nơi.Ông đã nêu 
ra ý kiến cần đổi mới và phải đổi mới triệt để tại các hội nghị trung ương lần thứ 6, 
và 7.. Đến hội nghị trung ương 8 (tháng 6/1985), Ban chấp hành trung ương đã 
quyết nghị tiến hành một cuộc cải cách lớn về giá - lương - tiền, với nội dung  chính như sau: 
● Tính đủ chi phí hợp lý vào sản xuất 
● Thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống giá cả 
● Đảm bảo tiền lương thực tế, thực sự đảm bảo cho người ăn lương sống 
chủ yếu bằng tiền lương, tái sản xuất được sức lao động. 
● Xác lập quyền tự chủ về tài chính của các ngành và các cơ sở kinh tế 
Để triển khai thực hiện nghị quyết của hội nghị trung ương 8 của Đảng, Nhà nước 
Việt Nam thành lập Ban chỉ đạo chiến dịch cải cách giá - lương - tiền do Phó Chủ 
tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách phân phối lưu thông Trần Phương đứng đầu. 
Ban chỉ đạo có nhiệm vụ vừa thiết kế vừa triển khai chiến dịch. Tháng 8 năm 1985, 
phương án cải cách được đưa ra như sau: 
+ Về giá, phải tính toán đầy đủ giá các mặt hàng Nhà nước cung cấp và giá 
các mặt hàng Nhà nước mua của nông dân, thợ thủ công theo giá sát với chi 
phí sản xuất. Để tiện cho tính toán, các mức giá trên được quy ra thóc. Còn 
giá thóc được xác định bình quân là 25 đồng/kg, dựa trên tính toán thực tế 
của các chuyên gia. Các địa phương khác nhau thì mức giá thóc quy đổi này 
có thể cao hoặc thấp hơn. Nhà nước ban hành mức giá mới của một số vật 
tư, như xăng, dầu, xi măng, sắt, theo đó giá sắt 6 tăng 11,5 lần so với mức 
giá cũ, giá xi măng tăng 12,5 lần.  11     
+ Về lương, Ban chỉ đạo đề nghị tăng lương thêm 20%. 
+ Về tiền, để đáp ứng giá mới và lương mới, phải in thêm tiền, để tổng tiền 
trong lưu thông là 120 tỷ đồng. Vì lẽ đó, để in ít tiền mà vẫn có sức mua lớn, 
Ban chỉ đạo đưa ra chủ trương đổi tiền. Như vậy 12 tỷ đồng in mới và đem 
đổi sẽ tương đương 120 tỷ đồng hiện hành. 
2.1.2. Những thiếu sót còn tồn tại 
Từ thời chiến chuyển sang thời bình, đòi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy, thay đổi 
nội dung và phương thức lãnh đạo cho phù hợp với tình hình mới. Nghị quyết Đại 
hội IV và Đại hội V của Đảng đã đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh phát triển kinh tế - 
xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, từng bước xây dựng nước ta thành một 
nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Tuy vậy, do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, đất 
nước vừa trải qua nhiều năm chiến tranh, cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính 
mệnh lệnh đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi người, việc đổi mới tư duy và phương 
thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với điều kiện mới chưa được đặt ra một cách 
đúng mức. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một mặt, 
tạo ra những thuận lợi vô cùng to lớn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; 
mặt khác, cũng tạo ra tâm lý chủ quan duy ý chí cản trở sự phát triển nhận thức của 
Đảng. Tính độc lập, chủ động của Nhà nước bị vi phạm, hiệu lực quản lý của bộ 
máy nhà ước bị hạn chế. Quyền làm chủ của Nhân dân không được coi trọng, phát 
huy một cách thực chất. 
Chiến tranh kết thúc, sự viện trợ của các nước anh em giảm dần và chuyển sang 
hợp tác, trao đổi theo giá thị trường quốc tế. Sau sự kiện Campuchia, nước ta gặp 
rất nhiều khó khăn trong quan hệ đối ngoại, vị thế đất nước bị giảm sút trên trường  quốc tế... 
Do những sai lầm trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và quản lý kinh tế, 
tình hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng khó khăn: tốc độ tăng trưởng kinh tế  12     
thấp, lạm phát phi mã, hiệu quả đầu tư hạn chế, đời sống Nhân dân không được cải 
thiện, thậm chí nhiều mặt còn sa sút hơn... Đất nước dần lâm vào một cuộc khủng 
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. 
Trước tình hình đó, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp từng bước tháo gỡ 
khó khăn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IV 
về phương hướng phát triển hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương, tháo gỡ 
các rào cản, làm cho sản xuất “bung ra”; Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 31-1-1981 
của Ban Bí thư khóa V về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến 
nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp... đã tạo ra những 
bước đột phá nhất định, song vẫn không làm thay đổi được đáng kể tình hình kinh 
tế - xã hội đất nước. [6] 
2.2. .Thời kỳ đổi mới ( từ 1986 đến nay) 
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành 
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Quy mô, trình độ nền 
kinh tế được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện 
rõ rệt. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn 
Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững 
bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững đất  nước. [7] 
2.2.1. Những thành tựu về kinh tế- chính trị đã đạt được 
- Quy mô nền kinh tế tăng nhanh, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành 
vượt mức nhiều mục tiêu. 
+ Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn 
tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới , mức tăng trưởng GDP bình quân 
hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, 
đạt 8,2%/năm. Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân hằng năm về tổng  13     
sản phẩm trong nước đạt 8,2% , về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông 
nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi: tỉ 
trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 đến 29,1% năm 
1995; Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút 
vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao, quy mô tổng sản phẩm trong nước 
năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000. 
+ Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 
nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao 
nhất khu vực. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới 
đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống 
nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu 
nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750  USD/năm. 
+ Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng định 
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Thể chế kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, 
đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hoá thành luật pháp, cơ chế, 
chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn 
vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được  giữ vững. 
 - Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao 
+ Trong 35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu 
rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Đến nay, đã có 71 quốc gia công 
nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác 
thương mại lớn của Việt Nam. Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 
15 FTA khu vực và song phương và đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. 
Các FTA mà Việt Nam tham gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60  14     
nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành 
viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 
trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây u và Đông Á. Do đó, việc tham 
gia và thực thi các FTA sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích 
cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và  sản phẩm... 
- Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh. 
 + Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hòa 
bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới. Đảng đã 
định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc 
trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến lược quốc 
phòng, an ninh. Chất lượng và sức chiến đấu của quân đội và công an được nâng 
lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Công tác 
bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được tăng cường. [8] 
2.2.2. Những thiếu sót còn tồn tại 
Cùng với việc đánh giá đúng thành tựu, cần nhận rõ những khuyết điểm và yếu 
kém. Nước ta còn nghèo và kém phát triển. 
Đến nay nước ta vẫn còn là một trong những nước đang phát triển trên thế giới; 
trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, 
cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần nhiều. Trong khi nhu cầu vốn đầu tư 
phát triển rất lớn và cấp bách, một số cơ quan nhà nước, đảng, đoàn thể, tổ chức 
kinh tế, một bộ phận cán bộ và nhân dân lại tiêu xài lãng phí, chưa tiết kiệm để dồn 
vốn cho đầu tư phát triển. Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng 
căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc, còn quá khó khăn. 
Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buông  lỏng.  15     
Chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện 
thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò 
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà 
nước làm chậm, chưa quan tâm tổng kết thực tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, 
biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, để hợp tác xã ở nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn là 
hình thức, cản trở sản xuất phát triển; Chưa giải quyết tốt một số chính sách để 
khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành  phần kinh tế này. 
Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm. 
Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà 
nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị, xã hội chưa nâng lên kịp 
thời với đòi hỏi của tình hình. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay đổi, trẻ hóa 
cán bộ, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Năng lực và phẩm chất 
của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Điều đáng lo 
ngại là không ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về 
phẩm chất, đạo đức; sức chiến đấu của một bộ phận tổ chức cơ sở Đảng suy  yếu.[9] 
2.3. Các giải pháp và phương hướng đề nghị 
Thực tế cho thấy, chúng ta về cơ bản đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa 
kinh tế và chính trị - hạt nhân của mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc 
thượng tầng nói chung. Nhằm tiếp tục phát triển nền kinh tế, củng cố chế độ chính 
trị, đồng thời có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế, thiếu sót, tiếp tục công 
cuộc xây dựng đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa trong những năm tiếp theo. 
Về vấn đề phát triển kinh tế,cần tiếp tục duy trì và tăng nhịp độ tăng trưởng kinh tế 
so với hiện nay, tăng thu ngân sách. Đẩy mạnh đầu tư về vốn và kỹ thuật cho các 
ngành công nghiệp và các ngành xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, thông tin  16    
