Biến đổi của xã hội nông thôn ở Việt Nam - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Khánh Hòa

Biến đổi của xã hội nông thôn ở Việt Nam - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Khánh Hòa 399 tài liệu

Thông tin:
10 trang 5 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Biến đổi của xã hội nông thôn ở Việt Nam - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Khánh Hòa

Biến đổi của xã hội nông thôn ở Việt Nam - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

63 32 lượt tải Tải xuống
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243
Những biến đổi của xã hội nông thôn Việt Nam
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
những năm đầu thế kỷ XXI
Phạm Văn Quyết
**
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 16 tháng 10 năm 2012
Tóm tắt: Dựa trên kết quả điều tra 3000 hộ gia đình thuộc khu vực nông thôn của đề tài độc lập
cấp nhà nước (ĐTĐL. 2010T/38) tại Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Dương, Bắc Ninh
Bình Dương vào năm 2010, bài viết đã đưa ra các bằng chứng thực tế để làm những biến đổi
trong đời sống kinh tế cũng như quan hệ gia đình, quan hệ cộng đồng nông thôn nước ta trong
quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa hiện đại hóa trong những năm đầu của thế kỷ 21. Bên
cạnh những thay đổi trong đời sống hội nông thôn theo hướng tích cực, phù hợp với quy luật,
thì cũng tại nơi đây đã nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc liên quan đến đất đai, dân số, lao động, môi
trường và văn hóa xã hội rất cần được tháo gỡ.
Từ khoá: Nông thôn, nông nghiệp, nông dân, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn, xây dựng nông thôn mới, biến đổi xã hội nông thôn.
*
Quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước đang từng ngày làm thay đổi
diện mạo của nông nghiệp, nông thôn nước
ta, cung cấp những điều kiện, tiền đề quan
trọng để Việt Nam nhanh chóng đạt đến mục
tiêu: Xây dựng nông thôn mới kết cấu hạ
tầng kinh tế - hội hiện đại; gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp,
dịch vụ… như Nghị quyết 26 của BCHTW
Đảng (khóa X) đã xác định. Việc phân tích
để chỉ ra những đặc điểm, những vấn đề phát
triển nông thôn nước ta trong những năm đầu
của thế kỷ 21 thực sự cần thiết. Điều đó
không chỉ cho thấy tính đúng đắn trong các
định hướng của Đảng Nhà nước về phát
triển đất nước, còn cung cấp sở khoa
học giúp bổ sung, hoàn thiện hơn các chủ
trương, chính sách trong các lĩnh vực khác
nhau của đời sống hội, thúc đẩy nhanh
chóng hơn nữa tiến trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta.
Bài viết phân tích về sự những biến đổi
nông thôn nước ta trong những năm đầu của
thế kỷ XXI được thực hiện trên sở phân
tích nguồn dữ liệu phong phú thu được từ kết
quả điều tra của Đề tài với nhiều xã, phường,
quận huyện hơn 3000 hộ gia đình thuộc
thành phố Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
các tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh Bình
Dương của đề tài ĐTĐL.2010T/38 các
nguồn dữ liệu khác.
______
*
ĐT: 84-0912470932.
E-mail: p.quyet3@gmail.com
234
235 P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012)
234‐243
1. Biến đổi của nông thôn Việt Nam
trong quá trình công nghiệp hóa và hiện
đại hóa
Quá trình công nghiệp hoá gắn với đô thị
hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam thời gian gần
đây đã trực tiếp góp phần hình thành trên địa
bàn nông thôn những khu công nghiệp, khu
chế xuất các trung tâm dịch vụ, các khu đô
thị mới… đã nâng giá trị sử dụng của đất đai,
tạo những ngành nghề và việc làm mới, nâng
cao giá trị lao động, tạo môi trường ứng dụng
rộng rãi khoa học, công nghệ… Đô thị hoá
kích thích tạo hội để con người năng
động, sáng tạo hơn trong tìm kiếm lựa
chọn các phương thức, hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh, vươn lên làm giàu chính
đáng. Kết quả từ điều tra chọn mẫu của đề tài
ĐTĐL.2010T/38 đã cho thấy quá trình đô thị
hóa hiện nay tại các địa phương đã tác động
mạnh mẽ đến hầu hết các mặt khác nhau của
đời sống xã hội ở nông thôn.
Về cấu lao động: Theo kết quả điều
tra tại thời điểm năm 2010 trung bình mỗi hộ
gia đình trong mẫu điều tra có 2,87 lao động
so với 2,93 lao động vào năm 2005 được
phân bổ theo các ngành nghề hoạt động như
sau:
Tại các địa bàn điều tra số lao động trung
bình của các gia đình hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp vào năm 2010 chỉ chiếm
32,6%, làm công nhân chiếm gần 15%, các
dịch vụ kinh doanh, buôn bán chiếm 12,8%...
So sánh giữa 2 thời điểm 2005 2010
chúng ta thấy slao động trung bình mỗi hộ
gia đình tham gia lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp giảm đi 0,27 lao động, trong khi đó
số lao động hầu hết các lĩnh vực nghề
nghiệp khác đều tăng (xem bảng 1).
Từ sự phân bổ số lao động trong các lĩnh
vực nghề nghiệp như trên, dẫn đến cấu
nguồn thu nhập chính của các hộ cũng thay
đổi theo những xu hướng tương ứng (xem
bảng 2).
h
Số liệu từ bảng 2 chỉ ra rằng đến thời
điểm 2010 còn tới 36,1% số hộ gia đình nông
thôn trong mẫu điều tra nguồn thu nhập
chính từ nông, lâm, ngư nghiệp số gia
đình nguồn thu chính từ các hoạt động
dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp kinh doanh
buôn bán chiếm 26,6%. So với năm 2005 số
gia đình có thu nhập chính từ nông, lâm, ngư
nghiệp đã giảm đi đáng kể. giải về tình
trạng này nhiều ý kiến của lãnh đạo địa
phương hướng đến do: mất đất nông
nghiệp cho làm đường xá, khu công nghiệp;
do sự dịch chuyển lao động từ nông, lâm,
ngư nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch
vụ, tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh, buôn
bán có thu nhập cao hơn.
Bảng 1. Cơ cấu lao động của hộ gia đình nông thôn theo các ngành nghề hoạt động tại thời điểm 2005 và 2010
(tính theo lao động trung bình của hộ gia đình).
Các lĩnh vực ngành nghề Năm 2005 (số LĐ TB) Năm 2010 (số LĐTB) Chênh lệch
1. Làm nông, lâm, ngư nghiệp 1,21 0,94 - 0,27
2. Công chức, viên chức 0,15 0,16 0,01
3. Công nhân 0,35 0,43 0,08
4. Tiểu, thủ công nghiệp 0,12 0,14 0,02
5. Lao động tự do 0,38 0,38
6. Dịch vụ (cắt tóc, rửa xe, ...) 0,07 0,10 0,03
7. Kinh doanh, buôn bán 0,21 0,27 0,06
8. Đang đi học 0,33 0,30 - 0,03
9. Không có việc làm 0,12 0,16 0,04
Tổng 2,94 2,88
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
Bảng 2. Cơ cấu nguồn thu nhập của các gia đình vào năm 2005 và 2010 (%)
Từ các lĩnh vực Năm 2005 Năm 2010 Chênh lệch
1. Nông, lâm, ngư nghiệp 48,6 36,1 - 12,5
2. Công chức, viên chức 6,5 6,9 0,4
3. Công nghiệp 10,6 14,5 4,1
4. Dịch vụ 5,2 5,7 0,5
5. Tiểu, thủ công nghiệp 5,4 6,4 1,0
6. Kinh doanh, buôn bán 10,7 14,5 3,8
7. Nguồn khác 12,9 15,9 3,0
Tổng 100,0 100,0
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243
236
Sự dịch chuyển cơ cấu lao động và
nguồn thu nhập đã dẫn đến làm tăng thu
nhập cho các hộ gia đình nông thôn nói
chung. Điều này được thể hiện qua ý kiến tự
đánh giá của người dân về điều kiện kinh tế
của gia đình họ (xem bảng 3).
Vào thời điểm năm 2010, kết quả nghiên
cứu ý kiến của người dân tại các địa bàn điều
tra cho thấy vẫn còn khoảng 11,7% số gia
đình tự nhận hoàn cảnh kinh tế mức
nghèo và rất nghèo và 17,0% có mức kinh tế
khá giàu. So với năm 2005 tỷ lệ hộ
mức kinh tế khá, giàu đã tăng đáng kế, trong
khi tỷ lệ các hộ mức kinh tế trung bình,
nghèo, rất nghèo đã giảm đi một cách tương
đối.
Tình trạng nhà của người dân khu vực
nông thôn vào thời điểm 2010 được thể hiện
tại bảng 4. thể thấy một tỷ lệ khá cao
(63,6%) số gia đình được điều tra đang sống
trong những căn nhà kiên cố dạng nhà
riêng hoặc chung chỉ còn 3,7% số gia
đình hiện đang sống trong những căn nhà
tạm.
Có thể nói so với năm 2005 nhà ở của đa
số người dân nông thôn hiện nay đã được cải
thiện đáng kể. Các hộ dân trong các căn
nhà lầu kiên cố xây dựng chắc chắn đều tăng
lên cả ở số lượng và diện tích sinh sống. Nếu
năm 2005 3,7% số gia đình thuộc nhóm
nhà lầu từ 3 tầng trở lên, trung bình mỗi
hộ sở hữu 180 m2 (bình quân 41,8
m2/người) 44,7% nhà riêng kiên cố
dưới 2 tầng, trung bình mỗi hộ sở hữu 123
m2 (bình quân 28,6 m2/người), thì năm 2010
tăng lên 5,8% số gia đình thuộc nhóm có nhà
lầu từ 3 tầng trở lên, trung bình mỗi hộ sở
hữu 184 m2 (bình quân 43,1 m2 /người)
50,7% nhà riêng kiên cố dưới 2 tầng,
trung bình mỗi hộ sở hữu 126 m2 (bình quân
29,4 m2/người).
Như vậy, quá trình đô thị hóa cùng với
việc mất đất nông nghiệp (trong mẫu điều tra
trung bình mỗi gia đình vào năm 2005
2085,5 m2 nông nghiệp và 77,9 m2 đất vườn,
ao hồ, đến năm 2010 còn 1591,1 m2 đất
nông nghiệp 61,3m2 đất vườn, hồ ao,
trung nh mỗi hộ mất 494,4 m2 đất nông
Bảng 3. Ý kiến của người dân về mức sống kinh tế gia đình họ (%)
Mức sốngKT Năm 2005 Năm 2010
1. Giàu 0,5 1,3
2. Khá 7,7 15,7
3. Trung bình 75,8 71,3
4. Nghèo 14,9 11,0
5. Rất nghèo 1,1 0,7
Tổng 100,0 100,0
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
Bảng 4. Tình trạng nhà ở của cư dân nông năm 2005 và 2010
Loại hình nhà ở Nhà ở năm 2005 Nhà ở hiện nay (2010)
Tỷ lệ Diện tích T.bình (m ) Tỷ lệ Diện tích T.bình (m )
2 2
Nhà riêng, kiên cố từ 3 tầng trở lên 3,7 180 5,8 184
Nhà riêng, kiên cố dưới 3 tầng 44,7 123 50,7 126
Nhà kiên cố, dạng chung cư 6,9 100 7,1 111
Nhà bán kiên cố 39,2 80 32,7 84
Nhà tạm 5,5 60 3,7 63
Khác 0,0 00 00 00
Tổng 100,0 100,0
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
237 P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012)
234‐243
nghiệp và 16,6m2 đất ao hồ), sự chuyển dịch
cấu lao động, nguồn thu nhập... đã tác
động cải thiện đáng kể mức sống kinh tế, nhà
ở cho các hộ gia đình nông thôn.
Trên bình diện hội, quá trình đô thị
hóa, công nghiệp hóa hơn hai chục năm qua
đã từng bước tác động làm thay đổi dần bộ
mặt hội nông thôn nước ta theo hướng
hình thành, phát triển mở rộng các quan
hệ xã hội, các tổ chứchội của xã hội hiện
đại. Trong điều tra, nghiên cứu thực nghiệm
của đề tài, các nhà nghiên cứu đã quan tâm
nhiều đến việc xem xét, phân tích những
biến đổi về mặt xã đến xem xét 2 chỉ báo đặc
trưng, thể hiện khá tập hội nông thôn dưới
tác động của đô thị hóa, khi hướng trung về
đời sống hội nông thôn nước ta: Vai trò
giới trong gia đình mức độ tích cực tham
gia các tổ chức, đoàn thể hội của người
dân.
Vào thời điểm điều tra (năm 2010) những
công việc “gia đình” như nội trợ, chăm sóc
con cái, chăm sóc người cao tuổi, người ốm
đau hầu hết đều do phụ nữ đảm nhận hoặc
người chịu trách nhiệm chính. Điều này
không chỉ đúng đối với riêng phụ nữ nông
thôn hiện nay trong nhiều nghiên cứu
các giai đoạn trước đây về sự tham gia của
phụ nữ vào các công việc gia đìnhcác khu
vực đô thị cũng cho kết quả tương tự. Nghiên
cứu cũng cho thấy phụ nữ nông thôn cũng
được đánh giá cao về sự tham gia của họ vào
với các hoạt động sản xuất, với các quyết
định về những công việc quan trọng trong gia
đình. So sánh thời điểm năm 2010 với thời
điểm năm 2005 mức độ tham gia của phụ nữ
vào các công việc nội trợ, chăm sóc con cái,
chăm sóc người cao tuổi, người m đau
dường như không thay đổi, song mức độ
tham gia của họ vào công việc sản xuất giảm
đi đáng kể. Điều này được lý giải về sự giảm
đi một cách tuyệt đối các công việc sản xuất
ở nông thôn do mất đất nông nghiệp, do việc
áp dụng máy móc, kỹ thuật nhiều hơn trong
sản xuất… Về mức độ tham gia của họ vào
quyết định các công việc quan trọng của gia
đình đã tăng lên đáng kể so với năm 2005.
Đây thể được coi chỉ báo thực nghiệm
quan trọng để nói về những thay đổi trong
quan niệm của người dân nông thôn về vai
trò của phụ nữ trong gia đình, cộng đồng
theo định hướng của xã hội công nghiệp hiện
đại.
Một chỉ báo hội khác thể hiện được
khá rõ nét những tác động của lối sống đô thị
tới sinh hoạt cộng đồng của người dân nông
thôn gắn liền với việc hình thành, phát triển
và sự tham gia của người dân vào các tổ chức
hội. Ngoài ra đây cũng chỉ báo hội
quan trọng của việc mở rộng dân chủhội,
việc tiếp cận đến hội dân sự. Điều tra các
hộ gia đình nông thôn hiện nay của đề tài
cũng hướng đến xem xét chỉ báo hội này.
Mức độ tích cực tham gia của người dân
nông thôn vào các tổ chức hội khác nhau
ở địa phương còn thể hiện được tính đa dạng,
phong phú trong đời sống văn hóa tinh thần
của của người nông dân. Kết quả điều tra cho
thấy vào thời điểm năm
Bảng 5. Đánh giá của người dân về mức độ tham gia của phụ nữ nông thôn vào công việc của gia đình,
họ hàng, năm 2005 và 2010 (theo thang đánh giá 5 mức độ)
STT Quan hệ giới trong gia đình, họ hàng 2005 2010
1 Công việc nội trợ (giặt giũ, lau dọn nhà cửa, cơm nước, .v.v) 4,56 4,57
2 Công việc sản xuất (trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ…) 3,92 3,83
3 Dạy dỗ, chăm sóc con cái 4,30 4,32
4 Chăm sóc người đau ốm, người cao tuổi 3,99 4,00
5 Quyết định các công việc quan trọng trong gia đình 3,53 3,63
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243
238
2010 đã khá nhiều tổ chức hội, nghề
nghiệp được hình thành các vùng nông
thôn đã thu hút được sự tham gia của
nhiều đối tượng dân phù hợp theo đặc
điểm giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp sự
quan tâm cá nhân…
Số liệu bảng 6 thề hiện ý kiến tự đánh
giá về mức độ tích cực tham gia vào các tổ
chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp của người
dân nông thôn tại các tỉnh điều tra theo thang
đo 5 mức độ. Các số liệu tại đây cho thấy
hiện nay người dân nông thôn thể hiện sự
tích cực hơn khi tham gia vào các tổ chức xã
hội ít mang tính chính trị, nhưng ý nghĩa
thiết thực với cuộc sống của cá nhân gia đình
họ, mang lại cho họ giá trị văn hóa, tinh thần
tốt hơn như Hội người cao tuổi, Hội đồng
ngũ, đồng môn, Hội nông dân, Hội phụ nữ,
Hội khuyến học… Xét về điểm số thì thể
thấy mức độ tích cực tham gia của người dân
nông thôn vào các tổ chức chính trị xã hội đa
phần ở mức trung bình (từ 23 điểm), nghĩa
không quá sao nhãng, nhưng cũng không quá
tích cực. Điều đó cũng nói nên được phần
nào một trong những đặc điểm rất đặc trưng
mang tính cố hữu của người nông dân.
Tuy nhiên, dưới sự tác động của quá trình
đô thị hóa, công nghiệp hóa, đặc tính trên
đang dần dần được thay đổi: Trừ các tổ chức
chính trị (Đảng, Đoàn thanh niên) một số
tổ chức hội chỉ phù hợp với số ít người
dân ở nông thôn (Hội hưu trí, Câu lạc bộ thể
thao, giải trí, Hội nghề nghiệp) còn với đa số
các tổ chức hội khác, mức độ tích cực
tham gia của người dân vào thời điểm 2010
đều tăng lên đáng kể so với thời điểm năm
2005 (xem bảng 6).
Nhìn từ bình diện văn hoá, làn sóng đô
thị hoá cùng với sự phát triển hạ tầng văn
hoá hội, mở rộng mạng lưới thông tin đại
chúng, tăng cường quan hệ làm ăn, buôn bán
giữa các vùng miền… đã làm cho diện mạo
nông thôn đời sống tinh thần của dân
nông thôn ngày càng phong phú, đa dạng
hơn. nông thôn đã xuất hiện những yếu tố
văn hoá đô thị mới mẻ, hiện đại, sự truyền bá
các sản phẩm văn hoá, các loại hình văn học,
nghệ thuật giá trị; sự du nhập lối sống,
phong cách giao tiếp, ứng xử văn minh, tiến
bộ… làm cho văn hoá làng quê có những sắc
thái mới. Mức sống văn hoá, trình độ hưởng
thụ tham gia sáng tạo văn hoá của nông
dân các vùng đô thị hoá, nhìn trên tổng thể,
được nâng lên.
Kết quả điều tra ý kiến đánh giá của các
hộ gia đình nông thôn tại 5 tỉnh của đề tài về
mức độ xem truyền hình, đọc báo, tham quan
du lịch, cũng như mức độ tham gia của họ
vào các sinh hoạt văn hóa tinh thần của gia
đình, cộng đồng hội theo thang điểm 5
đã cho thấy một số lĩnh vực mức độ tham
gia của họ khá tích cực như xem truyền
Bảng 6. Mức độ tích cực tham gia vào các tổ chức xã hội phù hợp của người dân nông thôn năm 2005 và 2010
TT Các tổ chức đoàn thể, xã hội Năm 2005 Năm 2010
1 Đảng Cộng sản Việt Nam 1,47 1,40 2 Đoàn Thanh niên 1,79 1,66 3 Hội Phụ nữ
2,89 2,90
4 Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam 1,50 1,51
5 Hội Nông dân 2,37 2,40
6 Hội Cựu chiến binh/Hội quân nhân 2,21 2,28
7 Hội Người cao tuổi 2,47 2,60 8 Hội Khuyến học 2,08 2,13
9 Hội đồng hương, hội đồng niên, hội đồng môn, đồng ngũ 2,35 2,43
10 Câu lạc bộ Hưu trí 1,57 1,61
11 Nhóm/câu lạc bộ thể thao/giải trí 1,31 1,33
12 Nhóm/Câu lạc bộ/Hội nghề nghiệp 1,18 1,19
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
239 P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012)
234‐243
hình, trò chuyện với các thành viên của gia
đình, tham gia vào sinh hoạt cộng đồng, song
ở một số lĩnh vực mức độ
tham gia ít, dường như vẫn còn khá xa lạ với
khu vực nông thôn như truy cập internet, đi
tham quan, du lịch, đọc báo in... (xem bảng
7)
Nếu so sánh mức độ tham gia các sinh
hoạt thuộc lĩnh vực văn hóa tinh thần của
người dân nông thôn giữa 2 thời điểm 2005
2010 chúng ta thấy sự thay đổi rất
đáng kế ở hầu hết các loại hình sinh hoạt tinh
thần nhóm nghiên cứu nêu ra. Điều đó
cho thấy dường như đô thị hóa, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đã làm thay đổi một cách
tích cực mức sống văn hoá, trình độ hưởng
thụ sự tham gia các hoạt động vui chơi,
giải trí của người dân nông thôn.
Niềm tin vào hội, vào các quan hệ
hội xung quanh cũng là một trong những chỉ
báo ý nghĩa không chỉ cho việc xem xét
đánh giá về đời sống văn hóa tinh thần,
còn cả cho đời sống vật chất của người dân
nông thôn hiện nay. vậy trong điều tra
chọn mẫu tại 5 tỉnh thành của đề tài, nhóm
nghiên cứu đã thiết kế công cụ nhằm đo
lường mức độ tin tưởng của người dân vào
hàng loạt các quan hệ, các hiện tượnghội
hàng ngày (xem bảng 8).
Bảng 7. Điểm trung bình về mức độ tham gia các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân nông thôn vào năm
2005 và 2010 (theo thang điểm 5).
STT Các vấn đề 2005 2010
1 Xem Truyền hình 3,54 3,88 2 Đọc báo in 2,03 2,12 3 Nghe đài 2,08
2,18
4 Truy cập Internet 1,44 1,67 5 Đi tham quan, du lịch 1,97 2,13 6 Tham gia lễ
hội 2,05 2,63
7 Đi uống bia/cà phê tại quán 1,67 1,74
8 Tham gia việc ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp của họ hàng 3,96 4,09
9 Giúp đỡ bố/mẹ/anh/chị/em trong gia đình về tiền bạc 2,71 2,81 10 Giúp đỡ
bố/mẹ/anh/chị/em về công sức 3,16 3,23
11 Trò chuyện với thành viên
trong gia đình 4,07
4,16
Đưa ra lời khuyên hoặc tư vấn cho bố/mẹ/anh/chị/em khi họ
12 3,47 3,58
cần đưa ra quyết định nào đó
13 Tham gia các sinh hoạt cộng
đồng/thôn/xóm/ấp
3,31 3,54
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
Bảng 8. Mức độ tin tưởng của người dân nông thôn vào các quan hệ xã hội, năm 2005 và 2010
Các quan hệ xã hội 2005 2010 Các quan hệ xã hội 2005 2010
1. Vợ, chồng, con cái 4,63 4,68 11. Thông tin từ Internet 2,32 2,52
2. Cha mẹ, anh em 4,53 4,57 12. Chính quyền 4,00 4,08
3. Họ hàng 4,03 4,09 13. Người kinh doanh nhỏ 2,78 2,83
4. Hàng xóm, láng giềng 3,68 3,72 14. Các Công ty, doanh nghiệp 2,78 2,87
5. Bạn bè 3,51 3,55 15. Chính sách Nhà nước về kinh tế 3,93 3,99
6. Người mới gặp 1,52 1,55 16. Chính sách Nhà nước về xã hội 3,96 4,02
7. Giáo viên 3,84 3,98 17. Chính sách Nhà nước về đất đai 3,87 3,92
8. Cán bộ y tế 18. Chính sách Nhà nước về giáo dục 4,04 4,11
3,71 3,76
9.Thông tin từ Đài, Tivi 3,64 3,72 19. Chính sách Nhà nước về y tế 3,95 4,01
10. Thông tin từ báo in 3,14 3,22 20. Khác 3,27 3,07
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243
240
Số liệu ở bảng 8 cho thấy trừ một vài mối
quan hệ, nhân, tổ chức hôi còn khá xa
lạ với đời sống của đại đa số dân nông
thôn như Internet, các công ty, doanh nghiệp,
người kinh doanh nhỏ, còn hầu hết các quan
hệ hội, các nhân các tổ chức hội
thời điểm hiện nay đều nhận được mức độ
tin tưởng cao, khá cao của người dân nông
thôn. So với năm 2005 mức độ tin tưởng vào
các quan hệ hội, nhất những mối quan
hệ, nhân chưa thật quen thuộc với đời
sống của đa số người dân nông thôn hiện nay
đều tăng lên một cách đáng kể. Điều này
không chỉ nói lên sự gia tăng, sự phong phú
thêm của vốn xã hội, mà còn cho thấy những
mối quan hệ, những yếu tố tưởng như chỉ
đời sống đô thị thì cũng đang dần chiếm
được lòng tin của người dân nông thôn.
Như vậy đô thị hóa đã, đang tác động làm
thay đổi căn bản bộ mặt đời sống kinh tế, văn
hóa, hội nông thôn nước ta. Kết quả điểu
tra mẫu tại 5 tỉnh của đề tài cho thấy thực
tiễn đã chứng minh về tính hợp qui luật
những tác động tích cực của đô thị hoá đối
với nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt
Nam.
2. Những vấn đề trong phát triển
nông thôn nước ta hiện nay
Do những khó khăn của nền kinh tế đất
nước đang trong quá trình chuyển đổi, những
hạn chế chủ quan trong quản lý, điều hành,
những bất cập trong quá trình đô thị hóa,
công nghiệp hóa Việt Nam đã, đang làm
nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc liên quan đến
nông nghiệp, nông thôn, nông dân rất cần
được tháo gỡ.
- Sự suy giảm đất nông nghiệp và thiếu
quy hoạch trong sử dụng đất ở nông thôn
Để thu hút vốn đầu đáp ứng yêu cầu
cho sự phát triển đất nước, những năm qua,
Nhà nước chính quyền các địa phương đã
thực hiện chính sách cởi mở, tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu trong việc tìm
kiếm, chọn lựa địa điểm sản xuất, kinh
doanh. Hàng vạn héc ta đất nông nghiệp
các vùng kinh tế trọng điểm bị thu hồi phục
vụ xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ,
đường giao thông, khu dân cư.
Theo tạp chí “Time”, có khoảng 40.000ha đất
nông nghiệp ở nước ta mất dần hàng năm để
xây dựng các khu công nghiệp, đường cao
tốc các đô thị. “Các sân golf đang nát
những cánh đồng lúa”… Từ năm 2000 đến
nay, tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long
đã xây dựng khoảng 40 khu công nghiệp với
tổng diện tích lên đên 10.500ha. Trong ba
năm tới, còn kế hoạch sử dụng thêm
40.000ha đất nông nghiệp cho các dự án
công nghiệp (Tương Lai, Nông thôn đối diện
với công nghiệp hóa đô thị hóa,
http://www.toquoc.gov.vn).
Bình quân hàng năm, tính từ 2001 đến
2007, gần 10 vạn ha đất nông nghiệp được
thu hồi đã phục vụ xây dựng các khu công
nghiệp, dịch vụ, đường giao thông, khu dân
cư; khoảng 50% diện tích đất nông nghiệp
thu hồi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm,
trong đó, 80% thuộc loại đất màu mỡ cho 2
vụ lúa/năm. Sự dễ dãi cùng với tưởng
chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt cả sự
yếu kém trong qui hoạch, quản lý, sử dụng
đã đã đưa tới tình trạng sử dụng đất tuỳ tiện,
lãng phí. Hầu hết các khu công nghiệp, dịch
vụ, dân cư… đều bám dọc các quốc lộ huyết
mạch, các vùng nông thôn trù phú. Điều đó
tác động mạnh đến công ăn việc làm, thu
nhập đời sống của hàng chục vạn hộ gia
đình nông thôn với hàng triệu lao động nông
nghiệp (Phùng Hữu Phú, Tạp chí tuyên giáo,
số 3 năm 2009).
Mặt khác, công nghiệp hóa trong thời
gian qua cũng tác động làm bộ phận dân
nông thôn bỏ nghề nông di vào làm trong
các khu công nghiệp, đất đai của họ đã không
tập trung vào các hộ gia đình làm ăn giỏi để
mở rộng qui sản xuất, lại bị bỏ hoá
hoặc không chăm sóc. Người nông dân bỏ
nghề nông đi kiếm sống nhưng vẫn cố giữ lại
mảnh đất của mình làm vật “bảo hiểm”
phòng khi thất cơ lỡ vận.
Như vậy, do yếu kém trong quản quy
hoạch, tùy tiện trong sử dụng, đất nông
nghiệp không những bị thu hồi cho phát triển
khu đô thị, khu công nghiệp, xây dựng giao
thông, mà một bộ phận còn bị bỏ hoang hoặc
241 P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012)
234‐243
ít được chăm sóc, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sản xuất nông nghiệp.
- Sự ứ đọng lao động ở nông thôn và gia
tăng dòng di cư từ nông thôn đến đô thị
Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa
thời gian qua tác động khá mạnh đến sự dịch
chuyển cơ cấu lao động ở nông thôn. Kết quả
điều tra thực tế ở bảng 1 cho chúng ta thấy rõ
sự dịch chuyển lao động từ lĩnh vực nông,
lâm, ngư nghiệp thủy sản sang các lĩnh
vực hoạt động phi nông nghiệp; vào năm
2010 trung bình mỗi hộ gia đình nông thôn
2,87 lao động thì chỉ còn 0,95 lao động
làm việc chủ yếu trong lĩnh vực nông lâm
ngư nghiệp, số còn lại làm việc trong lĩnh
vực công nghiệp, dịch vụ, kinh doanh, buôn
bán nhỏ, tiểu thủ công nghiệp hoặc lao đông
tự do… Tuy nhiên, so với yêu cầu của
chuyển dịch cấu kinh tế quá trình chuyển
dịch trên, nhìn chung, diễn ra vẫn còn chậm,
chưa tương thích. Sự phát triển công nghiệp,
dịch vụ nông thôn chưa đáp ứng yêu cầu
của lực lượng lao động dôi của lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp.
Sự thừa lao động từ nông nghiệp đã
thúc đẩy bộ phận khá lớn lao động đi kiếm
việc làm tại các đô thị, các khu công nghiệp
lớn. Kết quả điều tra chọn mẫu cũng cho thấy
vào năm 2010 đã có 7,5% số hộ gia đình phải
di dời do bị thu hồi đất đai, 14% số hộ gia
đình lao động phải di sang các địa
phương khác (chủ yếu vào các thành phố) để
kiếm việc làm và tăng thu nhập. Điển hình
nông thôn đồng bằng Sông Hồng, đồng bằng
Sông Cửu Long xuất hiện dòng chuyển cư về
thành thị, chủ yếu về các khu công nghiệp
tập trung các đô thị lớn, đặc biệt là thủ đô
Nội và thành phố Hồ Chí Minh và các khu đô
thị lân cận. Điều đó làm tăng vọt dân số
học các thành phố lớn làm phức tạp thêm
đời sống hội tại các đô thị, gây không ít
khó khăn cho công tác quản đô thị (Phùng
Hữu Phú, tlđd). Mặt khác, chính tình trạng
“chảy máu chất xám” cũng đã thực sự gây
nhiều khó khăn cho sản xuất, đời sống gia
đình cộng đồng của nhiều vùng dân
nông thôn.
Khảo sát của Viện CS&CLPTNT năm
2006 8 thuộc đồng bằng Sông Hồng,
Đông Nam bộ và đồng bằng Sông Cửu Long
cho thấy hầu hết các vùng nông thôn gần như
không còn lao động dưới 40 tuổi. Ở tỉnh Thái
Bình, khoảng 45% lao động đã chuyển khỏi
nông nghiệp, 20 vạn người đi làm ăn xa
(Tương Lai, tlđd).
Như vậy với sự chuyển dịch cấu kinh
tế, sự chuyển dịch mục tiêu sử dụng đất nông
nghiệp trong quá trình đô thị hóa, công
nghiệp hóa, sự chênh lệch thu nhập giữa
nông thôn đô thị đã làm tăng thêm số lao
động dư thừa từ lĩnh vực sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp và đã tác động làm gia tăng dòng
di từ nông thôn đến đô thị, làm dân số
học tại các đô thị cũng tăng lên nhanh chóng
- Những vấn đề liên quan đến đời sống
văn hóa và môi trường tự nhiên
Công nghiệp hóa, đô thị hóa thời gian
qua đã tác động không ít đến đời sống văn
hóa tinh thần của người dân nông thôn . Bên
cạnh những tác động tích cực với việc phổ
biến truyền bá lối sống công nghiệp hiện đại,
các giá trị, các yếu tố văn hóa tiên tiến làm
phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần
của người dân nông thôn, thì những tác động
tiêu cực cũng đang làm băng hoại dần nhiều
giá trị văn hóa truyền thống của người nông
dân cộng đồng làng xã. Tác giả Phùng
Hữu Phú cho rằng do thiếu chuẩn bị, thiếu
định hướng, chọn lọc và do cả những bất cập
trong công tác quản văn hoá, không ít
những yếu tố phi văn hoá, phản văn hoá, từ
đô thị từ các phương tiện truyền thông,
đặc biệt từ internet, đã thâm nhập vào đời
sống nông thôn, dẫn tới những vấn nạn
hội đáng suy nghĩ.
Theo nhiều ngả đường, một số sản phẩm,
loại hình văn hoá, văn học, nghệ thuật, một
số quan niệm, lối sống, cách ứng xử, làm
ăn... không phù hợp, thậm chí trái ngược, đối
lập với thuần phong mỹ tục, với những giá trị
tốt đẹp đã lan về thôn quê; chúng thâm nhập
làm tha hoá một bộ phận dân nông
thôn, đặc biệt giới trẻ; làm vẩn đục môi
trường văn hoá, hội; bào mòn làm rạn
nứt quan hệ tốt đẹp, đồng thuận thuần
phác trong cộng đồng làng xã.
Từ phương diện môi trường, đô thị hóa
công nghiệp hóa đã làm nông nghiệp,
nông thôn đang phải hứng chịu những hậu
quả nặng nề. Việc sử dụng không hợp lý,
P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243
242
lãng phí quĩ đất canh tác; tình trạng san lấp,
lấn chiếm ao hồ, sông, suối, các công trình
thuỷ lợi; nạn đốt phá rừng, khai thác khoáng
sản tuỳ tiện cùng với sự yếu kém trong xử
nước thải, rác thải, bụi, khói, tiếng ồn... đang
làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ
hệ sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, ảnh
hưởng đến sản xuất nông nghiệp, cảnh quan
nông thôn, đời sống sức khoẻ của nông
dân, giảm thiểu khả năng đề kháng, thậm chí
làm trầm trọng thêm những tai biến của tự
nhiên (Phùng Hữu Phú, tlđd).
Nghiên cứu của giáo Tương Lai đã
phân tích sự thiếu cân nhắc trong tiến trình
công nghiệp hóa đô thị hóa làm môi
trường càng bị ô nhiễm, cảnh quan nông thôn
càng bị tàn phá khốc liệt. Nghiên cứu cũng
đã đưa ra nhiều dụ minh họa với những
con số đáng chú ý: Lưu vực sông Nhuệ -
sông Đáy mỗi ngày tiếp nhận khoảng
800.000m3 nước thải sinh hoạt. Riêng sông
Nhuệ tiếp nhận từ sông Kim Ngưu, Lịch,
sông Lù, sông Sét từ Nội thải ra
400.000m3 chưa được xử qua đập Thanh
Liệt. Hệ thống những con sông trong lưu vực
sông Đồng Nai đang chịu tác động cùng lúc
từ nhiều nguồn, phần hạ lưu đang bị ô nhiễm
nghiêm trọng, những đoạn đã chết
đang chết. Riêng sông Thị Vải đã đoạn bị
chết kéo dài từ sau khu vực hợp lưu suối Cả-
Đồng Nai đến khu công nghiệp Mỹ Xuân.
Cùng với nguồn nước bị ô nhiễm bầu
không khí bị ô nhiễm với bụi với quá nhiều
độc tố sức gặm nhấm hủy hoại sức
khỏe của người nông dân, nhất người già
và con trẻ. Bụi và độc tố trong không khí
những người dân quê đang hàng ngày hít thở
cũng nguy hiểm không kém khói bụi chứa
độc tốngười thành thị đang hít thở, thậm
chí, những vùng còn nguy hại hơn. Nông
thôn không chỉ nơi phải gánh chịu rác đô
thị thải về một cách ngang nhiên tổ
chức, cộng thêm vào đó tình trạng rác
của người nông thôn thải ra cũng chất đống
ngay tại đó không hề chuyện phải lo thu
gom (Tương Lai, tlđd).
Như vậy, quá trình công nghiệp hóa bằng
mọi giá, quá trình đô thị hóa thiếu cân nhắc
đã tác động mạnh, gây nên những hệ lụy
đáng suy nghĩ đến đời sống văn hóa tinh thần
của người dân nông thôn; làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến môi trường tự nhiên; gây
nguy hại trực tiếp đến đời sống sản xuất của
người nông dân, đến sức khỏe, trí tuệ của
dân nông thôn.
Tóm lại quá trình công nghiệp hóa, đô thị
hóa ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ 21
đã làm thay đổi bản diện mạo của đất
nước; làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động theo hướng tích cực, tạo đà cho phát
triển ổn định bền vững. Đô thị hóa cũng tác
động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp,
đến đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của
người nông dân làm thay đổi căn bản bộ
mặt hội nông thôn Việt Nam. Bên cạnh
những tác động tích cực, căn bản, đô thị hóa
cũng đã để lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực, tạo
ra nhiều vấn đề bức xúc trong đời sống
hội cả ở khu vực nông thôn và đô thị.
Tài liệu tham khảo
[1] Khu đô thị của những người cày mất ruộng,
www.tinmoi.vn, ngày 07/06/2010
[2] Khu công nghiệp: Động lực để nền kinh tế “cất
cánh”, http://dantri.com.vn/c25/s76-
473544/khu-cong-nghiepdong-luc-de-nen-
kinh-te-cat-canh.htm
[3] Nghị quyết số 26 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa X, ngày 5/8/2008 về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn.
[4] Phùng Hữu Phú, Đô thị hóa ở Việt Nam - từ
góc nhìn nông nghiệp, nông thôn, nông dân,
Tạp chí tuyên giáo, số 3 (2009).
[5] Quyết định số 800/QĐ-TTg về phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010-2020.
[6] Nguyễn Hồng Thục, Sức ép của quá trình đô
thị hóa ở Việt Nam, số 17 Tạp chí Cộng Sản
(2010).
[7] Tương Lai, Nông thôn đối diện với công
nghiệp hóa và đô thị hóa,
http://www.toquoc.gov.vn;
[8] http://www.gso.gov.vn
243 P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012)
234‐243
Changes in Vietnamese Rural Society During the
Industrialisational and Modernisational
Process Early the 21 Century
st
Phạm Văn Quyết
*
VNU University of Social Sciences and Humanities,
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hanoi, Vietnam
Based on the findings from a survey with 3000 households in rural area, as part of the
independent state-funded research project (ĐTĐL.2010T/38), in Hanoi, Hồ Chí Minh City, Bắc
Ninh and Bình Dương in 2010, this paper provides evidence to and sheds lights on changes in
Vietnamese rural society of during the industrialisation and modenisation process early the 21
st
century. Besides positive effects, there are social problems relating to land use, population,
labor, environment, and social and cultural aspects which need further practical solutions.
Keywords: Rural, agriculture, peasant, modernisation, industrialisation, new rural building
strategy, rural social changes.
| 1/10

Preview text:

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243
Những biến đổi của xã hội nông thôn Việt Nam
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
những năm đầu thế kỷ XXI Phạm Văn Quyết**
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 16 tháng 10 năm 2012
Tóm tắt: Dựa trên kết quả điều tra 3000 hộ gia đình thuộc khu vực nông thôn của đề tài độc lập
cấp nhà nước (ĐTĐL. 2010T/38) tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Dương, Bắc Ninh và
Bình Dương vào năm 2010, bài viết đã đưa ra các bằng chứng thực tế để làm rõ những biến đổi
trong đời sống kinh tế cũng như quan hệ gia đình, quan hệ cộng đồng ở nông thôn nước ta trong
quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và hiện đại hóa trong những năm đầu của thế kỷ 21. Bên
cạnh những thay đổi trong đời sống xã hội nông thôn theo hướng tích cực, phù hợp với quy luật,
thì cũng tại nơi đây đã nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc liên quan đến đất đai, dân số, lao động, môi
trường và văn hóa xã hội rất cần được tháo gỡ.
Từ khoá: Nông thôn, nông nghiệp, nông dân, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn, xây dựng nông thôn mới, biến đổi xã hội nông thôn. *
học giúp bổ sung, hoàn thiện hơn các chủ
Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại
trương, chính sách trong các lĩnh vực khác
hóa đất nước đang từng ngày làm thay đổi
nhau của đời sống xã hội, thúc đẩy nhanh
diện mạo của nông nghiệp, nông thôn nước
chóng hơn nữa tiến trình công nghiệp hóa và
ta, cung cấp những điều kiện, tiền đề quan
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta.
trọng để Việt Nam nhanh chóng đạt đến mục
tiêu: Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ
Bài viết phân tích về sự những biến đổi
tầng kinh tế - xã hội hiện đại; gắn nông
nông thôn nước ta trong những năm đầu của
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp,
thế kỷ XXI được thực hiện trên cơ sở phân
dịch vụ… như Nghị quyết 26 của BCHTW
tích nguồn dữ liệu phong phú thu được từ kết
Đảng (khóa X) đã xác định. Việc phân tích
quả điều tra của Đề tài với nhiều xã, phường, ______ * ĐT: 84-0912470932. E-mail: p.quyet3@gmail.com 234
để chỉ ra những đặc điểm, những vấn đề phát
quận huyện và hơn 3000 hộ gia đình thuộc
triển nông thôn nước ta trong những năm đầu
thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
của thế kỷ 21 là thực sự cần thiết. Điều đó
các tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh và Bình
không chỉ cho thấy tính đúng đắn trong các
Dương của đề tài ĐTĐL.2010T/38 và các
định hướng của Đảng và Nhà nước về phát nguồn dữ liệu khác.
triển đất nước, mà còn cung cấp cơ sở khoa 235
P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243 1.
Biến đổi của nông thôn Việt Nam
động, sáng tạo hơn trong tìm kiếm và lựa
trong quá trình công nghiệp hóa và hiện
chọn các phương thức, hình thức tổ chức sản đại hóa
xuất, kinh doanh, vươn lên làm giàu chính
đáng. Kết quả từ điều tra chọn mẫu của đề tài
Quá trình công nghiệp hoá gắn với đô thị
ĐTĐL.2010T/38 đã cho thấy quá trình đô thị
hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam thời gian gần
hóa hiện nay tại các địa phương đã tác động
đây đã trực tiếp góp phần hình thành trên địa
mạnh mẽ đến hầu hết các mặt khác nhau của
bàn nông thôn những khu công nghiệp, khu
đời sống xã hội ở nông thôn.
chế xuất các trung tâm dịch vụ, các khu đô
Về cơ cấu lao động: Theo kết quả điều
thị mới… đã nâng giá trị sử dụng của đất đai,
tra tại thời điểm năm 2010 trung bình mỗi hộ
tạo những ngành nghề và việc làm mới, nâng
gia đình trong mẫu điều tra có 2,87 lao động
cao giá trị lao động, tạo môi trường ứng dụng
so với 2,93 lao động vào năm 2005 được
rộng rãi khoa học, công nghệ… Đô thị hoá
phân bổ theo các ngành nghề hoạt động như
kích thích và tạo cơ hội để con người năng sau:
Tại các địa bàn điều tra số lao động trung
thôn trong mẫu điều tra có nguồn thu nhập
bình của các gia đình hoạt động trong lĩnh
chính từ nông, lâm, ngư nghiệp và số gia
vực nông nghiệp vào năm 2010 chỉ chiếm
đình có nguồn thu chính từ các hoạt động
32,6%, làm công nhân chiếm gần 15%, các
dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh
dịch vụ kinh doanh, buôn bán chiếm 12,8%...
buôn bán chiếm 26,6%. So với năm 2005 số
So sánh giữa 2 thời điểm 2005 và 2010
gia đình có thu nhập chính từ nông, lâm, ngư
chúng ta thấy số lao động trung bình mỗi hộ
nghiệp đã giảm đi đáng kể. Lý giải về tình
gia đình tham gia lĩnh vực nông, lâm, ngư
trạng này nhiều ý kiến của lãnh đạo địa
nghiệp giảm đi 0,27 lao động, trong khi đó
phương hướng đến lý do: mất đất nông
số lao động ở hầu hết các lĩnh vực nghề
nghiệp cho làm đường xá, khu công nghiệp;
nghiệp khác đều tăng (xem bảng 1).
do sự dịch chuyển lao động từ nông, lâm,
Từ sự phân bổ số lao động trong các lĩnh
ngư nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch
vực nghề nghiệp như trên, dẫn đến cơ cấu
vụ, tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh, buôn
Bảng 1. Cơ cấu lao động của hộ gia đình nông thôn theo các ngành nghề hoạt động tại thời điểm 2005 và 2010
(tính theo lao động trung bình của hộ gia đình).
Bảng 2. Cơ cấu nguồn thu nhập của các gia đình vào năm 2005 và 2010 (%)
Các lĩnh vực ngành nghề
Từ các lĩnh vực Năm 2005 (số LĐ TB)
Năm 2005 Năm 2010 (số LĐTB) Năm 2010 Chênh lệ ch Chênh lệch
1. Làm nông, lâm, ngư nghiệp 1,21 1. Nông, lâm, ngư nghiệp 48,6 0,94 36,1 - 12,5 - 0,27 2. Công chức, viên chức 0,15 2. Công chức, viên chức 6,5 0,16 6,9 0,4 0,01 3. Công nhân 3. Công nghiệp 0,35 10,6 0,43 14,5 4,1 0,08
4. Tiểu, thủ công nghiệp 4. Dịch vụ 0,12 5,2 0,14 5,7 0,5 0,02 5. Lao động tự do 5. T 0,38 iểu, thủ công nghiệp 5,4 0,38 6,4 1,0
6. Dịch vụ (cắt tóc, rửa xe, ...) 0,07 6. Kinh doanh, buôn bán 10,7 0,10 14,5 3,8 0,03 7. Kinh doanh, buôn bán 0,21 0,27 0,06 7. Nguồn khác 12,9 15,9 3,0 8. Đang đi học 0,33 0,30 - 0,03 Tổng 100,0 100,0 9. Không có việc làm 0,12 0,16 0,04
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38 Tổng 2,94 2,88
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
nguồn thu nhập chính của các hộ cũng thay bán có thu nhập cao hơn.
đổi theo những xu hướng tương ứng (xem bảng 2). h
Số liệu từ bảng 2 chỉ ra rằng đến thời
điểm 2010 còn tới 36,1% số hộ gia đình nông
P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243 236
Sự dịch chuyển cơ cấu lao động và
nguồn thu nhập đã dẫn đến làm tăng thu
nhập cho các hộ gia đình nông thôn nói
chung. Điều này được thể hiện qua ý kiến tự
đánh giá của người dân về điều kiện kinh tế
Bảng 3. Ý kiến của người dân về mức sống kinh tế gia đình họ (%) Mức sốngKT Năm 2005 Năm 2010 1. Giàu 0,5 1,3 2. Khá 7,7 15,7 3. Trung bình 75,8 71,3 4. Nghèo 14,9 11,0 5. Rất nghèo 1,1 0,7 Tổng 100,0 100,0
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
của gia đình họ (xem bảng 3).
Vào thời điểm năm 2010, kết quả nghiên
Tình trạng nhà ở của người dân khu vực
cứu ý kiến của người dân tại các địa bàn điều
nông thôn vào thời điểm 2010 được thể hiện
tra cho thấy vẫn còn khoảng 11,7% số gia
tại bảng 4. Có thể thấy một tỷ lệ khá cao
đình tự nhận có hoàn cảnh kinh tế ở mức
(63,6%) số gia đình được điều tra đang sống
nghèo và rất nghèo và 17,0% có mức kinh tế
trong những căn nhà kiên cố ở dạng nhà
khá và giàu. So với năm 2005 tỷ lệ hộ có
riêng hoặc chung cư và chỉ còn 3,7% số gia
mức kinh tế khá, giàu đã tăng đáng kế, trong
đình hiện đang sống trong những căn nhà
khi tỷ lệ các hộ có mức kinh tế trung bình, tạm.
nghèo, rất nghèo đã giảm đi một cách tương đối.
Có thể nói so với năm 2005 nhà ở của đa
lầu từ 3 tầng trở lên, trung bình mỗi hộ sở
số người dân nông thôn hiện nay đã được cải
hữu 184 m2 (bình quân 43,1 m2 /người) và
thiện đáng kể. Các hộ dân ở trong các căn
50,7% có nhà riêng kiên cố dưới 2 tầng,
nhà lầu kiên cố xây dựng chắc chắn đều tăng
trung bình mỗi hộ sở hữu 126 m2 (bình quân
lên cả ở số lượng và diện tích sinh sống. Nếu 29,4 m2/người).
năm 2005 có 3,7% số gia đình thuộc nhóm
Như vậy, quá trình đô thị hóa cùng với
có nhà lầu từ 3 tầng trở lên, trung bình mỗi
việc mất đất nông nghiệp (trong mẫu điều tra
hộ sở hữu 180 m2 (bình quân 41,8
trung bình mỗi gia đình vào năm 2005 có
Bảng 4. Tình trạng nhà ở của cư dân nông năm 2005 và 2010 Loại hình nhà ở Nhà ở năm 2005
Nhà ở hiện nay (2010) Tỷ lệ
Diện tích T.bình (m2) Tỷ lệ
Diện tích T.bình (m2)
Nhà riêng, kiên cố từ 3 tầng trở lên 3,7 180 5,8 184
Nhà riêng, kiên cố dưới 3 tầng 44,7 123 50,7 126
Nhà kiên cố, dạng chung cư 6,9 100 7,1 111 Nhà bán kiên cố 39,2 80 32,7 84 Nhà tạm 5,5 60 3,7 63 Khác 0,0 00 00 00 Tổng 100,0 100,0
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
m2/người) và 44,7% có nhà riêng kiên cố
2085,5 m2 nông nghiệp và 77,9 m2 đất vườn,
dưới 2 tầng, trung bình mỗi hộ sở hữu 123
ao hồ, đến năm 2010 còn 1591,1 m2 đất
m2 (bình quân 28,6 m2/người), thì năm 2010
nông nghiệp và 61,3m2 đất vườn, hồ ao,
tăng lên 5,8% số gia đình thuộc nhóm có nhà
trung bình mỗi hộ mất 494,4 m2 đất nông 237
P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243
nghiệp và 16,6m2 đất ao hồ), sự chuyển dịch
đại. Trong điều tra, nghiên cứu thực nghiệm
cơ cấu lao động, nguồn thu nhập... đã tác
của đề tài, các nhà nghiên cứu đã quan tâm
động cải thiện đáng kể mức sống kinh tế, nhà
nhiều đến việc xem xét, phân tích những
ở cho các hộ gia đình nông thôn.
biến đổi về mặt xã đến xem xét 2 chỉ báo đặc
Trên bình diện xã hội, quá trình đô thị
trưng, thể hiện khá tập hội ở nông thôn dưới
hóa, công nghiệp hóa hơn hai chục năm qua
tác động của đô thị hóa, khi hướng trung về
đã từng bước tác động làm thay đổi dần bộ
đời sống xã hội nông thôn nước ta: Vai trò
mặt xã hội nông thôn nước ta theo hướng
giới trong gia đình và mức độ tích cực tham
hình thành, phát triển và mở rộng các quan
gia các tổ chức, đoàn thể xã hội của người
hệ xã hội, các tổ chức xã hội của xã hội hiện dân.
Vào thời điểm điều tra (năm 2010) những
quan trọng để nói về những thay đổi trong
công việc “gia đình” như nội trợ, chăm sóc
quan niệm của người dân nông thôn về vai
con cái, chăm sóc người cao tuổi, người ốm
trò của phụ nữ trong gia đình, cộng đồng
đau hầu hết đều do phụ nữ đảm nhận hoặc là
theo định hướng của xã hội công nghiệp hiện
người chịu trách nhiệm chính. Điều này đại.
không chỉ đúng đối với riêng phụ nữ nông
Một chỉ báo xã hội khác thể hiện được
thôn hiện nay mà trong nhiều nghiên cứu ở
khá rõ nét những tác động của lối sống đô thị
các giai đoạn trước đây về sự tham gia của
tới sinh hoạt cộng đồng của người dân nông
Bảng 5. Đánh giá của người dân về mức độ tham gia của phụ nữ nông thôn vào công việc của gia đình,
họ hàng, năm 2005 và 2010 (theo thang đánh giá 5 mức độ)
STT Quan hệ giới trong gia đình, họ hàng 2005 2010 1
Công việc nội trợ (giặt giũ, lau dọn nhà cửa, cơm nước, .v.v) 4,56 4,57 2
Công việc sản xuất (trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ…) 3,92 3,83 3
Dạy dỗ, chăm sóc con cái 4,30 4,32 4
Chăm sóc người đau ốm, người cao tuổi 3,99 4,00 5
Quyết định các công việc quan trọng trong gia đình 3,53 3,63
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
phụ nữ vào các công việc gia đình ở các khu
thôn gắn liền với việc hình thành, phát triển
vực đô thị cũng cho kết quả tương tự. Nghiên
và sự tham gia của người dân vào các tổ chức
cứu cũng cho thấy phụ nữ nông thôn cũng
xã hội. Ngoài ra đây cũng là chỉ báo xã hội
được đánh giá cao về sự tham gia của họ vào
quan trọng của việc mở rộng dân chủ xã hội,
với các hoạt động sản xuất, với các quyết
việc tiếp cận đến xã hội dân sự. Điều tra các
định về những công việc quan trọng trong gia
hộ gia đình nông thôn hiện nay của đề tài
đình. So sánh thời điểm năm 2010 với thời
cũng hướng đến xem xét chỉ báo xã hội này.
điểm năm 2005 mức độ tham gia của phụ nữ
Mức độ tích cực tham gia của người dân
vào các công việc nội trợ, chăm sóc con cái,
nông thôn vào các tổ chức xã hội khác nhau
chăm sóc người cao tuổi, người ốm đau
ở địa phương còn thể hiện được tính đa dạng,
dường như không thay đổi, song mức độ
phong phú trong đời sống văn hóa tinh thần
tham gia của họ vào công việc sản xuất giảm
của của người nông dân. Kết quả điều tra cho
đi đáng kể. Điều này được lý giải về sự giảm
thấy vào thời điểm năm
đi một cách tuyệt đối các công việc sản xuất
ở nông thôn do mất đất nông nghiệp, do việc
áp dụng máy móc, kỹ thuật nhiều hơn trong
sản xuất… Về mức độ tham gia của họ vào
quyết định các công việc quan trọng của gia
đình đã tăng lên đáng kể so với năm 2005.
Đây có thể được coi là chỉ báo thực nghiệm
P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243 238
2010 đã có khá nhiều tổ chức xã hội, nghề
nghiệp được hình thành ở các vùng nông
thôn và đã thu hút được sự tham gia của
nhiều đối tượng cư dân phù hợp theo đặc
điểm giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp và sự
Bảng 6. Mức độ tích cực tham gia vào các tổ chức xã hội phù hợp của người dân nông thôn năm 2005 và 2010 TT
Các tổ chức đoàn thể, xã hội Năm 2005 Năm 2010
1 Đảng Cộng sản Việt Nam 1,47 1,40 2 Đoàn Thanh niên 1,79 1,66 3 Hội Phụ nữ 2,89 2,90
4 Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam 1,50 1,51 5 Hội Nông dân 2,37 2,40
6 Hội Cựu chiến binh/Hội quân nhân 2,21 2,28 7 Hội Người cao tuổi 2,47
2,60 8 Hội Khuyến học 2,08 2,13 9
Hội đồng hương, hội đồng niên, hội đồng môn, đồng ngũ 2,35 2,43 10 Câu lạc bộ Hưu trí 1,57 1,61 11
Nhóm/câu lạc bộ thể thao/giải trí 1,31 1,33 12
Nhóm/Câu lạc bộ/Hội nghề nghiệp 1,18 1,19
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38 quan tâm cá nhân…
Số liệu ở bảng 6 thề hiện ý kiến tự đánh
tham gia của người dân vào thời điểm 2010
giá về mức độ tích cực tham gia vào các tổ
đều tăng lên đáng kể so với ở thời điểm năm
chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp của người 2005 (xem bảng 6).
dân nông thôn tại các tỉnh điều tra theo thang
Nhìn từ bình diện văn hoá, làn sóng đô
đo 5 mức độ. Các số liệu tại đây cho thấy
thị hoá cùng với sự phát triển hạ tầng văn
hiện nay người dân nông thôn thể hiện sự
hoá xã hội, mở rộng mạng lưới thông tin đại
tích cực hơn khi tham gia vào các tổ chức xã
chúng, tăng cường quan hệ làm ăn, buôn bán
hội ít mang tính chính trị, nhưng có ý nghĩa
giữa các vùng miền… đã làm cho diện mạo
thiết thực với cuộc sống của cá nhân gia đình
nông thôn và đời sống tinh thần của cư dân
họ, mang lại cho họ giá trị văn hóa, tinh thần
nông thôn ngày càng phong phú, đa dạng
tốt hơn như Hội người cao tuổi, Hội đồng
hơn. Ở nông thôn đã xuất hiện những yếu tố
ngũ, đồng môn, Hội nông dân, Hội phụ nữ,
văn hoá đô thị mới mẻ, hiện đại, sự truyền bá
Hội khuyến học… Xét về điểm số thì có thể
các sản phẩm văn hoá, các loại hình văn học,
thấy mức độ tích cực tham gia của người dân
nghệ thuật có giá trị; sự du nhập lối sống,
nông thôn vào các tổ chức chính trị xã hội đa
phong cách giao tiếp, ứng xử văn minh, tiến
phần ở mức trung bình (từ 23 điểm), nghĩa là
bộ… làm cho văn hoá làng quê có những sắc
không quá sao nhãng, nhưng cũng không quá
thái mới. Mức sống văn hoá, trình độ hưởng
tích cực. Điều đó cũng nói nên được phần
thụ và tham gia sáng tạo văn hoá của nông
nào một trong những đặc điểm rất đặc trưng
dân các vùng đô thị hoá, nhìn trên tổng thể,
mang tính cố hữu của người nông dân. được nâng lên.
Tuy nhiên, dưới sự tác động của quá trình
Kết quả điều tra ý kiến đánh giá của các
đô thị hóa, công nghiệp hóa, đặc tính trên
hộ gia đình nông thôn tại 5 tỉnh của đề tài về
đang dần dần được thay đổi: Trừ các tổ chức
mức độ xem truyền hình, đọc báo, tham quan
chính trị (Đảng, Đoàn thanh niên) và một số
du lịch, cũng như mức độ tham gia của họ
tổ chức xã hội chỉ phù hợp với số ít người
vào các sinh hoạt văn hóa tinh thần của gia
dân ở nông thôn (Hội hưu trí, Câu lạc bộ thể
đình, cộng đồng và xã hội theo thang điểm 5
thao, giải trí, Hội nghề nghiệp) còn với đa số
đã cho thấy ở một số lĩnh vực mức độ tham
các tổ chức xã hội khác, mức độ tích cực
gia của họ là khá tích cực như xem truyền 239
P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243
hình, trò chuyện với các thành viên của gia
tham gia ít, dường như vẫn còn khá xa lạ với
đình, tham gia vào sinh hoạt cộng đồng, song
khu vực nông thôn như truy cập internet, đi
ở một số lĩnh vực mức độ
tham quan, du lịch, đọc báo in... (xem bảng 7)
Nếu so sánh mức độ tham gia các sinh
Niềm tin vào xã hội, vào các quan hệ xã
hoạt thuộc lĩnh vực văn hóa tinh thần của
hội xung quanh cũng là một trong những chỉ
người dân nông thôn giữa 2 thời điểm 2005
báo có ý nghĩa không chỉ cho việc xem xét
Bảng 7. Điểm trung bình về mức độ tham gia các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân nông thôn vào năm
2005 và 2010 (theo thang điểm 5). STT Các vấn đề 2005 2010 1 Xem Truyền hình 3,54 3,88 2 Đọc báo in 2,03 2,12 3 Nghe đài 2,08 2,18 4 Truy cập Internet
1,44 1,67 5 Đi tham quan, du lịch 1,97 2,13 6 Tham gia lễ hội 2,05 2,63 7
Đi uống bia/cà phê tại quán 1,67 1,74 8
Tham gia việc ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp của họ hàng 3,96 4,09 9
Giúp đỡ bố/mẹ/anh/chị/em trong gia đình về tiền bạc 2,71 2,81 10 Giúp đỡ
bố/mẹ/anh/chị/em về công sức 3,16 3,23 11
Trò chuyện với thành viên trong gia đình 4,07 4,16
Đưa ra lời khuyên hoặc tư vấn cho bố/mẹ/anh/chị/em khi họ 12 3,47 3,58
cần đưa ra quyết định nào đó 13
Tham gia các sinh hoạt cộng đồng/thôn/xóm/ấp 3,31 3,54
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
và 2010 chúng ta thấy rõ có sự thay đổi rất
đánh giá về đời sống văn hóa tinh thần, mà
đáng kế ở hầu hết các loại hình sinh hoạt tinh
còn cả cho đời sống vật chất của người dân
thần mà nhóm nghiên cứu nêu ra. Điều đó
nông thôn hiện nay. Vì vậy trong điều tra
cho thấy dường như đô thị hóa, công nghiệp
chọn mẫu tại 5 tỉnh thành của đề tài, nhóm
hóa, hiện đại hóa đã làm thay đổi một cách
nghiên cứu đã thiết kế công cụ nhằm đo
tích cực mức sống văn hoá, trình độ hưởng
lường mức độ tin tưởng của người dân vào
thụ và sự tham gia các hoạt động vui chơi,
hàng loạt các quan hệ, các hiện tượng xã hội
giải trí của người dân nông thôn. hàng ngày (xem bảng 8).
Bảng 8. Mức độ tin tưởng của người dân nông thôn vào các quan hệ xã hội, năm 2005 và 2010
Các quan hệ xã hội 2005 2010
Các quan hệ xã hội 2005 2010 1. Vợ, chồng, con cái 4,63 4,68 11. Thông tin từ Internet 2,32 2,52 2. Cha mẹ, anh em 4,53 4,57 12. Chính quyền 4,00 4,08 3. Họ hàng 4,03 4,09 13. Người kinh doanh nhỏ 2,78 2,83 4. Hàng xóm, láng giềng 3,68 3,72
14. Các Công ty, doanh nghiệp 2,78 2,87 5. Bạn bè 3,51 3,55
15. Chính sách Nhà nước về kinh tế 3,93 3,99 6. Người mới gặp 1,52 1,55
16. Chính sách Nhà nước về xã hội 3,96 4,02 7. Giáo viên 3,84 3,98
17. Chính sách Nhà nước về đất đai 3,87 3,92 8. Cán bộ y tế
18. Chính sách Nhà nước về giáo dục 4,04 4,11 3,71 3,76 9.Thông tin từ Đài, Tivi 3,64 3,72
19. Chính sách Nhà nước về y tế 3,95 4,01 10. Thông tin từ báo in 3,14 3,22 20. Khác 3,27 3,07
Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu của đề tài: ĐTĐL.2010T/38
P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243 240
Số liệu ở bảng 8 cho thấy trừ một vài mối
vụ xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ,
quan hệ, cá nhân, tổ chức xã hôi còn khá xa
đường giao thông, khu dân cư.
lạ với đời sống của đại đa số cư dân nông
Theo tạp chí “Time”, có khoảng 40.000ha đất
thôn như Internet, các công ty, doanh nghiệp,
nông nghiệp ở nước ta mất dần hàng năm để
người kinh doanh nhỏ, còn hầu hết các quan
xây dựng các khu công nghiệp, đường cao
hệ xã hội, các cá nhân và các tổ chức xã hội
tốc và các đô thị. “Các sân golf đang xé nát
ở thời điểm hiện nay đều nhận được mức độ
những cánh đồng lúa”… Từ năm 2000 đến
tin tưởng cao, khá cao của người dân nông
nay, tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long
thôn. So với năm 2005 mức độ tin tưởng vào
đã xây dựng khoảng 40 khu công nghiệp với
các quan hệ xã hội, nhất là những mối quan
tổng diện tích lên đên 10.500ha. Trong ba
hệ, cá nhân chưa thật quen thuộc với đời
năm tới, còn có kế hoạch sử dụng thêm
sống của đa số người dân nông thôn hiện nay
40.000ha đất nông nghiệp cho các dự án
đều tăng lên một cách đáng kể. Điều này
công nghiệp (Tương Lai, Nông thôn đối diện
không chỉ nói lên sự gia tăng, sự phong phú
với công nghiệp hóa và đô thị hóa,
thêm của vốn xã hội, mà còn cho thấy những
http://www.toquoc.gov.vn).
mối quan hệ, những yếu tố tưởng như chỉ có
Bình quân hàng năm, tính từ 2001 đến
ở đời sống đô thị thì cũng đang dần chiếm
2007, gần 10 vạn ha đất nông nghiệp được
được lòng tin của người dân nông thôn.
thu hồi đã phục vụ xây dựng các khu công
Như vậy đô thị hóa đã, đang tác động làm
nghiệp, dịch vụ, đường giao thông, khu dân
thay đổi căn bản bộ mặt đời sống kinh tế, văn
cư; khoảng 50% diện tích đất nông nghiệp
hóa, xã hội nông thôn nước ta. Kết quả điểu
thu hồi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm,
tra mẫu tại 5 tỉnh của đề tài cho thấy thực
trong đó, 80% thuộc loại đất màu mỡ cho 2
tiễn đã chứng minh về tính hợp qui luật và
vụ lúa/năm. Sự dễ dãi cùng với tư tưởng
những tác động tích cực của đô thị hoá đối
chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt và cả sự
với nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt
yếu kém trong qui hoạch, quản lý, sử dụng Nam.
đã đã đưa tới tình trạng sử dụng đất tuỳ tiện,
lãng phí. Hầu hết các khu công nghiệp, dịch
vụ, dân cư… đều bám dọc các quốc lộ huyết 2.
Những vấn đề trong phát triển
mạch, các vùng nông thôn trù phú. Điều đó
nông thôn nước ta hiện nay
tác động mạnh đến công ăn việc làm, thu
Do những khó khăn của nền kinh tế đất
nhập và đời sống của hàng chục vạn hộ gia
nước đang trong quá trình chuyển đổi, những
đình nông thôn với hàng triệu lao động nông
hạn chế chủ quan trong quản lý, điều hành,
nghiệp (Phùng Hữu Phú, Tạp chí tuyên giáo,
những bất cập trong quá trình đô thị hóa, số 3 năm 2009).
công nghiệp hóa ở Việt Nam đã, đang làm
Mặt khác, công nghiệp hóa trong thời
nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc liên quan đến
gian qua cũng tác động làm bộ phận cư dân
nông nghiệp, nông thôn, nông dân rất cần
nông thôn bỏ nghề nông di cư vào làm trong được tháo gỡ.
các khu công nghiệp, đất đai của họ đã không
- Sự suy giảm đất nông nghiệp và thiếu
tập trung vào các hộ gia đình làm ăn giỏi để
quy hoạch trong sử dụng đất ở nông thôn
mở rộng qui mô sản xuất, mà lại bị bỏ hoá
hoặc không chăm sóc. Người nông dân bỏ
Để thu hút vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu
nghề nông đi kiếm sống nhưng vẫn cố giữ lại
cho sự phát triển đất nước, những năm qua,
mảnh đất của mình làm vật “bảo hiểm”
Nhà nước và chính quyền các địa phương đã
phòng khi thất cơ lỡ vận.
thực hiện chính sách cởi mở, tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc tìm
Như vậy, do yếu kém trong quản lý quy
kiếm, chọn lựa địa điểm sản xuất, kinh
hoạch, tùy tiện trong sử dụng, đất nông
doanh. Hàng vạn héc ta đất nông nghiệp ở
nghiệp không những bị thu hồi cho phát triển
các vùng kinh tế trọng điểm bị thu hồi phục
khu đô thị, khu công nghiệp, xây dựng giao
thông, mà một bộ phận còn bị bỏ hoang hoặc 241
P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243
ít được chăm sóc, ảnh hưởng nghiêm trọng
cho thấy hầu hết các vùng nông thôn gần như
đến sản xuất nông nghiệp.
không còn lao động dưới 40 tuổi. Ở tỉnh Thái
- Sự ứ đọng lao động ở nông thôn và gia
Bình, khoảng 45% lao động đã chuyển khỏi
tăng dòng di cư từ nông thôn đến đô thị
nông nghiệp, 20 vạn người đi làm ăn xa
Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa (Tương Lai, tlđd).
thời gian qua tác động khá mạnh đến sự dịch
Như vậy với sự chuyển dịch cơ cấu kinh
chuyển cơ cấu lao động ở nông thôn. Kết quả
tế, sự chuyển dịch mục tiêu sử dụng đất nông
điều tra thực tế ở bảng 1 cho chúng ta thấy rõ
nghiệp trong quá trình đô thị hóa, công
sự dịch chuyển lao động từ lĩnh vực nông,
nghiệp hóa, sự chênh lệch thu nhập giữa
lâm, ngư nghiệp và thủy sản sang các lĩnh
nông thôn và đô thị đã làm tăng thêm số lao
vực hoạt động phi nông nghiệp; vào năm
động dư thừa từ lĩnh vực sản xuất nông, lâm,
2010 trung bình mỗi hộ gia đình nông thôn
ngư nghiệp và đã tác động làm gia tăng dòng
có 2,87 lao động thì chỉ còn 0,95 lao động
di cư từ nông thôn đến đô thị, làm dân số cơ
làm việc chủ yếu trong lĩnh vực nông lâm
học tại các đô thị cũng tăng lên nhanh chóng
ngư nghiệp, số còn lại làm việc trong lĩnh
- Những vấn đề liên quan đến đời sống
vực công nghiệp, dịch vụ, kinh doanh, buôn
văn hóa và môi trường tự nhiên
bán nhỏ, tiểu thủ công nghiệp hoặc lao đông
Công nghiệp hóa, đô thị hóa thời gian
tự do… Tuy nhiên, so với yêu cầu của
qua đã tác động không ít đến đời sống văn
chuyển dịch cơ cấu kinh tế quá trình chuyển
hóa tinh thần của người dân nông thôn . Bên
dịch trên, nhìn chung, diễn ra vẫn còn chậm,
cạnh những tác động tích cực với việc phổ
chưa tương thích. Sự phát triển công nghiệp,
biến truyền bá lối sống công nghiệp hiện đại,
dịch vụ ở nông thôn chưa đáp ứng yêu cầu
các giá trị, các yếu tố văn hóa tiên tiến làm
của lực lượng lao động dôi dư của lĩnh vực
phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần sản xuất nông nghiệp.
của người dân nông thôn, thì những tác động
Sự dư thừa lao động từ nông nghiệp đã
tiêu cực cũng đang làm băng hoại dần nhiều
thúc đẩy bộ phận khá lớn lao động đi kiếm
giá trị văn hóa truyền thống của người nông
việc làm tại các đô thị, các khu công nghiệp
dân và cộng đồng làng xã. Tác giả Phùng
lớn. Kết quả điều tra chọn mẫu cũng cho thấy
Hữu Phú cho rằng do thiếu chuẩn bị, thiếu
vào năm 2010 đã có 7,5% số hộ gia đình phải
định hướng, chọn lọc và do cả những bất cập
di dời do bị thu hồi đất đai, 14% số hộ gia
trong công tác quản lý văn hoá, không ít
đình có lao động phải di cư sang các địa
những yếu tố phi văn hoá, phản văn hoá, từ
phương khác (chủ yếu vào các thành phố) để
đô thị và từ các phương tiện truyền thông,
kiếm việc làm và tăng thu nhập. Điển hình là
đặc biệt từ internet, đã thâm nhập vào đời
nông thôn đồng bằng Sông Hồng, đồng bằng
sống nông thôn, dẫn tới những vấn nạn xã
Sông Cửu Long xuất hiện dòng chuyển cư về hội đáng suy nghĩ.
thành thị, chủ yếu về các khu công nghiệp
Theo nhiều ngả đường, một số sản phẩm,
tập trung các đô thị lớn, đặc biệt là thủ đô Hà
loại hình văn hoá, văn học, nghệ thuật, một
Nội và thành phố Hồ Chí Minh và các khu đô
số quan niệm, lối sống, cách ứng xử, làm
thị lân cận. Điều đó làm tăng vọt dân số cơ
ăn... không phù hợp, thậm chí trái ngược, đối
học ở các thành phố lớn làm phức tạp thêm
lập với thuần phong mỹ tục, với những giá trị
đời sống xã hội tại các đô thị, gây không ít
tốt đẹp đã lan về thôn quê; chúng thâm nhập
khó khăn cho công tác quản lý đô thị (Phùng
và làm tha hoá một bộ phận cư dân nông
Hữu Phú, tlđd). Mặt khác, chính tình trạng
thôn, đặc biệt là giới trẻ; làm vẩn đục môi
“chảy máu chất xám” cũng đã thực sự gây
trường văn hoá, xã hội; bào mòn và làm rạn
nhiều khó khăn cho sản xuất, đời sống gia
nứt quan hệ tốt đẹp, đồng thuận và thuần
đình và cộng đồng của nhiều vùng cư dân
phác trong cộng đồng làng xã. nông thôn.
Từ phương diện môi trường, đô thị hóa
Khảo sát của Viện CS&CLPTNT năm
và công nghiệp hóa đã làm nông nghiệp,
2006 ở 8 xã thuộc đồng bằng Sông Hồng,
nông thôn đang phải hứng chịu những hậu
Đông Nam bộ và đồng bằng Sông Cửu Long
quả nặng nề. Việc sử dụng không hợp lý,
P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243 242
lãng phí quĩ đất canh tác; tình trạng san lấp,
của người dân nông thôn; làm ảnh hưởng
lấn chiếm ao hồ, sông, suối, các công trình
nghiêm trọng đến môi trường tự nhiên; gây
thuỷ lợi; nạn đốt phá rừng, khai thác khoáng
nguy hại trực tiếp đến đời sống sản xuất của
sản tuỳ tiện cùng với sự yếu kém trong xử lí
người nông dân, đến sức khỏe, trí tuệ của cư
nước thải, rác thải, bụi, khói, tiếng ồn... đang dân nông thôn.
làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ
Tóm lại quá trình công nghiệp hóa, đô thị
hệ sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, ảnh
hóa ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ 21
hưởng đến sản xuất nông nghiệp, cảnh quan
đã làm thay đổi cơ bản diện mạo của đất
nông thôn, đời sống và sức khoẻ của nông
nước; làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
dân, giảm thiểu khả năng đề kháng, thậm chí
lao động theo hướng tích cực, tạo đà cho phát
làm trầm trọng thêm những tai biến của tự
triển ổn định bền vững. Đô thị hóa cũng tác
nhiên (Phùng Hữu Phú, tlđd).
động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp,
Nghiên cứu của giáo sư Tương Lai đã
đến đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của
phân tích sự thiếu cân nhắc trong tiến trình
người nông dân và làm thay đổi căn bản bộ
công nghiệp hóa và đô thị hóa làm môi
mặt xã hội nông thôn Việt Nam. Bên cạnh
trường càng bị ô nhiễm, cảnh quan nông thôn
những tác động tích cực, căn bản, đô thị hóa
càng bị tàn phá khốc liệt. Nghiên cứu cũng
cũng đã để lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực, tạo
đã đưa ra nhiều ví dụ minh họa với những
ra nhiều vấn đề bức xúc trong đời sống xã
con số đáng chú ý: Lưu vực sông Nhuệ -
hội cả ở khu vực nông thôn và đô thị.
sông Đáy mỗi ngày tiếp nhận khoảng
800.000m3 nước thải sinh hoạt. Riêng sông
Nhuệ tiếp nhận từ sông Kim Ngưu, Tô Lịch,
Tài liệu tham khảo
sông Lù, sông Sét từ Hà Nội thải ra
[1] Khu đô thị của những người cày mất ruộng,
400.000m3 chưa được xử lý qua đập Thanh
www.tinmoi.vn, ngày 07/06/2010
Liệt. Hệ thống những con sông trong lưu vực
sông Đồng Nai đang chịu tác động cùng lúc
[2] Khu công nghiệp: Động lực để nền kinh tế “cất
cánh”, http://dantri.com.vn/c25/s76-
từ nhiều nguồn, phần hạ lưu đang bị ô nhiễm
473544/khu-cong-nghiepdong-luc-de-nen-
nghiêm trọng, có những đoạn đã chết và kinh-te-cat-canh.htm
đang chết. Riêng sông Thị Vải đã có đoạn bị
[3] Nghị quyết số 26 của Ban chấp hành Trung
chết kéo dài từ sau khu vực hợp lưu suối Cả-
ương Đảng khóa X, ngày 5/8/2008 về nông
Đồng Nai đến khu công nghiệp Mỹ Xuân.
nghiệp, nông dân, nông thôn.
Cùng với nguồn nước bị ô nhiễm là bầu
[4] Phùng Hữu Phú, Đô thị hóa ở Việt Nam - từ
không khí bị ô nhiễm với bụi với quá nhiều
góc nhìn nông nghiệp, nông thôn, nông dân,
độc tố có sức gặm nhấm và hủy hoại sức
Tạp chí tuyên giáo, số 3 (2009).
khỏe của người nông dân, nhất là người già
[5] Quyết định số 800/QĐ-TTg về phê duyệt
và con trẻ. Bụi và độc tố trong không khí mà
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
những người dân quê đang hàng ngày hít thở
nông thôn mới giai đoạn 2010-2020.
cũng nguy hiểm không kém gì khói bụi chứa
[6] Nguyễn Hồng Thục, Sức ép của quá trình đô
độc tố mà người thành thị đang hít thở, thậm
thị hóa ở Việt Nam, Tạp chí Cộng Sản số 17
chí, có những vùng còn nguy hại hơn. Nông (2010).
thôn không chỉ là nơi phải gánh chịu rác đô
[7] Tương Lai, Nông thôn đối diện với công
nghiệp hóa và đô thị hóa,
thị thải về một cách ngang nhiên và có tổ
http://www.toquoc.gov.vn;
chức, mà cộng thêm vào đó là tình trạng rác [8] http://www.gso.gov.vn
của người nông thôn thải ra cũng chất đống
ngay tại đó không hề có chuyện phải lo thu gom (Tương Lai, tlđd).
Như vậy, quá trình công nghiệp hóa bằng
mọi giá, quá trình đô thị hóa thiếu cân nhắc
đã tác động mạnh, gây nên những hệ lụy
đáng suy nghĩ đến đời sống văn hóa tinh thần 243
P.V. Quyết / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 234‐243
Changes in Vietnamese Rural Society During the
Industrialisational and Modernisational
Process Early the 21st Century Phạm Văn Quyết*
VNU University of Social Sciences and Humanities,
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hanoi, Vietnam
Based on the findings from a survey with 3000 households in rural area, as part of the
independent state-funded research project (ĐTĐL.2010T/38), in Hanoi, Hồ Chí Minh City, Bắc
Ninh and Bình Dương in 2010, this paper provides evidence to and sheds lights on changes in
Vietnamese rural society of during the industrialisation and modenisation process early the 21st
century. Besides positive effects, there are social problems relating to land use, population,
labor, environment, and social and cultural aspects which need further practical solutions.
Keywords: Rural, agriculture, peasant, modernisation, industrialisation, new rural building
strategy, rural social changes.