lOMoARcPSD| 45740153
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA LUẬT KINH TẾ
----------
BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN: So với gia đình truyền thống, gia đình Việt Nam
hiện đại có nhiều sự biến đổi khác biệt. Anh/chị hãy làm rõ sự biến đổi khác biệt
đó và đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những biến đổi tiêu cực của gia
đình Việt Nam hiện nay.
Nhóm thực hiện:
05
Tên lớp học phần:
251_HCMI0121_15
Giáo viên hướng dẫn:
Ths. Đào Thu Hà
Hà Nội, 2025
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 05
STT
Họ và tên
MSV
Nhiệm vụ
83
Nguyễn Thị Nhiên
23D200069
Nội dung
84
Hà Ngọc Oanh
23D200111
Nội dung
85
Trịnh Ngọc Oanh
23D200029
Word
86
Đinh Thị Phương
23D210125
PowerPoint
87
Nguyễn Lan Phương
23D200070
Nội dung
lOMoARcPSD| 45740153
1
88
Nguyễn Thị Ngọc Phương
23D210173
Nội dung
89
Nguyễn Thùy Phương
23D200112
Nội dung
90
Trần Thị Kim Phượng
21D160242
Nội dung
91
Nguyễn Minh Quân
23D200113
Nội dung
92
Nguyễn Thị Quyên
23D200071
Word
93
Nguyễn Thị Như Quỳnh
23D200114
Nội dung
94
Hoàng Minh Quý
23D200031
Nội dung
95
Phạm Công Thành
23D200032
Thuyết trình
96
Bùi Hiền Thảo
22D180206
Nội dung
97
Nguyễn Minh Thảo
23D200115
Nội dung
98
Đoàn Nhật Thái
23D200073
Nội dung
99
Lại Thị Thu
23D200033
Thuyết trình
100
Nguyễn Hoàng Phương Thùy
23D200074
Nội dung
101
Nguyễn Thị Thu Thủy
23D200034
Nội dung
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
1. Thời gian, địa điểm, thành phần
Thời gian: 20h ngày 10/09/2025
Địa điểm: Google meet
Thành viên tham dự: 19
Vắng mặt: 0
2. Nội dung cuộc họp
Các thành viên trong nhóm xây dựng dàn bài với đề tài “So với gia đình truyền
thống, gia đình Việt Nam hiện đại có nhiều sự biến đổi khác biệt. Anh/chị hãy làm rõ sự
biến đổi khác biệt đó và đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những biến đổi tiêu cực
của gia đình Việt Nam hiện nay”
Thống nhât dàn bài và nhóm trưởng tiến hành phân chia nội dung thảo luận
Các thành viên hoàn thành nội dung của mình trước 20h ngày 14/09
lOMoARcPSD| 45740153
2
Tởng nhóm tổng hợp và hoàn thiện trước 20h ngày 17/09
3. Kết luận
Tất cả các thành viên đồng ý với phân công công việc
Mỗi thành viên cam kết hoàn thành đúng hạn, đảm bảo chất lượng nội dung
Tởng nhóm chịu trách nhiệm đôn đốc các thành viên
Cuộc họp kết thúc vào 21h ngày 10/09
Trưởng nhóm
(ký, ghi rõ họ tên)
Quyên
Nguyễn Thị Quyên
LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình chính là tếo cơ bản của xã hội, môi trường đầu tiên hình thành và
nuôi ỡng nhân cách con người. Trong suốt chiều dài lịch sử, gia đình Việt Nam truyền
thống với những đặc trưng như tính gắn kết, trọng tình, đề cao vai trò tập thể và sự hiếu
kính luôn giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì các giá trị đạo đức, văn hóa và hội.
Tuy nhiên, bước sang thời kỳ hiện đại, đặc biệt là trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, toàn cầu hóa và sự bùng nổ công nghệ thông tin, mô hình gia đình Việt Nam đã
và đang trải qua nhiều biến đổi sâu sắc.
Những thay đổi về quy gia đình (từ gia đình truyền thống nhiều thế hệ sang
gia đình hạt nhân), về vai trò giới, chức năng giáo dục, kinh tế, chăm sóc, cũng như sự
biến chuyển trong quan hệ giữa các thành viên đã làm thay đổi cấu trúc cũng như giá trị
nền tảng của thiết chế gia đình. Bên cạnh những mặt tích cực như nâng cao quyền tự do
cá nhân, thúc đẩy bình đẳng giới, nâng cao chất lượng sống..., thì cũng xuất hiện nhiều
hệ lụy tiêu cực như: gia tăng tỷ lệ ly hôn, suy giảm sự gắn giữa các thành viên, người
già bị bỏ rơi, trẻ em thiếu sự quan tâm, khủng hoảng giá trị đạo đức trong gia đình, v.v.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích sự khác biệt giữa gia đình truyền thống
gia đình hiện đại ở Việt Nam không chỉ có ý nghĩa về mặt học thuật mà còn mang giá
trị thực tiễn sâu sắc. Việc làm nguyên nhân, biểu hiện của sự biến đổi, cũng như đ
xuất các giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của sự biến đổi này yêu
cầu cấp thiết để góp phần xây dựng một xã hội phát triển bền vững mà trong đó gia đình
vẫn giữ được vai trò trung tâm trong việc hình thành nhân cách, đạo đức lối sống lành
mạnh. Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu này không chỉ phù hợp với bối cảnh xã hội hiện
nay mà còn mang tính nhân văn và thiết thực, góp phần định hướng nhận thức đúng đắn
về vai trò, chức năng của gia đình trong thời kỳ mới.
lOMoARcPSD| 45740153
3
Trong quá trình nghiên cứu hoàn thành bài tiểu luận với đề tài: “So với gia
đình truyền thống, gia đình Việt Nam hiện đại nhiều sự biến đổi khác biệt. Anh/ch
hãy làm sự biến đổi khác biệt đó đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những
biến đổi tiêu cực của gia đình Việt Nam hiện nay” nhóm chúng em hi vọng sẽ đem đến
cho cô và các bạn những thông tin hữu ích nhất định. Nhóm tác giả rất mong nhận được
nhận xét, đóng góp ý kiến từ cô và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN BIẾN
ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
1.1. Khái niệm
Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
sở hình thành gia đình hai mối quan hệ bản: quan hệ n nhân (vợ
chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ và con cái...). Tồn tại trong sự gắn bó, liên kết,
ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người,
được quy định bằng pháp lý hoặc đạo lý.
Như vậy, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành,
duy trì củng cố chủ yếu dựa trên sở hôn nhân, quan hệ huyết thống quan hệ
nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền nghĩa vụ của các thành viên trong
gia đình.
1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội
Gia đình là tế bào của xã hội
vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động phát triển của hội. Với
việc sản xuất ra liệu tiêu dùng, liệu sản xuất, tái sản xuất ra con người, gia đình
như một tế bào tự nhiên, một đơn vị sở để tạo nên thể - hội. Không gia
đình để tái tạo ra con người thì xã hội không thể tồn tại phát triển được. Vì vậy, muốn
có một xã hội phát triển lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng tế bào gia đình tốt.
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống
cá nhân của mỗi thành viên
Gia đình môi trường tốt nhất để được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc,
trưởng thành, phát triển.
Sự yên ổn, hạnh phúc của mỗi gia đình tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự
hình thành, phát triển nhân cách, thể lực, trí lực để trở thành công dân tốt cho xã hội.
Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội
lOMoARcPSD| 45740153
4
Gia đình là cộng đồng hội đầu tiên mỗi cá nhân sinh sống, ảnh hưởng
rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của từng người.
Tuy nhiên, mỗi cá nhân lại không chỉ sống trong quan hệ gia đình, mà còn có nhu
cầu quan hệ xã hội, với những người khác. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia
đình mà còn là thành viên của xã hội. Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng
đồng để xã hội tác động đến cá nhân. Nhiều thông tin, hiện tượng của xã hội thông qua
lăng kính gia đình mà tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân
về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách v.v.
1.3. Chức năng cơ bản của gia đình
Gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của loài
người. Gia đình được sinh ra, tồn tại phát triển với sứ mệnh đảm đương những chức
năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã giao cho, không thiết chế xã hội nào có thể thay
thế được. Chức năng của gia đình một khái niệm then chốt của hội học gia đình,
các nhà nghiên cứu hội học gia đình trên cấp độ vi cấp độ đều khẳng
định những chức năng cơ bản của gia đình.
1.3.1. Chức năng tái sinh sản, tái sản xuất ra con người
Đây chức năng quan trọng nhất của gia đình; việc thực hiện chức năng sinh
sản. Đây vừa quy luật sinh tồn tự nhiên đồng thời quy luật hội, đáp ứng được
nhu cầu về tâm sinh lí, tình cảm của chính bản thân con người. Tái sản xuất con người
góp phần cung cấp sức lao động - nguồn nhân lực cho hội, từ đó góp phần thay thế
những lớp người lao động cũ đã đến tuổi nghỉ hưu, đã hết khả năng lao động linh hoạt,
năng động, sáng tạo và còn tác động đến sự ổn định, phát triển bền vững của quốc gia.
VD: Các nước phát triển như Đan Mạch, Canada, Nhật Bản,.. đưa ra nhiều biện
pháp khuyến khích người dân sinh con như miễn thuế, gia hạn các khoản vay, thậm trí
hỗ trợ hàng nghìn USD nhưng người dân không muốn sinh đẻ. Còn các nước đang phát
triển việc gia tăng dân số trẻ đang còn cao trong đó có Việt Nam thì họ thực hiện chính
sách hạn chế sinh đẻ, chính sách kế hoạch hóa gia đình.
Như vậy, tùy theo từng nơi, phthuộc vào nhu cầu của hội, chức năng y
được thực hiện theo xu hướng hạn chế hay khuyến khích. Trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động mà gia đình cung cấp.
1.3.2. Chức năng kinh tế, tổ chức tiêu dùng
Chức năng kinh tế một trong những chức năng bản của gia đình nhằm tạo
ra của cải, vật chất, chức năng đảm bảo sự sống còn của gia đình, đảm bảo cho gia
đình được ấm no, giàu làm cho dân giàu, nước mạnh như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng nói: “dân có giàu thì nước mới mạnh. Chức năng này bao quát về nhu cầu ăn,
ở, tiện nghi, sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong gia đình, thể hiện trên hai
khía cạnh: sản xuất và tiêu dùng, cả hai khía cạnh này đều nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết
yếu của các thành viên trong gia đình.
lOMoARcPSD| 45740153
5
Đây chức năng bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải vật chất,
đảm bảo cho gia đình được ấm no, hạnh phúc góp phần vào sự phát triển của xã hội. Sự
tồn tại của kinh tế gia đình còn phát huy một cách hiệu quả mọi tiềm năng vvốn,
sức lao động của từng gia đình, tăng thêm của cải cho gia đình và xã hội.
VD: Các thành viên trong gia đình đi làm kiếm tiền (tạo ra của cải, sức lao động),
sau đó sử dụng tiền đó để mua thực phẩm, quần áo, trả tiền điện nước, đóng học phí cho
con (tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ).
1.3.3. Chức năng, nuôi dưỡng, giáo dục
Chức năng giáo dục chức ng rất quan trọng của gia đình, quyết định nhân
cách con người, dạy dỗ con hiếu thảo, trở thành công dân ích cho hội gia đình
là ngôi trường đầu tiên và ở đó cha mẹ là người thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi người:
“Cha mẹ nghĩa vụ quyền yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của con cái; tôn trọng ý kiến của bạn; chăm lo học tập, giáo
dục để trẻ phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành con hiếu thảo của
gia đình và công dân có ích cho xã hội”.
Gia đình môi trườnghội hóa đầu tiên của con người. Gia đình trang bị cho
trẻ những ý tưởng đầu tiên để giải thích thế giới của sự vật, hiện tượng, khái niệm thiện
và ác, dạy trẻ hiểu cuộc sống con người, đưa trẻ vào thế giới của những giá trị mà gia
đình nhận ra và thực hiện trong cuộc sống của nó.
Việt Nam đất nước thấm đẫm vẻ đẹp truyền thống về đạo đức lối sống tốt
đẹp, vậy nội dung giáo dục của gia đình cũng phải quan tâm đến giáo dục toàn diện
về phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm, lối sống, ý thức, tác phong trong cuộc sống và giáo
dục về tri thức…
Để chức năng giáo dục được thực hiện hiệu quả, gia đình phải phương pháp
giáo dục răn đe phù hợp. Ai sai thì nhận sai sửa chữa nó, chứ đừng vì cái tôi, cái
sĩ diện tính bảo thủ của mình mà cố chấp không thay đổi. Có rất nhiều gia đình dạy
con cái của họ bằng đòn, roi, tát, mắng,... Những biện pháp này không những không
mang lại hiệu quả mà còn khiến trẻ em trở nên cứng rắn, tiêu cực và đánh mất cảm xúc
gần gũi, tin tưởng vào những người sống cùng một mái nhà.
Thay đánh đòn, cha mẹ nên dạy dỗ, hướng dẫn con cái một cách nhẹ nhàng,
phân tích đúng sai để chúng hiểu. Hơn nữa, cha mẹ và ông bà nên là tấm gương cho thế
hệ trẻ noi theo. Các thành viên trong gia đình sống hòa thuận, vui vẻ, cùng nhau chia sẻ
những khó khăn trong cuộc sống.
VD: Để phát triển thành một con người trưởng thành, đứa trẻ đó phải trải qua
những năm tháng phát triển nhất định theo quy luật tự nhiên như từ lúc trẻ sinh đến
khi 14-15 tuổi giai đoạn quyết định sự hình thành về tố chất phẩm chất nhân,
16-17 tuổi giai đoạn tiếp tục hoàn thành các phẩm chất đã hình thành định hướng
nghề nghiệp. Trong các quá trình này, vai trò của những thành viên khác trong gia đình
đặc biệt là cha mẹ, cần phải có sự quan tâm về mặt tâm lý, tình cảm, lối sống...
lOMoARcPSD| 45740153
6
1.3.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tinh thần, tâm lý, tình cảm.
Chức năng thoả mãn nhu cầu tinh thần, tâm lý, tình cảm chức năng thường
xuyên ý nghĩa quan trọng trong việc chia sẻ tình yêu thương gắn giữa các thành
viên của gia đình, đặc biệt tình yêu hạnh phúc lứa đôi. Tổ ấm gia đình vừa điểm
xuất phát cho con người trưởng thành, vững tin bước vào cuộc sống hội, đồng thời
cũng nơi bao dung, an ủi cho mỗi nhân trước những rủi ro, sóng gió cuộc đời. Càng
về cuối đời, con người càng trở nên thấm thía và khao khát tìm về sự bình ổn, thoả mãn
nhu cầu cân bằng trạng thái tâm lý, tình cảm trong sự chăm sóc, đùm bọc của gia đình;
chăm sóc sức khỏe, đảm bảo cho việc chăm sóc sức khỏe của các thành viên trong gia
đình.
Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến
sự ổn định phát triển của hội. Bởi lẽ các chức năng của gia đình luôn song hành
với các chức năng của hội, khi quan hệ gia đình rạn nứt thì quan hệ tình cảm trong
xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ.
Không phải ngẫu nhiên người ta gọi gia đình với cách gọi yêu thương, trìu mến,
ấm áp. Trong gia đình người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan, truyền lại
cho con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. i đó, con cái biết yêu kính, vâng lời cha
mẹ, vợ chồng quan tâm chia sẻ vui buồn cực nhọc với nhau... đó, mỗi người cảm nhận
được sự gần gũi, thân thương từ khoảng sân, mái nhà, chiếc giường... đến những quan
hệ họ hàng thân thiết.
Khi một thành viên gặp biến cố, gia đình, dòng họ sẽ có sự quan tâm, chia sẻ và
có sự giúp đỡ để niềm vui được nhân đôi, nỗi buồn được vơi đi một nửa. Điều đó sẽ tạo
nên sợi dây vô hình nhưng bền chặt kết nối nghĩa tình những người trong gia đình, dòng
họ, thân tộc lại với nhau. Mối quan hệ đồng bào cũng từ đó hình thành trong làng
xóm, trong xã hội, trở thành nền tảng của tình yêu quê hương, đất nước, con người.
1.4. Các yếu tố tác động dẫn đến sự biến đổi của gia đình Việt Nam hiện đại
1.4.1. Tác động của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, kinh tế thị trường.
Công nghiệp hóa, đô thị hóa và sự phát triển của nền kinh tế thị trường là những
động lực mạnh mẽ, tạo ra những thay đổi sâu sắc cho cấu trúc chức năng của gia đình
Việt Nam.
Về mặt công nghiệp hóa và đô thị hóa. Quá trình này đã thúc đẩy sự di cư mạnh
mẽ từ nông thôn ra thành thị. Các cặp vợ chồng trẻ rời xa gia đình lớn, ông đtìm
kiếm hội việc làm tốt hơn. Điều này đã làm suy yếu hình gia đình truyền thống
nhiều thế hệ sống chung, thay vào đó là sự xuất hiện phổ biến của gia đình hạt nhân (chỉ
có bố mẹ và con cái). Sự tách rời về địa lý này cũng làm giảm sự hỗ trợ về mặt tinh thần
vật chất giữa các thế hệ, đồng thời m mai một một sgiá trị văn hóa, phong tục
truyền thống.
lOMoARcPSD| 45740153
7
Về mặt kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đã làm thay đổi vai trò của các thành
viên trong gia đình. Việc làm đã trở thành yếu tố quyết định thu nhập vị thế hội.
Cả vợ chồng đều phải đi làm, dành nhiều thời gian cho công việc để đảm bảo cuộc
sống. Điều này đã m giảm thời gian dành cho việc chăm sóc con cái, xây dựng các
mối quan hệ gia đình thực hiện các chức năng truyền thống như giáo dục con cái,
chăm sóc người già. Áp lực kinh tế cũng có thể gây ra những xung đột mới, làm rạn nứt
các mối quan hệ trong gia đình.
1.4.2. Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập văn hóa, ảnh hưởng mạng xã hội.
Toàn cầu a và sự bùng nổ của ng nghệ thông tin đã mra cánh cửa cho gia
đình Việt Nam tiếp cận với nhiều nền n a khác nhau, nhưng cũng đặt ra những thách
thức lớn.
Về mặt toàn cầu hóa và hội nhập văn hóa. Sự giao lưu văn hóa quốc tế đã mang
đến những tưởng mới về hôn nhân, gia đình, giới tính. Các hình gia đình
phương Tây, đề cao sự tự do nhân, bình đẳng giới, hôn nhân dựa trên tình yêu đã
tác động mạnh mẽ đến quan niệm truyền thống về "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" hay
"tam tòng tứ đức”. Điều này giúp các cá nhân có quyền tự quyết hơn trong việc lựa chọn
bạn đời, nhưng cũng thể làm phát sinh xung đột giữa các thế hệ do sự khác biệt về
quan điểm.
Về mặt nh hưởng của mạng hội. Mạng hội đã trthành một phần không
thể thiếu trong cuộc sống hiện đại. Mạng xã hội giúp các thành viên trong gia đình,
sống xa nhau, vẫn có thể kết nối, trò chuyện và chia sẻ cuộc sống. Mạng xã hội cũng là
nơi lan truyền các giá trị, lối sống mới, đôi khi những tưởng tiêu cực, ảnh hưởng
đến cách nhìn nhận của nhân về gia đình, hôn nhân, và các mối quan hệ. Các chuẩn
mực đạo đức, ứng xử truyền thống có thể bị xói mòn nếu không có sự giáo dục và định
hướng đúng đắn. Tuy nhiên, cũng làm gia tăng sự "tách rời trong sự gần i." Các
thành viên thể ngồi chung một bàn ăn nhưng lại tập trung vào điện thoại của mình
thay trò chuyện trực tiếp. Điều này làm giảm sự tương tác, chia sẻ cảm xúc và gắn kết
tình cảm.
1.4.3. Luật Hôn nhân & Gia đình, bình đẳng giới, chính sách dân số.
Luật Hôn nhân gia đình 2014 ra đời đã thúc đẩy sự bình đẳng, bảo vệ quyền
lợi các thành viên trong gia đình góp phần thay đổi các quan niệm truyền thống cổ
hủ, lạc hậu (như tảo hôn, hôn nhân cận huyết). Bên cạnh đó, luật có các quy định về độ
tuổi kết hôn, vấn đề liên quan đến mang thai hộ, công nhận công việc nội trợ trong gia
đình góp phần thay đổi quan niệm truyền thống, xây dựng gia đình Việt Nam theo hướng
văn minh, bình đẳng và bền vững hơn.
Bình đẳng giới đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thay
đổi bản trong cấu trúc vận hành của gia đình Việt Nam hiện đại. Nếu trước đây,
quyền lực trong gia đình chủ yếu nghiêng về phía nam giới, thì hiện nay vai trò và tiếng
nói của phụ nữ ngày càng được khẳng định và mở rộng. Sự chuyển dịch này không chỉ
phản ánh sự thay đổi nhận thức hội còn gắn liền với quá trình thể chế hóa bình
lOMoARcPSD| 45740153
8
đẳng giới trong pháp luật chính sách. Nhà nước đã lồng ghép nguyên tắc bình đẳng
giới vào nhiều văn bản pháp lý, tiêu biểu như dự thảo Luật Dân số mới, trong đó nhấn
mạnh việc xóa bmọi hình thức phân biệt đối xử, đồng thời bảo đảm nam nữ có
quyền lợi, nghĩa vụ ngang nhau trong xây dựng phát triển gia đình. Điều này cho thấy
bình đẳng giới không chỉ là giá trị xã hội, mà còn là nền tảng để củng cố hạnh phúc gia
đình và phát triển bền vững.
Chính sách dân số ảnh ởng tới cấu trúc gia đình, số ợng con cái, thời điểm
sinh và quan niệm về trách nhiệm sinh sản. Gần đây, Việt Nam chính thức bỏ quy định
mỗi gia đình chỉ sinh tối đa 1-2 con”, cho phép các cặp vợ chồng tự quyết định số con,
thời điểm sinh con khoảng cách sinh con phù hợp với điều kiện sức khỏe, thu nhập,
nuôi dạy. Chính sách dân số hiện hướng tới dân số và phát triển”, không chỉ kiểm soát
số lượng quan tâm tới chất ợng dân số, đảm bảo sự phát triển bền vững, đáp ứng
thách thức già hóa n số. Thay đổi này làm quy mô gia đình Việt Nam ngày ng thu
nhỏ giúp gia đình có thể tập trung tài chính, chăm sóc, nuôi con cái trong điều kiện môi
trường, sức khỏe tốt hơn.
1.4.4. Ảnh hưởng của internet, điện thoại thông minh, trí tuệ nhân tạo.
Sự phát triển mạnh mẽ của Internet, thiết bị thông minh và công nghệ trí tuệ nhân
tạo đã làm thay đổi cách giao tiếp, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đồng thời
đặt ra những thách thức về việc lưu giữ giá trị truyền thống. Theo Nguyễn Thị Lan
ơng & cộng sự (2021) nghiên cứu về Ảnh hưởng của Internet đến giao tiếp giữa cha
mẹ con cái trong gia đình Việt Nam khu vực đô thị” cho thấy Internet có cả tác động
tích cực tiêu cực: tích cực như thuận tiện trong giao tiếp, thời điểm, hình thức đa
dạng; tiêu cực như giảm tương tác trực tiếp, khó thể hiện cảm xúc thật, gây mất tập trung
vào giao tiếp trực tiếp. Việc sử dụng điện thoại thông minh nhiều khiến các bữa ăn gia
đình, chiều tối hoặc giờ nghỉ, nơi mà trước đây các thành viên giao tiếp trực tiếp trở nên
ít hơn; mỗi người có xu hướng chìm vào thiết bị cá nhân.
Trí tuệ nhân tạo (AI) có thể tham gia vào việc tạo nội dung, giải trí, học tập hình
ảnh hóa cao, khả năng nhân hóa tăng,... Tuy nhiên thể đem lại các thông tin sai
lệch, so sánh xã hội, ảnh hưởng tới nhận thức, tiêu chuẩn sống tạo áp lực cho thành
viên trong gia đình.
1.4.5. Xu hướng cá nhân hóa, đề cao tự do cá nhân, giảm vai trò truyền thống.
Gia đình Việt Nam hiện đại ngày càng chịu ảnh hưởng của xu hướng nhân hóa,
trong đó con người đề cao tự do cá nhân, hạnh phúc cá nhân, quyền lựa chọn hơn là làm
theo truyền thống hay áp lực từ gia đình lớn. Theo khảo sát, khi lựa chọn bạn đời, người
Việt ngày nay đặt nặng yếu tố tình yêu, sự phù hợp về tình cảm, giáo dục, sở thích hơn
là việc “môn đăng hộ đối” như trước. Nhiều người trì hoãn kết hôn, chọn sống độc thân
hoặc sống thử hay muốn dành thời gian cho học tập, sự nghiệp, phát triển bản thân trước.
Vai trò người phụ nữ cũng thay đổi như ít bị ng buộc trong vai trò nội trợ truyền thống,
phụ nữ ngày càng học vấn cao hơn, tham gia lao động, quyền quyết định trong
lOMoARcPSD| 45740153
9
việc học hành, công việc, sinh con... m cho hình gia đình tự do hơn, ít chịu ràng
buộc văn hóa truyền thống xưa.
CHƯƠNG 2: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH HIỆN ĐẠI SO VỚI GIA
ĐÌNH TRUYỀN THỐNG
2.1 Sự biến đổi về quy
Gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại có nhiều biến đổi. Sự biến đổi đó
do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn bên trong. thể thấy ràng
nhất sự thay đổi về cấu gia đình, trong đó bao gồm quy gia đình các quan
hệ xã hội trong và ngoài gia đình.
Quy gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ so với trước kia, số thành
viên trong gia đình trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống xưa thể tồn tại đến
ba bốn thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà thì hiện nay, quy mô gia đình hiện đại
đã ngày càng được thu nhỏ lại. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ hai thế hệ cùng sống
chung: cha mẹ - con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như trước, cá biệt còn
số ít gia đình đơn thân, nhưng phổ biến nhất vẫn loại hình gia đình hạt nhân quy
mô nhỏ. Sự thay đổi đó, ngoài những nguyên nhân khách quan như chính sách kế hoạch
hóa gia đình hay đô thị hóa thì còn do nhiều nguyên nhân chủ quan khác.
Gia đình là thành tố cơ bản của cấu trúc xã hội và thực hiện chức năng của nó để
duy trì sự thích nghi ổn định của hội. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam bước vào
giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới, nhiều
chuyển biến lớn lao đã xảy ra, tất yếu khiến quy gia đình truyền thống không còn
thích nghi được với hoàn cảnh hội mới. Nền kinh tế thị trường, sự du nhập của các
nền văn hóa nước ngoài đã làm cho xã hội đổi thay từng ngày. Sự đổi thay ấy diễn ra cả
trong quan niệm của con người, chẳng hạn, ngày nay sự bình đẳng đã được đề cao hơn,
những chuẩn mực lạc hậu cũng được loại bỏ nhằm hướng tới một xã hội tiến bộ hơn.
Đáng kể nhất việc giải phóng phụ nữ: họ được đối xử nh đẳng hơn
nhiều điều kiện để phát triển, nâng cao vị thế xã hội của mình; vai trò của họ trong cuộc
sống, trong sản xuất,... ngày càng trở nên quan trọng hơn, gánh nặng gia đình cũng dần
được chia sẻ và cơ hội phát huy tiềm năng ng đến nhiều hơn, được toàn hội công
nhận. Bình đẳng giới nói riêng và bình đẳng nói chung được tôn trọng làm cho mỗi
người được tự do phát triển mà không phải chịu nhiều ràng buộc. Hội nhập kinh tế làm
cho mức sống con người được nâng cao hơn, chất lượng cuộc sống được cải thiện, từ đó
cũng làm cho nhu cầu ởng thụ của họ tăng lên mang những nét nhân hơn. Mỗi
một thành viên trong gia đình, chứ không chỉ riêng lớp trẻ, đều muốn được khoảng
không gian riêng, thoải mái để làm những mình thích, không phải bận tâm đến sự
nhận xét của người khác. Do công ăn việc làm ổn định, con cái đến tuổi kết hôn cũng
không phải phụ thuộc kinh tế nhiều vào cha mẹ, từ đó sẽ nảy sinh ra nhu cầu ở riêng cho
lOMoARcPSD| 45740153
10
thuận tiện về sinh hoạt. Mặt khác, việc duy trì gia đình truyền thống sẽ kìm hãm sự tự
do, làm cho cái tôi, tính riêng, năng lực của con người không cơ hội phát triển, dẫn
đến sự thiếu hụt về lực lượng nhân tài cho đất nước trong thời buổi công nghip hóa
hiện đại hóa.
Vậy, rõ ràng là quy gia đình Việt Nam ngày càng thu nhỏ để đáp ứng những
nhu cầu điều kiện của thời đại mới đặt ra. Bên cạnh đó, cũng thay đổi chính
hội hay những giá trị của xã hội, làm cho sự bình đẳng nam nữ được đề cao hơn, cuộc
sống riêng của con người được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong
đời sống của gia đình truyền thống. Sự biến đổi của gia đình cho thấy chính đang
làm chức năng ch cực, thay đổi chính bản thân gia đình cũng thay đổi hệ thống
hội, làm cho hội trở nên thích nghi phù hợp hơn với tình hình mới, thời đại
mới.
Tất nhiên, quá trình biến đổi đó cũng gây những phản chức năng như tạo ra sự
ngăn cách không gian giữa các thành viên trong gia đình, tạo khó khăn, trở lực trong
việc gìn giữ tình cảm cũng như các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình. Xã hội
ngày càng phát triển, mỗi người đều bị cuốn theo công việc của riêng mình với mục đích
kiếm thêm thu nhập, thời gian dành cho gia đình cũng vậy ngày càng ít đi. Con
người như rơi vào vòng xoáy của đồng tiền và vị thế xã hội mà vô tình đánh mất đi tình
cảm gia đình. Các thành viên ít quan tâm lo lắng đến nhau giao tiếp với nhau hơn,
làm cho mối quan hệ gia đình trở nên rời rạc, lỏng lẻo... Đó là mặt hạn chế của gia đình
hiện đại so với gia đình truyền thống xưa. Chính sự coi trọng kinh tế, đặt kinh tế lên
hàng đầu ấy đã làm cho những giá trị tốt đẹp xưa của gia đình bị phai nhạt dần, thậm chí
còn dễ dẫn tới các hệ lụy xấu.
thể lấy dụ về việc chăm sóc giáo dục trẻ em trong gia đình - nơi được
coi môi trường hội hóa đầu tiên của mỗi con người. Một đứa trẻ được sinh ra
lớn lên trong gia đình truyền thống định hình nhân cách bằng sự quan tâm giáo dục dạy
bảo thường xuyên của ông cha mẹ ngay từ khi rất nhỏ. Còn trong gia đình hiện đại,
việc giáo dục trẻ em gần như được phó mặc hoàn toàn cho nhà trường thiếu đi sự
chăm sóc, dạy dỗ của cha mẹ. Chính điều đó đã gây ra hiện trạng có nhiều trẻ em lang
thang, phạm tội hay rơi vào các tệ nạn hội. Hay như người cao tuổi trong gia đình,
trước đây họ được sống cùng với con cháu, vì vậy mà nhu cầu về tâm lý, tình cảm được
đáp ứng đầy đủ. Còn khi quy gia đình bị biến đổi, người cao tuổi phải đối mặt với
sự đơn thiếu thốn về tình cảm, trong khi tuổi già cần nhất được vui vầy bên con
cháu, được chăm sóc khi ốm đau bệnh tật. Họ luôn có nguy cơ bị đẩy ra viện dưỡng lão,
trung tâm hay các dịch vụ chăm sóc sức khỏe chứ không nhận được nhiều sự quan tâm
của người thân trong gia đình. Phản chức năng của quá trình biến đổi đó không chỉ xảy
ra đối với người già trẻ em n trên phạm vi toàn xã hội, nhất trong các mối
quan hệ gia đình. Ngày càng tồn tại nhiều hiện tượng trước đây chưa hề hoặc ít
như bạo lực gia đình, ly hôn, ly thân, ngoại tình, sống thử... Chúng đã làm rạn nứt, phá
hoại sự bền vững của gia đình, làm cho gia đình trở nên mong manh, dễ tan vỡ hơn.
lOMoARcPSD| 45740153
11
Ngoài ra, các tệ nạn như trẻ em lang thang, nghiện hút, buôn bán phụ nữ qua biên giới...
cũng đang đe dọa, gây nhiều nguy cơ làm tan rã gia đình.
Lẽ tất nhiên là những cái mới không phải đều chứa đựng yếu tố tích cực, tốt đẹp,
khó tránh được những cái không phù hợp với truyền thống, bởi vậy cần tiếp thu có
chọn lọc. Lớp trẻ khi nhận được sự góp ý của người già thì cảm thấy khó chịu, cho rằng
những người già là chủ, lạc hậu, thích dạy bảo. Sự chênh nhau về thế hệ này khiến cho
xu hướng tách ra riêng tăng cao, khi đó mỗi nhân sẽ thỏa mãn được nhu cầu tự do
của riêng mình, có thể hành động theo ý muốn của bản thân. Một gia đình chỉ có hai thế
hệ: cha mẹ - con cái tất nhiên sẽ tồn tại ít xung đột hơn so với một gia đình có ba, bốn
thế hệ. Việc những xung đột thế hệ ngày càng trở nên phổ biến làm cho gia đình truyền
thống cũng dần mất đi và đến bây giờ chỉ còn tồn tại với số lượng rất ít. Như vậy, dưới
góc nhìn hội học, có thể thấy rằng sự biến đổi quy mô gia đình Việt Nam là một tất
yếu không thể tránh khỏi do tác động của toàn cầu hóa. Gia đình, được nhìn nhận với
cách một thiết chế hội bản hay với cách một nhóm hội, đều chứa
đựng nhiều yếu tố tạo nên sự thay đổi. Sự thay đổi đó điều chỉnh chính bản thân gia đình
cho phù hợp với hộiđồng thời cũng điều chỉnh xã hội cho phù hợp với điều kiện
cụ thể bên ngoài. Hệ quả tạo ra một hình gia đình mới khả năng thích ứng tốt
hơn với sự biến đổi của xã hội để thay thế gia đình truyền thống cũ. Đó là xu hướng tiến
bộ chung cho cũng còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Điều quan trọng nhất phải gìn
giữ được những giá trị tốt đẹp, quý báu của gia đình truyền thống phát huy những
mặt tích cực của gia đình hiện đại, tạo ra một khuôn mẫu gia đình Việt Nam tiến bộ, phát
triển.
2.2 Sự biến đổi về thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình
2.2.1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Trong lịch sử xã hội Việt Nam, gia đình truyền thống giữ vai trò trung tâm trong
việc duy trì nòi giống, phát triển dân số và bảo tồn dòng họ. Chức năng tái sản xuất ra
con người gắn liền với quan niệm trời sinh voi trời sinh cỏhay nhiều con nhiều
phúc”, phản ánh mong muốn đông con để tăng thêm nhân lực lao động trong nông
nghiệp, đồng thời tạo sự đảm bảo cho cha mẹ khi tuổi già. Trong hội nông nghiệp,
gia đình đông con không chỉ mang ý nghĩa kinh tế còn mang giá trị tinh thần, thể
hiện sự sung túc, danh giá của dòng họ. Ngoài ra, do ảnh hưởng của chế độ phụ hệ,
tưởng trọng nam khinh nữrất nặng nề, khiến việc sinh con trai trthành thước đo
quan trọng để khẳng định vị thế của người phụ nữ trong gia đình.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, chính sách hội
và quá trình hiện đại hóa, chức năng tái sản xuất của gia đình đã có sự biến đổi sâu sắc.
Ngày nay, việc sinh con không còn phụ thuộc hoàn toàn vào tập tục hay áp lực hội,
được đặt trong sự chủ động, có kế hoạch mang tính khoa học hơn. Chính sách
dân số - kế hoạch hóa gia đình của Nhà nước từ cuối thế kỷ XX đã tác động mạnh mẽ
đến duy sinh sản, khuyến khích các cặp vợ chồng chỉ nên sinh từ 1–2 con. Thay
lOMoARcPSD| 45740153
12
chạy theo số lượng, gia đình hiện đại chú trọng đến chất lượng dân số, nghĩa là đảm bảo
điều kiện nuôi dạy, giáo dục con cái phát triển toàn diện.
Ngoài ra, quan niệm về bình đẳng giới cũng làm thay đổi sâu sắc vai trò của chức
năng này. Trong nhiều gia đình hiện đại, việc con trai hay con gái không còn quyết
định đến sự bền vững của hôn nhân. Mối quan hệ vợ chồng ngày càng dựa trên sở
tình yêu, sự chia sẻ trách nhiệm, chứ không chỉ gắn với áp lực duy trì nòi giống. Tỷ
lệ sinh giảm, tuổi kết hôn ngày càng muộn, cùng với xu hướng không muốn sinh con
hoặc sinh ít con các đô thị lớn là những biểu hiện rệt của sự biến đổi này. Điều đó
cũng phản ánh sự thay đổi trong lối sống, tư duy và định hướng phát triển của thế hệ trẻ,
gắn chặt với bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế.
thể thấy, chức năng tái sản xuất của gia đình đã chuyển từ chỗ thiên về số
lượng, mang nặng yếu tố tập tục kinh tế nông nghiệp sang tính chủ động, kế hoạch,
đề cao chất lượng, bình đẳng giới và trách nhiệm xã hội.
2.2.2. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Nếu như trong gia đình truyền thống Việt Nam, chức năng kinh tế gắn liền với
hình sản xuất tự cung, tự cấp, thì ngày nay đã những biến đổi căn bản. Gia
đình xưa thường là một đơn vị khép kín, nơi lao động sản xuất – chăn nuôi, trồng trọt
chủ yếu nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu như ăn, mặc, ở. Sản phẩm làm ra hầu hết được
tiêu dùng trong nội bộ gia đình, rất ít trao đổi buôn bán. Trong điều kiện ấy, gia đình vừa
đơn vị sản xuất, vừa đơn vị tiêu dùng, các quan hệ kinh tế mang tính tự nhiên
nhiều hơn là gắn với thị trường.
Khi hội chuyển sang nền kinh tế hàng hóa kinh tế thị trường, chức năng y
của gia đình cũng thay đổi theo ớng mở rộng chuyên biệt hơn. Gia đình hiện đại
không còn tự sản xuất để đáp ứng toàn bộ nhu cầu, mà trở thành đơn vị tiêu dùng xã hội,
tham gia trực tiếp vào thị trường hàng hóa và dịch vụ. Các gia đình mua sắm thực phẩm,
hàng hóa tiêu ng, dịch vụ giáo dục, y tế, giải trí từ bên ngoài, đồng thời cũng tham gia
vào quá trình sản xuất thông qua lao động làm thuê, kinh doanh, dịch vụ. Điều này khiến
kinh tế gia đình gắn chặt với sự vận hành của nền kinh tế quốc dân, phản ánh mối quan
hệ giữa đời sống gia đình và sự phát triển chung của xã hội.
Sự biến đổi này còn thể hiện chỗ: các quyết định chi tiêu, đầu phân bổ
ngân sách gia đình ngày càng đa dạng và phức tạp. Nếu trước đây, tiêu dùng chỉ gói gọn
trong nhu cầu cơ bản (ăn, mặc, ở), thì nay, tiêu dùng còn hướng đến giá trị tinh thần
xã hội, như học tập, du lịch, chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng sống. Gia đình trở
thành môi trường quan trọng để hình thành nhu cầu tiêu dùng mới, góp phần thúc đẩy
sản xuất hàng hóa dịch vụ và phát triển kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa hội nhập, chức năng kinh tế của gia
đình ng đối diện nhiều thách thức. Nhiều hộ gia đình vẫn duy trì mô hình sản xuất nhỏ
lẻ, khó cạnh tranh trong nền kinh tế mở. Sự phân hóa giàu – nghèo ngày càng rõ rệt, đặc
biệt giữa thành thị nông thôn, làm gia tăng khoảng cách hội. Ngoài ra, áp lực
lOMoARcPSD| 45740153
13
tiêu dùng, chạy theo vật chất, lối sống hưởng thụ cũng có thể khiến một số gia đình mất
cân bằng, dẫn đến khủng hoảng tài chính hoặc rạn nứt quan hệ.
Như vậy, chức năng kinh tế của gia đình đã chuyển từ hình thức sản xuất tự cấp,
tự túc sang đơn vị tiêu dùng tham gia vào thị trường hàng hóa dịch vụ. Biến đổi này
vừa mở rộng hội nâng cao đời sống, vừa đặt ra nhiều thách thức về quản chi tiêu,
phân hóa xã hội và sự bền vững của kinh tế gia đình trong bối cảnh hiện đại.
2.2.3. Chức năng giáo dục (xã hội hóa)
Gia đình Việt Nam hiện đại đã có nhiều biến đổi đáng kể so với gia đình truyền
thống trong việc thực hiện chức năng giáo dục, hay còn gọi là hội hóa. Trước đây, gia
đình truyền thống chủ yếu giáo dục con cái bằng phương pháp nghiêm khắc, thậm chí
bạo lực như đánh đòn hay la mắng, nhằm rèn luyện tính kỷ luật đạo đức truyền thống.
Tuy nhiên, ngày nay, nhiều gia đình Việt Nam đã chuyển sang cách tiếp cận nhẹ nhàng
hơn, sử dụng lời khuyên, thuyết phục và khen thưởng để khích lệ con trẻ. Ví dụ, nhiều
phụ huynh tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh thường áp dụng phương pháp
khích lệ qua các hoạt động ngoại khóa, giúp con phát triển toàn diện cả về trí tuệ lẫn kỹ
năng xã hội.
Về nội dung giáo dục, gia đình truyền thống tập trung nhấn mạnh các giá trị văn
hóa như lòng hiếu thảo, trung thực sự kính trọng người lớn tuổi. Trong khi đó, gia
đình hiện đại vẫn giữ những giá trị này nhưng đồng thời bổ sung thêm các kỹ năng cần
thiết cho cuộc sống hiện đại như kỹ năng giao tiếp, tư duy phản biện và khả năng thích
nghi với sự thay đổi xã hội. Ở các khu vực thành thị, cha mẹ thường tập trung giáo dục
con cái biết sử dụng công nghệ, hòa nhập quốc tế phát triển nghề nghiệp ổn định hơn.
Ví dụ, hiện nay, nhiều gia đình đã đầu tư cho con học thêm ngoại ngữ và kỹ năng mềm
từ nhỏ.
Mối quan hệ trong gia đình cũng có sự thay đổi rõ nét. Gia đình truyền thống duy
trì hình cha mẹ uy quyền tuyệt đối, con cái phải phục tùng ít sự trao đổi,
chia sẻ. Ngày nay, mối quan hệ trong gia đình trở nên dân chủ gần gũi hơn, cha mẹ
lắng nghe ý kiến con cái tôn trọng tính riêng của từng thành viên. Điều này thể
hiện rõ tại các gia đình thành phố, nơi mà sự phối hợp giữa cha mẹ con cái trong việc
ra quyết định được đề cao nhằm phát triển sự tự lập và trách nhiệm của thế hệ trẻ.
Gia đình hiện đại cũng không còn giữ toàn bộ trách nhiệm giáo dục bắt đầu
phối hợp chặt chẽ với nhà trường và xã hội trong việc hình thành nhân cách, đạo đức và
kỹ năng cho con cái. nhiều trường học tại Việt Nam, phụ huynh được mời tham gia
các buổi họp mặt, hội thảo về giáo dục kỹ năng sống, thể hiện sự liên kết chặt chẽ giữa
gia đình và môi trường giáo dục chính thức. Sự phối hợp này giúp con trẻ được học tập
và phát triển toàn diện, hòa nhập tốt hơn vào xã hội hiện đại.
Đặc biệt, với sự tác động của toàn cầu hóa và phát triển công nghệ, gia đình Việt
Nam hiện đại ngày càng ý thức rõ vai trò của mình trong việc đối phó với các tệ nạn xã
hội, mạng xã hội và môi trường truyền thông đa chiều. Cha mẹ hiện nay quan tâm nhiều
hơn đến việc định hướng con cái tránh xa các thói quen xấu như nghiện game, lạm dụng
lOMoARcPSD| 45740153
14
mạng xã hội và duy trì lối sống lành mạnh. Ở các thành phố lớn, nhiều nhóm phụ huynh
tham gia các câu lạc bộ giáo dục con cái nhằm chia sẻ kinh nghiệm và cùng nhau đưa ra
phương pháp giáo dục phù hợp với xu hướng xã hội mới.
Gia đình Việt Nam hiện đại trong chức năng giáo dục không chgiữ gìn phát
huy các giá trị truyền thống như lòng hiếu thảo, trung thực sự kính trọng người lớn
tuổi còn mở rộng nội dung giáo dục để phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa sự phát
triển của công nghệ. Bên cạnh việc giáo dục kỹ năng sống, duy phản biện khả năng
hòa nhập hội, nhiều gia đình còn chú trọng giáo dục con cái về ý thức bảo vệ môi
trường, tôn trọng sự đa dạng văn hóa bình đẳng giới. Gia đình hiện đại cũng chú trọng
vai trò hỗ trợ tinh thần và tâm lý cho con trẻ, giúp các em đối mặt với áp lực học tập và
cuộc sống.
Đặc biệt, sự xuất hiện phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) đã được nhiều gia
đình tận dụng trong quá trình giáo dục, bằng cách sử dụng các công cụ học tập trực tuyến
thông minh, ứng dụng AI hỗ trợ việc học ngoại ngữ, phát triển kỹ năng mềm và quản lý
thời gian học tập hiệu quả hơn. Qua đó, gia đình không chỉ giúp con cái tránh xa những
mặt tiêu cực của công nghệ như nghiện game hay lạm dụng mạng hội còn khai
thác các thế mạnh của công nghệ để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của trẻ.
Đồng thời, sự tham gia của các thành viên khác trong gia đình như ông bà, anh
chị em cũng tạo nên môi trường giáo dục đa chiều, linh hoạt theo đặc điểm hoàn cảnh
của từng gia đình. Như vậy, chức năng giáo dục của gia đình Việt Nam hiện đại đã có
sự biến đổi toàn diện, vừa giữ lại những giá trị truyền thống tốt đẹp, vừa mở rộng nội
dung phương pháp giáo dục, ớng thế hệ trẻ phát triển toàn diện thích nghi với
yêu cầu của thời đại mới.
Tóm lại, chức năng giáo dục của gia đình Việt Nam hiện đại đã sự biến đổi
toàn diện thích nghi linh hoạt với bối cảnh hội mới, giữ lại những giá trị truyền
thống tốt đẹp đồng thời mở rộng nội dung và phương pháp giáo dục để hướng thế hệ trẻ
phát triển toàn diện, phù hợp với yêu cầu của thời đại.
2.2.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh duy trì tình cảm trong gia đình Việt
Nam hiện đại đã có nhiều biến đổi so với gia đình truyền thống, đáp ứng những yêu cầu
mới của xã hội hiện đại nhưng vẫn giữ được những giá trị tốt đẹp từ truyền thống.
Tớc kia, trong gia đình truyền thống, chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh
chủ yếu được biểu hiện qua quan hệ chồng vợ gắn bó bền chặt, duy trì nòi giống và tuân
thủ các giá trị truyền thống. Quan hệ trong gia đình thường mang tính trật tự, có sự phân
chia vai trò rõ ràng, cha mẹ quyền uy cao độ với các con, sự chăm sóc thỏa mãn
nhu cầu tình cảm chủ yếu dựa trên các khuôn mẫu đạo truyền thống. Gia đình
tổ ấm, chỗ dựa vững chắc về mặt tình cảm và tinh thần đối với mỗi thành viên.
Trong khi đó, gia đình Việt Nam hiện đại chuyển dịch theo hướng bình đẳng, dân
chủ chia sẻ tình cảm nhiều hơn giữa c thành viên. Quan hệ giữa vợ chồng không
lOMoARcPSD| 45740153
15
còn theo hình truyền thống sự đồng hành, chia sẻ trách nhiệm chăm sóc
nuôi dưỡng con cái. Gia đình trở thành nơi nuôi dưỡng tình yêu thương, sự chia sẻ
cảm thông, giúp các thành viên cân bằng tâm lý và phát triển nhân cách. Gia đình hiện
đại không chỉ đề cao sự bình đẳng và dân chủ trong quan hệ vợ chồng mà còn chú trọng
xây dựng môi trường giao tiếp cởi mở, lành mạnh giữa tất cả các thành viên, từ ông bà,
cha mẹ đến con cái. Việc giao tiếp thường xuyên, chân thành giúp tăng ờng sự thấu
hiểu, đồng cảm và giảm bớt xung đột nội bộ. Ví dụ thực tế, nhiều gia đình các thành
phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh thường dành thời gian quây quần bên bữa cơm
tối hoặc sinh hoạt chung cuối tuần để gắn kết tình cảm, tạo không gian yêu thương trong
cuộc sống bận rộn hiện nay.
Gia đình cũng nơi duy trì các phong tục, truyền thống văn hóa, đóng vai trò
quan trọng trong việc kết nối các thế hệ, giữ gìn giá trị tinh thần và phát triển nhân cách
cho thế hệ con cháu. Sự gắn nh cảm giữa các thế hệ trong gia đình góp phần làm
bền chặt cộng đồng hội. Các bậc cha mẹ còn dành thời gian tìm hiểu tâm con
cái, biết lắng nghe và chia sẻ, giúp con giải tỏa stress và phát triển nhân cách toàn diện.
Vai trò của người cha cũng được thay đổi khi không chỉ là người trụ cột gia đình mà còn
là người bạn thân thiết, đồng hành trong giáo dục và chăm sóc con cái. Điều này đã góp
phần rất lớn vào sự phát triển cân bằng về tinh thần và tình cảm trong gia đình hiện đại.
Bên cạnh đó, gia đình cũng là nơi bảo vệchăm sóc các thành viên như người
già, trẻ em, tạo sự bền vững về mặt tinh thần cho tập thể gia đình. Sự quan tâm này
không chduy trì tình cảm mà còn góp phần làm cho gia đình trở thành điểm tựa vững
chắc hỗ trợ mỗi thành viên vượt qua khó khăn trong cuộc sống hiện đại.
Tuy nhiên, cùng với những biến đổi của xã hội hiện đại như công nghiệp hóa, đô
thị hóa, áp lực kinh tế và sự phát triển công nghệ, gia đình Việt Nam cũng phải đối mặt
với nhiều thách thức trong việc duy trì chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý và tình
cảm. Nhiều gia đình hiện đại nguy cơ rạn nứt tình cảm do khoảng cách về thời gian
không gian, thiếu sự chia sẻ đồng cảm. Chính vậy, việc xây dựng củng cố
mối quan hệ tình cảm trong gia đình được xem là yếu tố then chốt giữ cho gia đình luôn
"tổ ấm" vững chắc của mỗi người.
Tóm lại, chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh duy trì tình cảm của gia đình
Việt Nam hiện đại không chỉ đáp ứng nhu cầu tình cảm nhân còn trách nhiệm,
đạo sự gắn kết tinh thần giữa các thành viên. Gia đình nơi nuôi dưỡng, bảo vệ
sự cân bằng tâm lý, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát triển toàn diện và góp phần xây
dựng xã hội ổn định, phát triển bền vững.
2.3 Sự biến đổi về các mối quan hệ trong gia đình
Gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại có nhiều biến đổi. Sự biến đổi đó
do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn bên trong. thể thấy nhất
sự thay đổi về cấu gia đình như quy gia đình các quan hệ hội trong
ngoài gia đình.
lOMoARcPSD| 45740153
16
2.3.1. Sự biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng
Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ côt c
ủa gia đình, mọi quyền lực
trong gia đình đều thuôc người đàn ông. Người chồng người chủ sở hữu i sản
của gia đình, người quyết định các công viêc quan trọng c
ủa gia đình, kể cả quyền dạy
vợ, đánh con.
Trong gia đình Việt Nam hiện đại, sự bình đẳng giữa vợ chồng được thể hiện rõ,
ngoài hình người đàn ông - người chồng làm chủ gia đình ra thì còn ít nhất hai
mô hình khác cùng tồn tại. Đó là mô hình người phụ nữ - người vợ làm chủ gia đình và
mô hình cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia đình. Người chủ gia đình được quan niệm là
người có phẩm chất, năng lực và đóng góp vượt trội, được các thành viên trong gia đình
coi trọng. Ngoài ra, mô hình người chủ gia đình phải là người làm ra được tài chính, tức
kiếm được nhiều tiền cho thấy một đòi hỏi mới về phẩm chất của người lãnh đạo gia
đình trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế.
Hiện nay, đa số trong một gia đình vợ chồng sẽ cùng nhau đi làm, chia sẻ về gánh
nặng tài chính, có trách nhiệm nuôi dạy con và giúp đỡ nhau việc nhà, khác xa mô hình
truyền thống.
Tuy nhiên, dưới tác động của chế thị trường, khoa học công nghệ hiện đại,
toàn cầu hóa… các gia đình Việt Nam đang phải gánh chịu nhiều mặt trái như: quan hệ
vợ chồng - gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình, quan hệ tình dục
trước hôn nhân ngoài hôn nhân, chung sống không kết hôn. Đồng thời, xuất hiện
nhiều bi kịch, thảm án gia đình, người già neo đơn, trẻ em sống ích kỷ, bị bạo hành trong
gia đình, xâm hại tình dục... Hệ lụy là giá trị truyền thống trong gia đình bị coi nhẹ, gia
đình truyền thống bị phá vỡ, lung lay.
2.3.2. Sự biến đổi giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình.
Trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái hiện nay, có một xu hướng đảo ngược
so với truyền thống. Nếu như trong gia đình truyền thống, mối quan hệ giữa cha mẹ
con cái được nhấn mạnh theo nguyên tắc: quyền của cha mẹ bổn phận của trẻ em
cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, con cái phải nghe theo lời cha mẹ và hiếm khi lựa
chọn riêng. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của hội hiện đại, nguyên tắc đó được
nhấn mạnh theo chiều hướng ngược lại, đó là: quyền của trẻ em bổn phận của cha
mẹ. Hiện nay, cha mẹ không còn áp đặt quá mức bắt đầu lắng nghe, tôn trọng, thấu
hiểu suy nghĩ, sở thích và nguyện vọng của con cái. Nếu như trước đây, nhiều phụ huynh
bắt ép con mình học những ngành ổn định như sư phạm, kế toán, công an,... thì bây giờ,
nhiều phụ huynh sẵn sàng tôn trọng con, để con tự theo đuổi tưởng của mình. Hiện
tượng này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, đặc biệt do ảnh hưởng của văn hóa phương
Tây và sự tác động của chính sách, pháp luật của Đảng Nhà nước nên quyền trẻ em
được coi trọng mà trong gia đình thì cha mẹ phải là người đầu tiên ơng mẫu thực hiện
quyền đó. Việc công nhận quyền trẻ em đã làm thay đổi căn bản những giá trị, chuẩn
mực văn hóa trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
lOMoARcPSD| 45740153
17
Như vậy, thể thấy không phải cha mẹ hiện nay muốn từ bỏ quyền kiểm soát
trẻ em mà chính là do thời đại mới đã không chấp nhận để cha mẹ kiểm soát trẻ em theo
các chuẩn mực truyền thống. Đó sự khủng hoảng của thiết chế gia đình trong việc
kiểm soát trẻ em hiện nay. Trước hết, về phía trẻ em, môi trường sinh hoạt, học tập của
trẻ em được mrộng nên tất yếu dẫn đến sự giảm sút vai trò của cha mẹ trong việc kiểm
soát con cái, đặc biệt ở thành thị, phạm vi hoạt động của trẻ em rất rộng lớn, quan hệ xã
hội được mở rộng, thậm chí, trẻ em sinh hoạt bên ngoài gia đình nhiều hơn trong môi
trường gia đình. Bên cạnh đó, về phía cha mẹ, họ chủ yếu làm việc bên ngoài gia
đình,thời gian để chăm sóc, giáo dục con cái rất ít. Sự chuyển đổi của cơ cấu kinh tế, sự
đa dạng hóa ngành đã chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang các ngành nghề
phi nông nghiệp, cha mẹ thường xuyên đi làm ăn xa nhà hoặc làm việc các sở sản
xuất bên ngoài gia đình nên họ cũng không có nhiều thời gian để quan tâm, chăm sóc,
giáo dục con cái.
Việc cha mẹ không thời gian hoặc quá ít thời gian quan tâm, chăm sóc, giáo
dục con cái cho thấy đã xuất hiện một khoảng trống trong việc kiểm soát, giáo dục con
cái. Việc đánh mất vai trò kiểm soát của cha mẹ đối với con cái đã dẫn đến nhiều hậu
quả cho gia đình hội như hiện tượng trẻ em lang thang, phạm tội hay rơi o các
tệ nạn xã hội, bạo lực học đường, tội phạm vị thành niên ngày càng gia tăng, đồng thời,
cũng phản ánh những bất ổn những thay đổi trong tâm nhân cách của trẻ em
hiện nay. Về bản chất, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình Việt Nam hiện
nay một sự đảo ngược trật tự vị trí so với gia đình truyền thống. Sự biến đổi này
bắt nguồn từ sự biến đổi của điều kiện kinh tế - hội bắt nguồn từ sự thay đổi của
quy mô, cấu trúc, chức năng của gia đình hiện nay. Không ít cha mẹ hiện nay rơi o
tình trạng bất lực trước việc con cái không nghe lời, vô trách nhiệm đối với cha mẹ, ông
bà, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với các công việc nhà.Vấn đề đặt ra trong mối quan
hệ giữa cha mẹ con cái cần phải củng cố chức năng giáo dục của gia đình, xây
dựng mối quan hệ mới giữa cha mẹ con i trên sở tiếp thu những giá trị, chuẩn
mực văn hóa mới, đồng thời kế thừa những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống, cần
tạo cho trẻ em môi trường, điều kiện để phát triển nhân cách, năng lực nhưng cũng phải
quan tâm đến giáo dục gia đình, giúp trẻ em nhận thức được những giá trị, chuẩn mực
truyền thống, đặc biệt phải sống có trách nhiệm đối với gia đình, cộng đồng và xã hội.
Ngoài ra, trong gia đình hiên đại, vic giáo  ục trẻ em gần như phó mặc cho nhà
trường, mà thiếu đi sự dạy bảo thường xuyên của ông bà, cha mẹ. Ngược lại, người cao
tuổi trong gia đình truyền thống thường sống cùng với con cháu, cho nên nhu cầu về
tâm lý, tình cảm được đáp ứng đầy đủ. Còn khi quy mô gia đình bị biến đổi, người cao
tuổi phải đối mặt với sự cô đơn thiếu thốn về tình cảm.
Trong đời sống gia đình hiện nay, quan hệ giữa các thế hệ cũng có nhiều thay đổi
so với trước kia. Nếu như trong hội truyền thống, ông bà, cha mẹ và con cháu thường
sống chung dưới một mái nhà, gắn bó khăng khít và con cháu trực tiếp chăm sóc, phụng
dưỡng cha mẹ già, thì ngày nay do tác động của đô thị hóa, công việc lối sống hiện
đại, các thế hệ có xu hướng sống tách biệt nhiều hơn. Nhiều cặp vợ chồng trẻ lựa chọn
lOMoARcPSD| 45740153
18
ra riêng trong căn hộ chung để thuận tiện cho công việc, trong khi ông vẫn
quê hoặc thậm chí sống trong các viện dưỡng lão. dụ, các thành phố lớn như
Nội hay TP. Hồ CMinh, không ít gia đình trẻ chỉ điều kiện thăm ông vào cuối
tuần hoặc dịp lễ Tết, còn việc chăm sóc thường được hỗ trợ bằng tiền bạc hay thuê dịch
vụ y tế. Sự thay đổi này giúp các thế hệ đời sống độc lập, tự do hơn, nhưng đồng thời
cũng làm giảm sự gắn kết thường xuyên, đòi hỏi mỗi thành viên trong gia đình phải quan
tâm, chia sẻ và duy trì tình cảm bằng nhiều cách khác nhau.
Trong xã hội truyền thống, quan hệ họ hàng vốn rất gắn bó, thường xuyên qua lại
thăm nom, cùng nhau tham gia vào các dịp cưới hỏi, giỗ chạp, lễ Tết. Tuy nhiên, cùng
với sự thay đổi của đời sống hiện đại, mối quan hệ này đã có nhiều biến đổi theo hướng
lỏng lẻo hơn. Nguyên nhân chủ yếu do nhịp sống công nghiệp bận rộn, sự phân tán
địa lý khi nhiều người đi làm ăn xa, xuất khẩu lao động hoặc định nước ngoài. Thay
gặp gỡ trực tiếp thường xuyên, nay nhiều gia đình chỉ duy trì liên lạc qua điện thoại
hay mạng hội. dụ, trước kia ở nông thôn, giỗ họ là dịp con cháu sum vầy, ăn uống,
cùng nhau bàn chuyện họ tộc; còn hiện nay, nhiều gia đình trẻ ở thành phố vì bận công
việc nên ít khi về, khiến các buổi họp họ không còn đông đủ như trước. Sự biến đổi này
phản ánh xu hướng nhân hóa trong đời sống hiện đại, nhưng đồng thời cũng đặt ra
yêu cầu mỗi người cần ý thức hơn trong việc giữ gìn tình thân để mối quan hệ họ hàng
không bị phai nhạt theo thời gian.
Những biến đổi trong quan gia đ
ình cho thấy, thách thức lớn nhất đặt ra cho
gia đình Viêt Nam  à mâu thuẫn giữa các thế hê, do  ự khác biêt  ề tuổi tác, khi cùng
chung sống với nhau. Người già thường hướng về các giá trị truyền thống, có xu hướng
bảo thủ, áp đặt nhân t ức của mình đối với người trẻ. Ngược lại, tuổi trẻ thường hướng
tới những giá trị hiên đại, c
ó xu hướng phủ nhân yếu truyền thống. Gia đình càng
nhiều thế hê, mâu thụ ẫn thế hê c
àng lớn.
Xây dựng phát triển gia đình Viêt Nam hiệ n nay vừa phải kế thừa và phá huy
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình Viêt Nam, vừa kết hợp ới
những giá trị tiên tiến của gia đình hiên đại đ
phù hợp với sự vân đng phát trị ển tất
yếu của xã hôi. Tất cả n ằm hướng tới thực hiên  ục tiêu làm cho gia đình thực sự là
tế bào lành mạnh của xã hôi, là  ổ ấm của mỗi người.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC NHỮNG BIẾN ĐỔI TIÊU
CỰC CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Giải pháp từ phía nhà nước và xã hội
Thực trạng hiện nay, hội đang ngày càng phát triển văn minh, đời sống con
người ngày càng tốt hơn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần củng cố cho đời sống gia đình
ngày càng trọn vẹn. Song, những mặt trái, những góc khuất vẫn còn tồn tại. thế,
lOMoARcPSD| 45740153
19
những quyết định, chính sách của nhà nước những tác động của xã hội cùng cần
thiết để giảm thiểu tối đa tiêu cực ở đời sống gia đình của mỗi người.
3.1.1. Nhà nước
a, Các chính sách Về kế hoạch
hóa gia đình
Mặt thực tế hiện nay, Việt Nam đang bùng nổ dân số (theo thống kê dân số Việt
Nam năm 2024 đã vượt ngưỡng 100 triệu người) và quá trình hạt nhân hóa gia đình (gia
đình đa thế hệ) đã đặt ra những thách thức như áp lực kinh tế, chất lượng nuôi dạy
con cái,... những gia đình hạt nhân thì dễ nảy sinh ra mâu thuẫn, tranh cãi giữa các thế
hệ.
Hiện nay, Nhà nước đã đặt ra Chính sách dân số Kế hoạch hóa gia đình (2020).
Điều này giúp làm giảm gánh nặng tài chính, đảm bảo về vấn đề y khoa, phát triển bền
vững ổn định hội. Những mục tiêu hướng tới năm 2030 tại Nghị quyết số 21
NQ/TW tiêu biểu thể kể đến như: giảm tỉ lệ mang thai trẻ tuổi vị thành niên, cân
bằng giới tính, kiểm soát dân số ở mức ổn định,...
Bên cạnh việc kiểm soát dân số, Kế hoạch a gia đình còn giúp nâng cao chất
lượng đời sống, giúp các gia đình chủ động trong việc nuôi dạy sinh con, đảm bảo
nhà nước có thể đầu tư vào các mặt khác của đời sống.
Kế hoạch hóa gia đình cùng quan trọng trong việc phát triển các mặt tích
cực trong việc nâng cao đời sống con người, kinh tế- xã hội. Nó đóng vai trò quan trọng
làm giảm bớt những tiêu cực về dân số. Tuy nhiên, kế hoạch hóa gia đình luôn cần phải
sự đổi mới, tăng cường để phù hợp với thời đại, bối cảnh xã hội hiện nay.
Hỗ trợ gia đình
Trong quá trình hội phát triển, về mặt vật chất giá trị của đồng tiền ngày
càng yếu tố thiết yếu trong việc đảm bảo đời sống. Vấn đề này càng quan trọng đối
với việc giữ gìn hạnh phúc gia đình, để từ đó làm nền tảng thúc đẩy cho tăng trưởng
kinh tế, ổn định bền vững. Mỗi gia đình, mỗi nhân đều tế bào của hội thì tài
chính cá nhân, gia đình chính là huyết mạch để nuôi dưỡng tế bào này- trích “Báo đầu
- Vai trò của tài chính cá nhân gia đình trong kỉ nguyên mới”
Như vậy, ta thấy rõ vai trò của tài chính trong đời sống gia đình là cùng quan
trọng, đó cũng là trong những yếu tố lớn nhất dẫn đến việc cãi vã trong hôn nhân. Theo
như báo Tuổi trẻ “Vì sao ly hôn lại tập trung các thành phố lớndo về tài chính
đứng thứ 3 chiếm 13% trong tổng số sau mâu thuẫn về lối sống và ngoại tình.
Thấy được thực trạng này, Đảng nhà nước cũng đề ra những chính sách
giúp hỗ trợ cho gia đình. dụ như: Nhà hội; chính sách về thuế thu nhập; hỗ trợ
học phí cho học sinh; bảo hiểm khi mang thai; những phúc lợi hội dành cho gia đình
Việc những chính sách đó đã san sẻ phần nào gánh nặng cho người dân, tạo
điều kiện cho mọi dành thời gian cho gia đình, giảm bớt những căng thẳng, xung đột, lo

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45740153
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA LUẬT KINH TẾ ---------- BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN: So với gia đình truyền thống, gia đình Việt Nam
hiện đại có nhiều sự biến đổi khác biệt. Anh/chị hãy làm rõ sự biến đổi khác biệt
đó và đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những biến đổi tiêu cực của gia
đình Việt Nam hiện nay.
Nhóm thực hiện: 05
Tên lớp học phần: 251_HCMI0121_15
Giáo viên hướng dẫn: Ths. Đào Thu Hà Hà Nội, 2025
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 05 STT Họ và tên MSV Nhiệm vụ 83 Nguyễn Thị Nhiên 23D200069 Nội dung 84 Hà Ngọc Oanh 23D200111 Nội dung 85 Trịnh Ngọc Oanh 23D200029 Word 86 Đinh Thị Phương 23D210125 PowerPoint 87 Nguyễn Lan Phương 23D200070 Nội dung lOMoAR cPSD| 45740153 88
Nguyễn Thị Ngọc Phương 23D210173 Nội dung 89 Nguyễn Thùy Phương 23D200112 Nội dung 90 Trần Thị Kim Phượng 21D160242 Nội dung 91 Nguyễn Minh Quân 23D200113 Nội dung 92 Nguyễn Thị Quyên 23D200071 Word 93 Nguyễn Thị Như Quỳnh 23D200114 Nội dung 94 Hoàng Minh Quý 23D200031 Nội dung 95 Phạm Công Thành 23D200032 Thuyết trình 96 Bùi Hiền Thảo 22D180206 Nội dung 97 Nguyễn Minh Thảo 23D200115 Nội dung 98 Đoàn Nhật Thái 23D200073 Nội dung 99 Lại Thị Thu 23D200033 Thuyết trình 100
Nguyễn Hoàng Phương Thùy 23D200074 Nội dung 101 Nguyễn Thị Thu Thủy 23D200034 Nội dung
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
1. Thời gian, địa điểm, thành phần
Thời gian: 20h ngày 10/09/2025 Địa điểm: Google meet Thành viên tham dự: 19 Vắng mặt: 0
2. Nội dung cuộc họp
Các thành viên trong nhóm xây dựng dàn bài với đề tài “So với gia đình truyền
thống, gia đình Việt Nam hiện đại có nhiều sự biến đổi khác biệt. Anh/chị hãy làm rõ sự
biến đổi khác biệt đó và đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những biến đổi tiêu cực
của gia đình Việt Nam hiện nay”
Thống nhât dàn bài và nhóm trưởng tiến hành phân chia nội dung thảo luận
Các thành viên hoàn thành nội dung của mình trước 20h ngày 14/09 1 lOMoAR cPSD| 45740153
Trưởng nhóm tổng hợp và hoàn thiện trước 20h ngày 17/09 3. Kết luận
Tất cả các thành viên đồng ý với phân công công việc
Mỗi thành viên cam kết hoàn thành đúng hạn, đảm bảo chất lượng nội dung
Trưởng nhóm chịu trách nhiệm đôn đốc các thành viên
Cuộc họp kết thúc vào 21h ngày 10/09 Trưởng nhóm
(ký, ghi rõ họ tên) Quyên Nguyễn Thị Quyên LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình chính là tế bào cơ bản của xã hội, là môi trường đầu tiên hình thành và
nuôi dưỡng nhân cách con người. Trong suốt chiều dài lịch sử, gia đình Việt Nam truyền
thống với những đặc trưng như tính gắn kết, trọng tình, đề cao vai trò tập thể và sự hiếu
kính luôn giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì các giá trị đạo đức, văn hóa và xã hội.
Tuy nhiên, bước sang thời kỳ hiện đại, đặc biệt là trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, toàn cầu hóa và sự bùng nổ công nghệ thông tin, mô hình gia đình Việt Nam đã
và đang trải qua nhiều biến đổi sâu sắc.
Những thay đổi về quy mô gia đình (từ gia đình truyền thống nhiều thế hệ sang
gia đình hạt nhân), về vai trò giới, chức năng giáo dục, kinh tế, chăm sóc, cũng như sự
biến chuyển trong quan hệ giữa các thành viên đã làm thay đổi cấu trúc cũng như giá trị
nền tảng của thiết chế gia đình. Bên cạnh những mặt tích cực như nâng cao quyền tự do
cá nhân, thúc đẩy bình đẳng giới, nâng cao chất lượng sống..., thì cũng xuất hiện nhiều
hệ lụy tiêu cực như: gia tăng tỷ lệ ly hôn, suy giảm sự gắn bó giữa các thành viên, người
già bị bỏ rơi, trẻ em thiếu sự quan tâm, khủng hoảng giá trị đạo đức trong gia đình, v.v.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích sự khác biệt giữa gia đình truyền thống
và gia đình hiện đại ở Việt Nam không chỉ có ý nghĩa về mặt học thuật mà còn mang giá
trị thực tiễn sâu sắc. Việc làm rõ nguyên nhân, biểu hiện của sự biến đổi, cũng như đề
xuất các giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của sự biến đổi này là yêu
cầu cấp thiết để góp phần xây dựng một xã hội phát triển bền vững mà trong đó gia đình
vẫn giữ được vai trò trung tâm trong việc hình thành nhân cách, đạo đức và lối sống lành
mạnh. Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu này không chỉ phù hợp với bối cảnh xã hội hiện
nay mà còn mang tính nhân văn và thiết thực, góp phần định hướng nhận thức đúng đắn
về vai trò, chức năng của gia đình trong thời kỳ mới. 2 lOMoAR cPSD| 45740153
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành bài tiểu luận với đề tài: “So với gia
đình truyền thống, gia đình Việt Nam hiện đại có nhiều sự biến đổi khác biệt. Anh/chị
hãy làm rõ sự biến đổi khác biệt đó và đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những
biến đổi tiêu cực của gia đình Việt Nam hiện nay”
nhóm chúng em hi vọng sẽ đem đến
cho cô và các bạn những thông tin hữu ích nhất định. Nhóm tác giả rất mong nhận được
nhận xét, đóng góp ý kiến từ cô và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN BIẾN
ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM 1.1. Khái niệm
Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
Cơ sở hình thành gia đình là hai mối quan hệ cơ bản: quan hệ hôn nhân (vợ và
chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ và con cái...). Tồn tại trong sự gắn bó, liên kết,
ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người,
được quy định bằng pháp lý hoặc đạo lý.
Như vậy, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành,
duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.

1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội
Gia đình là tế bào của xã hội
Có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Với
việc sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tái sản xuất ra con người, gia đình
như một tế bào tự nhiên, là một đơn vị cơ sở để tạo nên cơ thể - xã hội. Không có gia
đình để tái tạo ra con người thì xã hội không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, muốn
có một xã hội phát triển lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng tế bào gia đình tốt.
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống
cá nhân của mỗi thành viên
Gia đình là môi trường tốt nhất để được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc,
trưởng thành, phát triển.
Sự yên ổn, hạnh phúc của mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự
hình thành, phát triển nhân cách, thể lực, trí lực để trở thành công dân tốt cho xã hội.
Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội 3 lOMoAR cPSD| 45740153
Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh hưởng
rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của từng người.
Tuy nhiên, mỗi cá nhân lại không chỉ sống trong quan hệ gia đình, mà còn có nhu
cầu quan hệ xã hội, với những người khác. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia
đình mà còn là thành viên của xã hội. Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng
đồng để xã hội tác động đến cá nhân. Nhiều thông tin, hiện tượng của xã hội thông qua
lăng kính gia đình mà tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân
về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách v.v.
1.3. Chức năng cơ bản của gia đình
Gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của loài
người. Gia đình được sinh ra, tồn tại và phát triển với sứ mệnh đảm đương những chức
năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã giao cho, không thiết chế xã hội nào có thể thay
thế được. Chức năng của gia đình là một khái niệm then chốt của xã hội học gia đình,
các nhà nghiên cứu xã hội học gia đình trên cấp độ vi mô và cấp độ vĩ mô đều khẳng
định những chức năng cơ bản của gia đình.
1.3.1. Chức năng tái sinh sản, tái sản xuất ra con người
Đây là chức năng quan trọng nhất của gia đình; việc thực hiện chức năng sinh
sản. Đây vừa là quy luật sinh tồn tự nhiên đồng thời là quy luật xã hội, đáp ứng được
nhu cầu về tâm sinh lí, tình cảm của chính bản thân con người. Tái sản xuất con người
góp phần cung cấp sức lao động - nguồn nhân lực cho xã hội, từ đó góp phần thay thế
những lớp người lao động cũ đã đến tuổi nghỉ hưu, đã hết khả năng lao động linh hoạt,
năng động, sáng tạo và còn tác động đến sự ổn định, phát triển bền vững của quốc gia.
VD: Các nước phát triển như Đan Mạch, Canada, Nhật Bản,.. đưa ra nhiều biện
pháp khuyến khích người dân sinh con như miễn thuế, gia hạn các khoản vay, thậm trí
hỗ trợ hàng nghìn USD nhưng người dân không muốn sinh đẻ. Còn các nước đang phát
triển việc gia tăng dân số trẻ đang còn cao trong đó có Việt Nam thì họ thực hiện chính
sách hạn chế sinh đẻ, chính sách kế hoạch hóa gia đình.
Như vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội, chức năng này
được thực hiện theo xu hướng hạn chế hay khuyến khích. Trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động mà gia đình cung cấp.
1.3.2. Chức năng kinh tế, tổ chức tiêu dùng
Chức năng kinh tế là một trong những chức năng cơ bản của gia đình nhằm tạo
ra của cải, vật chất, là chức năng đảm bảo sự sống còn của gia đình, đảm bảo cho gia
đình được ấm no, giàu có làm cho dân giàu, nước mạnh như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng nói: “dân có giàu thì nước mới mạnh”. Chức năng này bao quát về nhu cầu ăn,
ở, tiện nghi, là sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong gia đình, thể hiện trên hai
khía cạnh: sản xuất và tiêu dùng, cả hai khía cạnh này đều nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết
yếu của các thành viên trong gia đình. 4 lOMoAR cPSD| 45740153
Đây là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải vật chất,
đảm bảo cho gia đình được ấm no, hạnh phúc góp phần vào sự phát triển của xã hội. Sự
tồn tại của kinh tế gia đình còn phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm năng về vốn,
sức lao động của từng gia đình, tăng thêm của cải cho gia đình và xã hội.
VD: Các thành viên trong gia đình đi làm kiếm tiền (tạo ra của cải, sức lao động),
sau đó sử dụng tiền đó để mua thực phẩm, quần áo, trả tiền điện nước, đóng học phí cho
con (tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ).
1.3.3. Chức năng, nuôi dưỡng, giáo dục
Chức năng giáo dục là chức năng rất quan trọng của gia đình, quyết định nhân
cách con người, dạy dỗ con hiếu thảo, trở thành công dân có ích cho xã hội vì gia đình
là ngôi trường đầu tiên và ở đó cha mẹ là người thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi người:
“Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của con cái; tôn trọng ý kiến của bạn; chăm lo học tập, giáo
dục để trẻ phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành con hiếu thảo của
gia đình và công dân có ích cho xã hội”.
Gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên của con người. Gia đình trang bị cho
trẻ những ý tưởng đầu tiên để giải thích thế giới của sự vật, hiện tượng, khái niệm thiện
và ác, dạy trẻ hiểu cuộc sống và con người, đưa trẻ vào thế giới của những giá trị mà gia
đình nhận ra và thực hiện trong cuộc sống của nó.
Việt Nam là đất nước thấm đẫm vẻ đẹp truyền thống về đạo đức và lối sống tốt
đẹp, vì vậy nội dung giáo dục của gia đình cũng phải quan tâm đến giáo dục toàn diện
về phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm, lối sống, ý thức, tác phong trong cuộc sống và giáo dục về tri thức…
Để chức năng giáo dục được thực hiện hiệu quả, gia đình phải có phương pháp
giáo dục và răn đe phù hợp. Ai sai thì nhận sai và sửa chữa nó, chứ đừng vì cái tôi, cái
sĩ diện và tính bảo thủ của mình mà cố chấp không thay đổi. Có rất nhiều gia đình dạy
con cái của họ bằng đòn, roi, tát, mắng,... Những biện pháp này không những không
mang lại hiệu quả mà còn khiến trẻ em trở nên cứng rắn, tiêu cực và đánh mất cảm xúc
gần gũi, tin tưởng vào những người sống cùng một mái nhà.
Thay vì đánh đòn, cha mẹ nên dạy dỗ, hướng dẫn con cái một cách nhẹ nhàng,
phân tích đúng sai để chúng hiểu. Hơn nữa, cha mẹ và ông bà nên là tấm gương cho thế
hệ trẻ noi theo. Các thành viên trong gia đình sống hòa thuận, vui vẻ, cùng nhau chia sẻ
những khó khăn trong cuộc sống.
VD: Để phát triển thành một con người trưởng thành, đứa trẻ đó phải trải qua
những năm tháng phát triển nhất định theo quy luật tự nhiên như từ lúc trẻ sơ sinh đến
khi 14-15 tuổi là giai đoạn quyết định sự hình thành về tố chất và phẩm chất cá nhân,
16-17 tuổi là giai đoạn tiếp tục hoàn thành các phẩm chất đã hình thành và định hướng
nghề nghiệp. Trong các quá trình này, vai trò của những thành viên khác trong gia đình
đặc biệt là cha mẹ, cần phải có sự quan tâm về mặt tâm lý, tình cảm, lối sống... 5 lOMoAR cPSD| 45740153
1.3.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tinh thần, tâm lý, tình cảm.
Chức năng thoả mãn nhu cầu tinh thần, tâm lý, tình cảm là chức năng thường
xuyên và có ý nghĩa quan trọng trong việc chia sẻ tình yêu thương gắn bó giữa các thành
viên của gia đình, đặc biệt là tình yêu hạnh phúc lứa đôi. Tổ ấm gia đình vừa là điểm
xuất phát cho con người trưởng thành, vững tin bước vào cuộc sống xã hội, đồng thời
cũng là nơi bao dung, an ủi cho mỗi cá nhân trước những rủi ro, sóng gió cuộc đời. Càng
về cuối đời, con người càng trở nên thấm thía và khao khát tìm về sự bình ổn, thoả mãn
nhu cầu cân bằng trạng thái tâm lý, tình cảm trong sự chăm sóc, đùm bọc của gia đình;
chăm sóc sức khỏe, đảm bảo cho việc chăm sóc sức khỏe của các thành viên trong gia đình.
Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến
sự ổn định và phát triển của xã hội. Bởi lẽ các chức năng của gia đình luôn song hành
với các chức năng của xã hội, khi quan hệ gia đình rạn nứt thì quan hệ tình cảm trong
xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ.
Không phải ngẫu nhiên người ta gọi gia đình với cách gọi yêu thương, trìu mến,
ấm áp. Trong gia đình người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan, truyền lại
cho con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. Nơi đó, con cái biết yêu kính, vâng lời cha
mẹ, vợ chồng quan tâm chia sẻ vui buồn cực nhọc với nhau... Ở đó, mỗi người cảm nhận
được sự gần gũi, thân thương từ khoảng sân, mái nhà, chiếc giường... đến những quan
hệ họ hàng thân thiết.
Khi một thành viên gặp biến cố, gia đình, dòng họ sẽ có sự quan tâm, chia sẻ và
có sự giúp đỡ để niềm vui được nhân đôi, nỗi buồn được vơi đi một nửa. Điều đó sẽ tạo
nên sợi dây vô hình nhưng bền chặt kết nối nghĩa tình những người trong gia đình, dòng
họ, thân tộc lại với nhau. Mối quan hệ đồng bào cũng từ đó mà hình thành trong làng
xóm, trong xã hội, trở thành nền tảng của tình yêu quê hương, đất nước, con người.
1.4. Các yếu tố tác động dẫn đến sự biến đổi của gia đình Việt Nam hiện đại
1.4.1. Tác động của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, kinh tế thị trường.
Công nghiệp hóa, đô thị hóa và sự phát triển của nền kinh tế thị trường là những
động lực mạnh mẽ, tạo ra những thay đổi sâu sắc cho cấu trúc và chức năng của gia đình Việt Nam.
Về mặt công nghiệp hóa và đô thị hóa. Quá trình này đã thúc đẩy sự di cư mạnh
mẽ từ nông thôn ra thành thị. Các cặp vợ chồng trẻ rời xa gia đình lớn, ông bà để tìm
kiếm cơ hội việc làm tốt hơn. Điều này đã làm suy yếu mô hình gia đình truyền thống
nhiều thế hệ sống chung, thay vào đó là sự xuất hiện phổ biến của gia đình hạt nhân (chỉ
có bố mẹ và con cái). Sự tách rời về địa lý này cũng làm giảm sự hỗ trợ về mặt tinh thần
và vật chất giữa các thế hệ, đồng thời làm mai một một số giá trị văn hóa, phong tục truyền thống. 6 lOMoAR cPSD| 45740153
Về mặt kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đã làm thay đổi vai trò của các thành
viên trong gia đình. Việc làm đã trở thành yếu tố quyết định thu nhập và vị thế xã hội.
Cả vợ và chồng đều phải đi làm, dành nhiều thời gian cho công việc để đảm bảo cuộc
sống. Điều này đã làm giảm thời gian dành cho việc chăm sóc con cái, xây dựng các
mối quan hệ gia đình và thực hiện các chức năng truyền thống như giáo dục con cái,
chăm sóc người già. Áp lực kinh tế cũng có thể gây ra những xung đột mới, làm rạn nứt
các mối quan hệ trong gia đình.
1.4.2. Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập văn hóa, ảnh hưởng mạng xã hội.
Toàn cầu hóa và sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã mở ra cánh cửa cho gia
đình Việt Nam tiếp cận với nhiều nền văn hóa khác nhau, nhưng cũng đặt ra những thách thức lớn.
Về mặt toàn cầu hóa và hội nhập văn hóa. Sự giao lưu văn hóa quốc tế đã mang
đến những tư tưởng mới về hôn nhân, gia đình, và giới tính. Các mô hình gia đình
phương Tây, đề cao sự tự do cá nhân, bình đẳng giới, và hôn nhân dựa trên tình yêu đã
tác động mạnh mẽ đến quan niệm truyền thống về "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" hay
"tam tòng tứ đức”. Điều này giúp các cá nhân có quyền tự quyết hơn trong việc lựa chọn
bạn đời, nhưng cũng có thể làm phát sinh xung đột giữa các thế hệ do sự khác biệt về quan điểm.
Về mặt ảnh hưởng của mạng xã hội. Mạng xã hội đã trở thành một phần không
thể thiếu trong cuộc sống hiện đại. Mạng xã hội giúp các thành viên trong gia đình, dù
sống xa nhau, vẫn có thể kết nối, trò chuyện và chia sẻ cuộc sống. Mạng xã hội cũng là
nơi lan truyền các giá trị, lối sống mới, đôi khi là những tư tưởng tiêu cực, ảnh hưởng
đến cách nhìn nhận của cá nhân về gia đình, hôn nhân, và các mối quan hệ. Các chuẩn
mực đạo đức, ứng xử truyền thống có thể bị xói mòn nếu không có sự giáo dục và định
hướng đúng đắn. Tuy nhiên, nó cũng làm gia tăng sự "tách rời trong sự gần gũi." Các
thành viên có thể ngồi chung một bàn ăn nhưng lại tập trung vào điện thoại của mình
thay vì trò chuyện trực tiếp. Điều này làm giảm sự tương tác, chia sẻ cảm xúc và gắn kết tình cảm.
1.4.3. Luật Hôn nhân & Gia đình, bình đẳng giới, chính sách dân số.
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 ra đời đã thúc đẩy sự bình đẳng, bảo vệ quyền
lợi các thành viên trong gia đình và góp phần thay đổi các quan niệm truyền thống cổ
hủ, lạc hậu (như tảo hôn, hôn nhân cận huyết). Bên cạnh đó, luật có các quy định về độ
tuổi kết hôn, vấn đề liên quan đến mang thai hộ, công nhận công việc nội trợ trong gia
đình góp phần thay đổi quan niệm truyền thống, xây dựng gia đình Việt Nam theo hướng
văn minh, bình đẳng và bền vững hơn.
Bình đẳng giới đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thay
đổi cơ bản trong cấu trúc và vận hành của gia đình Việt Nam hiện đại. Nếu trước đây,
quyền lực trong gia đình chủ yếu nghiêng về phía nam giới, thì hiện nay vai trò và tiếng
nói của phụ nữ ngày càng được khẳng định và mở rộng. Sự chuyển dịch này không chỉ
phản ánh sự thay đổi nhận thức xã hội mà còn gắn liền với quá trình thể chế hóa bình 7 lOMoAR cPSD| 45740153
đẳng giới trong pháp luật và chính sách. Nhà nước đã lồng ghép nguyên tắc bình đẳng
giới vào nhiều văn bản pháp lý, tiêu biểu như dự thảo Luật Dân số mới, trong đó nhấn
mạnh việc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử, đồng thời bảo đảm nam và nữ có
quyền lợi, nghĩa vụ ngang nhau trong xây dựng và phát triển gia đình. Điều này cho thấy
bình đẳng giới không chỉ là giá trị xã hội, mà còn là nền tảng để củng cố hạnh phúc gia
đình và phát triển bền vững.
Chính sách dân số ảnh hưởng tới cấu trúc gia đình, số lượng con cái, thời điểm
sinh và quan niệm về trách nhiệm sinh sản. Gần đây, Việt Nam chính thức bỏ quy định
mỗi gia đình chỉ sinh tối đa 1-2 con”, cho phép các cặp vợ chồng tự quyết định số con,
thời điểm sinh con và khoảng cách sinh con phù hợp với điều kiện sức khỏe, thu nhập,
nuôi dạy. Chính sách dân số hiện hướng tới “dân số và phát triển”, không chỉ kiểm soát
số lượng mà quan tâm tới chất lượng dân số, đảm bảo sự phát triển bền vững, đáp ứng
thách thức già hóa dân số. Thay đổi này làm quy mô gia đình Việt Nam ngày càng thu
nhỏ giúp gia đình có thể tập trung tài chính, chăm sóc, nuôi con cái trong điều kiện môi
trường, sức khỏe tốt hơn.
1.4.4. Ảnh hưởng của internet, điện thoại thông minh, trí tuệ nhân tạo.
Sự phát triển mạnh mẽ của Internet, thiết bị thông minh và công nghệ trí tuệ nhân
tạo đã làm thay đổi cách giao tiếp, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đồng thời
đặt ra những thách thức về việc lưu giữ giá trị truyền thống. Theo Nguyễn Thị Lan
Hương & cộng sự (2021) nghiên cứu về “Ảnh hưởng của Internet đến giao tiếp giữa cha
mẹ và con cái trong gia đình Việt Nam ở khu vực đô thị
” cho thấy Internet có cả tác động
tích cực và tiêu cực: tích cực như thuận tiện trong giao tiếp, thời điểm, hình thức đa
dạng; tiêu cực như giảm tương tác trực tiếp, khó thể hiện cảm xúc thật, gây mất tập trung
vào giao tiếp trực tiếp. Việc sử dụng điện thoại thông minh nhiều khiến các bữa ăn gia
đình, chiều tối hoặc giờ nghỉ, nơi mà trước đây các thành viên giao tiếp trực tiếp trở nên
ít hơn; mỗi người có xu hướng chìm vào thiết bị cá nhân.
Trí tuệ nhân tạo (AI) có thể tham gia vào việc tạo nội dung, giải trí, học tập hình
ảnh hóa cao, khả năng cá nhân hóa tăng,... Tuy nhiên có thể đem lại các thông tin sai
lệch, so sánh xã hội, ảnh hưởng tới nhận thức, tiêu chuẩn sống và tạo áp lực cho thành viên trong gia đình.
1.4.5. Xu hướng cá nhân hóa, đề cao tự do cá nhân, giảm vai trò truyền thống.
Gia đình Việt Nam hiện đại ngày càng chịu ảnh hưởng của xu hướng cá nhân hóa,
trong đó con người đề cao tự do cá nhân, hạnh phúc cá nhân, quyền lựa chọn hơn là làm
theo truyền thống hay áp lực từ gia đình lớn. Theo khảo sát, khi lựa chọn bạn đời, người
Việt ngày nay đặt nặng yếu tố tình yêu, sự phù hợp về tình cảm, giáo dục, sở thích hơn
là việc “môn đăng hộ đối” như trước. Nhiều người trì hoãn kết hôn, chọn sống độc thân
hoặc sống thử hay muốn dành thời gian cho học tập, sự nghiệp, phát triển bản thân trước.
Vai trò người phụ nữ cũng thay đổi như ít bị ràng buộc trong vai trò nội trợ truyền thống,
phụ nữ ngày càng có học vấn cao hơn, tham gia lao động, có quyền quyết định trong 8 lOMoAR cPSD| 45740153
việc học hành, công việc, sinh con... làm cho mô hình gia đình tự do hơn, ít chịu ràng
buộc văn hóa truyền thống xưa.
CHƯƠNG 2: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH HIỆN ĐẠI SO VỚI GIA
ĐÌNH TRUYỀN THỐNG
2.1 Sự biến đổi về quy mô
Gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại có nhiều biến đổi. Sự biến đổi đó
là do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn bên trong. Có thể thấy rõ ràng
nhất là sự thay đổi về cơ cấu gia đình, trong đó bao gồm quy mô gia đình và các quan
hệ xã hội trong và ngoài gia đình.
Quy mô gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ so với trước kia, số thành
viên trong gia đình trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống xưa có thể tồn tại đến
ba bốn thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà thì hiện nay, quy mô gia đình hiện đại
đã ngày càng được thu nhỏ lại. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ có hai thế hệ cùng sống
chung: cha mẹ - con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như trước, cá biệt còn
có số ít gia đình đơn thân, nhưng phổ biến nhất vẫn là loại hình gia đình hạt nhân quy
mô nhỏ. Sự thay đổi đó, ngoài những nguyên nhân khách quan như chính sách kế hoạch
hóa gia đình hay đô thị hóa thì còn do nhiều nguyên nhân chủ quan khác.
Gia đình là thành tố cơ bản của cấu trúc xã hội và thực hiện chức năng của nó để
duy trì sự thích nghi và ổn định của xã hội. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam bước vào
giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới, nhiều
chuyển biến lớn lao đã xảy ra, tất yếu khiến quy mô gia đình truyền thống không còn
thích nghi được với hoàn cảnh xã hội mới. Nền kinh tế thị trường, sự du nhập của các
nền văn hóa nước ngoài đã làm cho xã hội đổi thay từng ngày. Sự đổi thay ấy diễn ra cả
trong quan niệm của con người, chẳng hạn, ngày nay sự bình đẳng đã được đề cao hơn,
những chuẩn mực lạc hậu cũng được loại bỏ nhằm hướng tới một xã hội tiến bộ hơn.
Đáng kể nhất là việc giải phóng phụ nữ: họ được đối xử bình đẳng hơn và có
nhiều điều kiện để phát triển, nâng cao vị thế xã hội của mình; vai trò của họ trong cuộc
sống, trong sản xuất,... ngày càng trở nên quan trọng hơn, gánh nặng gia đình cũng dần
được chia sẻ và cơ hội phát huy tiềm năng cũng đến nhiều hơn, được toàn xã hội công
nhận. Bình đẳng giới nói riêng và bình đẳng nói chung được tôn trọng làm cho mỗi
người được tự do phát triển mà không phải chịu nhiều ràng buộc. Hội nhập kinh tế làm
cho mức sống con người được nâng cao hơn, chất lượng cuộc sống được cải thiện, từ đó
cũng làm cho nhu cầu hưởng thụ của họ tăng lên và mang những nét cá nhân hơn. Mỗi
một thành viên trong gia đình, chứ không chỉ riêng lớp trẻ, đều muốn được có khoảng
không gian riêng, thoải mái để làm những gì mình thích, không phải bận tâm đến sự
nhận xét của người khác. Do có công ăn việc làm ổn định, con cái đến tuổi kết hôn cũng
không phải phụ thuộc kinh tế nhiều vào cha mẹ, từ đó sẽ nảy sinh ra nhu cầu ở riêng cho 9 lOMoAR cPSD| 45740153
thuận tiện về sinh hoạt. Mặt khác, việc duy trì gia đình truyền thống sẽ kìm hãm sự tự
do, làm cho cái tôi, cá tính riêng, năng lực của con người không có cơ hội phát triển, dẫn
đến sự thiếu hụt về lực lượng nhân tài cho đất nước trong thời buổi công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Vậy, rõ ràng là quy mô gia đình Việt Nam ngày càng thu nhỏ để đáp ứng những
nhu cầu và điều kiện của thời đại mới đặt ra. Bên cạnh đó, nó cũng thay đổi chính xã
hội hay những giá trị của xã hội, làm cho sự bình đẳng nam nữ được đề cao hơn, cuộc
sống riêng tư của con người được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong
đời sống của gia đình truyền thống. Sự biến đổi của gia đình cho thấy chính nó đang
làm chức năng tích cực, thay đổi chính bản thân gia đình và cũng là thay đổi hệ thống
xã hội, làm cho xã hội trở nên thích nghi và phù hợp hơn với tình hình mới, thời đại mới.

Tất nhiên, quá trình biến đổi đó cũng gây những phản chức năng như tạo ra sự
ngăn cách không gian giữa các thành viên trong gia đình, tạo khó khăn, trở lực trong
việc gìn giữ tình cảm cũng như các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình. Xã hội
ngày càng phát triển, mỗi người đều bị cuốn theo công việc của riêng mình với mục đích
kiếm thêm thu nhập, thời gian dành cho gia đình cũng vì vậy mà ngày càng ít đi. Con
người như rơi vào vòng xoáy của đồng tiền và vị thế xã hội mà vô tình đánh mất đi tình
cảm gia đình. Các thành viên ít quan tâm lo lắng đến nhau và giao tiếp với nhau hơn,
làm cho mối quan hệ gia đình trở nên rời rạc, lỏng lẻo... Đó là mặt hạn chế của gia đình
hiện đại so với gia đình truyền thống xưa. Chính sự coi trọng kinh tế, đặt kinh tế lên
hàng đầu ấy đã làm cho những giá trị tốt đẹp xưa của gia đình bị phai nhạt dần, thậm chí
còn dễ dẫn tới các hệ lụy xấu.
Có thể lấy ví dụ về việc chăm sóc và giáo dục trẻ em trong gia đình - nơi được
coi là môi trường xã hội hóa đầu tiên của mỗi con người. Một đứa trẻ được sinh ra và
lớn lên trong gia đình truyền thống định hình nhân cách bằng sự quan tâm giáo dục dạy
bảo thường xuyên của ông bà cha mẹ ngay từ khi rất nhỏ. Còn trong gia đình hiện đại,
việc giáo dục trẻ em gần như được phó mặc hoàn toàn cho nhà trường mà thiếu đi sự
chăm sóc, dạy dỗ của cha mẹ. Chính điều đó đã gây ra hiện trạng có nhiều trẻ em lang
thang, phạm tội hay rơi vào các tệ nạn xã hội. Hay như người cao tuổi trong gia đình,
trước đây họ được sống cùng với con cháu, vì vậy mà nhu cầu về tâm lý, tình cảm được
đáp ứng đầy đủ. Còn khi quy mô gia đình bị biến đổi, người cao tuổi phải đối mặt với
sự cô đơn thiếu thốn về tình cảm, trong khi tuổi già cần nhất là được vui vầy bên con
cháu, được chăm sóc khi ốm đau bệnh tật. Họ luôn có nguy cơ bị đẩy ra viện dưỡng lão,
trung tâm hay các dịch vụ chăm sóc sức khỏe chứ không nhận được nhiều sự quan tâm
của người thân trong gia đình. Phản chức năng của quá trình biến đổi đó không chỉ xảy
ra đối với người già và trẻ em mà còn trên phạm vi toàn xã hội, nhất là trong các mối
quan hệ gia đình. Ngày càng tồn tại nhiều hiện tượng mà trước đây chưa hề hoặc ít có
như bạo lực gia đình, ly hôn, ly thân, ngoại tình, sống thử... Chúng đã làm rạn nứt, phá
hoại sự bền vững của gia đình, làm cho gia đình trở nên mong manh, dễ tan vỡ hơn. 10 lOMoAR cPSD| 45740153
Ngoài ra, các tệ nạn như trẻ em lang thang, nghiện hút, buôn bán phụ nữ qua biên giới...
cũng đang đe dọa, gây nhiều nguy cơ làm tan rã gia đình.
Lẽ tất nhiên là những cái mới không phải đều chứa đựng yếu tố tích cực, tốt đẹp,
khó tránh được có những cái không phù hợp với truyền thống, bởi vậy cần tiếp thu có
chọn lọc. Lớp trẻ khi nhận được sự góp ý của người già thì cảm thấy khó chịu, cho rằng
những người già là cổ hủ, lạc hậu, thích dạy bảo. Sự chênh nhau về thế hệ này khiến cho
xu hướng tách ra ở riêng tăng cao, khi đó mỗi cá nhân sẽ thỏa mãn được nhu cầu tự do
của riêng mình, có thể hành động theo ý muốn của bản thân. Một gia đình chỉ có hai thế
hệ: cha mẹ - con cái tất nhiên sẽ tồn tại ít xung đột hơn so với một gia đình có ba, bốn
thế hệ. Việc những xung đột thế hệ ngày càng trở nên phổ biến làm cho gia đình truyền
thống cũng dần mất đi và đến bây giờ chỉ còn tồn tại với số lượng rất ít. Như vậy, dưới
góc nhìn xã hội học, có thể thấy rằng sự biến đổi quy mô gia đình Việt Nam là một tất
yếu không thể tránh khỏi do tác động của toàn cầu hóa. Gia đình, dù được nhìn nhận với
tư cách là một thiết chế xã hội cơ bản hay với tư cách là một nhóm xã hội, đều chứa
đựng nhiều yếu tố tạo nên sự thay đổi. Sự thay đổi đó điều chỉnh chính bản thân gia đình
cho phù hợp với xã hội và đồng thời cũng điều chỉnh xã hội cho phù hợp với điều kiện
cụ thể bên ngoài. Hệ quả tạo ra là một mô hình gia đình mới có khả năng thích ứng tốt
hơn với sự biến đổi của xã hội để thay thế gia đình truyền thống cũ. Đó là xu hướng tiến
bộ chung dù cho cũng còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Điều quan trọng nhất là phải gìn
giữ được những giá trị tốt đẹp, quý báu của gia đình truyền thống và phát huy những
mặt tích cực của gia đình hiện đại, tạo ra một khuôn mẫu gia đình Việt Nam tiến bộ, phát triển.
2.2 Sự biến đổi về thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình
2.2.1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Trong lịch sử xã hội Việt Nam, gia đình truyền thống giữ vai trò trung tâm trong
việc duy trì nòi giống, phát triển dân số và bảo tồn dòng họ. Chức năng tái sản xuất ra
con người gắn liền với quan niệm “trời sinh voi trời sinh cỏ” hay “nhiều con nhiều
phúc
”, phản ánh mong muốn có đông con để tăng thêm nhân lực lao động trong nông
nghiệp, đồng thời tạo sự đảm bảo cho cha mẹ khi tuổi già. Trong xã hội nông nghiệp,
gia đình đông con không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn mang giá trị tinh thần, thể
hiện sự sung túc, danh giá của dòng họ. Ngoài ra, do ảnh hưởng của chế độ phụ hệ, tư
tưởng “trọng nam khinh nữ” rất nặng nề, khiến việc sinh con trai trở thành thước đo
quan trọng để khẳng định vị thế của người phụ nữ trong gia đình.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học – công nghệ, chính sách xã hội
và quá trình hiện đại hóa, chức năng tái sản xuất của gia đình đã có sự biến đổi sâu sắc.
Ngày nay, việc sinh con không còn phụ thuộc hoàn toàn vào tập tục hay áp lực xã hội,
mà được đặt trong sự chủ động, có kế hoạch và mang tính khoa học hơn. Chính sách
dân số - kế hoạch hóa gia đình của Nhà nước từ cuối thế kỷ XX đã tác động mạnh mẽ
đến tư duy sinh sản, khuyến khích các cặp vợ chồng chỉ nên sinh từ 1–2 con. Thay vì 11 lOMoAR cPSD| 45740153
chạy theo số lượng, gia đình hiện đại chú trọng đến chất lượng dân số, nghĩa là đảm bảo
điều kiện nuôi dạy, giáo dục con cái phát triển toàn diện.
Ngoài ra, quan niệm về bình đẳng giới cũng làm thay đổi sâu sắc vai trò của chức
năng này. Trong nhiều gia đình hiện đại, việc có con trai hay con gái không còn quyết
định đến sự bền vững của hôn nhân. Mối quan hệ vợ chồng ngày càng dựa trên cơ sở
tình yêu, sự chia sẻ và trách nhiệm, chứ không chỉ gắn với áp lực duy trì nòi giống. Tỷ
lệ sinh giảm, tuổi kết hôn ngày càng muộn, cùng với xu hướng không muốn sinh con
hoặc sinh ít con ở các đô thị lớn là những biểu hiện rõ rệt của sự biến đổi này. Điều đó
cũng phản ánh sự thay đổi trong lối sống, tư duy và định hướng phát triển của thế hệ trẻ,
gắn chặt với bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế.
Có thể thấy, chức năng tái sản xuất của gia đình đã chuyển từ chỗ thiên về số
lượng, mang nặng yếu tố tập tục và kinh tế nông nghiệp sang tính chủ động, có kế hoạch,
đề cao chất lượng, bình đẳng giới và trách nhiệm xã hội.
2.2.2. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Nếu như trong gia đình truyền thống Việt Nam, chức năng kinh tế gắn liền với
mô hình sản xuất tự cung, tự cấp, thì ngày nay nó đã có những biến đổi căn bản. Gia
đình xưa thường là một đơn vị khép kín, nơi lao động sản xuất – chăn nuôi, trồng trọt –
chủ yếu nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu như ăn, mặc, ở. Sản phẩm làm ra hầu hết được
tiêu dùng trong nội bộ gia đình, rất ít trao đổi buôn bán. Trong điều kiện ấy, gia đình vừa
là đơn vị sản xuất, vừa là đơn vị tiêu dùng, và các quan hệ kinh tế mang tính tự nhiên
nhiều hơn là gắn với thị trường.
Khi xã hội chuyển sang nền kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường, chức năng này
của gia đình cũng thay đổi theo hướng mở rộng và chuyên biệt hơn. Gia đình hiện đại
không còn tự sản xuất để đáp ứng toàn bộ nhu cầu, mà trở thành đơn vị tiêu dùng xã hội,
tham gia trực tiếp vào thị trường hàng hóa và dịch vụ. Các gia đình mua sắm thực phẩm,
hàng hóa tiêu dùng, dịch vụ giáo dục, y tế, giải trí từ bên ngoài, đồng thời cũng tham gia
vào quá trình sản xuất thông qua lao động làm thuê, kinh doanh, dịch vụ. Điều này khiến
kinh tế gia đình gắn chặt với sự vận hành của nền kinh tế quốc dân, phản ánh mối quan
hệ giữa đời sống gia đình và sự phát triển chung của xã hội.
Sự biến đổi này còn thể hiện ở chỗ: các quyết định chi tiêu, đầu tư và phân bổ
ngân sách gia đình ngày càng đa dạng và phức tạp. Nếu trước đây, tiêu dùng chỉ gói gọn
trong nhu cầu cơ bản (ăn, mặc, ở), thì nay, tiêu dùng còn hướng đến giá trị tinh thần và
xã hội, như học tập, du lịch, chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng sống. Gia đình trở
thành môi trường quan trọng để hình thành nhu cầu tiêu dùng mới, góp phần thúc đẩy
sản xuất hàng hóa – dịch vụ và phát triển kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, chức năng kinh tế của gia
đình cũng đối diện nhiều thách thức. Nhiều hộ gia đình vẫn duy trì mô hình sản xuất nhỏ
lẻ, khó cạnh tranh trong nền kinh tế mở. Sự phân hóa giàu – nghèo ngày càng rõ rệt, đặc
biệt là giữa thành thị và nông thôn, làm gia tăng khoảng cách xã hội. Ngoài ra, áp lực 12 lOMoAR cPSD| 45740153
tiêu dùng, chạy theo vật chất, lối sống hưởng thụ cũng có thể khiến một số gia đình mất
cân bằng, dẫn đến khủng hoảng tài chính hoặc rạn nứt quan hệ.
Như vậy, chức năng kinh tế của gia đình đã chuyển từ hình thức sản xuất tự cấp,
tự túc sang đơn vị tiêu dùng và tham gia vào thị trường hàng hóa – dịch vụ. Biến đổi này
vừa mở rộng cơ hội nâng cao đời sống, vừa đặt ra nhiều thách thức về quản lý chi tiêu,
phân hóa xã hội và sự bền vững của kinh tế gia đình trong bối cảnh hiện đại.
2.2.3. Chức năng giáo dục (xã hội hóa)
Gia đình Việt Nam hiện đại đã có nhiều biến đổi đáng kể so với gia đình truyền
thống trong việc thực hiện chức năng giáo dục, hay còn gọi là xã hội hóa. Trước đây, gia
đình truyền thống chủ yếu giáo dục con cái bằng phương pháp nghiêm khắc, thậm chí
bạo lực như đánh đòn hay la mắng, nhằm rèn luyện tính kỷ luật và đạo đức truyền thống.
Tuy nhiên, ngày nay, nhiều gia đình Việt Nam đã chuyển sang cách tiếp cận nhẹ nhàng
hơn, sử dụng lời khuyên, thuyết phục và khen thưởng để khích lệ con trẻ. Ví dụ, nhiều
phụ huynh tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh thường áp dụng phương pháp
khích lệ qua các hoạt động ngoại khóa, giúp con phát triển toàn diện cả về trí tuệ lẫn kỹ năng xã hội.
Về nội dung giáo dục, gia đình truyền thống tập trung nhấn mạnh các giá trị văn
hóa như lòng hiếu thảo, trung thực và sự kính trọng người lớn tuổi. Trong khi đó, gia
đình hiện đại vẫn giữ những giá trị này nhưng đồng thời bổ sung thêm các kỹ năng cần
thiết cho cuộc sống hiện đại như kỹ năng giao tiếp, tư duy phản biện và khả năng thích
nghi với sự thay đổi xã hội. Ở các khu vực thành thị, cha mẹ thường tập trung giáo dục
con cái biết sử dụng công nghệ, hòa nhập quốc tế và phát triển nghề nghiệp ổn định hơn.
Ví dụ, hiện nay, nhiều gia đình đã đầu tư cho con học thêm ngoại ngữ và kỹ năng mềm từ nhỏ.
Mối quan hệ trong gia đình cũng có sự thay đổi rõ nét. Gia đình truyền thống duy
trì mô hình cha mẹ có uy quyền tuyệt đối, con cái phải phục tùng mà ít có sự trao đổi,
chia sẻ. Ngày nay, mối quan hệ trong gia đình trở nên dân chủ và gần gũi hơn, cha mẹ
lắng nghe ý kiến con cái và tôn trọng cá tính riêng của từng thành viên. Điều này thể
hiện rõ tại các gia đình thành phố, nơi mà sự phối hợp giữa cha mẹ và con cái trong việc
ra quyết định được đề cao nhằm phát triển sự tự lập và trách nhiệm của thế hệ trẻ.
Gia đình hiện đại cũng không còn giữ toàn bộ trách nhiệm giáo dục mà bắt đầu
phối hợp chặt chẽ với nhà trường và xã hội trong việc hình thành nhân cách, đạo đức và
kỹ năng cho con cái. Ở nhiều trường học tại Việt Nam, phụ huynh được mời tham gia
các buổi họp mặt, hội thảo về giáo dục kỹ năng sống, thể hiện sự liên kết chặt chẽ giữa
gia đình và môi trường giáo dục chính thức. Sự phối hợp này giúp con trẻ được học tập
và phát triển toàn diện, hòa nhập tốt hơn vào xã hội hiện đại.
Đặc biệt, với sự tác động của toàn cầu hóa và phát triển công nghệ, gia đình Việt
Nam hiện đại ngày càng ý thức rõ vai trò của mình trong việc đối phó với các tệ nạn xã
hội, mạng xã hội và môi trường truyền thông đa chiều. Cha mẹ hiện nay quan tâm nhiều
hơn đến việc định hướng con cái tránh xa các thói quen xấu như nghiện game, lạm dụng 13 lOMoAR cPSD| 45740153
mạng xã hội và duy trì lối sống lành mạnh. Ở các thành phố lớn, nhiều nhóm phụ huynh
tham gia các câu lạc bộ giáo dục con cái nhằm chia sẻ kinh nghiệm và cùng nhau đưa ra
phương pháp giáo dục phù hợp với xu hướng xã hội mới.
Gia đình Việt Nam hiện đại trong chức năng giáo dục không chỉ giữ gìn và phát
huy các giá trị truyền thống như lòng hiếu thảo, trung thực và sự kính trọng người lớn
tuổi mà còn mở rộng nội dung giáo dục để phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát
triển của công nghệ. Bên cạnh việc giáo dục kỹ năng sống, tư duy phản biện và khả năng
hòa nhập xã hội, nhiều gia đình còn chú trọng giáo dục con cái về ý thức bảo vệ môi
trường, tôn trọng sự đa dạng văn hóa và bình đẳng giới. Gia đình hiện đại cũng chú trọng
vai trò hỗ trợ tinh thần và tâm lý cho con trẻ, giúp các em đối mặt với áp lực học tập và cuộc sống.
Đặc biệt, sự xuất hiện và phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) đã được nhiều gia
đình tận dụng trong quá trình giáo dục, bằng cách sử dụng các công cụ học tập trực tuyến
thông minh, ứng dụng AI hỗ trợ việc học ngoại ngữ, phát triển kỹ năng mềm và quản lý
thời gian học tập hiệu quả hơn. Qua đó, gia đình không chỉ giúp con cái tránh xa những
mặt tiêu cực của công nghệ như nghiện game hay lạm dụng mạng xã hội mà còn khai
thác các thế mạnh của công nghệ để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của trẻ.
Đồng thời, sự tham gia của các thành viên khác trong gia đình như ông bà, anh
chị em cũng tạo nên môi trường giáo dục đa chiều, linh hoạt theo đặc điểm và hoàn cảnh
của từng gia đình. Như vậy, chức năng giáo dục của gia đình Việt Nam hiện đại đã có
sự biến đổi toàn diện, vừa giữ lại những giá trị truyền thống tốt đẹp, vừa mở rộng nội
dung và phương pháp giáo dục, hướng thế hệ trẻ phát triển toàn diện và thích nghi với
yêu cầu của thời đại mới.
Tóm lại, chức năng giáo dục của gia đình Việt Nam hiện đại đã có sự biến đổi
toàn diện và thích nghi linh hoạt với bối cảnh xã hội mới, giữ lại những giá trị truyền
thống tốt đẹp đồng thời mở rộng nội dung và phương pháp giáo dục để hướng thế hệ trẻ
phát triển toàn diện, phù hợp với yêu cầu của thời đại.
2.2.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý và duy trì tình cảm trong gia đình Việt
Nam hiện đại đã có nhiều biến đổi so với gia đình truyền thống, đáp ứng những yêu cầu
mới của xã hội hiện đại nhưng vẫn giữ được những giá trị tốt đẹp từ truyền thống.
Trước kia, trong gia đình truyền thống, chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý
chủ yếu được biểu hiện qua quan hệ chồng vợ gắn bó bền chặt, duy trì nòi giống và tuân
thủ các giá trị truyền thống. Quan hệ trong gia đình thường mang tính trật tự, có sự phân
chia vai trò rõ ràng, cha mẹ có quyền uy cao độ với các con, sự chăm sóc và thỏa mãn
nhu cầu tình cảm chủ yếu dựa trên các khuôn mẫu và đạo lý truyền thống. Gia đình là
tổ ấm, chỗ dựa vững chắc về mặt tình cảm và tinh thần đối với mỗi thành viên.
Trong khi đó, gia đình Việt Nam hiện đại chuyển dịch theo hướng bình đẳng, dân
chủ và chia sẻ tình cảm nhiều hơn giữa các thành viên. Quan hệ giữa vợ chồng không 14 lOMoAR cPSD| 45740153
còn theo mô hình truyền thống mà là sự đồng hành, chia sẻ trách nhiệm chăm sóc và
nuôi dưỡng con cái. Gia đình trở thành nơi nuôi dưỡng tình yêu thương, sự chia sẻ và
cảm thông, giúp các thành viên cân bằng tâm lý và phát triển nhân cách. Gia đình hiện
đại không chỉ đề cao sự bình đẳng và dân chủ trong quan hệ vợ chồng mà còn chú trọng
xây dựng môi trường giao tiếp cởi mở, lành mạnh giữa tất cả các thành viên, từ ông bà,
cha mẹ đến con cái. Việc giao tiếp thường xuyên, chân thành giúp tăng cường sự thấu
hiểu, đồng cảm và giảm bớt xung đột nội bộ. Ví dụ thực tế, nhiều gia đình ở các thành
phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh thường dành thời gian quây quần bên bữa cơm
tối hoặc sinh hoạt chung cuối tuần để gắn kết tình cảm, tạo không gian yêu thương trong
cuộc sống bận rộn hiện nay.
Gia đình cũng là nơi duy trì các phong tục, truyền thống văn hóa, đóng vai trò
quan trọng trong việc kết nối các thế hệ, giữ gìn giá trị tinh thần và phát triển nhân cách
cho thế hệ con cháu. Sự gắn bó tình cảm giữa các thế hệ trong gia đình góp phần làm
bền chặt cộng đồng và xã hội. Các bậc cha mẹ còn dành thời gian tìm hiểu tâm lý con
cái, biết lắng nghe và chia sẻ, giúp con giải tỏa stress và phát triển nhân cách toàn diện.
Vai trò của người cha cũng được thay đổi khi không chỉ là người trụ cột gia đình mà còn
là người bạn thân thiết, đồng hành trong giáo dục và chăm sóc con cái. Điều này đã góp
phần rất lớn vào sự phát triển cân bằng về tinh thần và tình cảm trong gia đình hiện đại.
Bên cạnh đó, gia đình cũng là nơi bảo vệ và chăm sóc các thành viên như người
già, trẻ em, tạo sự bền vững về mặt tinh thần cho tập thể gia đình. Sự quan tâm này
không chỉ duy trì tình cảm mà còn góp phần làm cho gia đình trở thành điểm tựa vững
chắc hỗ trợ mỗi thành viên vượt qua khó khăn trong cuộc sống hiện đại.
Tuy nhiên, cùng với những biến đổi của xã hội hiện đại như công nghiệp hóa, đô
thị hóa, áp lực kinh tế và sự phát triển công nghệ, gia đình Việt Nam cũng phải đối mặt
với nhiều thách thức trong việc duy trì chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý và tình
cảm. Nhiều gia đình hiện đại có nguy cơ rạn nứt tình cảm do khoảng cách về thời gian
và không gian, thiếu sự chia sẻ và đồng cảm. Chính vì vậy, việc xây dựng và củng cố
mối quan hệ tình cảm trong gia đình được xem là yếu tố then chốt giữ cho gia đình luôn
là "tổ ấm" vững chắc của mỗi người.
Tóm lại, chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý và duy trì tình cảm của gia đình
Việt Nam hiện đại không chỉ là đáp ứng nhu cầu tình cảm cá nhân mà còn là trách nhiệm,
đạo lý và sự gắn kết tinh thần giữa các thành viên. Gia đình là nơi nuôi dưỡng, bảo vệ
sự cân bằng tâm lý, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát triển toàn diện và góp phần xây
dựng xã hội ổn định, phát triển bền vững.
2.3 Sự biến đổi về các mối quan hệ trong gia đình
Gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại có nhiều biến đổi. Sự biến đổi đó
là do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn bên trong. Có thể thấy rõ nhất
là sự thay đổi về cơ cấu gia đình như quy mô gia đình và các quan hệ xã hội trong và ngoài gia đình. 15 lOMoAR cPSD| 45740153
2.3.1. Sự biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng
Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ côt c ̣ ủa gia đình, mọi quyền lực
trong gia đình đều thuôc ṿ ề người đàn ông. Người chồng là người chủ sở hữu tài sản
của gia đình, người quyết định các công viêc quan trọng c ̣ ủa gia đình, kể cả quyền dạy vợ, đánh con.
Trong gia đình Việt Nam hiện đại, sự bình đẳng giữa vợ chồng được thể hiện rõ,
ngoài mô hình người đàn ông - người chồng làm chủ gia đình ra thì còn có ít nhất hai
mô hình khác cùng tồn tại. Đó là mô hình người phụ nữ - người vợ làm chủ gia đình và
mô hình cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia đình. Người chủ gia đình được quan niệm là
người có phẩm chất, năng lực và đóng góp vượt trội, được các thành viên trong gia đình
coi trọng. Ngoài ra, mô hình người chủ gia đình phải là người làm ra được tài chính, tức
là kiếm được nhiều tiền cho thấy một đòi hỏi mới về phẩm chất của người lãnh đạo gia
đình trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế.
Hiện nay, đa số trong một gia đình vợ chồng sẽ cùng nhau đi làm, chia sẻ về gánh
nặng tài chính, có trách nhiệm nuôi dạy con và giúp đỡ nhau việc nhà, khác xa mô hình truyền thống.
Tuy nhiên, dưới tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ hiện đại,
toàn cầu hóa… các gia đình Việt Nam đang phải gánh chịu nhiều mặt trái như: quan hệ
vợ chồng - gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình, quan hệ tình dục
trước hôn nhân và ngoài hôn nhân, chung sống không kết hôn. Đồng thời, xuất hiện
nhiều bi kịch, thảm án gia đình, người già neo đơn, trẻ em sống ích kỷ, bị bạo hành trong
gia đình, xâm hại tình dục... Hệ lụy là giá trị truyền thống trong gia đình bị coi nhẹ, gia
đình truyền thống bị phá vỡ, lung lay.
2.3.2. Sự biến đổi giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình.
Trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái hiện nay, có một xu hướng đảo ngược
so với truyền thống. Nếu như trong gia đình truyền thống, mối quan hệ giữa cha mẹ và
con cái được nhấn mạnh theo nguyên tắc: quyền của cha mẹ và bổn phận của trẻ em
cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, con cái phải nghe theo lời cha mẹ và hiếm khi có lựa
chọn riêng. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, nguyên tắc đó được
nhấn mạnh theo chiều hướng ngược lại, đó là: quyền của trẻ em và bổn phận của cha
mẹ. Hiện nay, cha mẹ không còn áp đặt quá mức mà bắt đầu lắng nghe, tôn trọng, thấu
hiểu suy nghĩ, sở thích và nguyện vọng của con cái. Nếu như trước đây, nhiều phụ huynh
bắt ép con mình học những ngành ổn định như sư phạm, kế toán, công an,... thì bây giờ,
nhiều phụ huynh sẵn sàng tôn trọng con, để con tự theo đuổi lý tưởng của mình. Hiện
tượng này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, đặc biệt do ảnh hưởng của văn hóa phương
Tây và sự tác động của chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước nên quyền trẻ em
được coi trọng mà trong gia đình thì cha mẹ phải là người đầu tiên gương mẫu thực hiện
quyền đó. Việc công nhận quyền trẻ em đã làm thay đổi căn bản những giá trị, chuẩn
mực văn hóa trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. 16 lOMoAR cPSD| 45740153
Như vậy, có thể thấy không phải cha mẹ hiện nay muốn từ bỏ quyền kiểm soát
trẻ em mà chính là do thời đại mới đã không chấp nhận để cha mẹ kiểm soát trẻ em theo
các chuẩn mực truyền thống. Đó là sự khủng hoảng của thiết chế gia đình trong việc
kiểm soát trẻ em hiện nay. Trước hết, về phía trẻ em, môi trường sinh hoạt, học tập của
trẻ em được mở rộng nên tất yếu dẫn đến sự giảm sút vai trò của cha mẹ trong việc kiểm
soát con cái, đặc biệt ở thành thị, phạm vi hoạt động của trẻ em rất rộng lớn, quan hệ xã
hội được mở rộng, thậm chí, trẻ em sinh hoạt bên ngoài gia đình nhiều hơn trong môi
trường gia đình. Bên cạnh đó, về phía cha mẹ, họ chủ yếu làm việc ở bên ngoài gia
đình,thời gian để chăm sóc, giáo dục con cái rất ít. Sự chuyển đổi của cơ cấu kinh tế, sự
đa dạng hóa ngành đã chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang các ngành nghề
phi nông nghiệp, cha mẹ thường xuyên đi làm ăn xa nhà hoặc làm việc ở các cơ sở sản
xuất bên ngoài gia đình nên họ cũng không có nhiều thời gian để quan tâm, chăm sóc, giáo dục con cái.
Việc cha mẹ không có thời gian hoặc có quá ít thời gian quan tâm, chăm sóc, giáo
dục con cái cho thấy đã xuất hiện một khoảng trống trong việc kiểm soát, giáo dục con
cái. Việc đánh mất vai trò kiểm soát của cha mẹ đối với con cái đã dẫn đến nhiều hậu
quả cho gia đình và xã hội như hiện tượng trẻ em lang thang, phạm tội hay rơi vào các
tệ nạn xã hội, bạo lực học đường, tội phạm vị thành niên ngày càng gia tăng, đồng thời,
cũng phản ánh những bất ổn và những thay đổi trong tâm lý và nhân cách của trẻ em
hiện nay. Về bản chất, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình Việt Nam hiện
nay là một sự đảo ngược trật tự và vị trí so với gia đình truyền thống. Sự biến đổi này
bắt nguồn từ sự biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội và bắt nguồn từ sự thay đổi của
quy mô, cấu trúc, chức năng của gia đình hiện nay. Không ít cha mẹ hiện nay rơi vào
tình trạng bất lực trước việc con cái không nghe lời, vô trách nhiệm đối với cha mẹ, ông
bà, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với các công việc nhà.Vấn đề đặt ra trong mối quan
hệ giữa cha mẹ và con cái là cần phải củng cố chức năng giáo dục của gia đình, xây
dựng mối quan hệ mới giữa cha mẹ và con cái trên cơ sở tiếp thu những giá trị, chuẩn
mực văn hóa mới, đồng thời kế thừa những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống, cần
tạo cho trẻ em môi trường, điều kiện để phát triển nhân cách, năng lực nhưng cũng phải
quan tâm đến giáo dục gia đình, giúp trẻ em nhận thức được những giá trị, chuẩn mực
truyền thống, đặc biệt phải sống có trách nhiệm đối với gia đình, cộng đồng và xã hội.
Ngoài ra, trong gia đình hiên đại, việ c giáo ḍ ục trẻ em gần như phó mặc cho nhà
trường, mà thiếu đi sự dạy bảo thường xuyên của ông bà, cha mẹ. Ngược lại, người cao
tuổi trong gia đình truyền thống thường sống cùng với con cháu, cho nên nhu cầu về
tâm lý, tình cảm được đáp ứng đầy đủ. Còn khi quy mô gia đình bị biến đổi, người cao
tuổi phải đối mặt với sự cô đơn thiếu thốn về tình cảm.
Trong đời sống gia đình hiện nay, quan hệ giữa các thế hệ cũng có nhiều thay đổi
so với trước kia. Nếu như trong xã hội truyền thống, ông bà, cha mẹ và con cháu thường
sống chung dưới một mái nhà, gắn bó khăng khít và con cháu trực tiếp chăm sóc, phụng
dưỡng cha mẹ già, thì ngày nay do tác động của đô thị hóa, công việc và lối sống hiện
đại, các thế hệ có xu hướng sống tách biệt nhiều hơn. Nhiều cặp vợ chồng trẻ lựa chọn 17 lOMoAR cPSD| 45740153
ra ở riêng trong căn hộ chung cư để thuận tiện cho công việc, trong khi ông bà vẫn ở
quê hoặc thậm chí sống trong các viện dưỡng lão. Ví dụ, ở các thành phố lớn như Hà
Nội hay TP. Hồ Chí Minh, không ít gia đình trẻ chỉ có điều kiện thăm ông bà vào cuối
tuần hoặc dịp lễ Tết, còn việc chăm sóc thường được hỗ trợ bằng tiền bạc hay thuê dịch
vụ y tế. Sự thay đổi này giúp các thế hệ có đời sống độc lập, tự do hơn, nhưng đồng thời
cũng làm giảm sự gắn kết thường xuyên, đòi hỏi mỗi thành viên trong gia đình phải quan
tâm, chia sẻ và duy trì tình cảm bằng nhiều cách khác nhau.
Trong xã hội truyền thống, quan hệ họ hàng vốn rất gắn bó, thường xuyên qua lại
thăm nom, cùng nhau tham gia vào các dịp cưới hỏi, giỗ chạp, lễ Tết. Tuy nhiên, cùng
với sự thay đổi của đời sống hiện đại, mối quan hệ này đã có nhiều biến đổi theo hướng
lỏng lẻo hơn. Nguyên nhân chủ yếu là do nhịp sống công nghiệp bận rộn, sự phân tán
địa lý khi nhiều người đi làm ăn xa, xuất khẩu lao động hoặc định cư ở nước ngoài. Thay
vì gặp gỡ trực tiếp thường xuyên, nay nhiều gia đình chỉ duy trì liên lạc qua điện thoại
hay mạng xã hội. Ví dụ, trước kia ở nông thôn, giỗ họ là dịp con cháu sum vầy, ăn uống,
cùng nhau bàn chuyện họ tộc; còn hiện nay, nhiều gia đình trẻ ở thành phố vì bận công
việc nên ít khi về, khiến các buổi họp họ không còn đông đủ như trước. Sự biến đổi này
phản ánh xu hướng cá nhân hóa trong đời sống hiện đại, nhưng đồng thời cũng đặt ra
yêu cầu mỗi người cần ý thức hơn trong việc giữ gìn tình thân để mối quan hệ họ hàng
không bị phai nhạt theo thời gian.
Những biến đổi trong quan hê gia đ ̣ ình cho thấy, thách thức lớn nhất đặt ra cho
gia đình Viêt Nam ḷ à mâu thuẫn giữa các thế hê, do ṣ ự khác biêt ṿ ề tuổi tác, khi cùng
chung sống với nhau. Người già thường hướng về các giá trị truyền thống, có xu hướng
bảo thủ, áp đặt nhân tḥ ức của mình đối với người trẻ. Ngược lại, tuổi trẻ thường hướng
tới những giá trị hiên đại, c ̣ ó xu hướng phủ nhân yếu ṭ ố truyền thống. Gia đình càng
nhiều thế hê, mâu thụ ẫn thế hê c ̣ àng lớn.
Xây dựng và phát triển gia đình Viêt Nam hiệ n nay vừa phải kế thừa và pháṭ huy
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình Viêt Nam, vừa kết hợp ṿ ới
những giá trị tiên tiến của gia đình hiên đại đ ̣ ể phù hợp với sự vân độ ng phát trị ển tất
yếu của xã hôi. Tất cả nḥ ằm hướng tới thực hiên ṃ ục tiêu làm cho gia đình thực sự là
tế bào lành mạnh của xã hôi, là ṭ ổ ấm của mỗi người.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC NHỮNG BIẾN ĐỔI TIÊU
CỰC CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Giải pháp từ phía nhà nước và xã hội
Thực trạng hiện nay, xã hội đang ngày càng phát triển văn minh, đời sống con
người ngày càng tốt hơn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần củng cố cho đời sống gia đình
ngày càng trọn vẹn. Song, những mặt trái, những góc khuất vẫn còn tồn tại. Vì thế, 18 lOMoAR cPSD| 45740153
những quyết định, chính sách của nhà nước và những tác động của xã hội là vô cùng cần
thiết để giảm thiểu tối đa tiêu cực ở đời sống gia đình của mỗi người.
3.1.1. Nhà nước
a, Các chính sách Về kế hoạch hóa gia đình
Mặt thực tế hiện nay, Việt Nam đang bùng nổ dân số (theo thống kê dân số Việt
Nam năm 2024 đã vượt ngưỡng 100 triệu người) và quá trình hạt nhân hóa gia đình (gia
đình đa thế hệ) đã đặt ra những thách thức như là áp lực kinh tế, chất lượng nuôi dạy
con cái,... những gia đình hạt nhân thì dễ nảy sinh ra mâu thuẫn, tranh cãi giữa các thế hệ.
Hiện nay, Nhà nước đã đặt ra Chính sách dân số Kế hoạch hóa gia đình (2020).
Điều này giúp làm giảm gánh nặng tài chính, đảm bảo về vấn đề y khoa, phát triển bền
vững và ổn định xã hội. Những mục tiêu hướng tới năm 2030 tại Nghị quyết số 21
NQ/TW tiêu biểu có thể kể đến như: giảm tỉ lệ mang thai ở trẻ tuổi vị thành niên, cân
bằng giới tính, kiểm soát dân số ở mức ổn định,...
Bên cạnh việc kiểm soát dân số, Kế hoạch hóa gia đình còn giúp nâng cao chất
lượng đời sống, giúp các gia đình chủ động trong việc nuôi dạy và sinh con, đảm bảo
nhà nước có thể đầu tư vào các mặt khác của đời sống.
Kế hoạch hóa gia đình là vô cùng quan trọng trong việc phát triển các mặt tích
cực trong việc nâng cao đời sống con người, kinh tế- xã hội. Nó đóng vai trò quan trọng
làm giảm bớt những tiêu cực về dân số. Tuy nhiên, kế hoạch hóa gia đình luôn cần phải
có sự đổi mới, tăng cường để phù hợp với thời đại, bối cảnh xã hội hiện nay. Hỗ trợ gia đình
Trong quá trình xã hội phát triển, về mặt vật chất và giá trị của đồng tiền ngày
càng là yếu tố thiết yếu trong việc đảm bảo đời sống. Vấn đề này càng quan trọng đối
với việc giữ gìn hạnh phúc gia đình, để từ đó làm nền tảng thúc đẩy cho tăng trưởng
kinh tế, ổn định bền vững. “Mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều là tế bào của xã hội thì tài
chính cá nhân, gia đình chính là huyết mạch để nuôi dưỡng tế bào này
” - trích “Báo đầu
tư- Vai trò của tài chính cá nhân gia đình trong kỉ nguyên mới”
Như vậy, ta thấy rõ vai trò của tài chính trong đời sống gia đình là vô cùng quan
trọng, đó cũng là trong những yếu tố lớn nhất dẫn đến việc cãi vã trong hôn nhân. Theo
như báo Tuổi trẻ “Vì sao ly hôn lại tập trung ở các thành phố lớn” lý do về tài chính
đứng thứ 3 chiếm 13% trong tổng số sau mâu thuẫn về lối sống và ngoại tình.
Thấy rõ được thực trạng này, Đảng và nhà nước cũng đề ra những chính sách
giúp hỗ trợ cho gia đình. Ví dụ như: Nhà ở xã hội; chính sách về thuế thu nhập; hỗ trợ
học phí cho học sinh; bảo hiểm khi mang thai; những phúc lợi xã hội dành cho gia đình…
Việc có những chính sách đó đã san sẻ phần nào gánh nặng cho người dân, tạo
điều kiện cho mọi dành thời gian cho gia đình, giảm bớt những căng thẳng, xung đột, lo 19