-
Thông tin
-
Quiz
Bốn yếu tố cấu thành tội phạm | Bài tập pháp luật đại cương
Luật Hình sự là hệ thống những quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm, quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Pháp luật đại cương (HV) 26 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.7 K tài liệu
Bốn yếu tố cấu thành tội phạm | Bài tập pháp luật đại cương
Luật Hình sự là hệ thống những quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm, quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (HV) 26 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.7 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VIỆN BÁO CHÍ – TRUYỀN THÔNG
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Đề tài: BỐN YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM
Giảng viên: Huỳnh Thị Chuyên NHÓM 2 Trần Thị Thu Hằng Nguyễn Thị Thanh Huệ Hà Hồng Hạnh Ngô Gia Huy Nguyễn Thu Hiền Nguyễn Trung Kiên Nguyễn Thị Quỳnh Hoa Hoàng Mai Linh Phạm Mỹ Hoa Nguyễn Ánh Linh Trần Khánh Hòa Nguyễn Diệu Linh Phạm Thị Hồng Hà Nội – 2024 MỤC LỤC
I. Một số khái niệm...............................................................................................2
II. 4 yếu tố cấu thành tội phạm.............................................................................5
1. Khách thể của tội phạm.................................................................................5
2. Mặt khách quan của tội phạm........................................................................8
3. Chủ thể của tội phạm...................................................................................16
4. Mặt chủ quan của tội phạm..........................................................................19
5. Phân tích vai trò và tầm quan trọng của việc xác định các yếu tố cấu thành
tội phạm...........................................................................................................28
III. Phân tích ví dụ cụ thể...................................................................................31
1.Ví dụ về một tội phạm cụ thể.......................................................................31
2.Ví dụ khi thiếu một/ vài yếu tố dẫn tới không thể kết án.............................35
IV. Kết luận........................................................................................................39
1. Khẳng định tầm quan trọng của việc nắm vững các yếu tố cấu thành tội
phạm................................................................................................................39
2. Nêu ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng pháp
luật hình sự......................................................................................................39
V. TÀI LIỆU.......................................................................................................40
I. Một số khái niệm 1. Luật hình sự
Luật Hình sự là hệ thống những quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội
được coi là tội phạm, quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy.
Luật Hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quy định tội
phạm, xác định hình phạt với các tội phạm nhằm đấu tranh chống tội phạm, loại
trừ mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Luật Hình sự bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã
hội nào là tội phạm, đồng thời quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy. 2. Tội phạm
Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự 2015, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế
độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật Hình sự phải bị xử lý hình sự. Phân loại tội phạm
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
được quy định trong Bộ luật Hình sự, tội phạm được phân thành 04 loại.
Cụ thể, Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 hướng dẫn phân loại tội phạm như sau:
- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật
Hình sự quy định đối với tô n
i ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoă n c phạt to đến 03 năm. Ví dụ:
● Tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS
- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự
quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm to đến 07 năm to.
Ví dụ: Tội cố ý lây truyền HIV cho người khác quy định tại khoản 1 Điều 149 BLHS
- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình
sự quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm to đến 15 năm to.
Ví dụ: A lợi dụng dịch Covid đi quảng cáo về loại vaccine chống Covid, mời
mọi người mua với giá 4.000.000 đồng/liều. A lừa được 20 người với tổng số
tiền thu về là 80.000.000 đồng. Sau khi đã thu được tiền thì A bỏ trốn.
Hành vi của A thuộc điểm c khoản 3 điều 174 bộ luật Hình sự 2015, sửa
đổi bổ sung 2017 với mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm to
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ
luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm to đến 20 năm to, to
chung thân hoặc tử hình. Ví dụ: ● Tô n
i giết người tại khoản 1 Điều 123 BLHS;
● Tội hiếp dâm quy định tại khoản 3 Điều 141 BLHS…
- Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy
định tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự và quy định tương ứng đối với
các tội phạm được quy định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự.
Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng (khách quan
và chủ quan) được quy định trong Luật Hình sự thể hiện một hành vi nguy hiểm
cho xã hội cụ thể là tội phạm, tức là căn cứ vào các dấu hiệu đó một hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm.
Pháp luật hình sự quy định có rất nhiều loại tội phạm khác nhau dựa trên cơ
sở phân chia về quan hệ xã hội, yếu tố về lỗi… Nhìn chung các tội phạm đều
được hợp thành bởi các yếu tố nhất định. Điều này có ý nghĩa trong việc xác
định một người đã thực hiện hành vi được cho là tội phạm hay chưa, hay việc
thực hiện hành vi đó phạm tội ở mức độ nào.
Theo đó, có 4 yếu tố cấu thành tội phạm. Đó là: chủ thể của tội phạm, mặt
khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm, và khách thể của tội
phạm. Bất kì một tội phạm nào, không phụ thuộc vào loại tội phạm, mức độ
nghiêm trọng đều phải xem xét dưới 4 yếu tố cấu thành tội phạm kể trên.
II. 4 yếu tố cấu thành tội phạm
1. Khách thể của tội phạm Khái niệm:
Trong xã hội có giai cấp, nhà nước thường xác lập, bảo vệ, củng cố và thúc đẩy
sự phát triển của những quan hệ xã hội pho hợp với những lợi ích của giai cấp
thống trị bằng việc sử dụng nhiều biện pháp khác nhau trong đó có sự hỗ trợ của
các quy phạm pháp luật hình sự. Những quan hệ xã hội đó sẽ là khách thể của
tội phạm trong trường hợp chúng bị gây thiệt hại hoặc bị đe dọa thiệt hại ở mức
độ nhất định. Vậy có thể định nghĩa: “ Khách thể của tội phạm là quan hệ xã
hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.”
Theo Luật Hình sự Việt Nam, những khách thể được Luật Hình sự bảo vệ là
những quan hệ xã hội đã được xác định trong Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Các loại khách thể tội phạm
Khoa học Luật Hình sự Việt Nam phân thành 03 loại khách thể của tội phạm, đó
là: Khách thể chung của tội phạm; khách thể loại của tội phạm; khách thể trực
tiếp của tội phạm.
- Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp các quan hệ xã hội được Luật
Hình sự bảo vệ khỏi sự xâm phạm của tội phạm và được xác định trong
Điều 1 và Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 như: Độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị, kinh tế, các quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, của tổ chức…
“ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này
phải bị xử lý hình sự.”
trích tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017
Ví dụ: tội khủng bố, tội giết người(xâm phạm khách thể chung là tính
mạng của con người), Tội trộm cắp tài sản (xâm phạm khách thể chung là quan hệ sở hữu)....
- Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội cong tính chất được
nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của nhóm
tội phạm. Khách thể loại là cơ sở để hệ thống các quy phạm trong phần
các tội phạm của Bộ luật Hình sự thành từng chương. Ví dụ: trong Bộ
luật hình sự năm 2015 của Việt Nam, cơ quan xây dựng luật căn cứ chủ
yếu vào tính chất của những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
có thể bị tội phạm xâm hại để chia toàn bộ Phần các tội phạm thành 14 chương:
- Chương XIII - Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
- Chương XIV - Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người;
- Chương XV - Các tội xâm phạm những quyền tự do của con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân;
- Chương XVI - Các tội xâm phạm sở hữu;
- Chương XVII - Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình;
- Chương XVII - Các tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế;
- Chương XIX - Các tội phạm về môi trường;
- Chương XX - Các tội phạm về ma tuý;
- Chương XXI - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng;
- Chương XXII - Các tội xâm phạm trật tự quản lí hành chính;
- Chương XXIII - Các tội phạm về chức vụ;
- Chương XXIV - Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp;
- Chương XXV - Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; và
- Chương XXVI - Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.
- Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị loại tội phạm
cụ thể trực tiếp xâm hại. Bất cứ tội phạm nào cũng đều có khách thể trực
tiếp. Có tội phạm chỉ có một khách thể trực tiếp nhưng cũng có tội phạm
có nhiều khách thể trực tiếp nhưng cũng có tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp.
Ví dụ: Tội phạm cướp tài sản trực tiếp xâm hại hai khách thể là quan hệ
nhân thân và quan hệ sở hữu. Sự xâm hại quan hệ nhân thân hay sự xâm
hại quan hệ sở hữu đều chưa phản ánh được đầy đủ tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi cướp tài sản. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi cướp tài sản chỉ được thể hiện đầy đủ qua sự xâm hại của cả hai
quan hệ xã hội - quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Do vậy, quan hệ
sở hữu và quan hệ nhân thân đều là khách thể trực tiếp của tội cướp tài sản.
2. Mặt khách quan của tội phạm 2.1. Khái niệm
- Khách quan là một khái niệm không bị ảnh hưởng bởi cảm xúc, quan
điểm, lợi ích cá nhân hay bất kỳ yếu tố nào khác ngoài các dữ liệu và tôn
trọng sự thật. Khách quan cũng có nghĩa là không thiên vị, mà phải dựa
trên các chứng cứ và dữ liệu. Pháp luật hình sự nói riêng và pháp luật nói
chung điều chỉnh những hành vi cụ thể của con người và hành vi đó được
thể hiện ra ngoài thế giới khách quan. Pháp luật không điều chỉnh những
gì thuộc về ý nghĩ, tư tưởng của con người, bởi những ý nghĩ tư tưởng
không biểu hiện ra bên ngoài và chúng ta không thể nắm được.
- Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan, đó là:
Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội
như: Công cụ, phương tiện, thời gian phạm tội,....
2.2. Trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi khách quan là biểu hiện
cơ bản hơn các biểu hiện khác.
- Trong luật Hình sự, hành vi được hiểu là những “biểu hiện” của con
người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể
nhằm đạt những mục đích có chủ đích mong muốn.
- Theo Luật Hình sự Việt Nam, hành vi khách quan của tội phạm có ba đặc điểm:
Hành vi khách quan của tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội.
Tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội thể hiện ở bất kỳ một hành vi
phạm tội nào cũng đều gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Ở các tội phạm cụ thể,
tính nguy hiểm đáng kể thể hiện một cách định lượng (qua dấu
hiệu định tội có hậu quả) hoặc mang tính định tính (qua dấu hiệu
định tội chỉ có hành vi). Tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội là đặc
điểm cơ bản để phân biệt hành vi phạm tội với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Hành vi khách quan của tội phạm là hoạt động có ý thức và ý chí.
Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi thể hiện tính trái pháp luật
hình sự. Điều này thể hiện việc chủ thể thực hiện các hành vi mà
pháp luật hình sự cấm hoặc không thực hiện các hành vi mà pháp
luật hình sự yêu cầu. Trong khoa học luật hình sự, biểu hiện này
của hành vi được thể hiện dưới dạng hành động phạm tội và không hành động phạm tội.
Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự
Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội phải có khả năng nhận thức
được hành vi của mình có thể gây ra nguy hiểm cho xã hội tuy
nhiên vẫn thực hiện, họ có khả năng điều khiển hành vi và đưa ra
cách xử sự khác cho pho hợp với nhu cầu, đòi hỏi của xã hội. Hay
nói cách khác, khi thực hiện hành vi phạm tội, ý chí và lý trí của
người phạm tội phải được thể hiện rõ mà không bị sự tác động
khách quan nào làm hạn chế hoặc vô hiệu hóa nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
- Hành vi khách quan của tội phạm có thể được thực hiện bằng 2 hình thức
là hành động hoặc không hành động
+ Hành động (phạm tội) là hình thức của hành vi khách quan gây
thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể đã làm một
việc bị pháp luật cấm. Hành động (phạm tội) có thể chỉ là động tác
đơn giản xảy ra một lần trong thời gian ngắn hoặc có thể là tổng
hợp nhiều động tác khác nhau hoặc có thể lặp đi lặp lại liên tục
trong thời gian dài. Hành động (phạm tội) có thể là tác động trực
tiếp vào đối tượng tác động của tội phạm hoặc có thể thông qua
công cụ, phương tiện. Hành động (phạm tội) có thể được thực hiện
qua lời nói hoặc việc làm. Đối với hình thức hành động (phạm tội),
tính trái pháp luật hình sự của hành vi thể hiện ở chỗ, việc đã làm
bị luật hình sự ngăn cấm, không kể chủ thể thực hiện là ai.
Ví dụ: như tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 282 BLHS); tội
hiếp dâm (Điều 141 BLHS) V.V..
+ Không hành động (phạm tội) là hình thức của hành vi khách quan
gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể không
làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc do có đủ điều
kiện để làm. Đối với hình thức không hành động (phạm tội), tính
trái pháp luật hình sự của hành vi thể hiện ở chỗ việc phải làm mà
chủ thể đã không làm (mặc do có đủ điều kiện để làm) là nghĩa vụ
pháp lý của chủ thể. Nghĩa vụ pháp lý này có thể phát sinh do những căn cứ sau:
● Nghĩa vụ phát sinh do luật định
Đây là trường hợp nghĩa vụ phải thực hiện việc làm nhất
định, cần thiết cho xã hội được luật trực tiếp quy định cho
chủ thể. Nghĩa vụ đó hoặc có thể do luật hình sự trực tiếp
quy định như nghĩa vụ cứu giúp người đang trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng (Điều 132 BLHS), nghĩa vụ tố
giác tội phạm (Điều 390 BLHS) hoặc có thể do ngành luật
khác trong hệ thống pháp luật thống nhất quy định như nghĩa
vụ của cha mẹ được quy định tại Điều 69 Luật hôn nhân và gia đình.
● Nghĩa vụ phát sinh do quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Đây là trường hợp nghĩa vụ phải thực hiện việc làm nhất
định, cần thiết cho xã hội được trực tiếp xác định qua các
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trên cơ sở
cơ quan này áp dụng pháp luật hiện hành.
Ví dụ: Nghĩa vụ nhập ngũ của công dân cụ thể phát sinh khi
hội đồng nghĩa vụ quân sự địa phương đã áp dụng Luật
nghĩa vụ quân sự ra quyết định gọi nhập ngũ đối với công dân đó.
● Nghĩa vụ phát sinh do nghề nghiệp
Đây là nghĩa vụ gắn với việc thực hiện nghề nghiệp nhất
định. Do đảm nhiệm nghề nghiệp này mà chủ thể có nghĩa
vụ phải thực hiện việc làm nhất định để bảo vệ các quan hệ
xã hội khỏi bị gây thiệt hại. Ví dụ: Nghĩa vụ cứu chữa, bảo
vệ tính mạng, sức khoẻ bệnh nhân của bác sĩ...
● Nghĩa vụ phải làm phát sinh do hợp đồng
Đây là trường hợp chủ thể đã tham gia ký kết hợp đồng và
hợp đồng này đã làm phát sinh nghĩa vụ phải thực hiện việc
làm nhất định. Ví dụ: Hợp đồng thuê giữ trẻ giữa bà mẹ và
người trông trẻ tư nhân đã làm phát sinh nghĩa vụ trông coi, chăm sóc...
● Nghĩa vụ phát sinh do xử sự trước đó của chủ thể
Đây là trường hợp chủ thể gây ra tình trạng nguy hiểm cho
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và chính sự việc này
đã làm phát sinh nghĩa vụ phải thực hiện những việc làm
nhất định để ngăn chặn sự nguy hiểm đã gây ra đó. Ví dụ:
Hành vi vô ý gây tai nạn giao thông làm phát sinh nghĩa vụ
phải cấp cứu những người bị thương (điểm C Khoản 2 Điều 260 BLHS).
Ví dụ: các tội phạm như tội không cứu giúp người đang ở
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 132 BLHS); tội
không tố giác tội phạm (Điều 390 BLHS) V.V.. Tội có thể
thực hiện được bằng hành động và cả bằng không hành động
là các tội phạm như tội giết người (Điều 123 BLHS), tội huỷ
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178 BLHS) V.V..
2.3. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội
- Là biểu hiện thứ hai trong mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở việc
gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ.
- Hậu quả cho tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ
xã hội là khách thể bảo vệ của Luật Hình sự, thể hiện dưới dạng:
+ Thiệt hại về vật chất: Có thể là tài sản bị hủy hoại hoặc là tài sản bị chiếm đoạt.
Ví dụ: Điều 168 Tội cướp tài sản, Điều 169 Tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản, Điều 170 Tội cưỡng đoạt tài sản, Điều 171. Tội
cướp giật tài sản, …theo Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017
+ Thiệt hại về thể chất: Là sự biến đổi tình trạng bình thường của
thực thể tự nhiên của con người. Các thiệt hại này bao gồm thiệt
hại về tính mạng, thiệt hại về sức khỏe.
Ví dụ: Theo Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Điều 123. Tội giết người, Điều 138. Tội vô ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Điều 141. Tội hiếp dâm,
Điều 150. Tội mua bán người, ……
+ Thiệt hại về tinh thần: Đó là thiệt hại gây ra cho nhân phẩm, danh
dự, tự do của con người
Ví dụ:theo Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Điều 157. Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, Điều 158.
Tội xâm phạm chỗ ở của người khác, Điều 164. Tội xâm phạm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác
+ Các biến đổi khác: Có thể làm biến dạng xử sự của chủ thể hoặc
làm biến dạng xử sự của người khác
Ví dụ:Theo Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Điều 131. Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát,
2.4. Vấn đề quan hệ nhân quả trong Luật Hình sự.
- Biểu hiện thứ ba trong mặt khách quan của tội phạm là quan hệ nhân quả
giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây
là mối quan hệ khách quan luôn tồn tại giữa hành vi khách quan và hậu
quả của hành vi khách quan. Một người phải chịu trách nhiệm hình sự về
hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu giữa hành vi khách quan đã thực hiện
của họ và hậu quả nguy hiểm đó có quan hệ nhân quả với nhau.
- Dựa vào cơ sở lý luận của cặp phạm tro nhân quả trong phép biện chứng
có thể xác định được các điều kiện của mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi và hậu quả của tội phạm như sau:
+ Hành vi phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Điều này, có ý
nghĩa để xác định tội phạm, định tội, định khung. Ví dụ: A bị tai
biến, được đưa đi cấp cứu, trên đường đưa đi cấp cứu A đã tử
vong, sau khi A tử vong, thì xe ô tô của B tông vào xe cấp cứu
đang chở A. Trong trường hợp này, chúng ta phải xác định hậu quả
A chết trước hành vi gây tai nạn của B, do đó, tình tiết về hậu quả
này không có ý nghĩa pháp lý khi xem xét trách nhiệm pháp lý của B.
+ Hành vi phải chứa đựng khả năng thực tế, mầm mống nội tại,
nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả. Đây là điều kiện để
chứng minh khả năng phát sinh hậu quả của hành vi, nếu thực tế
loại trừ khả năng này thì không có mối quan hệ nhân quả.
+ Hậu quả xảy ra phải là hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát
sinh hậu quả của hành vi. Việc xác định hậu quả phải đặt trong mối
quan hệ với hành vi, đánh giá hậu quả là khả năng hiện thực phát
sinh từ hành vi khách quan của tội phạm.
- Mối quan hệ nhân quả được thể hiện ở các dạng chủ yếu sau:
● Mối quan hệ nhân quả đơn trực tiếp: là mối quan hệ nhân quả chỉ
có một hành vi phạm tội là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả.
Ví dụ: A dong dao đâm B, B bị thương với tỷ lệ thương tật là 20%.
● Mối quan hệ nhân quả kép trực tiếp: là quan mối hệ nhân quả có
nhiều hành vi phạm tội làm nguyên nhân, trong đó, mỗi hành vi
đều đã chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả. Ví dụ: A
và B dong gậy gây thương tích cho M (tỷ lệ thương tích 30%).
Trường hợp này, nếu tách ra mỗi hành vi đều có khả năng gây ra
hậu quả cho M. Tuy nhiên, trong sự kết hợp với nhau thì đã gây ra
một hậu quả chung là M bị thương tật tỷ lệ 30%.
● Đối với những tội phạm có gây ra hậu quả, thì phải chứng minh
mối quan hệ nhân quả, do dấu hiệu hậu quả được xác định dong để
định tội, định khung hay tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.
- Ngoài ba nội dung trên, mặt khách quan của tội phạm còn có những nội
dung biểu hiện khác như: Công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn,
thời gian phạm tội. Những biểu hiện này có ý nghĩa trong việc định tội
hoặc định khung hình phạt.
+ Công cụ, phương tiện phạm tội là những đối tượng vật chất được
chủ thể sử dụng để tác động vào đối tượng tác động của tội phạm
trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.
+ Trong Bộ luật Hình sự có một số ít tội quy định công cụ, phương
tiện được là dấu hiệu bắt buộc để định tội. Ví dụ: Phương tiện vật
chất là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành cơ bản của tội đưa hối lộ
tại Điều 364 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
+ Thủ đoạn phạm tội là cách thức thực hiện tội phạm được biểu hiện
thông qua việc thực hiện hành vi dựa trên sự khôn khéo, tinh vi có
tính toán của người phạm tội. Dấu hiệu này có thể dong để định tội,
ví dụ như thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản trong tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, hoặc có thể là tình tiết định khung tăng
nặng như tình tiết “dong thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm” tại điểm
d khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, hoặc cũng có thể là
tình tiết tăng nặng tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
+ Ngoài ra, trong mặt khách quan của tội phạm còn biểu hiện về thời
gian phạm tội, địa điểm phạm tội và hoàn cảnh phạm tội. Toy vào
từng tội phạm cụ thể để xác định vai trò pháp lý của những dấu hiệu này.
3. Chủ thể của tội phạm Khái niệm:
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội một các cố ý hoặc vô ý, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi
theo quy định của Luật Hình sự.
Chủ thể của tội phạm là Người thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là
tội phạm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự. Chủ thể của tội phạm đòi hỏi có hai dấu hiệu: Đó là dấu hiệu và năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Chủ thể tội phạm theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam phải là con người
cụ thể chứ không chấp nhận chủ thể của tội phạm là tổ chức. Tổ chức không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Chỉ có cá nhân cụ thể trong tổ chức phạm tội mới
phải chịu trách nhiệm hình sự, đây là sự khác biệt của Luật Hình sự Việt Nam
so với Luật Hình sự ở một số nước trên thế giới.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự:
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật Hình sự có quy định khác.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau:
+ Tội giết người (Điều 123)
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134)
+ Tội hiếp dâm (Điều 141)
+ Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142)
+ Tội cưỡng dâm (Điều 143)
+ Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144)
+ Tội mua bán người (Điều 150)
+ Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151)
+ Tội cướp tài sản (Điều 168)
+ Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169)
+ Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170)
+ Tội cướp giật tài sản (Điều 171)
+ Tội trộm cắp tài sản (Điều 173)
+ Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178)
+ Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248)
+ Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249)
+ Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250)
+ Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251)
+ Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252)
+ Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 265)
+ Tội đua xe trái phép (Điều 266)
+ Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 286)
+ Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử (Điều 287)
+ Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương
tiện điện tử của người khác (Điều 289)
+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290)
+ Tội khủng bố (Điều 299)
+ Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303)
+ Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 304)
- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối
với tội ấy là từ trên 07 năm to đến 15 năm to.
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này
quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm to đến 20 năm to, to chung thân hoặc tử hình.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
- Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật Hình sự quy
định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
+ 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
+ 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
+ 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
+ 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện.
Nếu trong thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự mà người phạm tội lại thực
hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm to, thì thời hiệu đối với tội cũ được
tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự mà người phạm tội cố tình trốn
tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.
(Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015)
4. Mặt chủ quan của tội phạm 4.1. Khái niệm
- Mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người tội phạm 4.2. Phân loại
- Những biểu hiện tâm lý + Lỗi + Động cơ phạm tội + Mục đích phạm tội
=> Tất cả đều là mặt tâm lý bên trong của tội phạm
=> Yếu tố quan trọng nhất là yếu tố LỖI Lỗi - Khái niệm:
+ Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy cho xã hội
của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện
dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
+ Nguyên tắc có lỗi là nguyên tắc của Luật Hình Sự Việt Nam. Tức
là không chấp nhận quy tội khách quan (dựa trên những biểu hiện),
thừa nhận và tôn trọng quyền tự do của con người, nhằm cải tạo,
giáo dục người phạm tội
+ Khi nào một người bị coi là có lỗi?
=> Đánh giá khả năng tự lựa chọn xử sự của hành vi. Cong chứng
kiến một hiện tượng như nhau nhưng các chủ thể sẽ có cách xử sự
khác nhau, sẽ có những chủ thể lựa chọn cách xử sự trái với quy
định pháp luật để thỏa mãn nhu cầu
+ Ví dụ: Gây thiệt hại do bị cưỡng bức tinh thần, trong trường hợp
không còn sự lựa chọn xử sự nào khác như ông bảo vệ bị tên trộm
dí súng vào đầu yêu cầu mở kho hàng => Không có lỗi
- Phân loại: Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý của yếu tố lý trí và ý chí
trong những trường hợp có lỗi, Luật Hình sự Việt Nam chia lỗi thành hai loại: Cố ý và vô ý.
LỖI CỐ Ý (Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) thì cố ý phạm tội được chia thành 02 trường hợp sau:
a, Lỗi cố ý trực tiếp (khoản 1 điều 10 BLHS): Người phạm tội nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và
mong muốn hậu quả đó xảy ra
Giải thích khái niệm
- Lý trí: nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi, thấy trước được
hậu quả nguy hiểm tất yếu xảy ra do hành vi đó gây ra
- Ý chí: mong muốn hậu quả xảy ra
Ví dụ: A liên tục đâm B bằng dao 10 nhát. Cường độ tấn công gắn với hành vi
của người phạm tội cho ta thấy người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra.
b, Lỗi cố ý gián tiếp (khoản 2 điều 10 BLHS): Người phạm tội nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có
thể xảy ra, tuy không có mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra
Giải thích khái niệm
- Lý trí: nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thấy
trước được hậu quả nguy hiểm có thể gây ra do hành vi đó
- Ý chí: không mong muốn mà bỏ mặc cho hậu quả xảy ra
Ví dụ: Vận chuyển trái phép chất cấm ở vong cao bị cơ quan chức năng phát
hiện -> dong súng để ngăn chặn sự truy đuổi -> hoàn toàn nhận thức được hậu
quả thương tích hay thiệt hại về người có thể xảy ra nhưng để mặc hậu quả xảy ra
SỰ KHÁC NHAU GIỮA LỖI CỐ Ý TRỰC TIẾP VÀ LỖI CỐ Ý GIÁN TIẾP
Về mặt ý chí của người phạm tội:
- Đối với lỗi cố ý trực tiếp thì người thực hiện hành vi phạm tội đưa ra lựa
chọn duy nhất là thực hiện hành vi phạm tội.
- Đối với lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy
ra nhưng vẫn cứ để cho hậu quả đó xảy ra. Hay người phạm tội có những