Bước phát triển tư duy của ĐCSVN về hội nhập quốc tế | Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

Trong khóa học "Lịch Sử Đảng Cộng sản Việt Nam", chủ đề này tập trung vào sự phát triển tư duy của Đảng về hội nhập quốc tế qua các giai đoạn lịch sử. Sinh viên sẽ được tìm hiểu về cách mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã điều chỉnh và phát triển chiến lược của mình trong bối cảnh thế giới biến động, từ giai đoạn đấu tranh giành độc lập đến quá trình tái thiết và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Mục tiêu của chủ đề này là giúp sinh viên hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của hội nhập quốc tế trong sự phát triển của đất nước, cũng như khả năng phản ứng và thích ứng của Đảng trong môi trường quốc tế thay đổi.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
ĐỀ TÀI
BẰNG CÁC SỰ KIỆN LỊCH SỬ CÓ CHỌN LỌC,
ANH/CHỊ HÃY PHÂN TÍCH BƯỚC PHÁT TRIỂN
TƯ DUY CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
HỌC PHẦN: Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
GVHD: TS. Nguyễn Thị Phương
SVTH: Nguyễn Văn Hoài – 2056040064
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2023
1
lOMoARcPSD| 41487147
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN Đ ........................................................................................................................... 3
NỘI DUNG ............................................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1 .............................................................................................................................. 4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI TƯ DUY HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM .......................................................................................................... 4
1.1. Khái niệm đổi mới tư duy hội nhập quốc tế .................................................................... 4
1.2. Các yếu tố tác động đến quá trình phát triển tư duy hội nhập quốc tế của Đảng ....... 5
1.2.1. Tác động của tình hình thế giới.................................................................................. 5
1.2.2. Tác động từ tình hình trong nước ............................................................................. 7
CHƯƠNG 2 .............................................................................................................................. 9
CÁC BƯỚC PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ HỘI
NHẬP QUỐC TẾ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI .............................................................................. 9
2.1. Giai đoạn 1986 – 1990 ....................................................................................................... 9
2.2. Giai đoạn 1991 – 2005 ..................................................................................................... 11
2.3. Giai đoạn 2006 – 2015 ..................................................................................................... 14
2.4. Giai đoạn 2016 – Nay ...................................................................................................... 17
CHƯƠNG 3 ............................................................................................................................ 20
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ............................................................. 20
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 26
2
lOMoARcPSD| 41487147
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chặng đường hơn 35 năm đổi mới hội nhập quốc tế của Việt Nam từ 1986
đến nay một quá trình đồng hành đầy thử thách, khó khăn. Những thành công đạt
được ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề động lực để Việt Nam bước vào giai đoạn hội
nhập quốc tế sâu rộng phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn. Trên thế giới, hội nhập
quốc tế trở thành một xu thế thời đại diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Sự xuất
hiện của các khối kinh tế mậu dịch trên thế giới một tất yếu khách quan, một nấc
thang phát triển mới trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế. Khi gia nhập vào các tổ
chức thương mại trong khu vực và trên thế giới, mỗi quốc gia đều muốn hướng tới một
nền kinh tế phát triển, một hội văn minh, hiện đại, đời sống được cải thiện. Đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam thì hội nhập quốc tế con đường tốt nhất để
rút ngắn sự tụt hậu so với các nước khác điều kiện phát huy những lợi thế so
sánh của nh trong phân công lao động hợp tác quốc tế. Hội nhập quốc tế một
chủ trương lớn của Đảng ta, nội dung trọng tâm một bộ phận quan trọng,
xuyên suốt của công cuộc đổi mới.
Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng đi vào chiều u, đây
sở cho việc xây dựng mối quan hệ ổn định bền vững với các đối tác. Hoạt động đối
ngoại nói chung đã được triển khai đồng bộ toàn diện. Vị thế, vai trò uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao trở thành điều kiện thuận lợi
để nước ta chủ động, tích cực hội nhập, tranh thủ được sự ng hộ của cộng đồng quốc
tế.
thể thấy quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam một quá trình lâu dài
trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong giới hạn của bài tiểu luận kết thúc học phần tác
giả không thể khai thác hết được tất cả các mặt, các phương diện trong quá trình hội
nhập quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam tập trung vào khai thác, phân tích các
bước ngoặt cơ bản, có tính quyết định trên lĩnh vực hội nhập quốc tế.
3
lOMoARcPSD| 41487147
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI TƯ DUY HỘI NHẬP
QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Khái niệm đổi mới tư duy hội nhập quốc tế
Thuật ngữ hội nhập quốc tế” chỉ mới được sử dụng nhiều từ giữa những năm
1990 đến nay, trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh kết thúc, tất cả c quốc gia trên thế
giới đều phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình. Đó cũng thời điểm Việt
Nam bắt đầu thúc đẩy chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế, tích cực triển khai các nỗ lực bình thường hóa quan hệ với các nước
lớn, gia nhập các định chế, tổ chức kinh tế khu vực. Trong cuốn sách Hội nhập quốc tế
giữ vững bản sắc do Bộ Ngoại giao Việt Nam xuất bản năm 1995, thay sử dụng
thuật ngữ “hội nhập”, trong một số bài viết, các tác giả dùng từ “hòa nhập”. Đơn cử
như trong i viết “Thế giới sau Chiến tranh Lạnh và châu Á –Thái Bình Dương”, khi
đề cập đến quan hệ Việt Nam –ASEAN, Cố Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đã
nhấn mạnh: “Sự hợp tác giữa Việt Nam ASEAN để thúc đẩy quá trình hòa nhập
sự nỗ lực và đóng góp chung của cả hai phía, vì những mục tiêu và theo những nguyên
tắc đã thỏa thuận. Hòa nhập không nghĩa Việt Nam cần được lắp ghép vào
ASEAN nhưmột thành phần phụ trợ”
1
. Trong bài viết “Trên đường triển khai chính
sách đối ngoại theo định hướng mới”, Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh
Cầm đã nhận định: Trên thực tế, sự hòa nhập của Việt Nam vào những quá trình
chung của loài người sẽ được thực hiện hai phạm vi: cộng đồng khu vực cộng
đồng thế giới. Chính sách khu vực sở cần đặc biệt coi trọng tính chất địa
chính trị của nó, đồng thời vì nó là sự “bắc cầu” vào thế giới”
2
.
thể nói, cho tới nay, trong giới nghiên cứu hoạch định chính sách Việt
Nam cũng còn những ý kiến khác nhau về vấn đề “hội nhập quốc tế”. Tiến sĩPhạm
Quốc Trụ cho rằng: “Hội nhập quốc tế được hiểu như quá trình các nước tiến hành
các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục
tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) tuân thủ các
luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế”
3
. Trong bài viết
“Bàn thêm về khái niệm ‘hội nhập quốc tế’ của Việt Nam trong giai đoạn mới”, tác giả
Đặng Đình Quý đã đề cập đến khái niệm nội hàm của hội nhập quốc tế của Việt
Nam hiện nay là:“Hội nhập quốc tế hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế, là
quá trình chủ động chấp nhận, áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực
1 Bộ Ngoại giao (1995) Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.
148.
2 Bộ Ngoại giao (1995) Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.
161.
3 Phạm Bình Minh (2011), Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 147
4
lOMoARcPSD| 41487147
quốc tế nhằm phục vụ tối đa lợi ích quốc gia, dân tộc”
4
. PGS.TS. ơng Văn Quảng
trong bài viết “Suy nghĩ về chiều sâu nh hiệu quả của hội nhập quốc tế từ Đại hội
Đảng lần thứ XI đến nay” cho rằng: “Hội nhập quốc tế một quá trình cả về nhận
thức hành động, trong đó, Việt Nam trước hết chấp nhận sau đó tự nguyện
tham gia vào đời sống quốc tế”
5
. Chia skhái niệm hội nhập quốc tế của tác giả Đặng
Đình Quý trên, PGS.TS. ơng Văn Quảng cũng cho rằng, theo tiến trình lịch sử,
loài người đi từ hợp c đến hội nhập. Tuy nhiên, sự khác biệt về chất giữahợp tác
hội nhập khả năng lựa chọn khả năng hành động, theo đó “trong hợp tác, quốc
gia này hay quốc gia kia khả năng lựa chọn, nhưng trong hội nhập, ai chấp nhận
luật chơi mới được tham gia”
6
.
Từ các quan điểm trên, thể thấy hội nhập quốc tế tiến trình một quốc gia
theo đuổi lợi ích, mục tiêu của mình thông qua việc tự giác, chủ động hợp tác, liên kết
sâu rộng với các quốc gia khác trên nhiều lĩnh vực (kinh tế, chính trị, an ninh, quốc
phòng, văn hóa, hội,...) dựa trên sự chia sẻ về nhận thức, lợi ích, mục tiêu, giá trị,
nguồn lực, quyền lực (chủ quyền, thẩm quyền định đoạt chính sách,...) chủ động
chấp nhận, tuân thủ, tham gia xây dựng các luật chơi chung, chuẩn mực chung trong
khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Nói ngắn gọn, hội nhập quốc tế hình
thức phát triển cao của hợp tác quốc tế, quá trình chủ động chấp nhận, áp dụng
tham gia xây dựng các luật lệ chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ tối đa lợi ích quốc
gia - dân tộc.
1.2. Các yếu tố tác động đến quá trình phát triển duy hội nhập quốc tế của
Đảng
1.2.1. Tác động của tình hình thế giới
* Một số xu hướng phát triển của thời đại
Từ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xu thế hội nhập quốc tế đã trở
nên phổ biến trên toàn thế giới, trở thành xu hướng chung của nhân loại trong thời đại
ngày nay.
Thứ nhất, hội nhập quốc tế kết quả tất yếu khách quan của quá trình toàn cầu
hóa, do sự phát triển của lực lượng sản xuất mang tính hội hóa ngày càng cao. Hội
nhập sự tham gia tính tự giác của chủ thể vào quá trình toàn cầu hóa để đạt được
mục đích nhất định của mình theo những nội dung và cấp độ khác nhau. Có nhiều mức
độ khác nhau của hội nhập quốc tế, mức thấp nhất mở rộng hợp tác với các bên
ngoài, tức là tham gia vào hệ thống quan hệ hệ quốc tế. Mức cao nhất là trở thành một
4
Báo Điện tử Tạp chí Cộng sản (2012), “Bàn thêm về khái niệm “hội nhập quốc tế” của Việt Nam
trong giai đoạn mới”, truy cập ngày 10/6/2023, tại http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-
Traodoi/2012/19013/Ban-them-ve-khai-niem-hoi-nhap-quoc-te-cua-Viet-Nam.aspx.
5 Dương Văn Quảng (2016), Suy nghĩ vềchiều sâu và tính hiệu quảcủa hội nhập quốc tếtừĐại hội Đảng
lần thứXI đến nay, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Số2 (105), tr. 19.
6 Dương Văn Quảng (2016), Suy nghĩ vềchiều sâu và tính hiệu quảcủa hội nhập quốc tếtừĐại hội Đảng
lần thứXI đến nay, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Số2 (105), tr. 19.
5
lOMoARcPSD| 41487147
thành viên trách nhiệm, vị trí vai trò xứng đáng trong cộng đồng quốc tế.
thể nói, hội nhập quốc tế chính giai đoạn phát triển cao hơn về chất so với việc phát
triển các quan hệ hợp tác quốc tế. Thực chất, hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác,
vừa đấu tranh để thực hiện lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc. Quá trình hội nhập quốc
tế được đặt trong các mối quan hệ nhiều mặt, từ quan hệ đa dạng, song phương, đa
phương với các chủ thể khác nhau trong cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, sự sụp đcủa chế độ hội chủ nghĩa Liên các ớc Đông
Âu trong năm 1991 đã làm cục diện thế giới và các quan hệ quốc tế thay đổi một cách
bản. Trật tự thế giới mới đã được thiết lập sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, do sự
phát triển không đồng đều giữa các lực lượng, các chủ thể quốc tế cho nên vai trò và vị
trí của mỗi quốc gia, mỗi chủ thể quốc tế đều được sắp xếp lại. Đặc biệt cục diện
kinh tế quốc tế đa trung tâm dần định hình nét hơn. Tương quan, tiềm lực sức mạnh
của các quốc gia đang những thay đổi điều này thể sẽ ảnh hưởng đến cả những
trung tâm kinh tế cũ và các nền kinh tế mới nổi.
Thứ ba, trong khi Mỹ vẫn là nền kinh tế lớn trung m Kinh tế - Tài chính
lớn thì thế giới cũng nhắc nhiều đến sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nước này được mệnh
danh “gã khổng lồ” kinh tế bởi tốc độ tăng trưởng nhanh chóng. Khi bắt đầu công
cuộc cải cách mở cửa năm 1978 Trung Quốc đã đổi mới trong chính sách đối ngoại
của mình. Những năm sau đó nước này tham gia tích cực vào qtrình hội nhập kinh
tế quốc tế, tận dụng tốt yếu tố thời trong quan hệ quốc tế để thúc đẩy sự phát triển
về kinh tế.
Thứ tư, hội nhập quốc tế chịu tác động sâu sắc từ cuộc cuộc cách mạng khoa
học công nghệ đang trong quá trình chuyển mình mạnh mẽ sang giai đoạn đầu của
cuộc cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đây được coi xu thế thế giới trong
tương lai gần. Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra ngày càng
mạnh mẽ, đặc biệt trên lĩnh vực công nghệ thông tin công nghệ sinh học; khoa học
công nghệ dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đẩy mạnh quá trình phát triển
kinh tế, thay đổi cấu kinh tế tạo ra nhũng viến đại sâu sắc trên tất cả các lĩnh
vực.
Ngoài ra, hòa bình, hợp tác phát triển tiếp tục xu thế lớn, bên cạnh đó vẫn
tiếp tục diễn ra xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành tài nguyên, lãnh thổ... Đây
giai đoạn tình hình thế giới diễn biến phức tạp và khó lường, dù xu thế lớn của thế giới
vẫn hòa bình hợp tác nhưng nhiều quốc gia vùng lãnh thổ vẫn gặp tình trạng
tranh chấp. Bên cạnh xu thế hợp tác về kinh tế, văn hóa, hội thì nh hình bất ổn về
chính trị nêu trên cũng đặt ra yêu cầu hội nhập về chính trị - an ninh. Một trong những
điều kiện đảm bảo thúc đẩy quá trình hội nhập một cách thuận lợi phải tạo ra được
môi trường hòa bình, ổn định và tin cậy giữa các quốc gia.
* Tác động của xu thế hội nhập quốc tế đối với Việt Nam
Hội nhập quốc tế sẽ mang đến cho tất cả các quốc gia trên thế giới i chung
Việt Nam nói riêng những thuận lợi để phát triển đất nước. Thông qua bức tranh xu thế
6
lOMoARcPSD| 41487147
phát triển của quá trình hội nhập quốc tế nêu trên thể tóm lược lại những lại hội
nước ta thể tận dụng từ các mối quan hệ quốc tế đó để vận dụng vào quá trình
hội nhập quốc tế của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay:
Một là, hội nhập quốc tế cho chúng ta hội tận dụng các nguồn vốn đầu
tiếp nhận công nghệ tiên tiến, hiện đại đồng thời học hỏi được kinh nghiệm quản lí
sản xuất hiệu quả từ đó thúc đẩy quá trình xây dựng đất nước.
Hai là, thị trường xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, giao lưu thương mại quốc tế
được mở rộng nhờ quá trình hội nhập quốc tế. Từ đó bản thân các doanh nghiệp, người
tiêu dùng, đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng được nâng cao.
Ba là, trong quá trình hội nhập quốc tế Việt Nam thể học hỏi được kinh
nghiệm từ các nền kinh tế lớn, chính sách điều tiết kinh tế vận dụng các quy luật
phát triển vào tình hình thực tiễn đất nước.
Bốn là, hội tiếp cận văn hóa của thế giới trong tiến trình hội nhập điều
kiện quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc.
Năm là, hội nhập quốc tế mở ra khả năng hội nhập chính trị, thúc đẩy quá trình
tham gia vào đời sống chính trị trong khu vực quốc tế đồng thời xây dựng được vị
thế tiếng nói của Việt Nam trên trường quốc tế dựa trên nguyên tắc đảm bảo
nguyên tắc độc lập, tự chủ.
Hội nhập quốc tế thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống hội (chính
trị, kinh tế, văn hóa, an ninh - quốc phòng, giáo dục...), hoặc diễn ra trên cùng nhiều
lĩnh vực với tính chất, phạm vi, hình thức khác nhau. Chủ thể chính của hội nhập quốc
tế các quốc gia đủ năng lực thẩm quyền đàm phán, kết thực hiện các
cam kết quốc tế khi đã tham gia. Hội nhập quốc tế một xu thế lớn, tất yếu
đặc trưng quan trọng của thế giới hiện nay. Hội nhập quốc tế đem tới cho các quốc gia
không chỉ những lợi ích về mọi mặt, còn đặt các quốc gia trước những thách thức,
bất lợi. Song, con đường phát triển không thnào khác đối với các ớc trong thời đại
toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế.
1.2.2. Tác động từ tình hình trong nước
Từ đầu năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã
giành được thắng lợi hoàn toàn, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa hội. Thắng lợi
to lớn ấy đã mở ra một giai đoạn mới cho lịch sử dân tộc. Trong 10 năm từ 1975 -
1985, từ thực tế cách mạng Việt Nam sau khi đất nước thống nhất bên cạnh những
thành tựu đạt được, quá trình phát triển đất nước cũng gặp phải nhiều khó khăn. Trong
thời gian đó, Việt Nam: “Trong mười năm qua, ta đã phạm nhiều sai lầm trong việc
xác định mục tiêu bước đi về xây dựng sở vật chất kỹ thuật, cải tạo hội chủ
nghĩa quản kinh tế”. Việt Nam đã rơi vào khủng hoảng kinh tế - hội: kinh tế
tăng trưởng thấp thực chất không phát triển. Với một xuất phát điểm thấp, trình
độ khoa học kỹ thuật còn hạn chế, Việt Nam vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc hậu,
7
lOMoARcPSD| 41487147
đời sống nhân dân hết sức thiếu thốn, khó khăn". Trong tư duy đường lối đối ngoại,
do nhiều yếu tố lịch sử tác động, từ sau khi đất nước thống nhất đến năm 1985, chính
sách đối ngoại của Việt Nam chủ yếu về cơ bản tập trung vào lĩnh vực đối ngoại chính
trị, chịu ảnh hưởng nặng nề của duy ý thức hệ nặng về phe phái, "ai thắng ai" trong
sự cạnh tranh giữa chủ nghĩa bản chủ nghĩa hội, cùng với đó sự chi phối
của cuộc diện Chiến tranh lạnh giữa hai hệ thống chính trị - hội đương đại. Trước
tình hình đó, Việt Nam cần tập trung các nguồn lực, để đưa đất nước vượt ra khỏi
những khó khăn, phá vỡ thế bao vây cấm vận để thu hút các nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ
từ bên ngoài để phát triển đất nước.
Bên cạnh đó, Đại hội lần thứ VI (12/1986) Đại hội đổi mới, Đảng ta đã tiến
hành công cuộc đổi mới đất nước toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực, trong đó lĩnh
vực đối ngoại, đổi mới duy vấn đề mang tính cấp bách hàng đầu. Xuất phát từ
việc chúng ta chưa nắm bắt được xu thế quốc tế chuyển đổi từ đối đầu sang hòa hoãn
chạy đua về kinh tế, không đường lối đối ngoại phù hợp với tình hình quốc tế.
Buộc chúng ta cần thay đổi về duy để đưa đất nước thoát khỏi phát triển về mọi
mặt bằng việc đối mới về toàn bộ, toàn diện, trong đó đổi mới về duy đối ngoại
trong thời kỳ mới của Đảng. Những bước đột phá trong duy đối ngoại của Đảng đã
tạo tiền đề cho quá trình phát triển duy về hội nhập quốc tế. Những chuyển biển
trong duy của Đảng về nhận thức tình hình thế giới, mở rộng quan hệ hợp c thay
đổi quan điểm "bạn thù”, từng bước tháo gỡ những khó khăn trong lĩnh vực đối
ngoại. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (5/1988) đã thể hiện sự đổi mới tư duy mạnh
mẽ trong đánh giá tình hình thế giới chuyển hưởng toàn bộ chiến lược đối ngoại
của nước ta. Đến Đại hội VII (1991) của Đảng xác định chủ trương: “hợp tác bình
đẳng và cùng lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - hội khác
nhau bên sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”. Đảng ta không ngừng củng cố
phát triển những quan điểm nhận thức mới trong duy đối ngoại, chủ động phát
triển đa phương hoá, đã dạng hoá, “thêm bạn, bớt thủ". Đến Đại hội IX, duy đối
ngoại của Đảng tiếp tục bước chuyển biến mới, Việt Nam từ sẵn sàng bạn
chuyển sang muốn làm bạn với tất cả các nước, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX
(2003) với quan điểm mới về đối tác về hợp tác đấu tranh,... Những chuyển biến
trong tư duy đối ngoại ấy đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển duy đối
ngoại của Đảng về hội nhập quốc tế cũng như quá trình hội nhập quốc tế của Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới.
8
lOMoARcPSD| 41487147
CHƯƠNG 2
CÁC BƯỚC PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Đổi mới duy đối ngoại nói chung, phát triển đổi mới duy về hội nhập
quốc tế nói riêng trong thời kỳ Đổi Mớilà một quá trình liên tục, từ thấp đến cao, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Việc đổi mới duy về hội nhập quốc tế của Việt
Nam được thể hiện qua các văn kiện của Đảng, được thông qua tại c kỳ Đại hội, các
Hội nghị của Ban chấp hành Trung ương, Hội nghị Bộ Chính trị của Đảng qua các
chính sách của Nhà nước.
Trong hơn 35 năm từ khi Đổi mới đất nước đến nay, trải qua bảy kỳ Đại hội
Đảng, duy hội nhập kinh tế quốc tế ngày ng được nâng cao. Những bước đổi mới
duy đó được thể hiện qua các 4 giai đoạn chính: giai đoạn 1986-1990, giai đoạn
1991 - 2005, giai đoạn 2006 - 2015; giai đoạn 2016 - nay.
Trong giai đoạn 1986 - 1990, bước đi đầu tiên nhưng tiền đề quan trọng
trong quá trình hội nhập sau này; giai đoạn Đảng nhận thức lại tình hình bối cảnh
đất nước, nhìn nhận lại thể chế, hệ thống nhà nước và có bước thay đổi tư duy kịp thời,
mở ra cục diện mới cho Việt Nam. Trong giai đoạn 1991 - 2005, tiếp tục trong việc
triển khai chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa; bước tiếp theo là chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế khu vực. Đưa Việt Nam từ thế bị động trong hội nhập kinh tế quốc
tế sang thế chủ động. Trong giai đoạn 2006 - 2016, với hai bước chuyển duy chính
đó từ chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế lên chủ động tích cực hội
nhập quốc tế. Sự thay đổi trong duy này nhằm phù hợp với xu thế phát triển của
Việt Nam khi Việt Nam tham gia đầy đủ vào các sân chơi kinh tế khu vực và toàn cầu.
Trong giai đoạn 2016 đến nay, Việt Nam đã tham gia sâu hơn trong các mối quan hệ
đối ngoại.
2.1. Giai đoạn 1986 – 1990
Đây là thời kỳ biến động phức tạp. Đất nước đang phải khắc phục hậu quả nặng
nề của cuộc khủng hoảng kinh tế - hội, trong lúc đó công cuộc cải tổ Liên
các nước hội chủ nghĩa Đông Âu bắt đầu mắc phải những sai lầm nghiêm trọng,
dẫn đến sự sụp đổ của Liên cả hệ thống hội chủ nghĩa. Những nhân tố bên
trong bên ngoài của giai đoạn này đóng vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy đổi mới
duy nhận thức của Đảng Nhà nước về việc xóa bỏ hình kinh tế khép kín,
tự cung tự cấp, chuyển sang mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế để tranh thủ thị trường và
các nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế xã hội.
Mặc thực tiễn hội nhập quốc tế của Việt Nam đã được manh nha từ trước
đổi mới nhưng thể nói, quá trình phát triển tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về
hội nhập quốc tế thực chất chỉ bắt đầu cùng vớisự nghiệp đổi mới toàn diện đất ớc,
trong đó đổi mới về đối ngoại, được Đại hội VI (năm 1986) khởi xướng. Bước vào
thời kỳ đổi mới, đứng trước yêu cầu cấp bách phải đưa nền kinh tế nhanh chóng vượt
9
lOMoARcPSD| 41487147
ra khỏi khủng hoảng, phá thế bị bao vây cấm vận của chủ nghĩa bản, đường lối mở
rộng quan hệ đối ngoại hội nhập quốc tếcủa Việt Namngày càng được bổ sung,
hoàn thiện và được thực hiện tích cực hơn.
Trong quan hệ với các nước, Đại hội VI chủ trương củng cố tăng ờng tình
đoàn kết chiến đấu quan hệ hợp tác với tất cả các nước hội chủ nghĩa; bảo vệ
phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát
triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các ớc trong khu vực; thiết lập mrộng
quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên sở tôn trọng độc lập
chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
chưa đề cập trực tiếp khái niệm toàn cầu hóa hội nhập kinh tế quốc tế
(mà sử dụng khái niệm “quốc tế hoá” tham gia vào phân công lao động quốc tế),
song Đảng Nhà nước ta đã nhận thức ban đầu khách quan tích cực về quá
trình quốc tế hóa (như sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, lực lượng sản
xuất, quá trình quốc tế hóa sản xuất) sự cần thiết phải mở rộng và tăng cường hợp
tác kinh tế quốc tế. Nhận thức này tiền đề cho những nhận thức đầy đủ hơn về toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế trong các giai đoạn tiếp theo.
Trên sở phân tích, đánh giá tình hình trong nước quốc tế, Đại hội VI của
Đảng, ng với tuyên bố tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đã đưa ra chính sách
đối ngoại thêm bạn bớt thù, mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng
tồn tại hòa bình, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đảng ta chủ trương: “phải tham gia sự phân công lao động
quốc tế... tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế khoa học - kỹ thuật với các nước thế
giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tchức quốc tế nhân nước
ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi”
7
. Nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách
đối ngoại, Nghị quyết Đại hội Đảng cũng chủ trương vận dụng nhiều hình thức đa
dạng để phát triển kinh tế đối ngoại như mở rộng xuất nhập khẩu, thống nhất quản
ngoại hối, khuyến khích đầu trực tiếp nước ngoài, tranh thủ vốn viện trợ vay dài
hạn,...
Sau gần hai năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị ra
Nghị quyết số 13/NQ-TW “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”.
Đây một văn kiện rất quan trọng thể hiện bước đột phá trong nhận thức về đốingoại
của Việt Nam thời kỳ Đổi mới, như lời nhận xét của CBộ trưởng Bộ Ngoại giao
Nguyễn Thạch: “Nghị quyết 13 về đối ngoại của Bộ Chính trị một cuộc đổi mới
mạnh mẽ duy trong việc đánh giá tình hình thế giới, trong việc đề ra mục tiêu
chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của ta”
8
. Trong đó, mục tiêu đối ngoại
được Nghị quyết khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố
7 Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà
Nội, tr. 81.
8 Nguyễn Cơ Thạch (1990), Những chuyển biến trên thế giới và tư duy của chúng ta, Tạp chí Quan hệ
Quốc tế, số 1, tr. 8.
10
lOMoARcPSD| 41487147
giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng phát triển kinh tế”
9
.Với quan điểm
mới về an ninh phát triển, phương hướng ưu tiên “xây dựng phát triển kinh
tế”được đưa lên hàng đầu, Nghị quyết đã phản ánh nhận thức đúng đắn của Đảng về
xu thế mới trong quan hệ quốc tế giai đoạn cuối Chiến tranh Lạnh và bước chuyển kịp
thời trong duy về đối ngoại hội nhập quốc tế của Việt Nam, làm tiền đề cho
những bước hội nhập mạnh mẽ trên lĩnh vực kinh tế thời kỳ đầu Đổi mới. Với phương
châm “thêm bạn, bớt thù”, “bạn” “thù” được xác định dựa trên lợi ích của dân tộc
tức là: Đối với Việt Nam Mỹ không n kẻ thù bản lâu dài, Trung Quốc không
còn kẻ thù nguy hiểm trực tiếp, Liên cũng không còn hòn đá tảng trong chính
sách đối ngoại. Như vậy, Việt Nam bắt đầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm “đa dạng
hóa các mối quan hệ” với các nước trên toàn thế giới.
Như vậy, kết thúc giai đoạn này, giai đoạn đầu tiên của công cuộc Đổi mới,
việc đổi mới duy chính sách đối ngoại đã nhanh chóng được triển khai mặc
chỉ những bước khởi nhưng đã đem lại những kinh nghiệm về cách nhìn nhận
cách tiếp cận thế giới của Đảng và nhà nước. Những bước chuyển tư duy này là tiền đề
trong việc phá bỏ bao vây cấm vận cũng như việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế
trong những giai đoạn tiếp theo.
2.2. Giai đoạn 1991 – 2005
Tiếp tục đổi mới duy trong việc đánh giá tình hình thế giới nhấn mạnh quan
điểm về việc kết hợp sức mạnh dân tộc sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới của
tình hình thế giới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội do Đại hội VII thông qua năm 1991 đã khẳng định: “Chúng ta đã xây dựng được một
số sở vật chất ban đầu. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, cùng với xu
thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giớilà một thời để phát triển”
10
. Do đó “chúng ta
phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất trí tuệ
của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế”
11
.
thể nói, cho đến Đại hội VII (1991), khái niệm hội nhậpquốc tếchưa xuất
hiệntrong đời sống chính trị Việt Nam, nhưng nhận thức của Đảng về quá trình “quốc
tế hóađời sống kinh tế”và “hợp tác quốc tế”là tiền đề quan trọng để phát triển duy
về hội nhập quốc tế. Trong thời kỳ này, trên thực tế, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
đã bắt đầu diễn ra với việc Việt Nam bình thường hóa quan hệ vớicác thể chế tài chính
ngân hàng khu vực và thế giới như:Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) Ngân hàng Thế giới (WB) vào tháng 10/1993 sau những bước phát
triển mới trong tiến trình bình thường a quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ. Đó cũng
những bước đi cụ thể hóa chủ trương “khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính,
tiền tệ quốc tế”được đưa ra trong Nghị quyết số 03-NQ/TW của Hội nghị Trung ương
9 Nguyễn Cơ Thạch (1990), Những chuyển biến trên thế giới và tư duy của chúng ta, Tạp chí Quan hệ
Quốc tế, số 1, tr. 7.
10 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11
lOMoARcPSD| 41487147
lần thứ 3 khóa VII (tháng 6/1992). Bên cạnh đó, Nghị quyết số 03-NQ/TW (1992)
cũng chính thức xác định phương châm: Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở
rộng quan hệ với tất cả các nước”
12
. Đây phương châm định ớng cho việc Việt
Nam gia nhập ASEAN, bước hội nhập khu vực cùng quan trọng, làm nền tảng
bắc cầu cho hội nhập liên khu vực toàn cầu của Việt Nam trong những giai đoạn
tiếp theo. Trong thời gian này, Việt Nam cũng tham gia một số chế hợp tác kinh tế
tiểu khu vực như Hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS), Hành lang kinh tế
Đông Tây (EWEC),...
Thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập lần đầu tiên trong Báo cáo chính
trịĐại hội VIII của Đảng (năm 1996): “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với
khu vực thế giới, ớng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng
những sản phẩm trong nước sản xuất hiệu quả”[17]. Trước khi khái niệm “hội
nhập” được đưa vào c văn kiện chính sách, Việt Nam đã một số thử nghiệm về
ngôn ngữ liên quan tới khái niệm này, đó khái niệm “nhất tha”, sau đó khái
niệm “hòa nhập” (như đã đề cập trên). Hai khái niệm này tuy thể hiện khá chính xác
nội hàmcủa tiến trình hội nhập, nhưng dễ gây tâm lý lo ngại về nguy cơ mất bản sắc và
độc lập tự chủ, do đó thuật ngữ “hội nhập” được sử dụng trở thành khái niệm chính
thức trong văn kiện của Đảng kể từ năm 1996.
Sau kỳ Đại hội VIII, tháng 11/1996 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 01 -
NQ/TW về mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại giai đoạn 1996 - 2000 đã
khẳng định chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu
quả, bền vững” theo nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, an
ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc theo định hướng hội chủ nghĩa. Quá
trình chủ động hội nhập được thể hiện tại Hội nghlần thứ tư, Ban chấp hành trung
ương khóa VIII (12/1997), Đảng ta đề ra nhiệm vụ cụ thể “tiến hành khẩn trương,
vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập Diễn đàn hợp tác
kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),
kế hoạch cụ thể để chủ động cam kết gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA)”.
Triển khai chủ trương “hội nhập với khu vực thế giới”, trong giai đoạn này,
Việt Nam đã đẩy mạnh quá trình tham gia vào các thể chế cấp độ khu vực liên
khu vực như: gia nhập ASEAN năm 1995, Hiệp định khung hợp tác Việt Nam EU
(FCA) năm 1995, gia nhập Diễn đàn Hợp c Á -Âu (ASEM) năm 1996, trở thành
thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á -Thái Bình Dương (APEC) năm
1998. Cũng trong năm 1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), đánh dấu sự khởi đầu của nỗ lực hội nhập kinh tế ở cấp độ toàn cầu.
Đến Đại hội IX (năm 2001), chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được
bổ sung, hoàn thiện phát triển: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế khu vựctheo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập
12 Vũ Dương Huân (2002), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002), Hà Nội, tr.
91.
12
lOMoARcPSD| 41487147
tự chủ định hướng hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”
13
. Việt Nam không chỉ muốn làm bạn
với tất cả các ớc trong cộng đồng thế giới Việt Nam còn “sẵn sàng bạn, đối
tác tin cậy của các ớc trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu hòa bình, độc lập
phát triển”. Mối quan hệ được nâng từ “bạnthành “đối tác tin cậy” khẳng định sự
tham gia sâu hơn, chủ động hơn của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới. Việt
Nam muốn chủ động phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo
đảm độc lập tự chủ định hướng hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia. Đây sự phản ánh một nấc thang cao hơn trong nhận thức duy về đối
ngoại nói chung và về hội nhập quốc tế nói riêng của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Nhằm cụ thể hóa đường lối hội nhập đó, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 07-
NQ/TW ngày 27/11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó làm hơn mục tiêu,
quan điểm chỉ đạo, nội dung nhiệm vụ cụ thể của hội nhập kinh tế quốc tế. Để tăng
cường công tác hội nhập kinh tế quốc tế, Chính phủ thành lập Uỷ ban quốc gia về hợp
tác kinh tế thực hiện nhiệm vụ mrộng quan hệ kinh tế quốc tế. Việt Nam không
ngừng mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các trung
tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế khu vực. Việt Nam chủ động
tham gia tích cực đóng góp vào giải quyết các vấn đề toàn cầu, bảo vệ hoà bình,
chống nguy chiến tranh chạy đua trang. Đi đôi với việc đa phương hóa, đa
dạng hoá quan hệ, Việt Nam đã đang từng bước chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
khu vực. Nghị quyết 07 tập trung đi sâu vào vấn đề hội nhập, thể hiện sự thống
nhất về mặt nhận thức hành động, đã đặt ra những mục tiêu, quan điểm chỉ đạo
nhiệm vụ cụ thể đối với hội nhập kinh tế quốc tế. Giai đoạn này, hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam đã bắt đầu đi vào chiều sâu với việc kết Hiệp định Thương mại
song phương (BTA) với Hoa Kỳ năm 2001, thực hiện AFTA, đẩy nhanh tiến trình
đàm phán gia nhập WTO,... Việc triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết 07-
NQ/TW đã phản ánh một nấc thang cao hơn trong nhận thức duy về hội nhập
quốc tế của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế khu vực, Việt Nam thay đổi
quan điểm, tư duy về mối quan hệ với các nước. Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX (2003) là bước đổi mới trong tư duy hội nhập đó là việc xác định “đối
tác, đối tượng” thay cho quan điểm chỉ dựa trên ý thức hệ để xác định bạn - thù. Đảng đã
đề ra nguyên tắc trong việc xác định đối tác, đối tượng phù hợp. Đối tác là những quốc gia
tôn trọng động lập, chủ quyền của Việt Nam, hợp tác bình đẳng hai bên cùng lợi.
Đối tượng những thế lực âm mưu hành động chống lại sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa hội của Việt Nam.Với phương châm: “Phải trên tinh thần thêm bạn, bớt thù,
phân hóa, lập c thế lực thù địch chống đối ta, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ
của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Không kẻ thù vĩnh viễn, chỉ lợi ích quốc gia, dân
tộc là vĩnh viễn. Không nên xác định cả một quốc gia là
13 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 43.
13
lOMoARcPSD| 41487147
đối tượng đấu tranh chỉ nên nói các thế lực thù địch, hoặc một số người trong giới
cầm quyền ở một số nước nào đó có hành động cực đoan, hiếu chiến, chống đối ta, các
quan tình báo nước ngoài hoạt động phương hại đến an ninh quốc gia của ta.
Không có đối tác vĩnh viễn, song phải xác định được những đối tác chiến lược, lâu dài,
nhất quán trên sở chtrương thêm bạn, bớt thù, khai thác triệt để mặt đối tác nhằm
bảo đảm lợi ích lâu dài và chắc chắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Hội nghị lần thứ 9 khóa IX, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm
vụ còn lại của Đại hội lần thứ IX về hội nhập kinh tế quốc tế, cần chủ động khẩn
trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, trong việc thực hiện đầy đủ các cam kết
quốc tế đa phương, song phương đã chuẩn bị tốt các điều kiện để sớm gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Giai đoạn 1991 - 2005 là một giai đoạn phát triển liên tục trong tư duy hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam, giai đoạn này đã thể hiện tầm nhìn chiến lược rõ
ràng, từng bước từng bước kế thừa giai đoạn trước để nâng cao vị thế, mở rộng tầm
ảnh hưởng hội nhập. Từ bước bạn chuyển sang đối tác; bước còn bị động
chuyển sang chủ động hội nhập, từ song phương đến khu vực mức độ hội nhập
ngày càng lan rộng đó hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Như vậy, kết thúc hội nghị
lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng khóa IX là dấu mốc cho việc triển khai nhiệm vụ hội
nhập quốc tế ở mức độ cao hơn đó là hội nhập toàn cầu.
2.3. Giai đoạn 2006 – 2015
Đại hội X (năm 2006) tái khẳng định chủ trương “chủ động tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế theo lộ trình” nêu định hướng “đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên
các lĩnh vực khác”
14
. Với định hướng này, hợp tác quốc tế của Việt Nam trong các lĩnh
vực quốc phòng - an ninh, văn hóa - hội được đẩy mạnh, nhất trong khuôn khổ các
cơ chế hợp tác của ASEAN do ASEAN làm trung tâm. Tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thêm một bước phát triển duy quan trọng với việc chuyển từ“hội nhập
kinh tế quốc tế”sang“chủ động tích cực hội nhập quốc tế”
15
, tức mở rộng phạm vi,
lĩnh vực tính chất của hội nhập trên sở những thành tựu đã đạt được của tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế tất cả các cấp độ. Như vậy, vduy đối ngoại, với phương
châm “chủ động tích cực” Việt Nam không chỉ chủ động trong hội nhập quốc tế
khu vực đẩy mức hội nhập lên thành chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
thể hiện snăng động của Việt Nam khi tham gia vào sân chơi toàn cầu. Đại hội X đặt
cao nhiệm vụ “hội nhập sâu hơn đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực
song phương”; “chuẩn bị tốt các điều kiện để kết các Hiệp định thương mại tự do
song phương và đa phương”.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.
15 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính tr
Quốc gia, Hà Nội, tr. 35.
14
lOMoARcPSD| 41487147
Trong giai đoạn giữa Đại hội X Đại hội XI, đã những thay đổi về chất
trong tiến trình hội nhập quốc tế với đỉnh cao việc Việt Nam chính thức trở thành
thành viên thứ 150 của WTO (năm 2007). .Sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào
tháng 1 năm 2007, Nghị quyết 08NQ/TW của Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành TW
Đảng khóa X (05/2/2007) về “một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát
triển nhanh, bền vững khi Việt Nam thành viên của WTO” đã nhận định chính xác
những hội những thách thức đặt ra cho Việt Nam khi tham gia vào Tổ chức
thương mại quốc tế. Nghị quyết đã đề ra chủ trương “khẩn trương bsung, hoàn thiện
hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO”
thể hiện công tác chuẩn bị của Việt Nam khi đứng trước sân chơi quốc tế với mong
muốn nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm cũng như việc
củng cố lại bộ máy nhà nước sao cho hoàn thiện hơn, hoạt động hiệu quả hơn.
Tháng 1/2011, Đại hội Đảng lần thứ XI đã để ra đường lối đối ngoại của Việt
Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương mới về việc nâng tầm mức
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đó “chủ động tích cực hội nhập quốc tế”.
Từ “hội nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội trước chuyển sang “hội nhập quốc tế”
thể hiện Việt Nam hội nhập một cách toàn diện hơn. Đây một phát triển quan trọng
về duy đối ngoại của Đảng. Với chủ trương này, Đảng đã thể hiện tầm nhìn chiến
lược toàn diện trong việc hội nhập, không chỉ hội nhập riêng lĩnh vực kinh tế
sự chủ động tích cực mở rộng trên các lĩnh vực khác với quy toàn diện trên các
lĩnh vực như chính trị, văn hóa, quốc phòng - an ninh, xã hội....Đây là bước phát triển
trong nhận thức duy đối ngoại của Đảng, phản ánh những nhu cầu cấp thiết đối
với sự nghiệp cách mạng của đất nước trong bối cảnh quốc tế mới.
Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) cũng đã nêu mục tiêu đối ngoại trong bối
cảnh hội nhập chủ động tích cực trước hết “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”; “vì một
nước Việt Nam hội chủ nghĩa giàu mạnh” để khẳng định nguyên tắc cao nhất của
hoạt động đối ngoại. Về nhiệm vụ đối ngoại, nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của công tác đối
ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; nâng
cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Điểm mới trong Đại hội XI xác định
hơn khía cạnh an ninh khi nêu nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ” đồng thời khẳng định vai trò đối ngoại trong sự
nghiệp phát triển đất nước. Một điểm đáng chú ý nữa đó tuân thủ tiến hành các hoạt
động đối ngoại, khẳng định nguyên tắc đường lối chính sách của Đảng: “bảo đảm
lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát
triển”, “tôn trọng các nguyên tắc bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp
quốc”.
Bộ chính trị về hội nhập quốc tế ban hành Nghị quyết 22-NQ/TW (10/4/2013)
nhằm nhấn mạnh, nâng cao hội nhập hơn nữa trong công cuộc phát triển đất nước:
“Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu
15
lOMoARcPSD| 41487147
quả các quy tắc, luật lệ quốc tế tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực
quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, chế hợp tác trên nguyên tắc cùng lợi”; hội
nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện
quốc tế thuận lợi để phát triển đất ớc nhanh bền vững, nâng cao đời sống nhân
dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy
bản sắc dân tộc; ng ờng sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc
tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
tiến bộ hội trên thế giới. Hội nghị đối ngoại đa phương thế kỷ XXI khuyến nghị
chính sách đối với Việt Nam (12/8/2014) những ớc tiến cụ thể trong chuyển đổi
duy đối ngoại của Đại hội Đảng XI. Việt Nam thực hiện chủ trương “triển khai
đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại” trên tất cả các kênh song
phương đa phương, dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao Nhà nước, đối
ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân.
thể thấy, đường lối của Đảng về hội nhập quốc tế một quá trình ngày
càng đi vào chiều sâu, mang tính tham gia, đóng góp thay chỉ tham gia như trước
đây. Từ đường lối đối ngoại trên sở tuyên bố “muốn bạn” (Đại hội Đảng lần thứ
VII), “sẵn sàng bạn(Đại hội Đảng lần thứ VIII), “là bạn đối tác tin cậy” (Đại
hội Đảng lần thứ IX), Đại hội Đảng lần thứ XI hoàn chỉnh bổ sung thêm cụm từ
“thành viên trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Từ nội dung Đại Hội XI và nghị
quyết đã xác định về đối ngoại đa phương, bộ phận rất quan trọng trong tổng thể
chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam, phương tiện hữu hiệu đ
chúng ta triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa
hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực mở
ra một giai đoạn mới trong hội nhập kinh tế quốc tế. Đó quá trình vừa hợp tác, vừa
đấu tranh cạnh tranh, vừa nhiều hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh
táo, khôn khéo linh hoạt trong việc xử tính hai mặt của hội nhập tùy theo đối
tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể. Cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập
quốc tế với yêu cầu givững an ninh, quốc phòng, nhằm củng cố chủ quyền an
ninh đất nước.
Với những bước phát triển trong duy về hội nhập quốc tế trong giai đoạn
này, bên cạnh việc gia nhập WTO, Việt Nam đã đàm phán kết nhiều hiệp định
FTA song phương và khu vực, như: Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
(JVEPA) năm 2008; khởi động tiến trình đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP) m 2010; Hiệp định Đối tác Hợp tác toàn diện Việt Nam -
EU (PCA) m 2012; FTA của ASEAN với các đối tác (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật
Bản,...). Cũng trong giai đoạn này, hợp tác quốc phòng - an ninh được mở rộng với
việc Việt Nam tham gia một số chế đối thoại khu vực liên khu vực về an ninh -
quốc phòng như: Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội
nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị Cấp cao
Đông Á (EAS), Đối thoại Shangri-La...
16
lOMoARcPSD| 41487147
Giai đoạn 2006 - 2015 giai đoạn tiếp tục cụ thể hóa các chủ trương hội nhập,
nêu cao tinh thần “chủ động tích cực” trong quan hệ đối ngoại, nâng cao mức hội
nhập từ chủ động tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế sang chủ động tích cực hội
nhập quốc tế, lấy lợi ích dân tộc làm mục tiêu cao nhất để từng bước hội nhập sâu rộng
vào các thể chế kinh tế toàn cầu.
2.4. Giai đoạn 2016 – Nay
Trước bối cảnh thế giới trong nước đặt ra hội thách thức cho Việt
Nam, duy hội nhập trong giai đoạn sau 2016 coi hội nhập kinh tế quốc tế trọng
tâm của quá trình hội nhập, đổi mới duy đối ngoại đi vào chiều sâu, hiệu quả các
mối quan hệ đối ngoại, đưa hội nhập quốc tế bước sang giai đoạn mới nâng cao vị
thế của Việt Nam.
Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đề ra chủ trương “Triển khai mạnh mẽ định
hướng chiến lược chủ động tích cực hội nhập quốc tế”, nêu các quan điểm chỉ
đạo các định hướng lớn của hội nhập quốc tế trong từng lĩnh vực để nâng cao hiệu
quả hội nhập quốc tế toàn diện.
Lần đầu tiên, phương châm chỉ đạo các hoạt động đối ngoại được nêu “vừa hợp
tác, vừa đấu tranh”, Đảng đã nhấn mạnh tính hai mặt đan xen của phương châm theo
đó sđan xen trong quan hệ đối ngoại, gắn kết lợi ích một cách lâu dài bền vững
giữa nước ta đối tác, nhất đối tác tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh của
đất nước; tạo dựng lòng tin hình thành nên các chế hợp tác hiệu quả thúc đẩy
quan hệ, ngăn ngừa đẩy lùi các nguy cơ, kiểm soát các bất đồng giải quyết các vấn đề
nảy sinh ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh và phát triển của đất nước.
Định hướng hội nhập quốc tế được đề ra trong văn kiện thể bằng những quan
điểm chỉ đạo cụ thể gồm: Thứ nhất, phải bảo đảm hội nhập quốc tế sự nghiệp của
toàn n cả hệ thống chính trị. Thứ hai, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối
đa nội lực, gắn kết chặt chẽ thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, ng
lực cạnh tranh của đất nước. Thứ ba, hội nhập kinh tế trọng tâm, hội nhập trong các
lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế. thứ tư, hội nhập quá trình
vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xửlinh hoạt mọi tình huống, không để
rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi.
Như vậy, việc đổi mới tư duy trong quá trình hội nhập trong giai đoạn này đã đi
sâu vào quá trình triển khai các cam kết đã ký, tập trung sâu hơn vào việc đẩy mạnh
quan hệ đối tác chiến lược; các nước lớn vai trò quan trọng đối với an ninh phát
triển của đất nước, đưa khuôn khổ đã xác lập đi vào thực chất; hội nhập trong lĩnh vực
an ninh quốc phòng mức cao hơn như hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp
quốc. Đặc biệt Đại hội XII đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển kinh tế đối ngoại đa
phương, đặt ra yêu cầu mới đó chuyển từ “ký kết, gia nhập, tham gia” sang “chủ
động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình”, phát huy vai trò của Việt Nam tại các
chế đa phương được ưu tiên trong 5 năm tới như ASEAN Liên hợp quốc. Theo
định hướng chỉ đạo của Đại hội XII “Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế đến năm
17
lOMoARcPSD| 41487147
2020, tầm nhìn đến m 2030” (7/01/2016) của Thủ tướng Chính phủ đề ra các định
hướng giải pháp trong hội nhập, hội nhập kinh tế luôn được ưu tiên hàng đầu.
Chiến lược xác định mức độ hội nhập kinh tế quốc tế phải ngang bằng với các nước
ASEAN-4, đẩy mạnh sliên kết chặt chẽ giữa các ngành, các vùng miền tập trung
triển khai hiệu quả các hiệp định đã ký kết.
Tiếp sau đó, Đảng đã bổ sung thêm những mục tiêu trong quá trình hội nhập
quốc tế thông qua Nghị quyết 06-NQ/TW của Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành TW
Đảng khóa XII về thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn
định chính trị - hội trong bối cảnh nước ta tham gia các Hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới (05/11/2016) đã nêu mục tiêu thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, giữ vững ổn định chính trị - hội, nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh
tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý,
bảo đảm phát triển nhanh bền vững, nâng cao đời sống nhân dân, bảo tồn phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Các thành tựu nổi bật nhằm cụ thể a chủ trương hội nhập quốc tế nêu trên
thể kể đến như: Việt Nam đã trúng cử vào Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp
quốctháng 11/2016 Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc
(UNCITRAL) nhiệm kỳ 2019-2025; tham gia Phái bộ n giữ hòa bình của Liên hợp
quốc; phê chuẩn Hiệp định Đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình ơng
(CPTPP) tháng 12/2018; vận động để nhiều di sản thiên nhiên, di sản văn hóa vật thể
phi vật thể được UNESCO công nhận; tham gia đóng góp ngày càng chủ động
và tích cực cho Cộng đồng ASEAN,...
Đặc biệt, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021), n kiện của
Đại hội đã những bước phát triển quan trọng trong nhận thức luận về hội nhập
quốc tế, nâng tầm hội nhập quốc tế lên mức cao hơn khi nhấn mạnh nội dung chủ
động, tích cực, toàn diện, sâu rộng. Đại hội XIII đặt ra yêu cầu về tính “toàn diện”
“sâu rộng”. Đó là, hội nhập quốc tế qua tất cả các kênh Đảng, Nhà nước nhân dân,
song phương đa phương, tất cả c cấp, các ngành, các lĩnh vực. Không chỉ rộng
mở về không gian, hội nhập quốc tế tiếp tục đi vào chiều sâu, triển khai các cam kết
quốc tế, trong đó thực hiện hiệu quả các cam kết sâu rộng của các FTA thế hệ mới,
“chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây
dựng, định hình các thể chế đa phương trật tự chính trị - kinh tế quốc tế” lợi ích
quốc gia- dân tộc lợi ích chung của cộng đồng quốc tế trên sở các nguyên tắc
bản của Hiến chương Liên hợp quốc luật pháp quốc tế. Báo o chính trị Đại hội
lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc; tiếp tục thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định,
không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng
cũng đã nêu rõ quan điểm: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở
18
lOMoARcPSD| 41487147
nguyên tắc bản của Hiến chương Liên hợp quốc luật pháp quốc tế, bình đẳng,
hợp tác, cùng lợi... Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí
độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát
huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất nguồn lực
con người quan trọng nhất”; tiếp tục nắm vững xử tốt các quan hệ lớn: giữa
độc lập, tự chủ hội nhập quốc tế” với thực hiện nhiệm vụ trọng tâm: Giữ vững
độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập
quốc tế”.
19
lOMoARcPSD| 41487147
CHƯƠNG 3
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Vận dụng phát triển sáng tạo tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác hội nhập
quốc tế, kể từ năm 1986, cùng với quá trình đổi mới n trong mở rộng hợp tác với
bên ngoài, duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập quốc tế đã liên tục
pháttriển, các hoạt động hội nhập quốc tế, với hội nhập kinh tế quốc tếlà trọng tâm
khởi đầu, cũng liên tục được đẩy mạnh cả về bề rộng chiều sâu. thể tổng hợp
một số nét bản về bước phát triển trong duy về hội nhập quốc tế của Việt Nam
thời kỳ đổi mới như sau:
Thứ nhất, Việt Nam đã sớm nhận thức được hội nhập quốc tế một xu thế lớn
và một quá trình tất yếucủa quan hệ quốc tế từ khi hòa dịu Đông –Tây lan tỏa và Chiến
tranh Lạnh đi vào giai đoạn kết thúc. Quá trình này thu hút sự tham gia của hầu hết các
quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng không phải trường hợp ngoại lệ. Bước
phản ứng đầu tiên của Việt Nam trước xu thế chung này chính sách đổi mới mở
cửa từ năm 1986. Mặc vậy, nhận thức về hội nhập quốc tế của Việt Nam thời kỳ
đầu Đổi Mới còn cầm chừng, tập trung chủ yếu vào sự cần thiết phải “quốc tế hóa các
lực lượng sản xuất trong nước” “tham gia vào phân công lao động quốc tế”. Quan
điểm, nhận thức về những chuyển biến mới trên thế giới, lúc, nơi còn chưa theo
kịp diễn biến tình hình, dẫntới sự chậm trễ trong việc đưa ra c quyết sách kịp thời,
mạnh dạn, phợp, đặc biệt trong chủ trương bước đi cải thiện quan hệ với các đối
tác quan trọng như ASEAN và Mỹ.
Thứ hai, Việt Nam nhìn nhận hội nhập quốc tế một lộ trình dài, cần được triển
khai một cách tịnh tiến, từ thụ động (tham gia các tổ chức quốc tế, chấp nhận “luật chơi”
quốc tế) đến tích cực, chủ động (đóng góp vào quá trình xây dựng “luật chơi”)nhằm phục
vụ tối đa lợi ích quốc gia. Hiện tại, công việc chính trong quá trình hội nhập quốc tế của
Việt Nam vẫn thực hiện các cam kết quốc tế, trong đó chủ yếu các cam kết về thực
hiện những chuẩn mực Việt Nam đã chấp nhận khi gia nhập. Cùng với quá trình này,
Việt Nam cần phải tiến hành những hoạt động xây dựng các “chuẩn mực” mới cùng với
các nước thành viên của các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, do một sốnguyên nhân,nhất
những hạn chế về thế lực, mức độ tham gia của Việt Nam trong các hoạt động xây
dựng những chuẩn mực mới này vẫn còn ở mức thấp.
Thứ ba, các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng coi đổi mới từ bên
trong (đơn phương) hợp tác song phương theo chuẩn mực chung một phần của
hội nhập quốc tế. Theo đó, hội nhập đa phương lấy hợp tác song phương làm nền tảng
đa phương phục vụ cho song phương. Nhận thức về tầm quan trọng của việc đưa
các mối quan hệ ưu tiên đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững hay sự phát triển tư duy
về quan hệ đối tác một điểm nhấn quan trọng trong duy về hội nhập quốc tế lấy
hợp tác song phương làm nền tảng của ngoại giao Việt Nam. Bên cạnh đó, trong gần
20
lOMoARcPSD| 41487147
một thập kỷ trở lại đây, cáchoạt động đối ngoại đa phương Việt Nam được mở rộng
đi vào chiều sâu tất cả các kênh đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại
Quốc hội đối ngoại Nhân dân, điều đó đã thể hiện quan điểm coi trọng ngoại giao
đa phương trong hội nhập quốc tế của Việt Nam thời kỳ Đổi Mới. Tháng 8/2018, chủ
trương về “đẩy mạnh nâng tầm đối ngoại đa phươngđến năm 2030” đã được cụ thể
hóa trong Chỉ th25 của Ban thư, một n chỉ đạo riêng đầu tiên về đối ngoại đa
phương của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư, hội nhập quốc tế của Việt Nam khởi đầu đặt trọng tâm trong lĩnh vực
kinh tế sau đó mở rộng sang các lĩnh vực khácnhư chính trị -ngoại giao, an ninh -
quốc phòng, n hóa -hội,... Trong giai đoạn đầu, các văn kiện của Đảng chỉ đề cập
đến hội nhập kinh tế do đây lĩnh vực trọng tâmvà tiền đề. Đến các đại hội Đảng gần
đây, hội nhập trong các lĩnh vực khác đã được định hướng ngày càng rõ hơn, xuất phát
từ thực tế là hội nhập kinh tế đã tạo sở để Việt Nam mở rộng hội nhập trên các lĩnh
vực khác hội nhập trên các lĩnh vực khác ngày càng tạo ra môi trường thuận lợi
củng cố mức độ hội nhập kinh tế của Việt Nam.Cùng với đó sự phát triển duy từ
hội nhập theochiều rộng sang hội nhập theo chiều sâu trên từng lĩnh vựcvàđồng bộ
trong nhiều lĩnh vực, có sự hỗ trợ lẫn nhau theo lộ trình, có trọng tâm, trọng điểm.
Thứ năm, duy về các cấp độ hội nhập của Việt Nam được thể hiện trong
các văn kiện của Đảng. Theo đó, cấp độ hội nhập đi từ thấp đến cao, hội nhập tiểu khu
vựcvà khu vực mang tầm quan trọng chiến lược, được tiến hành trước, bắc cầu cho hội
nhập liên khu vực hội nhập toàn cầu. Đây một lộ trình phù hợp,phản ánh nhận
thức đúng đắn u sắc của Đảng về các xu thế lớn của thời đại cũng như thế lực
của Việt Nam qua từng giai đoạn phát triển cụ thể.
Dựa trên những nét cơ bản đó, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ:
Một là, Trước hết, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia
khu vực, trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo
điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả hơn. Nối lại các
quan hệ với các nước lớn: Trung Quốc, Hoa Kỳ, kết quả Chính phủ Mỹ tuyên bố bãi
bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam năm 1994, Tổng thống Mỹ tuyên bố chính thức
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam năm 1995, tháng 7/2000, ký Hiệp định Thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Khai thông phát triển quan hệ với Nhật Bản năm 1992
Chính phủ Nhật nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam. Năm 1991, Chính phủ Australia
bãi bỏ lệnh cấm vận buôn bán với Việt Nam. Năm 1992, Việt Nam - Hàn Quốc thiết
lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ...
Hai là, năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN tham
gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), từ tháng 1 năm 1996 bắt đầu thực hiện
nghĩa vụ các cam kết trong chương trình ưu đãi thuế quan hiệu lực chung (CEPT)
của AFTA, theo đó đến 1/1/2006, Việt Nam phải thực hiện đầy đủ các cam kết với mức
thuế nhập khẩu còn 0 - 5% (trừ một số mặt hàng nông sản nhạy cảm sẽ thực hiện vào năm
2010), ngoài ra Việt Nam còn tham gia đàm phán các hiệp định, chương
21
lOMoARcPSD| 41487147
trình như: Hiệp định về thương mại, dịch vụ, chương trình hợp tác trong các lĩnh vực
giao thông, nông nghiệp... Tháng 3 năm 1996, Việt Nam thành viên sáng lập Diễn
đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), nội dung hợp tác chủ yếu là tập trung vào quá trình tự do
hóa thương mại, đầu hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp Á - Âu. Tháng 6 năm
1996, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), đến cuối năm 1998 được công nhận chính thức thành viên của t
chức này. Tháng 11-2006, sau một tuần Việt Nam gia nhập WTO, nước ta đã đăng cai
tổ chức Tuần lcấp cao APEC lần thứ 14 rất thành ng, tạo được tiếng vang lớn với
nhiều ấn tượng tốt đẹp về một Việt Nam đang phát triển ổn định, giàu lòng mến khách
một điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu nước ngoài, tạo n sự tăng trưởng
ngoạn mục trong thu hút FDI trong các năm 2007 2008 . Đặc biệt, tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã một ớc đi quan trọng khi Việt Nam chính
thức trở thành thành viên của WTO vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm
phán gia nhập Tổ chức này. Đây sự kiện đánh dấu sự hội nhập toàn diện của Việt
Nam vào kinh tế thế giới. Với việc gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải
cách chính sách kinh tế, thương mại, đầu đồng bộ, theo ớng minh bạch tự do
hóa hơn, góp phần quan trọng cho việc xây dựng một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ba là, Việt Nam tiếp tục phát huy vai tròthành viên trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế. Chúng ta tiếp tục tham gia một cách chủ động, tích cực, trách nhiệm
vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, cùng các nước thành viên xác định những định
hướng lớn cho Hiệp hội giai đoạn sau khi thành lập Cộng đồng vào năm 2015, thúc
đẩy hợp tác nội khối, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực
đang định hình.
Bốn là, Việt Nam các nước ASEAN ng đang nỗ lực cùng Trung Quốc
hướng tới một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) nhằm duy trì hòa bình, ổn
định, kiểm soát các tranh chấp, góp phần xây dựng lòng tin củng cố mối quan hệ
đối tác chiến lược ASEAN Trung Quốc. Chúng ta đấu tranh kiên quyết với âm mưu,
thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo hòng can thiệp vào công
việc nội bộ của Việt Nam, tạo diễn biến hòa bình, chuyển hóa chế độ, gây bất ổn định
đất nước. Bên cạnh đó, chúng ta chủ động tăng cường trao đổi, đối thoại trên tinh thần
xây dựng với các nước, các tổ chức phi chính phủ về các thành tựu phát triển, bảo vệ
quyền con người quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam nhằm tăng cường hiểu biết
hợp tác với các nước, các đối tác quan trọng.
Năm là, Việt Nam không ngừng tăng cường tham gia toàn diện, sâu rộng trong
khuôn khổ các diễn đàn đa phương. Lần thứ hai, Việt Nam đã chính thức ứng cử làm
Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2020-2021),
đăng cai tổ chức Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới IPU lần thứ 132 (năm
2015) cũng lần thứ hai đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao APEC (năm 2017). Mới
đây nước ta đã được bầu vào Hội đồng Thống đốc Tổ chức Năng lượng Nguyên tử
Quốc tế (IAEA), Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO và lần đầu tiên được bầu vào
22
lOMoARcPSD| 41487147
Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2014-2016) với số phiếu rất cao, kết
quả đó thể hiện uy tín quốc tế của nước ta lòng tin của cộng đồng quốc tế dành cho
Việt Nam. Tại đối thoại Shangri-La Singapore vào tháng 5/2013, Thủ tướng Chính
phủ Nguyễn Tấn Dũng lần đầu tiên đã chính thức công bố Việt Nam quyết định tham
gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc từ năm 2014. Thượng tướng
Nguyễn Chí Vịnh khẳng định chúng ta không đưa cán bộ, chiến vào những nơi
chiến tranh mà thực hiện những công việc mang tính chất củng cố hòa bình tái thiết
những đất nước đang còn nghèo. Với quyết định này, chúng ta không chỉ dừng
mức đóng góp bằng tài chính hay bằng tiếng nói cả bằng nhân lực vào công việc
chung của Liên Hợp Quốc. Nếu việc tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO) mở
đầu sự hội nhập đầy đvào nền kinh tế quốc tế thì với những hoạt động ngoại giao đa
phương trên, Việt Nam đã bắt đầu hội nhập đầy đủ vào đời sống chính trị quốc tế.
Điểm nổi bật hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam tháng 10/2015 Việt Nam đã
hoàn tất đàm phán để kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào
tháng 02/2016. Đây một Hiệp định được kỳ vọng sẽ trở thành một khuôn khổ
thương mại toàn diện, có chất lượng cao là khuôn mẫu cho các Hiệp định thế kỷ 21.
Việc tham gia vào Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam nắm bắt tận dụng tốt hơn các
hội do quá trình hội nhập kinh tế khu vực đem lại, đồng thời Việt Nam thêm
điều kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến ợc phát triển kinh tế - hội,
triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung chiến lược đối ngoại khu vực
châu Á - Thái Bình Dương nói riêng.
Sáu là, chủ trương chủ động tích cực hội nhập quốc tế đang đẩy tiến trình
hội nhập quốc tế của chúng ta lên một tầm cao mới trên tất cả các lĩnh vực, đặt ra yêu
cầu cao hơn về tranh thủ thời chiến ợc sức mạnh thời đại cho phát triển đất
nước cũng như giữ vững độc lập, tự chủ môi trường ổn định khi hội nhập sâu
toàn diện với khu vực thế giới. Quá trình hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng
sâu rộng, để dân tộc ta không đánh mất mình trong thế giới luôn phát triển biến
động klường, để hội nhập không hòa tan. Việc tiếp thu chọn lọc các giá tr
nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài, học tập những kinh nghiệm tốt xây dựng
và phát triển văn hóa của các nước trên thế giới được đẩy mạnh. Mở rộng giao lưu văn
hóa với nước ngoài đi đôi với việc giữ gìn, bồi đắp bản sắc văn hóa của dân tộc; từ đó
phát triển văn hóa Việt Nam lên một tầm cao mới, góp phần vào sự phát triển văn hóa
nhân loại. Thông qua các hoạt động văn hoá đối ngoại, bạn bè thế giới hiểu biết hơn về
đất nước, con người văn hoá Việt Nam, từng bước tạo dựng lòng tin đối với Việt
Nam, đưa quan hệ đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế đang đặt ra cho chúng ta rất nhiều thách thức. Tác
động tiêu cực từ các diễn biến bên ngoài sẽ gia tăng. Những bất ổn không chỉ về kinh
tế mà cả về an ninh, chính trị, xã hội từ bên ngoài sẽ nhanh chóng tác động tới nước ta;
các loại tội phạm xuyên biên giới như: Buôn bán ma túy, rửa tiền, thâm nhập tiền giả,
tài liệu phản động, n hóa phẩm không lành mạnh các thách thức an ninh phi
truyền thống khác có thể gây tác hại đến mọi mặt của an ninh quốc gia từ an ninh kinh
23
lOMoARcPSD| 41487147
tế đến an ninh chính trhội. Đồng thời, yêu cầu bổ sung hoàn thiện thchế; cải
cách hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt
nhân lực chất lượng cao,...sẽ ngày càng lớn.
Theo đó, để giảm thiểu các tác động tiêu cực khai thác tối đa các hội từ
hội nhập quốc tế, nội hàm lộ trình của hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, quốc
phòng, an ninh văn hóa-hội cần phải được xác định phù hợp với thế, lực của đất
nước bối cảnh tình hình đất nước sao cho hội nhập quốc tế phục vụ hiệu quả nhất
mục tiêu phát triển, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và vị thế quốc gia.
Những thành tựu to lớn nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế kết quả
của cả một quá trình thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa
dạng hoá, đa phương hvới chủ trương chủ động tích cực hội nhập ngày càng sâu
rộng với khu vực thế giới. Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để nước ta
càng vững bước trên đường hội nhập quốc tế, đảm bảo lợi ích quốc gia tới mức cao
nhất có thể và ra sức bảo vệ, phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa bền vững.
24
lOMoARcPSD| 41487147
KẾT LUẬN
thể nói, trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, nhận thức vhội nhập
quốc tế của Việt Nam cũng từng bước được hoàn thiện, bổ sung phát triển phù hợp
với mỗi chặng đường phát triển của đất nước trong bối cảnh tình hình khu vực thế
giới những chuyển động không ngừng. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới,
bước đi hội nhập của Việt Nam còn chậm, lĩnh vực hội nhập còn hẹp, và hoạt động hội
nhập còn hạn chế do duy hội nhập còn dặt, thể hiện qua những “thử nghiệm” về
ngôn ngữ cho tới chủ trương về hội nhập. Tuy vậy, đây được coi như giai đoạn mang
tính chuyển đổi quan trọng trong duy đối ngoại nói chung hội nhập quốc tế nói
riêng của Việt Nam với những nghiên cứu, thử nghiệm mang tính đột phá, tạo tiền đề
cho quá trình tăng tốc hội nhập giai đoạn sau. Bước sang thế kỷ XXI, đặc biệt từ Đại
hội XI (2011) trở lại đây, duy hội nhập quốc tế của Việt Nam đã phát triển lên một
tầm cao mới, thể hiện nhận thức sâu sắc của Việt Nam về các xu thế lớn của thời đại
thực tiễn trong nước, phù hợp với thế lực mới của đất nước, đáp ứng đòi hỏi
ngày càng cao của sự nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
25
lOMoARcPSD| 41487147
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Ngoại giao (1995), Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
2. Dương Văn Quảng (2016), Suy nghĩ vềchiều sâu và tính hiệu quảcủa hội nhập quốc
tế từ Đại hội Đảng lần thứXI đến nay, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Số2 (105).
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Vũ Dương Huân (2002), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-
2002),Hà Nội.
7. Phạm Bình Minh (2011), Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn
mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Bùi Thanh Sơn (2015), Hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam,
NXB Chính trị Quốc gia –Sự thật, Hà Nội.
9. Nguyễn Cơ Thạch, Những chuyển biến trên thế giới và tư duy của chúng ta, Tạp chí
Quan hệ Quốc tế, số 1, tháng 01/1990.
10. Nguyễn Vũ Tùng (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam, tập I (1975-2006), Hà
Nội.
11. Báo Điện tử Tạp chí Cộng sản (2012), “Bàn thêm về khái niệm “hội nhập quốc tế”
của Việt Nam trong giai đoạn mới”, truy cập ngày 10/6/2023, tại
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2012/19013/Ban-them-
ve-khai-niem-hoi-nhap-quoc-te-cua-Viet-Nam.aspx.
12. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, trang 520-524, truy cập ngày 25/5/2023,
tại:http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/book/ho-
chi-minh/tac-pham/ho-chi-minh-toan-tap-tap-4-271.
13. Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày 20 tháng 12 năm 1976, truy cập ngày 20/5/2023, tại:
http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/
lan-thu-iv/nghi-quyet-cua-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-iv-cua-dang-1522.
14. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc
tế,2013,truy cập ngày 10/6/2023,
tại:http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/nr091019080134/nr091019083649/
ns140805203450.
26
lOMoARcPSD| 41487147
15. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986, truy cập ngày
15/6/2023, tại:http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/
dai-hoi-dang/lan-thu-vi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-
v-trinh-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-1491.
16. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII năm 1996, truy cập ngày
16/6/2023, tại: http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/
dai-hoi-dang/lan-thu-viii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-
vii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-viii-cua-dang-1549.
17. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X năm 2006, truy cập ngày
15/6/2023, tại: http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-
dang/dai-hoi-dang/lan-thu-x/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-
khoa-ix-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-x-cua-dang-1537.
18. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII năm 2016, truy cập ngày
18/6/2023, tại: http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-
dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-
khoa-xi-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang-1600.
27
| 1/27

Preview text:


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA LỊCH SỬ TIỂU LUẬN CUỐI KỲ ĐỀ TÀI
BẰNG CÁC SỰ KIỆN LỊCH SỬ CÓ CHỌN LỌC,
ANH/CHỊ HÃY PHÂN TÍCH BƯỚC PHÁT TRIỂN
TƯ DUY CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
HỌC PHẦN: Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
GVHD: TS. Nguyễn Thị Phương
SVTH: Nguyễn Văn Hoài – 2056040064
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2023 1 lOMoAR cPSD| 41487147 MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................................................... 3
NỘI DUNG ............................................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1 .............................................................................................................................. 4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI TƯ DUY HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM .......................................................................................................... 4
1.1. Khái niệm đổi mới tư duy hội nhập quốc tế .................................................................... 4
1.2. Các yếu tố tác động đến quá trình phát triển tư duy hội nhập quốc tế của Đảng ....... 5
1.2.1. Tác động của tình hình thế giới.................................................................................. 5
1.2.2. Tác động từ tình hình trong nước ............................................................................. 7
CHƯƠNG 2 .............................................................................................................................. 9
CÁC BƯỚC PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ HỘI
NHẬP QUỐC TẾ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI .............................................................................. 9
2.1. Giai đoạn 1986 – 1990 ....................................................................................................... 9
2.2. Giai đoạn 1991 – 2005 ..................................................................................................... 11
2.3. Giai đoạn 2006 – 2015 ..................................................................................................... 14
2.4. Giai đoạn 2016 – Nay ...................................................................................................... 17
CHƯƠNG 3 ............................................................................................................................ 20
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ............................................................. 20
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 26 2 lOMoAR cPSD| 41487147 ĐẶT VẤN ĐỀ
Chặng đường hơn 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam từ 1986
đến nay là một quá trình đồng hành đầy thử thách, khó khăn. Những thành công đạt
được có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề và động lực để Việt Nam bước vào giai đoạn hội
nhập quốc tế sâu rộng và phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn. Trên thế giới, hội nhập
quốc tế trở thành một xu thế thời đại và diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Sự xuất
hiện của các khối kinh tế và mậu dịch trên thế giới là một tất yếu khách quan, một nấc
thang phát triển mới trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế. Khi gia nhập vào các tổ
chức thương mại trong khu vực và trên thế giới, mỗi quốc gia đều muốn hướng tới một
nền kinh tế phát triển, một xã hội văn minh, hiện đại, đời sống được cải thiện. Đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam thì hội nhập quốc tế là con đường tốt nhất để
rút ngắn sự tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy những lợi thế so
sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế. Hội nhập quốc tế là một
chủ trương lớn của Đảng ta, là nội dung trọng tâm và là một bộ phận quan trọng,
xuyên suốt của công cuộc đổi mới.
Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng đi vào chiều sâu, đây là cơ
sở cho việc xây dựng mối quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Hoạt động đối
ngoại nói chung đã được triển khai đồng bộ và toàn diện. Vị thế, vai trò và uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao trở thành điều kiện thuận lợi
để nước ta chủ động, tích cực hội nhập, tranh thủ được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Có thể thấy quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam là một quá trình lâu dài
trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong giới hạn của bài tiểu luận kết thúc học phần tác
giả không thể khai thác hết được tất cả các mặt, các phương diện trong quá trình hội
nhập quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam mà tập trung vào khai thác, phân tích các
bước ngoặt cơ bản, có tính quyết định trên lĩnh vực hội nhập quốc tế. 3 lOMoAR cPSD| 41487147 NỘI DUNG CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI TƯ DUY HỘI NHẬP
QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Khái niệm đổi mới tư duy hội nhập quốc tế
Thuật ngữ “hội nhập quốc tế” chỉ mới được sử dụng nhiều từ giữa những năm
1990 đến nay, trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh kết thúc, tất cả các quốc gia trên thế
giới đều phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình. Đó cũng là thời điểm Việt
Nam bắt đầu thúc đẩy chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế, tích cực triển khai các nỗ lực bình thường hóa quan hệ với các nước
lớn, gia nhập các định chế, tổ chức kinh tế khu vực. Trong cuốn sách Hội nhập quốc tế
và giữ vững bản sắc do Bộ Ngoại giao Việt Nam xuất bản năm 1995, thay vì sử dụng
thuật ngữ “hội nhập”, trong một số bài viết, các tác giả dùng từ “hòa nhập”. Đơn cử
như trong bài viết “Thế giới sau Chiến tranh Lạnh và châu Á –Thái Bình Dương”, khi
đề cập đến quan hệ Việt Nam –ASEAN, Cố Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đã
nhấn mạnh: “Sự hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN để thúc đẩy quá trình hòa nhập là
sự nỗ lực và đóng góp chung của cả hai phía, vì những mục tiêu và theo những nguyên
tắc đã thỏa thuận. Hòa nhập không có nghĩa là Việt Nam cần được lắp ghép vào
ASEAN như là một thành phần phụ trợ”1. Trong bài viết “Trên đường triển khai chính
sách đối ngoại theo định hướng mới”, Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh
Cầm đã nhận định: “Trên thực tế, sự hòa nhập của Việt Nam vào những quá trình
chung của loài người sẽ được thực hiện ở hai phạm vi: cộng đồng khu vực và cộng
đồng thế giới. Chính sách khu vực sở dĩ cần đặc biệt coi trọng vì tính chất địa lý –
chính trị của nó, đồng thời vì nó là sự “bắc cầu” vào thế giới”2.
Có thể nói, cho tới nay, trong giới nghiên cứu và hoạch định chính sách ở Việt
Nam cũng còn những ý kiến khác nhau về vấn đề “hội nhập quốc tế”. Tiến sĩPhạm
Quốc Trụ cho rằng: “Hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành
các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục
tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các
luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế”3. Trong bài viết
“Bàn thêm về khái niệm ‘hội nhập quốc tế’ của Việt Nam trong giai đoạn mới”, tác giả
Đặng Đình Quý đã đề cập đến khái niệm và nội hàm của hội nhập quốc tế của Việt
Nam hiện nay là:“Hội nhập quốc tế là hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế, là
quá trình chủ động chấp nhận, áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực
1 Bộ Ngoại giao (1995) Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 148.
2 Bộ Ngoại giao (1995) Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 161.
3 Phạm Bình Minh (2011), Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 147 4 lOMoAR cPSD| 41487147
quốc tế nhằm phục vụ tối đa lợi ích quốc gia, dân tộc”4. PGS.TS. Dương Văn Quảng
trong bài viết “Suy nghĩ về chiều sâu và tính hiệu quả của hội nhập quốc tế từ Đại hội
Đảng lần thứ XI đến nay” cho rằng: “Hội nhập quốc tế là một quá trình cả về nhận
thức và hành động, trong đó, Việt Nam trước hết là chấp nhận và sau đó là tự nguyện
tham gia vào đời sống quốc tế”5. Chia sẻ khái niệm hội nhập quốc tế của tác giả Đặng
Đình Quý ở trên, PGS.TS. Dương Văn Quảng cũng cho rằng, theo tiến trình lịch sử,
loài người đi từ hợp tác đến hội nhập. Tuy nhiên, sự khác biệt về chất giữahợp tác và
hội nhập là khả năng lựa chọn và khả năng hành động, theo đó “trong hợp tác, quốc
gia này hay quốc gia kia có khả năng lựa chọn, nhưng trong hội nhập, ai chấp nhận
luật chơi mới được tham gia”6.
Từ các quan điểm trên, có thể thấy hội nhập quốc tế là tiến trình một quốc gia
theo đuổi lợi ích, mục tiêu của mình thông qua việc tự giác, chủ động hợp tác, liên kết
sâu rộng với các quốc gia khác trên nhiều lĩnh vực (kinh tế, chính trị, an ninh, quốc
phòng, văn hóa, xã hội,...) dựa trên sự chia sẻ về nhận thức, lợi ích, mục tiêu, giá trị,
nguồn lực, quyền lực (chủ quyền, thẩm quyền định đoạt chính sách,...) và chủ động
chấp nhận, tuân thủ, tham gia xây dựng các luật chơi chung, chuẩn mực chung trong
khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.
Nói ngắn gọn, hội nhập quốc tế là hình
thức phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình chủ động chấp nhận, áp dụng và
tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ tối đa lợi ích quốc gia - dân tộc.
1.2. Các yếu tố tác động đến quá trình phát triển tư duy hội nhập quốc tế của Đảng
1.2.1. Tác động của tình hình thế giới
* Một số xu hướng phát triển của thời đại
Từ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xu thế hội nhập quốc tế đã trở
nên phổ biến trên toàn thế giới, trở thành xu hướng chung của nhân loại trong thời đại ngày nay.
Thứ nhất, hội nhập quốc tế là kết quả tất yếu khách quan của quá trình toàn cầu
hóa, do sự phát triển của lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Hội
nhập là sự tham gia có tính tự giác của chủ thể vào quá trình toàn cầu hóa để đạt được
mục đích nhất định của mình theo những nội dung và cấp độ khác nhau. Có nhiều mức
độ khác nhau của hội nhập quốc tế, mức thấp nhất là mở rộng hợp tác với các bên
ngoài, tức là tham gia vào hệ thống quan hệ hệ quốc tế. Mức cao nhất là trở thành một
4 Báo Điện tử Tạp chí Cộng sản (2012), “Bàn thêm về khái niệm “hội nhập quốc tế” của Việt Nam
trong giai đoạn mới”, truy cập ngày 10/6/2023, tại http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-
Traodoi/2012/19013/Ban-them-ve-khai-niem-hoi-nhap-quoc-te-cua-Viet-Nam.aspx.
5 Dương Văn Quảng (2016), Suy nghĩ vềchiều sâu và tính hiệu quảcủa hội nhập quốc tếtừĐại hội Đảng
lần thứXI đến nay, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Số2 (105), tr. 19.
6 Dương Văn Quảng (2016), Suy nghĩ vềchiều sâu và tính hiệu quảcủa hội nhập quốc tếtừĐại hội Đảng
lần thứXI đến nay, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Số2 (105), tr. 19. 5 lOMoAR cPSD| 41487147
thành viên có trách nhiệm, có vị trí và vai trò xứng đáng trong cộng đồng quốc tế. Có
thể nói, hội nhập quốc tế chính là giai đoạn phát triển cao hơn về chất so với việc phát
triển các quan hệ hợp tác quốc tế. Thực chất, hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác,
vừa đấu tranh để thực hiện lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc. Quá trình hội nhập quốc
tế được đặt trong các mối quan hệ nhiều mặt, từ quan hệ đa dạng, song phương, đa
phương với các chủ thể khác nhau trong cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông
Âu trong năm 1991 đã làm cục diện thế giới và các quan hệ quốc tế thay đổi một cách
cơ bản. Trật tự thế giới mới đã được thiết lập sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, do sự
phát triển không đồng đều giữa các lực lượng, các chủ thể quốc tế cho nên vai trò và vị
trí của mỗi quốc gia, mỗi chủ thể quốc tế đều được sắp xếp lại. Đặc biệt là cục diện
kinh tế quốc tế đa trung tâm dần định hình rõ nét hơn. Tương quan, tiềm lực sức mạnh
của các quốc gia đang có những thay đổi điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến cả những
trung tâm kinh tế cũ và các nền kinh tế mới nổi.
Thứ ba, trong khi Mỹ vẫn là nền kinh tế lớn và là trung tâm Kinh tế - Tài chính
lớn thì thế giới cũng nhắc nhiều đến sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nước này được mệnh
danh là “gã khổng lồ” kinh tế bởi tốc độ tăng trưởng nhanh chóng. Khi bắt đầu công
cuộc cải cách mở cửa năm 1978 Trung Quốc đã đổi mới trong chính sách đối ngoại
của mình. Những năm sau đó nước này tham gia tích cực vào quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, tận dụng tốt yếu tố thời cơ trong quan hệ quốc tế để thúc đẩy sự phát triển về kinh tế.
Thứ tư, hội nhập quốc tế chịu tác động sâu sắc từ cuộc cuộc cách mạng khoa
học công nghệ đang trong quá trình chuyển mình mạnh mẽ sang giai đoạn đầu của
cuộc cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đây được coi là xu thế thế giới trong
tương lai gần. Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra ngày càng
mạnh mẽ, đặc biệt trên lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ sinh học; khoa học
công nghệ dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đẩy mạnh quá trình phát triển
kinh tế, thay đổi cơ cấu kinh tế và tạo ra nhũng viến đại sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực.
Ngoài ra, hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, bên cạnh đó vẫn
tiếp tục diễn ra xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành tài nguyên, lãnh thổ... Đây là
giai đoạn tình hình thế giới diễn biến phức tạp và khó lường, dù xu thế lớn của thế giới
vẫn là hòa bình và hợp tác nhưng nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ vẫn gặp tình trạng
tranh chấp. Bên cạnh xu thế hợp tác về kinh tế, văn hóa, xã hội thì tình hình bất ổn về
chính trị nêu trên cũng đặt ra yêu cầu hội nhập về chính trị - an ninh. Một trong những
điều kiện đảm bảo thúc đẩy quá trình hội nhập một cách thuận lợi là phải tạo ra được
môi trường hòa bình, ổn định và tin cậy giữa các quốc gia.
* Tác động của xu thế hội nhập quốc tế đối với Việt Nam
Hội nhập quốc tế sẽ mang đến cho tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng những thuận lợi để phát triển đất nước. Thông qua bức tranh xu thế 6 lOMoAR cPSD| 41487147
phát triển của quá trình hội nhập quốc tế nêu trên có thể tóm lược lại những lại cơ hội
mà nước ta có thể tận dụng từ các mối quan hệ quốc tế đó để vận dụng vào quá trình
hội nhập quốc tế của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay:
Một là, hội nhập quốc tế cho chúng ta cơ hội tận dụng các nguồn vốn đầu tư và
tiếp nhận công nghệ tiên tiến, hiện đại đồng thời học hỏi được kinh nghiệm quản lí và
sản xuất hiệu quả từ đó thúc đẩy quá trình xây dựng đất nước.
Hai là, thị trường xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, giao lưu thương mại quốc tế
được mở rộng nhờ quá trình hội nhập quốc tế. Từ đó bản thân các doanh nghiệp, người
tiêu dùng, đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng được nâng cao.
Ba là, trong quá trình hội nhập quốc tế Việt Nam có thể học hỏi được kinh
nghiệm từ các nền kinh tế lớn, chính sách điều tiết kinh tế và vận dụng các quy luật
phát triển vào tình hình thực tiễn đất nước.
Bốn là, cơ hội tiếp cận văn hóa của thế giới trong tiến trình hội nhập là điều
kiện quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm là, hội nhập quốc tế mở ra khả năng hội nhập chính trị, thúc đẩy quá trình
tham gia vào đời sống chính trị trong khu vực và quốc tế đồng thời xây dựng được vị
thế và tiếng nói của Việt Nam trên trường quốc tế dựa trên nguyên tắc đảm bảo
nguyên tắc độc lập, tự chủ.
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (chính
trị, kinh tế, văn hóa, an ninh - quốc phòng, giáo dục...), hoặc diễn ra trên cùng nhiều
lĩnh vực với tính chất, phạm vi, hình thức khác nhau. Chủ thể chính của hội nhập quốc
tế là các quốc gia có đủ năng lực và thẩm quyền đàm phán, ký kết và thực hiện các
cam kết quốc tế khi đã ký tham gia. Hội nhập quốc tế là một xu thế lớn, tất yếu và là
đặc trưng quan trọng của thế giới hiện nay. Hội nhập quốc tế đem tới cho các quốc gia
không chỉ những lợi ích về mọi mặt, mà còn đặt các quốc gia trước những thách thức,
bất lợi. Song, con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại
toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế.
1.2.2. Tác động từ tình hình trong nước
Từ đầu năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã
giành được thắng lợi hoàn toàn, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi
to lớn ấy đã mở ra một giai đoạn mới cho lịch sử dân tộc. Trong 10 năm từ 1975 -
1985, từ thực tế cách mạng Việt Nam sau khi đất nước thống nhất bên cạnh những
thành tựu đạt được, quá trình phát triển đất nước cũng gặp phải nhiều khó khăn. Trong
thời gian đó, Việt Nam: “Trong mười năm qua, ta đã phạm nhiều sai lầm trong việc
xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ
nghĩa và quản lý kinh tế”. Việt Nam đã rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội: kinh tế
tăng trưởng thấp và thực chất không có phát triển. Với một xuất phát điểm thấp, trình
độ khoa học kỹ thuật còn hạn chế, Việt Nam vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, 7 lOMoAR cPSD| 41487147
đời sống nhân dân hết sức thiếu thốn, khó khăn". Trong tư duy và đường lối đối ngoại,
do nhiều yếu tố lịch sử tác động, từ sau khi đất nước thống nhất đến năm 1985, chính
sách đối ngoại của Việt Nam chủ yếu về cơ bản tập trung vào lĩnh vực đối ngoại chính
trị, chịu ảnh hưởng nặng nề của tư duy ý thức hệ nặng về phe phái, "ai thắng ai" trong
sự cạnh tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, cùng với đó là sự chi phối
của cuộc diện Chiến tranh lạnh giữa hai hệ thống chính trị - xã hội đương đại. Trước
tình hình đó, Việt Nam cần tập trung các nguồn lực, để đưa đất nước vượt ra khỏi
những khó khăn, phá vỡ thế bao vây cấm vận để thu hút các nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ
từ bên ngoài để phát triển đất nước.
Bên cạnh đó, Đại hội lần thứ VI (12/1986) – Đại hội đổi mới, Đảng ta đã tiến
hành công cuộc đổi mới đất nước toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh
vực đối ngoại, đổi mới tư duy là vấn đề mang tính cấp bách hàng đầu. Xuất phát từ
việc chúng ta chưa nắm bắt được xu thế quốc tế chuyển đổi từ đối đầu sang hòa hoãn
và chạy đua về kinh tế, không có đường lối đối ngoại phù hợp với tình hình quốc tế.
Buộc chúng ta cần thay đổi về tư duy để đưa đất nước thoát khỏi và phát triển về mọi
mặt bằng việc đối mới về toàn bộ, toàn diện, trong đó đổi mới về tư duy đối ngoại
trong thời kỳ mới của Đảng. Những bước đột phá trong tư duy đối ngoại của Đảng đã
tạo tiền đề cho quá trình phát triển tư duy về hội nhập quốc tế. Những chuyển biển
trong tư duy của Đảng về nhận thức tình hình thế giới, mở rộng quan hệ hợp tác thay
đổi quan điểm "bạn và thù”, từng bước tháo gỡ những khó khăn trong lĩnh vực đối
ngoại. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (5/1988) đã thể hiện sự đổi mới tư duy mạnh
mẽ trong đánh giá tình hình thế giới và chuyển hưởng toàn bộ chiến lược đối ngoại
của nước ta. Đến Đại hội VII (1991) của Đảng xác định chủ trương: “hợp tác bình
đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác
nhau bên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”. Đảng ta không ngừng củng cố
và phát triển những quan điểm nhận thức mới trong tư duy đối ngoại, chủ động phát
triển đa phương hoá, đã dạng hoá, “thêm bạn, bớt thủ". Đến Đại hội IX, tư duy đối
ngoại của Đảng tiếp tục có bước chuyển biến mới, Việt Nam từ sẵn sàng là bạn
chuyển sang muốn làm bạn với tất cả các nước, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX
(2003) với quan điểm mới về đối tác — về hợp tác và đấu tranh,... Những chuyển biến
trong tư duy đối ngoại ấy đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển tư duy đối
ngoại của Đảng về hội nhập quốc tế cũng như là quá trình hội nhập quốc tế của Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới. 8 lOMoAR cPSD| 41487147 CHƯƠNG 2
CÁC BƯỚC PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Đổi mới tư duy đối ngoại nói chung, phát triển và đổi mới tư duy về hội nhập
quốc tế nói riêng trong thời kỳ Đổi Mớilà một quá trình liên tục, từ thấp đến cao, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Việc đổi mới tư duy về hội nhập quốc tế của Việt
Nam được thể hiện qua các văn kiện của Đảng, được thông qua tại các kỳ Đại hội, các
Hội nghị của Ban chấp hành Trung ương, Hội nghị Bộ Chính trị của Đảng và qua các
chính sách của Nhà nước.
Trong hơn 35 năm từ khi Đổi mới đất nước đến nay, trải qua bảy kỳ Đại hội
Đảng, tư duy hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được nâng cao. Những bước đổi mới
tư duy đó được thể hiện qua các 4 giai đoạn chính: giai đoạn 1986-1990, giai đoạn
1991 - 2005, giai đoạn 2006 - 2015; giai đoạn 2016 - nay.
Trong giai đoạn 1986 - 1990, là bước đi đầu tiên nhưng là tiền đề quan trọng
trong quá trình hội nhập sau này; là giai đoạn Đảng nhận thức lại tình hình bối cảnh
đất nước, nhìn nhận lại thể chế, hệ thống nhà nước và có bước thay đổi tư duy kịp thời,
mở ra cục diện mới cho Việt Nam. Trong giai đoạn 1991 - 2005, tiếp tục trong việc
triển khai chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa; bước tiếp theo là chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực. Đưa Việt Nam từ thế bị động trong hội nhập kinh tế quốc
tế sang thế chủ động. Trong giai đoạn 2006 - 2016, với hai bước chuyển tư duy chính
đó là từ chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế lên chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế. Sự thay đổi trong tư duy này nhằm phù hợp với xu thế phát triển của
Việt Nam khi Việt Nam tham gia đầy đủ vào các sân chơi kinh tế khu vực và toàn cầu.
Trong giai đoạn 2016 đến nay, Việt Nam đã tham gia sâu hơn trong các mối quan hệ đối ngoại.
2.1. Giai đoạn 1986 – 1990
Đây là thời kỳ biến động phức tạp. Đất nước đang phải khắc phục hậu quả nặng
nề của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, trong lúc đó công cuộc cải tổ ở Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu bắt đầu mắc phải những sai lầm nghiêm trọng,
dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và cả hệ thống xã hội chủ nghĩa. Những nhân tố bên
trong và bên ngoài của giai đoạn này đóng vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy đổi mới
tư duy và nhận thức của Đảng và Nhà nước về việc xóa bỏ mô hình kinh tế khép kín,
tự cung tự cấp, chuyển sang mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế để tranh thủ thị trường và
các nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế – xã hội.
Mặc dù thực tiễn hội nhập quốc tế của Việt Nam đã được manh nha từ trước
đổi mới nhưng có thể nói, quá trình phát triển tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về
hội nhập quốc tế thực chất chỉ bắt đầu cùng vớisự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước,
trong đó có đổi mới về đối ngoại, được Đại hội VI (năm 1986) khởi xướng. Bước vào
thời kỳ đổi mới, đứng trước yêu cầu cấp bách phải đưa nền kinh tế nhanh chóng vượt 9 lOMoAR cPSD| 41487147
ra khỏi khủng hoảng, phá thế bị bao vây cấm vận của chủ nghĩa tư bản, đường lối mở
rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tếcủa Việt Namngày càng được bổ sung,
hoàn thiện và được thực hiện tích cực hơn.
Trong quan hệ với các nước, Đại hội VI chủ trương củng cố và tăng cường tình
đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và
phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát
triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng
quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập
chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Dù chưa đề cập trực tiếp khái niệm toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
(mà sử dụng khái niệm “quốc tế hoá” và “tham gia vào phân công lao động quốc tế),
song Đảng và Nhà nước ta đã có nhận thức ban đầu khách quan và tích cực về quá
trình quốc tế hóa (như sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, lực lượng sản
xuất, quá trình quốc tế hóa sản xuất) và sự cần thiết phải mở rộng và tăng cường hợp
tác kinh tế quốc tế. Nhận thức này là tiền đề cho những nhận thức đầy đủ hơn về toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế trong các giai đoạn tiếp theo.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội VI của
Đảng, cùng với tuyên bố tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đã đưa ra chính sách
đối ngoại thêm bạn bớt thù, mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng
tồn tại hòa bình, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đảng ta chủ trương: “phải tham gia sự phân công lao động
quốc tế... tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế
giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước
ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi”7. Nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách
đối ngoại, Nghị quyết Đại hội Đảng cũng chủ trương vận dụng nhiều hình thức đa
dạng để phát triển kinh tế đối ngoại như mở rộng xuất nhập khẩu, thống nhất quản lý
ngoại hối, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn,...
Sau gần hai năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị ra
Nghị quyết số 13/NQ-TW “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”.
Đây là một văn kiện rất quan trọng thể hiện bước đột phá trong nhận thức về đốingoại
của Việt Nam thời kỳ Đổi mới, như lời nhận xét của Cố Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Nguyễn Cơ Thạch: “Nghị quyết 13 về đối ngoại của Bộ Chính trị là một cuộc đổi mới
mạnh mẽ tư duy trong việc đánh giá tình hình thế giới, trong việc đề ra mục tiêu và
chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của ta”8. Trong đó, mục tiêu đối ngoại
được Nghị quyết khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố
7 Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 81.
8 Nguyễn Cơ Thạch (1990), Những chuyển biến trên thế giới và tư duy của chúng ta, Tạp chí Quan hệ Quốc tế, số 1, tr. 8. 10 lOMoAR cPSD| 41487147
và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế”9.Với quan điểm
mới về an ninh và phát triển, và phương hướng ưu tiên “xây dựng và phát triển kinh
tế”được đưa lên hàng đầu, Nghị quyết đã phản ánh nhận thức đúng đắn của Đảng về
xu thế mới trong quan hệ quốc tế giai đoạn cuối Chiến tranh Lạnh và bước chuyển kịp
thời trong tư duy về đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam, làm tiền đề cho
những bước hội nhập mạnh mẽ trên lĩnh vực kinh tế thời kỳ đầu Đổi mới. Với phương
châm “thêm bạn, bớt thù”, “bạn” và “thù” được xác định dựa trên lợi ích của dân tộc
tức là: Đối với Việt Nam Mỹ không còn là kẻ thù cơ bản lâu dài, Trung Quốc không
còn là kẻ thù nguy hiểm trực tiếp, Liên Xô cũng không còn là hòn đá tảng trong chính
sách đối ngoại. Như vậy, Việt Nam bắt đầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm “đa dạng
hóa các mối quan hệ” với các nước trên toàn thế giới.
Như vậy, kết thúc giai đoạn này, giai đoạn đầu tiên của công cuộc Đổi mới,
việc đổi mới tư duy và chính sách đối ngoại đã nhanh chóng được triển khai mặc dù
chỉ là những bước sơ khởi nhưng đã đem lại những kinh nghiệm về cách nhìn nhận và
cách tiếp cận thế giới của Đảng và nhà nước. Những bước chuyển tư duy này là tiền đề
trong việc phá bỏ bao vây cấm vận cũng như việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế
trong những giai đoạn tiếp theo.
2.2. Giai đoạn 1991 – 2005
Tiếp tục đổi mới tư duy trong việc đánh giá tình hình thế giới và nhấn mạnh quan
điểm về việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới của
tình hình thế giới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội do Đại hội VII thông qua năm 1991 đã khẳng định: “Chúng ta đã xây dựng được một
số cơ sở vật chất ban đầu. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cùng với xu
thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giớilà một thời cơ để phát triển”10. Do đó “chúng ta
phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ
của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế”11.
Có thể nói, cho đến Đại hội VII (1991), khái niệm hội nhậpquốc tếchưa xuất
hiệntrong đời sống chính trị Việt Nam, nhưng nhận thức của Đảng về quá trình “quốc
tế hóađời sống kinh tế”và “hợp tác quốc tế”là tiền đề quan trọng để phát triển tư duy
về hội nhập quốc tế. Trong thời kỳ này, trên thực tế, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
đã bắt đầu diễn ra với việc Việt Nam bình thường hóa quan hệ vớicác thể chế tài chính
– ngân hàng khu vực và thế giới như:Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) vào tháng 10/1993 sau những bước phát
triển mới trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Đó cũng là
những bước đi cụ thể hóa chủ trương “khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính,
tiền tệ quốc tế”được đưa ra trong Nghị quyết số 03-NQ/TW của Hội nghị Trung ương
9 Nguyễn Cơ Thạch (1990), Những chuyển biến trên thế giới và tư duy của chúng ta, Tạp chí Quan hệ Quốc tế, số 1, tr. 7.
10 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 11 lOMoAR cPSD| 41487147
lần thứ 3 khóa VII (tháng 6/1992). Bên cạnh đó, Nghị quyết số 03-NQ/TW (1992)
cũng chính thức xác định phương châm: “Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở
rộng quan hệ với tất cả các nước”12. Đây là phương châm định hướng cho việc Việt
Nam gia nhập ASEAN, bước hội nhập khu vực vô cùng quan trọng, làm nền tảng và
bắc cầu cho hội nhập liên khu vực và toàn cầu của Việt Nam trong những giai đoạn
tiếp theo. Trong thời gian này, Việt Nam cũng tham gia một số cơ chế hợp tác kinh tế
tiểu khu vực như Hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS), Hành lang kinh tế Đông –Tây (EWEC),...
Thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập lần đầu tiên trong Báo cáo chính
trịĐại hội VIII của Đảng (năm 1996): “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với
khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng
những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”[17]. Trước khi khái niệm “hội
nhập” được đưa vào các văn kiện chính sách, ở Việt Nam đã có một số thử nghiệm về
ngôn ngữ liên quan tới khái niệm này, đó là khái niệm “nhất thể hóa”, sau đó là khái
niệm “hòa nhập” (như đã đề cập ở trên). Hai khái niệm này tuy thể hiện khá chính xác
nội hàmcủa tiến trình hội nhập, nhưng dễ gây tâm lý lo ngại về nguy cơ mất bản sắc và
độc lập tự chủ, do đó thuật ngữ “hội nhập” được sử dụng và trở thành khái niệm chính
thức trong văn kiện của Đảng kể từ năm 1996.
Sau kỳ Đại hội VIII, tháng 11/1996 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 01 -
NQ/TW về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại giai đoạn 1996 - 2000 đã
khẳng định chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu
quả, bền vững” theo nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, an
ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá
trình chủ động hội nhập được thể hiện rõ tại Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành trung
ương khóa VIII (12/1997), Đảng ta đề ra nhiệm vụ cụ thể “tiến hành khẩn trương,
vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập Diễn đàn hợp tác
kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),
có kế hoạch cụ thể để chủ động cam kết gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)”.
Triển khai chủ trương “hội nhập với khu vực và thế giới”, trong giai đoạn này,
Việt Nam đã đẩy mạnh quá trình tham gia vào các thể chế ở cấp độ khu vực và liên
khu vực như: gia nhập ASEAN năm 1995, ký Hiệp định khung hợp tác Việt Nam –EU
(FCA) năm 1995, gia nhập Diễn đàn Hợp tác Á -Âu (ASEM) năm 1996, trở thành
thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á -Thái Bình Dương (APEC) năm
1998. Cũng trong năm 1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), đánh dấu sự khởi đầu của nỗ lực hội nhập kinh tế ở cấp độ toàn cầu.
Đến Đại hội IX (năm 2001), chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được
bổ sung, hoàn thiện và phát triển: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vựctheo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập
12 Vũ Dương Huân (2002), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002), Hà Nội, tr. 91. 12 lOMoAR cPSD| 41487147
tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”13. Việt Nam không chỉ muốn làm bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới mà Việt Nam còn “sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển”. Mối quan hệ được nâng từ “bạn” thành “đối tác tin cậy” khẳng định sự
tham gia sâu hơn, chủ động hơn của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới. Việt
Nam muốn chủ động phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo
đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia. Đây là sự phản ánh một nấc thang cao hơn trong nhận thức và tư duy về đối
ngoại nói chung và về hội nhập quốc tế nói riêng của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Nhằm cụ thể hóa đường lối hội nhập đó, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 07-
NQ/TW ngày 27/11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó làm rõ hơn mục tiêu,
quan điểm chỉ đạo, nội dung và nhiệm vụ cụ thể của hội nhập kinh tế quốc tế. Để tăng
cường công tác hội nhập kinh tế quốc tế, Chính phủ thành lập Uỷ ban quốc gia về hợp
tác kinh tế thực hiện nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Việt Nam không
ngừng mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các trung
tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực. Việt Nam chủ động
tham gia và tích cực đóng góp vào giải quyết các vấn đề toàn cầu, bảo vệ hoà bình,
chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang. Đi đôi với việc đa phương hóa, đa
dạng hoá quan hệ, Việt Nam đã và đang từng bước chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực. Nghị quyết 07 tập trung đi sâu vào vấn đề hội nhập, thể hiện rõ sự thống
nhất về mặt nhận thức và hành động, đã đặt ra những mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và
nhiệm vụ cụ thể đối với hội nhập kinh tế quốc tế. Giai đoạn này, hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam đã bắt đầu đi vào chiều sâu với việc ký kết Hiệp định Thương mại
song phương (BTA) với Hoa Kỳ năm 2001, thực hiện AFTA, đẩy nhanh tiến trình
đàm phán gia nhập WTO,... Việc triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết 07-
NQ/TW đã phản ánh một nấc thang cao hơn trong nhận thức và tư duy về hội nhập
quốc tế của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam thay đổi
quan điểm, tư duy về mối quan hệ với các nước. Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX (2003) là bước đổi mới trong tư duy hội nhập đó là việc xác định “đối
tác, đối tượng” thay cho quan điểm chỉ dựa trên ý thức hệ để xác định bạn - thù. Đảng đã
đề ra nguyên tắc trong việc xác định đối tác, đối tượng phù hợp. Đối tác là những quốc gia
tôn trọng động lập, chủ quyền của Việt Nam, hợp tác bình đẳng và hai bên cùng có lợi.
Đối tượng là những thế lực có âm mưu và hành động chống lại sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam.Với phương châm: “Phải trên tinh thần thêm bạn, bớt thù,
phân hóa, cô lập các thế lực thù địch chống đối ta, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ
của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia, dân
tộc là vĩnh viễn. Không nên xác định cả một quốc gia là
13 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 43. 13 lOMoAR cPSD| 41487147
đối tượng đấu tranh mà chỉ nên nói các thế lực thù địch, hoặc một số người trong giới
cầm quyền ở một số nước nào đó có hành động cực đoan, hiếu chiến, chống đối ta, các
cơ quan tình báo nước ngoài có hoạt động phương hại đến an ninh quốc gia của ta.
Không có đối tác vĩnh viễn, song phải xác định được những đối tác chiến lược, lâu dài,
nhất quán trên cơ sở chủ trương thêm bạn, bớt thù, khai thác triệt để mặt đối tác nhằm
bảo đảm lợi ích lâu dài và chắc chắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Hội nghị lần thứ 9 khóa IX, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm
vụ còn lại của Đại hội lần thứ IX về hội nhập kinh tế quốc tế, cần chủ động và khẩn
trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, trong việc thực hiện đầy đủ các cam kết
quốc tế đa phương, song phương đã ký và chuẩn bị tốt các điều kiện để sớm gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Giai đoạn 1991 - 2005 là một giai đoạn phát triển liên tục trong tư duy hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam, giai đoạn này đã thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược rõ
ràng, từng bước từng bước kế thừa giai đoạn trước để nâng cao vị thế, mở rộng tầm
ảnh hưởng hội nhập. Từ bước là bạn chuyển sang là đối tác; tư bước còn bị động
chuyển sang chủ động hội nhập, từ song phương đến khu vực và mức độ hội nhập
ngày càng lan rộng đó là hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Như vậy, kết thúc hội nghị
lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng khóa IX là dấu mốc cho việc triển khai nhiệm vụ hội
nhập quốc tế ở mức độ cao hơn đó là hội nhập toàn cầu.
2.3. Giai đoạn 2006 – 2015
Đại hội X (năm 2006) tái khẳng định chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế theo lộ trình” và nêu định hướng “đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên
các lĩnh vực khác”14. Với định hướng này, hợp tác quốc tế của Việt Nam trong các lĩnh
vực quốc phòng - an ninh, văn hóa - xã hội được đẩy mạnh, nhất là trong khuôn khổ các
cơ chế hợp tác của ASEAN và do ASEAN làm trung tâm. Tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã có thêm một bước phát triển tư duy quan trọng với việc chuyển từ“hội nhập
kinh tế quốc tế”sang“chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”15, tức là mở rộng phạm vi,
lĩnh vực và tính chất của hội nhập trên cơ sở những thành tựu đã đạt được của tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế ở tất cả các cấp độ. Như vậy, về tư duy đối ngoại, với phương
châm “chủ động và tích cực” Việt Nam không chỉ là chủ động trong hội nhập quốc tế và
khu vực mà đẩy mức hội nhập lên thành chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
thể hiện sự năng động của Việt Nam khi tham gia vào sân chơi toàn cầu. Đại hội X đặt
cao nhiệm vụ “hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực
và song phương”; “chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các Hiệp định thương mại tự do
song phương và đa phương”.
14 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.
15 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 35. 14 lOMoAR cPSD| 41487147
Trong giai đoạn giữa Đại hội X và Đại hội XI, đã có những thay đổi về chất
trong tiến trình hội nhập quốc tế với đỉnh cao là việc Việt Nam chính thức trở thành
thành viên thứ 150 của WTO (năm 2007). .Sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào
tháng 1 năm 2007, Nghị quyết 08NQ/TW của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành TW
Đảng khóa X (05/2/2007) về “một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát
triển nhanh, bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO” đã nhận định chính xác
những cơ hội và những thách thức đặt ra cho Việt Nam khi tham gia vào Tổ chức
thương mại quốc tế. Nghị quyết đã đề ra chủ trương “khẩn trương bổ sung, hoàn thiện
hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO”
thể hiện công tác chuẩn bị của Việt Nam khi đứng trước sân chơi quốc tế với mong
muốn nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm cũng như việc
củng cố lại bộ máy nhà nước sao cho hoàn thiện hơn, hoạt động hiệu quả hơn.
Tháng 1/2011, Đại hội Đảng lần thứ XI đã để ra đường lối đối ngoại của Việt
Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương mới về việc nâng tầm mức
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đó là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
Từ “hội nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội trước chuyển sang “hội nhập quốc tế”
thể hiện Việt Nam hội nhập một cách toàn diện hơn. Đây là một phát triển quan trọng
về tư duy đối ngoại của Đảng. Với chủ trương này, Đảng đã thể hiện tầm nhìn chiến
lược toàn diện trong việc hội nhập, không chỉ hội nhập riêng ở lĩnh vực kinh tế mà là
sự chủ động và tích cực mở rộng trên các lĩnh vực khác với quy mô toàn diện trên các
lĩnh vực như chính trị, văn hóa, quốc phòng - an ninh, xã hội....Đây là bước phát triển
trong nhận thức và tư duy đối ngoại của Đảng, phản ánh những nhu cầu cấp thiết đối
với sự nghiệp cách mạng của đất nước trong bối cảnh quốc tế mới.
Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) cũng đã nêu rõ mục tiêu đối ngoại trong bối
cảnh hội nhập chủ động và tích cực trước hết là “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”; “vì một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh” để khẳng định nguyên tắc cao nhất của
hoạt động đối ngoại. Về nhiệm vụ đối ngoại, nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của công tác đối
ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng
cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Điểm mới trong Đại hội XI là xác định rõ
hơn khía cạnh an ninh khi nêu rõ nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ” đồng thời khẳng định vai trò đối ngoại trong sự
nghiệp phát triển đất nước. Một điểm đáng chú ý nữa đó là tuân thủ tiến hành các hoạt
động đối ngoại, khẳng định nguyên tắc đường lối và chính sách của Đảng: “bảo đảm
lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển”, “tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc”.
Bộ chính trị về hội nhập quốc tế ban hành Nghị quyết 22-NQ/TW (10/4/2013)
nhằm nhấn mạnh, nâng cao hội nhập hơn nữa trong công cuộc phát triển đất nước:
“Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu 15 lOMoAR cPSD| 41487147
quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và
quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi”; hội
nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện
quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân
dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy
bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc
tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới. Hội nghị đối ngoại đa phương thế kỷ XXI và khuyến nghị
chính sách đối với Việt Nam (12/8/2014) là những bước tiến cụ thể trong chuyển đổi
tư duy đối ngoại của Đại hội Đảng XI. Việt Nam thực hiện chủ trương “triển khai
đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả các hoạt động đối ngoại” trên tất cả các kênh song
phương và đa phương, dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao Nhà nước, đối
ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân.
Có thể thấy, đường lối của Đảng về hội nhập quốc tế có một quá trình ngày
càng đi vào chiều sâu, mang tính tham gia, đóng góp thay vì chỉ tham gia như trước
đây. Từ đường lối đối ngoại trên cơ sở tuyên bố “muốn là bạn” (Đại hội Đảng lần thứ
VII), “sẵn sàng là bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VIII), “là bạn và đối tác tin cậy” (Đại
hội Đảng lần thứ IX), Đại hội Đảng lần thứ XI hoàn chỉnh và bổ sung thêm cụm từ là
“thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Từ nội dung Đại Hội XI và nghị
quyết đã xác định rõ về đối ngoại đa phương, là bộ phận rất quan trọng trong tổng thể
chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam, là phương tiện hữu hiệu để
chúng ta triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và
hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực mở
ra một giai đoạn mới trong hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là quá trình vừa hợp tác, vừa
đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh
táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tùy theo đối
tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể. Cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập
quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước.
Với những bước phát triển trong tư duy về hội nhập quốc tế trong giai đoạn
này, bên cạnh việc gia nhập WTO, Việt Nam đã đàm phán và ký kết nhiều hiệp định
FTA song phương và khu vực, như: Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
(JVEPA) năm 2008; khởi động tiến trình đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP) năm 2010; ký Hiệp định Đối tác và Hợp tác toàn diện Việt Nam -
EU (PCA) năm 2012; FTA của ASEAN với các đối tác (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật
Bản,...). Cũng trong giai đoạn này, hợp tác quốc phòng - an ninh được mở rộng với
việc Việt Nam tham gia một số cơ chế đối thoại khu vực và liên khu vực về an ninh -
quốc phòng như: Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội
nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị Cấp cao
Đông Á (EAS), Đối thoại Shangri-La... 16 lOMoAR cPSD| 41487147
Giai đoạn 2006 - 2015 là giai đoạn tiếp tục cụ thể hóa các chủ trương hội nhập,
nêu cao tinh thần “chủ động và tích cực” trong quan hệ đối ngoại, nâng cao mức hội
nhập từ chủ động tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế sang chủ động tích cực hội
nhập quốc tế, lấy lợi ích dân tộc làm mục tiêu cao nhất để từng bước hội nhập sâu rộng
vào các thể chế kinh tế toàn cầu.
2.4. Giai đoạn 2016 – Nay
Trước bối cảnh thế giới và trong nước đặt ra cơ hội và thách thức cho Việt
Nam, tư duy hội nhập trong giai đoạn sau 2016 coi hội nhập kinh tế quốc tế là trọng
tâm của quá trình hội nhập, đổi mới tư duy đối ngoại đi vào chiều sâu, hiệu quả các
mối quan hệ đối ngoại, đưa hội nhập quốc tế bước sang giai đoạn mới và nâng cao vị thế của Việt Nam.
Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đề ra chủ trương “Triển khai mạnh mẽ định
hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, nêu rõ các quan điểm chỉ
đạo và các định hướng lớn của hội nhập quốc tế trong từng lĩnh vực để nâng cao hiệu
quả hội nhập quốc tế toàn diện.
Lần đầu tiên, phương châm chỉ đạo các hoạt động đối ngoại được nêu rõ “vừa hợp
tác, vừa đấu tranh”, Đảng đã nhấn mạnh tính hai mặt đan xen của phương châm và theo
đó là sự đan xen trong quan hệ đối ngoại, gắn kết lợi ích một cách lâu dài và bền vững
giữa nước ta và đối tác, nhất là đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh của
đất nước; tạo dựng lòng tin và hình thành nên các cơ chế hợp tác có hiệu quả thúc đẩy
quan hệ, ngăn ngừa đẩy lùi các nguy cơ, kiểm soát các bất đồng và giải quyết các vấn đề
nảy sinh ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh và phát triển của đất nước.
Định hướng hội nhập quốc tế được đề ra trong văn kiện thể bằng những quan
điểm chỉ đạo cụ thể gồm: Thứ nhất, phải bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của
toàn dân và cả hệ thống chính trị. Thứ hai, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối
đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng
lực cạnh tranh của đất nước. Thứ ba, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các
lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế. Và thứ tư, hội nhập là quá trình
vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để
rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi.
Như vậy, việc đổi mới tư duy trong quá trình hội nhập trong giai đoạn này đã đi
sâu vào quá trình triển khai các cam kết đã ký, tập trung sâu hơn vào việc đẩy mạnh
quan hệ đối tác chiến lược; các nước lớn có vai trò quan trọng đối với an ninh và phát
triển của đất nước, đưa khuôn khổ đã xác lập đi vào thực chất; hội nhập trong lĩnh vực
an ninh quốc phòng ở mức cao hơn như hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp
quốc. Đặc biệt Đại hội XII đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển kinh tế đối ngoại đa
phương, đặt ra yêu cầu mới đó là chuyển từ “ký kết, gia nhập, tham gia” sang “chủ
động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình”, phát huy vai trò của Việt Nam tại các
cơ chế đa phương được ưu tiên trong 5 năm tới như ASEAN và Liên hợp quốc. Theo
định hướng chỉ đạo của Đại hội XII “Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế đến năm 17 lOMoAR cPSD| 41487147
2020, tầm nhìn đến năm 2030” (7/01/2016) của Thủ tướng Chính phủ đề ra các định
hướng và giải pháp trong hội nhập, và hội nhập kinh tế luôn được ưu tiên hàng đầu.
Chiến lược xác định mức độ hội nhập kinh tế quốc tế phải ngang bằng với các nước
ASEAN-4, đẩy mạnh sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành, các vùng miền và tập trung
triển khai hiệu quả các hiệp định đã ký kết.
Tiếp sau đó, Đảng đã bổ sung thêm những mục tiêu trong quá trình hội nhập
quốc tế thông qua Nghị quyết 06-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành TW
Đảng khóa XII về thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn
định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các Hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới (05/11/2016) đã nêu rõ mục tiêu thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh
tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý,
bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân, bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Các thành tựu nổi bật nhằm cụ thể hóa chủ trương hội nhập quốc tế nêu trên có
thể kể đến như: Việt Nam đã trúng cử vào Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp
quốctháng 11/2016 và Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc
(UNCITRAL) nhiệm kỳ 2019-2025; tham gia Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hợp
quốc; phê chuẩn Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) tháng 12/2018; vận động để nhiều di sản thiên nhiên, di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể được UNESCO công nhận; tham gia và đóng góp ngày càng chủ động
và tích cực cho Cộng đồng ASEAN,...
Đặc biệt, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021), Văn kiện của
Đại hội đã có những bước phát triển quan trọng trong nhận thức lý luận về hội nhập
quốc tế, nâng tầm hội nhập quốc tế lên mức cao hơn khi nhấn mạnh nội dung chủ
động, tích cực, toàn diện, sâu rộng. Đại hội XIII đặt ra yêu cầu về tính “toàn diện” và
“sâu rộng”. Đó là, hội nhập quốc tế qua tất cả các kênh Đảng, Nhà nước và nhân dân,
song phương và đa phương, ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Không chỉ rộng
mở về không gian, hội nhập quốc tế tiếp tục đi vào chiều sâu, triển khai các cam kết
quốc tế, trong đó thực hiện hiệu quả các cam kết sâu rộng của các FTA thế hệ mới,
“chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây
dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế” vì lợi ích
quốc gia- dân tộc và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Báo cáo chính trị Đại hội
lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc; tiếp tục thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định,
không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng
cũng đã nêu rõ quan điểm: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở 18 lOMoAR cPSD| 41487147
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng,
hợp tác, cùng có lợi... Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí
độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát
huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực
con người là quan trọng nhất”; tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: “ giữa
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế” với thực hiện nhiệm vụ trọng tâm: “ Giữ vững
độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế”. 19 lOMoAR cPSD| 41487147 CHƯƠNG 3
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Vận dụng và phát triển sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác và hội nhập
quốc tế, kể từ năm 1986, cùng với quá trình đổi mới bên trong và mở rộng hợp tác với
bên ngoài, tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập quốc tế đã liên tục
pháttriển, các hoạt động hội nhập quốc tế, với hội nhập kinh tế quốc tếlà trọng tâm
khởi đầu, cũng liên tục được đẩy mạnh cả về bề rộng và chiều sâu. Có thể tổng hợp
một số nét cơ bản về bước phát triển trong tư duy về hội nhập quốc tế của Việt Nam
thời kỳ đổi mới như sau:
Thứ nhất, Việt Nam đã sớm nhận thức được hội nhập quốc tế là một xu thế lớn
và một quá trình tất yếucủa quan hệ quốc tế từ khi hòa dịu Đông –Tây lan tỏa và Chiến
tranh Lạnh đi vào giai đoạn kết thúc. Quá trình này thu hút sự tham gia của hầu hết các
quốc gia trên thế giới, và Việt Nam cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Bước
phản ứng đầu tiên của Việt Nam trước xu thế chung này là chính sách đổi mới và mở
cửa từ năm 1986. Mặc dù vậy, nhận thức về hội nhập quốc tế của Việt Nam ở thời kỳ
đầu Đổi Mới còn cầm chừng, tập trung chủ yếu vào sự cần thiết phải “quốc tế hóa các
lực lượng sản xuất trong nước” và “tham gia vào phân công lao động quốc tế”. Quan
điểm, nhận thức về những chuyển biến mới trên thế giới, có lúc, có nơi còn chưa theo
kịp diễn biến tình hình, dẫntới sự chậm trễ trong việc đưa ra các quyết sách kịp thời,
mạnh dạn, phù hợp, đặc biệt trong chủ trương và bước đi cải thiện quan hệ với các đối
tác quan trọng như ASEAN và Mỹ.
Thứ hai, Việt Nam nhìn nhận hội nhập quốc tế là một lộ trình dài, cần được triển
khai một cách tịnh tiến, từ thụ động (tham gia các tổ chức quốc tế, chấp nhận “luật chơi”
quốc tế) đến tích cực, chủ động (đóng góp vào quá trình xây dựng “luật chơi”)nhằm phục
vụ tối đa lợi ích quốc gia. Hiện tại, công việc chính trong quá trình hội nhập quốc tế của
Việt Nam vẫn là thực hiện các cam kết quốc tế, trong đó chủ yếu là các cam kết về thực
hiện những chuẩn mực mà Việt Nam đã chấp nhận khi gia nhập. Cùng với quá trình này,
Việt Nam cần phải tiến hành những hoạt động xây dựng các “chuẩn mực” mới cùng với
các nước thành viên của các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, do một sốnguyên nhân,nhất là
những hạn chế về thế và lực, mức độ tham gia của Việt Nam trong các hoạt động xây
dựng những chuẩn mực mới này vẫn còn ở mức thấp.
Thứ ba, các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng coi đổi mới từ bên
trong (đơn phương) và hợp tác song phương theo chuẩn mực chung là một phần của
hội nhập quốc tế. Theo đó, hội nhập đa phương lấy hợp tác song phương làm nền tảng
và đa phương phục vụ cho song phương. Nhận thức về tầm quan trọng của việc đưa
các mối quan hệ ưu tiên đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững hay sự phát triển tư duy
về quan hệ đối tác là một điểm nhấn quan trọng trong tư duy về hội nhập quốc tế lấy
hợp tác song phương làm nền tảng của ngoại giao Việt Nam. Bên cạnh đó, trong gần 20 lOMoAR cPSD| 41487147
một thập kỷ trở lại đây, cáchoạt động đối ngoại đa phương Việt Nam được mở rộng và
đi vào chiều sâu ở tất cả các kênh đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại
Quốc hội và đối ngoại Nhân dân, điều đó đã thể hiện quan điểm coi trọng ngoại giao
đa phương trong hội nhập quốc tế của Việt Nam thời kỳ Đổi Mới. Tháng 8/2018, chủ
trương về “đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phươngđến năm 2030” đã được cụ thể
hóa trong Chỉ thị 25 của Ban Bí thư, một văn chỉ đạo riêng đầu tiên về đối ngoại đa
phương của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư, hội nhập quốc tế của Việt Nam khởi đầu đặt trọng tâm trong lĩnh vực
kinh tế và sau đó mở rộng sang các lĩnh vực khácnhư chính trị -ngoại giao, an ninh -
quốc phòng, văn hóa -xã hội,... Trong giai đoạn đầu, các văn kiện của Đảng chỉ đề cập
đến hội nhập kinh tế do đây là lĩnh vực trọng tâmvà tiền đề. Đến các đại hội Đảng gần
đây, hội nhập trong các lĩnh vực khác đã được định hướng ngày càng rõ hơn, xuất phát
từ thực tế là hội nhập kinh tế đã tạo cơ sở để Việt Nam mở rộng hội nhập trên các lĩnh
vực khác và hội nhập trên các lĩnh vực khác ngày càng tạo ra môi trường thuận lợi và
củng cố mức độ hội nhập kinh tế của Việt Nam.Cùng với đó là sự phát triển tư duy từ
hội nhập theochiều rộng sang hội nhập theo chiều sâu trên từng lĩnh vựcvàđồng bộ
trong nhiều lĩnh vực, có sự hỗ trợ lẫn nhau theo lộ trình, có trọng tâm, trọng điểm.
Thứ năm, tư duy về các cấp độ hội nhập của Việt Nam được thể hiện rõ trong
các văn kiện của Đảng. Theo đó, cấp độ hội nhập đi từ thấp đến cao, hội nhập tiểu khu
vựcvà khu vực mang tầm quan trọng chiến lược, được tiến hành trước, bắc cầu cho hội
nhập liên khu vực và hội nhập toàn cầu. Đây là một lộ trình phù hợp,phản ánh nhận
thức đúng đắn và sâu sắc của Đảng về các xu thế lớn của thời đại cũng như thế và lực
của Việt Nam qua từng giai đoạn phát triển cụ thể.
Dựa trên những nét cơ bản đó, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ:
Một là, Trước hết, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia
và khu vực, trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo
điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả hơn. Nối lại các
quan hệ với các nước lớn: Trung Quốc, Hoa Kỳ, kết quả Chính phủ Mỹ tuyên bố bãi
bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam năm 1994, Tổng thống Mỹ tuyên bố chính thức
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam năm 1995, tháng 7/2000, ký Hiệp định Thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Khai thông và phát triển quan hệ với Nhật Bản và năm 1992
Chính phủ Nhật nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam. Năm 1991, Chính phủ Australia
bãi bỏ lệnh cấm vận buôn bán với Việt Nam. Năm 1992, Việt Nam - Hàn Quốc thiết
lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ...
Hai là, năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN và tham
gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), từ tháng 1 năm 1996 bắt đầu thực hiện
nghĩa vụ và các cam kết trong chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)
của AFTA, theo đó đến 1/1/2006, Việt Nam phải thực hiện đầy đủ các cam kết với mức
thuế nhập khẩu còn 0 - 5% (trừ một số mặt hàng nông sản nhạy cảm sẽ thực hiện vào năm
2010), ngoài ra Việt Nam còn tham gia đàm phán các hiệp định, chương 21 lOMoAR cPSD| 41487147
trình như: Hiệp định về thương mại, dịch vụ, chương trình hợp tác trong các lĩnh vực
giao thông, nông nghiệp... Tháng 3 năm 1996, Việt Nam là thành viên sáng lập Diễn
đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), nội dung hợp tác chủ yếu là tập trung vào quá trình tự do
hóa thương mại, đầu tư và hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp Á - Âu. Tháng 6 năm
1996, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), đến cuối năm 1998 được công nhận chính thức là thành viên của tổ
chức này. Tháng 11-2006, sau một tuần Việt Nam gia nhập WTO, nước ta đã đăng cai
tổ chức Tuần lễ cấp cao APEC lần thứ 14 rất thành công, tạo được tiếng vang lớn với
nhiều ấn tượng tốt đẹp về một Việt Nam đang phát triển ổn định, giàu lòng mến khách
và là một điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài, tạo nên sự tăng trưởng
ngoạn mục trong thu hút FDI trong các năm 2007 và 2008 . Đặc biệt, tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan trọng khi Việt Nam chính
thức trở thành thành viên của WTO vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm
phán gia nhập Tổ chức này. Đây là sự kiện đánh dấu sự hội nhập toàn diện của Việt
Nam vào kinh tế thế giới. Với việc gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải
cách chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư đồng bộ, theo hướng minh bạch và tự do
hóa hơn, góp phần quan trọng cho việc xây dựng một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ba là, Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò là thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế. Chúng ta tiếp tục tham gia một cách chủ động, tích cực, có trách nhiệm
vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, cùng các nước thành viên xác định những định
hướng lớn cho Hiệp hội giai đoạn sau khi thành lập Cộng đồng vào năm 2015, thúc
đẩy hợp tác nội khối, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình.
Bốn là, Việt Nam và các nước ASEAN cũng đang nỗ lực cùng Trung Quốc
hướng tới một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) nhằm duy trì hòa bình, ổn
định, kiểm soát các tranh chấp, góp phần xây dựng lòng tin và củng cố mối quan hệ
đối tác chiến lược ASEAN – Trung Quốc. Chúng ta đấu tranh kiên quyết với âm mưu,
thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo hòng can thiệp vào công
việc nội bộ của Việt Nam, tạo diễn biến hòa bình, chuyển hóa chế độ, gây bất ổn định
đất nước. Bên cạnh đó, chúng ta chủ động tăng cường trao đổi, đối thoại trên tinh thần
xây dựng với các nước, các tổ chức phi chính phủ về các thành tựu phát triển, bảo vệ
quyền con người và quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam nhằm tăng cường hiểu biết và
hợp tác với các nước, các đối tác quan trọng.
Năm là, Việt Nam không ngừng tăng cường tham gia toàn diện, sâu rộng trong
khuôn khổ các diễn đàn đa phương. Lần thứ hai, Việt Nam đã chính thức ứng cử làm
Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2020-2021),
đăng cai tổ chức Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới IPU lần thứ 132 (năm
2015) và cũng lần thứ hai đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao APEC (năm 2017). Mới
đây nước ta đã được bầu vào Hội đồng Thống đốc Tổ chức Năng lượng Nguyên tử
Quốc tế (IAEA), Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO và lần đầu tiên được bầu vào 22 lOMoAR cPSD| 41487147
Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2014-2016) với số phiếu rất cao, kết
quả đó thể hiện uy tín quốc tế của nước ta và lòng tin của cộng đồng quốc tế dành cho
Việt Nam. Tại đối thoại Shangri-La ở Singapore vào tháng 5/2013, Thủ tướng Chính
phủ Nguyễn Tấn Dũng lần đầu tiên đã chính thức công bố Việt Nam quyết định tham
gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc từ năm 2014. Thượng tướng
Nguyễn Chí Vịnh khẳng định chúng ta không đưa cán bộ, chiến sĩ vào những nơi có
chiến tranh mà thực hiện những công việc mang tính chất củng cố hòa bình và tái thiết
ở những đất nước đang còn nghèo. Với quyết định này, chúng ta không chỉ dừng ở
mức đóng góp bằng tài chính hay bằng tiếng nói mà cả bằng nhân lực vào công việc
chung của Liên Hợp Quốc. Nếu việc tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO) mở
đầu sự hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế quốc tế thì với những hoạt động ngoại giao đa
phương trên, Việt Nam đã bắt đầu hội nhập đầy đủ vào đời sống chính trị quốc tế
.
Điểm nổi bật hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là tháng 10/2015 Việt Nam đã
hoàn tất đàm phán để ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào
tháng 02/2016. Đây là một Hiệp định được kỳ vọng sẽ trở thành một khuôn khổ
thương mại toàn diện, có chất lượng cao và là khuôn mẫu cho các Hiệp định thế kỷ 21.
Việc tham gia vào Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam nắm bắt và tận dụng tốt hơn các
cơ hội do quá trình hội nhập kinh tế khu vực đem lại, đồng thời Việt Nam có thêm
điều kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương nói riêng.
Sáu là, chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đang đẩy tiến trình
hội nhập quốc tế của chúng ta lên một tầm cao mới trên tất cả các lĩnh vực, đặt ra yêu
cầu cao hơn về tranh thủ thời cơ chiến lược và sức mạnh thời đại cho phát triển đất
nước cũng như giữ vững độc lập, tự chủ và môi trường ổn định khi hội nhập sâu và
toàn diện với khu vực và thế giới. Quá trình hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng
sâu rộng, để dân tộc ta không đánh mất mình trong thế giới luôn phát triển và biến
động khó lường, để hội nhập mà không hòa tan. Việc tiếp thu có chọn lọc các giá trị
nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài, học tập những kinh nghiệm tốt xây dựng
và phát triển văn hóa của các nước trên thế giới được đẩy mạnh. Mở rộng giao lưu văn
hóa với nước ngoài đi đôi với việc giữ gìn, bồi đắp bản sắc văn hóa của dân tộc; từ đó
phát triển văn hóa Việt Nam lên một tầm cao mới, góp phần vào sự phát triển văn hóa
nhân loại. Thông qua các hoạt động văn hoá đối ngoại, bạn bè thế giới hiểu biết hơn về
đất nước, con người và văn hoá Việt Nam, từng bước tạo dựng lòng tin đối với Việt
Nam, đưa quan hệ đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế đang đặt ra cho chúng ta rất nhiều thách thức. Tác
động tiêu cực từ các diễn biến bên ngoài sẽ gia tăng. Những bất ổn không chỉ về kinh
tế mà cả về an ninh, chính trị, xã hội từ bên ngoài sẽ nhanh chóng tác động tới nước ta;
các loại tội phạm xuyên biên giới như: Buôn bán ma túy, rửa tiền, thâm nhập tiền giả,
tài liệu phản động, văn hóa phẩm không lành mạnh và các thách thức an ninh phi
truyền thống khác có thể gây tác hại đến mọi mặt của an ninh quốc gia từ an ninh kinh 23 lOMoAR cPSD| 41487147
tế đến an ninh chính trị xã hội. Đồng thời, yêu cầu bổ sung và hoàn thiện thể chế; cải
cách và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là
nhân lực chất lượng cao,...sẽ ngày càng lớn.
Theo đó, để giảm thiểu các tác động tiêu cực và khai thác tối đa các cơ hội từ
hội nhập quốc tế, nội hàm và lộ trình của hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, quốc
phòng, an ninh và văn hóa-xã hội cần phải được xác định phù hợp với thế, lực của đất
nước và bối cảnh tình hình đất nước sao cho hội nhập quốc tế phục vụ hiệu quả nhất
mục tiêu phát triển, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và vị thế quốc gia.
Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế là kết quả
của cả một quá trình thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa
dạng hoá, đa phương hoá với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập ngày càng sâu
rộng với khu vực và thế giới. Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để nước ta
càng vững bước trên đường hội nhập quốc tế, đảm bảo lợi ích quốc gia tới mức cao
nhất có thể và ra sức bảo vệ, phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa bền vững. 24 lOMoAR cPSD| 41487147 KẾT LUẬN
Có thể nói, trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, nhận thức về hội nhập
quốc tế của Việt Nam cũng từng bước được hoàn thiện, bổ sung và phát triển phù hợp
với mỗi chặng đường phát triển của đất nước trong bối cảnh tình hình khu vực và thế
giới có những chuyển động không ngừng. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới,
bước đi hội nhập của Việt Nam còn chậm, lĩnh vực hội nhập còn hẹp, và hoạt động hội
nhập còn hạn chế do tư duy hội nhập còn dè dặt, thể hiện qua những “thử nghiệm” về
ngôn ngữ cho tới chủ trương về hội nhập. Tuy vậy, đây được coi như giai đoạn mang
tính chuyển đổi quan trọng trong tư duy đối ngoại nói chung và hội nhập quốc tế nói
riêng của Việt Nam với những nghiên cứu, thử nghiệm mang tính đột phá, tạo tiền đề
cho quá trình tăng tốc hội nhập ở giai đoạn sau. Bước sang thế kỷ XXI, đặc biệt từ Đại
hội XI (2011) trở lại đây, tư duy hội nhập quốc tế của Việt Nam đã phát triển lên một
tầm cao mới, thể hiện nhận thức sâu sắc của Việt Nam về các xu thế lớn của thời đại
và thực tiễn trong nước, phù hợp với thế và lực mới của đất nước, đáp ứng đòi hỏi
ngày càng cao của sự nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc. 25 lOMoAR cPSD| 41487147
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Ngoại giao (1995), Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Dương Văn Quảng (2016), Suy nghĩ vềchiều sâu và tính hiệu quảcủa hội nhập quốc
tế từ Đại hội Đảng lần thứXI đến nay, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Số2 (105).
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Vũ Dương Huân (2002), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975- 2002),Hà Nội.
7. Phạm Bình Minh (2011), Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn
mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Bùi Thanh Sơn (2015), Hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam,
NXB Chính trị Quốc gia –Sự thật, Hà Nội.
9. Nguyễn Cơ Thạch, Những chuyển biến trên thế giới và tư duy của chúng ta, Tạp chí
Quan hệ Quốc tế, số 1, tháng 01/1990.
10. Nguyễn Vũ Tùng (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam, tập I (1975-2006), Hà Nội.
11. Báo Điện tử Tạp chí Cộng sản (2012), “Bàn thêm về khái niệm “hội nhập quốc tế”
của Việt Nam trong giai đoạn mới”, truy cập ngày 10/6/2023, tại
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2012/19013/Ban-them-
ve-khai-niem-hoi-nhap-quoc-te-cua-Viet-Nam.aspx.
12. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, trang 520-524, truy cập ngày 25/5/2023,
tại:http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/book/ho-
chi-minh/tac-pham/ho-chi-minh-toan-tap-tap-4-271.
13. Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày 20 tháng 12 năm 1976, truy cập ngày 20/5/2023, tại:
http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/
lan-thu-iv/nghi-quyet-cua-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-iv-cua-dang-1522.
14. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc
tế,2013,truy cập ngày 10/6/2023,
tại:http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/nr091019080134/nr091019083649/ ns140805203450. 26 lOMoAR cPSD| 41487147
15. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986, truy cập ngày
15/6/2023, tại:http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/
dai-hoi-dang/lan-thu-vi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-
v-trinh-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-1491.
16. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII năm 1996, truy cập ngày
16/6/2023, tại: http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/
dai-hoi-dang/lan-thu-viii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-
vii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-viii-cua-dang-1549.
17. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X năm 2006, truy cập ngày
15/6/2023, tại: http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-
dang/dai-hoi-dang/lan-thu-x/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-
khoa-ix-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-x-cua-dang-1537.
18. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII năm 2016, truy cập ngày
18/6/2023, tại: http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-
dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-
khoa-xi-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang-1600. 27