lOMoARcPSD| 58583460
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
*ض*ض*ض*ض*ض*ض*ض*ض*ض*ض ض
TIỂU LUẬN MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN II
Đề tài: CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ THU ĐƯỢC LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH (GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH) CỦA TƯ BẢN CÔNG NGHIỆP
Giảng viên: ThS. Vũ Thị Quế Anh
Sinh viên: Nguyễn Quỳnh Nga
MSV: 1813340042
SBD: 37
Chuyên ngành: CLC Tài chính – Ngân hàng
Lớp: Anh 2, Khoá 57
Hà Nội, tháng 3 năm 2019
lOMoARcPSD| 58583460
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU...........................................................................................3
II. NỘI DUNG.....................................................................................4
1. Một số vấn đề lý luận về giá trị thặng dư.................................4 1.1.
Giá trị thặng dư là gì? Phân tích thực chất của quá trình sản xuất giá trị
thặng dư? Các phương pháp sản xuất giá trị thặng
trong chủ nghĩa tư bản?...................................................................4
1.2. Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của CNTB
.........................................................................................................6
1.3. Nội dung, vai trò và biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư....7
2. Giá trị thặng dư siêu ngạch – Hình thức biến tướng của giá trị
thặng dư tương đối...........................................................................8
2.1. Giá trị thặng dư siêu ngạch là gì?.............................................8
2.2. Điều kiện tạo nên giá trị thặng dư siêu ngạch?........................8
2.3. Tính chất của giá trị thặng dư siêu ngạch................................8
2.4. So sánh giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương
đối....................................................................................................9
3. Các biện pháp để thu được lợi nhuận siêu ngạch (giá trị thặng dư
siêu ngạch) của tư bản công nghiệp..........................................9
4. Liên hệ: Giá trị thặng dư siêu ngạch – Một trong những nguồn
gốc cho sự giàu có của các quốc gia trong điều kiện hiện
đại....................................................................................................15
III. KẾT LUẬN..................................................................................16
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................16
I. MỞ ĐẦU
Theo danh giá của VI LêNin thì luận giá trị thặng hòn đá tảng của học thuyết
kinh tế của C.Mac. Các nhà bản để đạt được mục đích tối đa của mình họ đã mua sức lao
động của người công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm và thu về giá
trị thặng dư.
lOMoARcPSD| 58583460
Đối với nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì vấn đề nhận thức vận dụng
các học thuyết của Mac – Đặc biệt là học thuyết Giá trị thặng dư, để làm kim chỉ nam cho các
hoạt động để đi đến đích cuối cùng một vấn đề cực kỳ quan trọng. Xuất phát tnhận thức
trên với nền kinh tế nước ta đang chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị
trường thì không ai khác, không quốc gia nào khác tự tìm ra đường lối phát triển kinh tế
phù hợp với điều kiện tình hình hiện nay. Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ nguồn gốc,
bản chất của các yếu tố bên trong của nền kinh tế đặc biệt là những yếu tố chính thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế thị trường. Một trong những yếu tố chính giá trị thặng siêu
ngạch (siêu lợi nhuận). Vậy thế nào giá trị thặng siêu ngạch? Điều kiện, tính chất của
giá trị thặng dư siêu ngạch là gì và các biện pháp thu được giá trị thặng dư siêu ngạch… Đây
cũng chính là những vấn đề cấp thiết, tất yếu đòi hỏi phải có lời giải đáp nhanh chóng, chính
xác phù hợp với tình hình để đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện nay.
Tuy trình độ nhận thức còn hạn hẹp, vẫn còn những sai sót bỡ ngỡ của lần đầu tiên viết
tiểu luận nhưng em cũng mạnh dạn đưa ra nhận thức của mình về đề tài:
“CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ THU ĐƯỢC LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH (GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH) CỦA TƯ BẢN CÔNG NGHIỆP”
Qua đây em cũng xin được chân thành cám ơn cô giáo và nhiều thầy cô khác trong bộ
môn Những nguyên bản của chủ nghĩa Mác Lênin 2 đã giúp đỡ em hoan thành tiểu
luận này. Do kiến thức cũng như sự hiểu biết còn hạn chế nên trong i tiểu luận này, sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được các thầy thông cảm chỉ bảo thêm cho
em.
Em xin chân thành cảm ơn!
II. NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về giá trị thặng dư
1.1. Giá trị thặng dư là gì? Phân tích thực chất của quá trình sản xuất giá trị
thặng dư? Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư
bản?
a. Giá trị thặng dư là gì?
Giá trị thặng một trong những khái niệm trung tâm của kinh tế chính trị Karl
Marx. Karl Marx đã nghiên cứu đưa ra một số công thức tính toán xung quanh khái niệm
lOMoARcPSD| 58583460
này trong các tác phẩm viết về kinh tế chính trị của ông. Nó được sử dụng để khẳng định lao
động thặng dư của công nhân bị các nhà tư bản lấy đi, là nền tảng cho sự tích lũy tư bản.
b. Phân tích thực chất của quá trình sản xuất giá trị thặng dư
Giá trị thặng được sản xuất trong nền kinh tế hàng hoá TBCN. Sản xuất TBCN
sự thống nhất giữa quá trình sản xuất giá trị sử dụng với quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
* Ví dụ về quá trình sản xuất sợi của nhà tư bản.
Để tiến hành sản xuất nhà tư bản mua các yếu tố sản xuất và giả sử mua đúng giá trị.
10kg bông giá 10 USD
Khấu hao máy móc thiết bị 2 USD
Mua sức lao động 3 USD/12gi
Trong 1 giờ người công nhân tạo ra 0,5 USD giá trị mới
Giả sử trong 6h lao động đầu người công nhân đã thực hiện kéo hết 10 kg bông thành sợi, giá
trị của sợi 15USD. Nếu quá trình sản xuất chỉ dừng ở đây thì sẽ không tạo ra giá trị thặng
dư. Tuy nhiên vì nhà tư bản mua sức lao động trong 12h. Tức là trong 6h sau họ vẫn phải lao
động tạo ra hàng hoá sợi có giá trị 15 USD. Tuy nhiên trong quá trình này chi phí nhà tư bản
bỏ ra chỉ có 12 USD. ( Không tính thêm chi phí mua sức lao động công nhân).
Vậy, Tổng giá trị sản xuất trong ngày của công nhân 30USD
Tổng chi phí sản xuất 15+12= 27USD
Giá trị thặng dư: m = 3 USD
Từ sự phân tích trên cho phép rút ra kết luận sau: Ngày lao động của công nhân chia
làm hai phần, phần thời gian lao động (6h đầu) thời gian lao động cần thiết (xã hội) (t),
Phần còn lại của lao động (6h sau) là thời gian lao động thặng dư (t’).
Giá trị sản phẩm được sản xuất ra bao gồm:
- Giá trị liệu sản xuất được lao động cụ thể của công nhân bảo tồn dichuyển
vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ (c)
- Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình laođộng gọi
giá trị mới, phần giá trị này lớn hơn giá trị sức lao động, bằng giá trị sức lao động
(v) cộng với giá trị thặng dư (m).
Kết luận: Như vậy, giá trị thặng giá trị mới dôi ra ngoài gía trị sức lao động do
công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt, là lao động không công của công nhân.
lOMoARcPSD| 58583460
c. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Trong nền sản xuất TBCN, hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư; sản suất giá
trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
- Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Giá trị thặng dư tuyệt đối giá trị thặng thu được bằng các kéo dài ngày lao động
hoặc tăng cường độ lao động trong khi thời gian lao động tất yếu, giá trị sức lao động năng
suất lao động không thay đổi.
Giới hạn về thể chất, tinh thần: giới hạn này đòi hỏi trong 24h của một ngày đêm người
công nhân cần phải ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí... phục hồi sức lao động. Với sự phát triển của
sản xuất tư bản chủ nghĩa, ngày lao động có xu hướng ngày càng ngắn hơn tớc.
Giới hạn về kinh tế - hội: về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao
động tất yếu nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
Về mặt xã hội, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản mới ra đời, nhà nước ban bố nhiều đạo luật có
lợi cho giai cấp tư sản.
- Sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
Giá trị thặng tương đối giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động
tất yếu, bằng cách tăng năng suất lao động xã hội, qua đó hạ thấp giá trị sức lao động và làm
tăng ơng ứng thời gian lao động thặng dư. Cơ sở để thực hiện phương pháp này tăng năng
suất lao động. Do năng suất lao động có khả năng tăng lên hạn, nên sản xuất giá trị thặng
tương đối cũng không giới hạn. Bởi vậy, được áp dụng ngày càng phổ biến trong
quá trình phát triển của CNTB.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng tương đối không gạt bỏ phương pháp sản xuất
giá trị thặng tuyệt đối. Trái lại, chúng được kết hợp với nhau, do việc sử dụng máy c
với tốc độ nhanh làm cho cường độ lao động phải tăng lên.
1.2. Sản xuất giá trị thặng quy luật kinh tế bản của CNTB Mỗi một
phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ kinh
tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Đối với sản xuất hàng hóa giản đơn, thì quy
luật kính tế cơ bản là quy luật giá trị, còn quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy
luật giá trị thặng dư.
lOMoARcPSD| 58583460
+ Giá trị thặng phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân
làm thuê tạo ra bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của
chủ nghĩa bản - quan hệ bản bóc lột lao dộng làm thuê. Giá trị thặng do lao động
không công của công nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.
+ Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất
ra giá trị thặng dư, nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng tối đa mục đích động
cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội bản. Nhà tư bản
cố gắng sản xuất ra ng hoá với chất lượng tốt đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ nhà bản
muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.
+ Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn mà các nhà tư bản sử dụng để đạt được
mục đích như tăng ờng bóc lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động
kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.
Như vậy, quy luật giá trthặng quy luật kinh tế bản của chủ nghĩa bản. Thực
chất của quy luật này là tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng
cường bóc lột lao động làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời
tồn tại của chủ nghĩa bản. Quy luật này quyết định toàn bộ sự vận động của chủ nghĩa
bản, một mặt động lực thúc đẩy sản xuất bản chnghĩa phát triển nhanh chóng,
mặt khác lại làm tăng mâu thuẫn cơ bản của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
1.3. Nội dung, vai trò biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư - Nội dung
của quy luật giá trthặng toạ ra ngày càng nhiều giá trị thặng cho nhà bản bằng
cách tăng cường bóc lột lao động làm thuê.
- Vai trò của quy luật giá trị thặng dư
+ Quyết định mục đích, bản chất, nguyên tắc phân phối cơ bản và phương hướng phát
triển của phương thức sản xuất TBCN
+ Chi phối các quy luật kinh tế khác, hướng sự hoạt động của các quy luật kinh tế này
phục vụ quy luật giá trị thặng dư.
lOMoARcPSD| 58583460
+ Quy luật giá trị thặng tác động mạnh mẽ đến đời sống hội bản . Một mặt,
nó thúc đẩy kỹ thuật, phân công lao động xã hội, làm cho LLSX, năng suất lao động tăng lên
nhanh chóng nền sản xuất được hội hoá cao. Mặt khác, nó làm cho các mâu thuẫn vốn
của CNTB, trước hết mâu tuẫn bản mâu thuẫn giữa tính chất hội của sản xuất
với sự chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX ngày càng gay gắt, quy định xu hướng lịch sử tất
yếu phải thay thế nó bằng một xã hội tốt đẹp hơn.
- Biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư
Quy luật giá trị thặng dư được biểu hiện thành lợi nhuận.
2. Giá trị thặng dư siêu ngạch Hình thức biến tướng của giá trị thặng dư
tương đối
2.1. Giá trị thặng dư siêu ngạch là gì?
Siêu lợi nhuận hay còn được gọi lợi nhuận siêu ngạch hay giá trị thặng siêu
ngạch chính là phần giá trị thặng dự (lợi nhuận) thu được trong một chu trình sản xuất do áp
dụng công nghệ kỹ thuật mới vào sản xuất làm cho giá trị biệt của hàng hóa thấp hơn giá
trị thị trường của nó.
Đây cũng chính lợi nhuận đặc biệt vượt quá lợi nhuận bình quân chủ nghiệp
thu được trong một thời gian nhất định trong quá trình cạnh tranh do sử dụng những thiết bị,
kĩ thuật và công nghệ tiến bộ, đầu tư vào các ngành sản xuất mới. Khi các chủ nghiệp khác
cạnh tranh nắm được thuật mới thì lợi nhuận đặc biệt trên không còn nữa lúc đó sẽ
hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân.
2.2. Điều kiện tạo nên giá trị thặng dư siêu ngạch?
Tăng năng suất lao động biệt, làm cho giá trị biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị
thị trường của nó.
2.3. Tính chất của giá trị thặng dư siêu ngạch
- Mang tính chất tạm thời vời nhà tư bản, nhưng luôn luôn tồn tại, phổ biến trong xã
hội.
- động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy các nhà tư bản không ngừng gia ng năng suất
lao động và cải tiến kỹ thuật
2.4. So sánh giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối
lOMoARcPSD| 58583460
Giá trị thặng siêu ngạch giá trị thặng tương đối cùng một sở chung đó
là dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động để rút ngắn thời gian lao động cần thiết.
Điểm khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối:
+ Giá trị thặng siêu ngạch dựa trên sở tăng năng suất lao động biệt, còn giá
trị thặng tương đối dựa trên sở tăng năng suất lao động hội. Giá trị thặng siêu
ngạch sẽ được thay thế bằng giá trị thặng ơng đối khi trình độ kỹ thuật mới được áp dụng
ở các bản biệt trở thành phổ biến trong xã hội. Vì thế, C. Mác gọi giá trị thặng siêu
ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
+ Giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu dược. Nó biểu hiện
sự tiến bộ kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản được áp dụng rộng rãi. Xét về mặt đó thì nó thể hiện
quan hệ giữa giai cấp công nhân toàn bộ giai cấp các nhà bản. Giá trị thặng siêu
ngạch là mục đích trực tiếp mà mỗi nhà tư bản cố gắng đạt tới trong cuộc cạnh tranh với các
nhà tư bản khác. Xét về mặt này, giá trị thặng dư siêu ngạch không chỉ biểu hiện mối quan hệ
giữa công nhân m thuê nhà bản, còn biểu hiện mối quan hệ giữa các nhà bản
với nhau.
Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng siêu ngạch động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc
đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức
lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng xuất lao động giảm giá trị của hàng hoá.
3. Các biện pháp để thu được lợi nhuận siêu ngạch (giá trị thặng dư siêu ngạch)
của tư bản công nghiệp
Dưới tác động của qui luật giá trị thặng dư, chủ nghĩa bản đã vận động phát triển
qua ba giai đoạn từng ớc thực hiện c cuộc đảo lộntác dụng đẩy nhanh tăng năng
suất lao động xã hội để giảm thời gian lao động tất yếu xuống mức tối thiểu cần thiết tăng tối
đa thời gia cho việc sản xuất ra giá trị thặng dư.
Bước đầu của quá trình đó diễn ra trong buổi “bình minh” của CNTB (cuối thế kỷ XV
đầu thế kỷ XVI). Khi đó, các nhà bản chỉ số vốn liếng ít ỏi công cụ lao động thủ công
lạc hậu, nhưng khát vọng thu được nhiều giá trị thặng dư, chủ nghĩa bản đã khắc phục
lOMoARcPSD| 58583460
mâu thuẫn y bằng cuộc cách mạng hoá tổ chức lao động biến lao động thể manh n
thành lao động hiệp c phù hợp với yêu cầu tất yếu kinh tế tạo ra sức lao động “cộng thể”
một mặt làm cho năng suất lao động hội được nâng cao, cho phép giảm lao động tất yếu,
tăng lao động thặng dư, do đó tạo ra nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Mặt khác, tạo tiền
đề cho CNTB tiến lên một giai đoạn cao hơn bằng quá trình cách mạng hoá sức lao động, từ
đó hình thành nên công trường thủ công. Công trường thủ công TBCN đã tạo nên bước phát
triển mới về năng suất lao động hội nhờ đó giảm thấp đáng kể thời gian lao động tất
yếu, tăng thêm tương ứng thời gian lao động thặng dư, đem lại nhiều lợi nhuân cho nhà tư
bản. Chính các công trường thủ công đã tạo ra cho CNTB có đủ các điều kiện tiền đề về kinh
tế kỹ thuật, hội đtiến lên thực hiện một ớc đảo lộn toàn diện sâu sắc quá trình lao
động ng nbản thân phương thức sản xuất TBCN. Từ đó chuyển nền sản xuất này n
giai đoạn ng nghiệp khí, thay thế lao động thủ công bằng lao động y móc, tạo nên
bước nhảy vọt cho năng suất lao động, cho phép CNTB tiến hành bóc lột chủ yếu theo phương
pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư nhiều, lợi nhuận lớn, lại kích thích lòng thèm khát của các nhà tư bản
làm sao thu được nhiều hơn nữa. Bản thân các nhà bản này mở rộng được sử dụng y
móc, các nhà bản khác cũng đua tranh sử dụng máy móc để thu được nhiều giá trị thặng
dư. Kết quả máy móc trửo thành phổ biến trong các công xưởng nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Sự phát triển của máy móc như vậy đã làm phát sinh giá trị thặng tương đối bằng
cách: trực tiếp làm cho sức lao động giảm giá, gián tiếp làm cho sức lao động rẻ đi nhờ tăng
năng suất lao động hội, làm cho những hàng hoá cấu thành giá trị sức lao động giảm xuống.
Do đó, người ta chỉ cần dùng một phần ít hơn của ngày lao động để bù đắp lại giá trị sức lao
động làm cho việc sản xuất giá trị thặng ơng đối trở thành phương pháp chủ yếu trong
việc tăng giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Những doanh nghiệp nào đi đầu trong đổi mới công nghệ sẽ thu được giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư siêu ngạch chính là giá tri thặng dư tương đối do tăng năng suất lao động mà
có nhưng khác chỗ giá trị thặng tương đối do tăng năng xuất lao động hội, do đó tất
cả các nhà bản đều được hưởng. Còn gía trị thặng siêu ngạch do tăng năng suất lao
động cá biệt nên chỉ có những nhà tư bản nào có năng suất lao động cá biệt hơn năng suất lao
động xã hội thì mới được hưởng giá trị thặng dư siêu ngạch.
lOMoARcPSD| 58583460
Dưới đây là các biện pháp làm tăng lợi nhuận siêu ngạch:
- Về chi phí
Để được gọi là siêu lợi nhuận thì yếu tố đầu tiên là chi phí bỏ ra thấp nhưng doanh thu
thu được rất lớn. Các nđầu tư, sản xuất (nhà bản) chỉ phải bra chi phí ít hơn các nhà
tư bản khác nhưng vẫn bán được giá như các nhà tư bản khác, từ đó sẽ thu được giá trị thặng
dư (lợi nhuận) cao hơn.
Tuy vậy, lợi nhuận siêu ngạch không phải diễn ra mãi mãi, khi số đông các nhà tư bản
đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng dư siêu ngạch hay siêu
lợi nhuận sẽ không còn nữa.
Trong một nghiệp hay cơ sở sản xuất thì giá trị siêu ngạch một hiện tượng mang
tính tạm thời, nhưng trong phạm vi hội thì lại thường xuyên tồn tại. chính động
lực mạnh mẽ nhất để thúc đẩy các nhà bản đổi mới ng nghệ thường xuyên nhằm tăng
năng suất lao động cá biệt, đánh bại đối thủ trong cạnh tranh.
Karl Marx gọi giá trị thặng siêu ngạch hình thức biến tướng của giá trthặng
tương đối.
- Giảm thời gian lao động tất yếu Thời gian lao động gồm 2 phần :
+ Tgian lao động tất yếu : Là thời gian lao động bỏ ra để bù vào cho bằng chi phí ban
đầu. ( hay sản xuất số sản phẩm cần thiết để bán )
+ Tgian lao động thặng dư : Là thời gian lao động tạo ra giá trị thặng dư cho xã hội.
Cho nên, khi giảm thời gian lao động tất , đồng thời tăng năng suất lao động, khi đó,
thời gian thặng dư được tăng lên, người lao động càng làm nhiều tgian thặng dư thì người
chủ càng thu được nhiều
- Tăng năng suất lao động
lOMoARcPSD| 58583460
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số lượng
sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để
sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động, nhưng
khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra
một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một
đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại.
Do vậy, khi tăng năng suất lao động thì thời gian thặng dư cũng sẽ tăng lên, góp phần
sản sinh ra lợi nhuận thặng dư.
- Yếu tố khoa học công nghệ
Để lợi nhuận siêu ngạch trong sản xuất, một yếu tố quan trọng hàng đầu đó chính
khoa học công nghệ theo kinh tế học chính trị tchính máy móc. Máy móc
tuy không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư nhưng nó góp phần làm tăng giá trị lao động.
Trong học thuyết giá trị thặng dư, Karl Mark khẳng định lao động sản xuất hàng hoá
tính chất hai mặt. Chính tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá đã tạo ra giá trị
sử dụng giá trị hàng hóa. Trong đó: Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng
hoá; Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa.
Do đó, quá trình sản xuất hàng hoá cũng sẽ bao gồm hai mặt quá trình lao động
quá trình tạo ra, làm tăng giá trị. Với cách yếu tố của quá trình lao động, máy móc
gia nhập toàn bộ vào qtrình sản xuất, còn với cách một yếu tố hình thành giá trị
thì máy móc chỉ gia nhập từng phần giá trị vào sản phẩm.
Quá trình lao động dù là giản đơn hay phức tạp cũng là sự kết hợp của người lao động
với liệu sản xuất. Sử dụng máy móc càng hiện đại thì sức sản xuất ngày càng được
nâng lên, càng tạo ra nhiều của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Nhưng khi nghiên cứu quá trình tạo ra và làm tăng giá trị hàng hoá thì máy móc tham
gia vào đây không còn được xét nhân tố vật thể nữa chỉ được coi những lượng
lao động đã vật hoá nhất định, giá trị của chúng được chuyển dần hoặc chuyển ngay vào
lOMoARcPSD| 58583460
trong một chu kỳ sản xuất sản phẩm. y móc hiện đại đến đâu đi chăng nữa thì
cũng không thể tự chuyển giá trị của mình vào sản phẩm.
Một cái máy không dùng vào quá trình sản xuất một cái máy ích, ngoài ra nó còn
bị hỏng dần bởi sức mạnh huỷ hoại của tự nhiên. Chính lao động sống, lao động của
con người đã "cải tử hoàn sinh", đã làm cho máy móc sống lại, chuyển giá trcủa chúng
sang sản phẩm mới.
Nhưng một liệu sản xuất không bao gichuyển vào sản phẩm mới một giá trị lớn
hơn phần mà đã hao mòn đi trong quá trình sản xuất. Tức là, liệu sản xuất nói chung
máy móc nói riêng chỉ tạo điều kiện cho việc làm tăng giá trị của hàng hoá chứ bản
thân không trực tiếp tham gia vào quá trình làm tăng giá trị.
Khi đi sâu vào nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trthặng thì ta thấy rằng
những doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị hiện đại thì sẽ thu được giá trị thặng siêu
ngạch, từ đó sẽ có lợi nhuận siêu ngạch hay siêu lợi nhuận.
Khi sử dụng máy móc hiện đại sẽ làm tăng khả năng sản xuất của lao động. Trong một
đơn vị thời gian sẽ tạo ra được nhiều hàng hoá hơn, với chất lượng tốt hơn, khi bán hàng hoá
trên thị trường (có thể bán với giá thấp hơn so với giá cả thị trường) nhưng vẫn thu được lợi
nhuận rất cao. Sở dĩ như vậy là do khi năng suất lao động tăng lên thì hao phí lao động để sản
xuất ra một hàng hoá giảm xuống dẫn đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm xuống.
Chính thế Karl Mark cho rằng: xã hội sẽ không thể tiến bộ nếu không luôn luôn cách
mạng hoá công cụ sản xuất.
- Cung – cầu trên thị trường
Bên cạnh yếu tố máy móc và lao động (là các yếu tố được xem xét trong quá trình sản
xuất) thì các yếu tố khác cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra siêu lợi nhuận, đó
yếu tố liên quan đến cung, cầu trên thtrường. Nếu như nhu cầu của một mặt hàng đó tăng
lên so với cung của hàng hóa đó thì giá cả của mặt hàng đó sẽ tăng lên. Nếu giá cả tăng mạnh
có thể tạo ra siêu lợi nhuận. Người ta ng thể tích trữ hàng hóa để tạo ra tình trạng khan
hiếm hàng hóa trên thị trường khiến cầu cao hơn cung do đó giá tăng, sau đó họ bán hàng hóa
ra thị trường với giá cao để thu về siêu lợi nhuận. Hiện tượng này được gọi là đầu cơ.
- Chính sách thuế
lOMoARcPSD| 58583460
Ngoài hiện tượng đầu cơ, siêu lợi nhuận cũng được hình thành từ việc trốn thuế, tránh
thuế, chuyển thuế. Giá cả hàng hóa trên thị trường, bên cạnh các yếu tố chính chi phối n
giá trị lao động, giá trị sử dụng, quy luật cung cầu thì một yếu tố khác cũng góp phần quan
trọng là thuế hay chính sách thuế. Yếu tố này là công cụ của một chính phủ để quản lý ở tầm
nền kinh tế của quốc gia. Nếu một hàng hóa bị đánh thuế nặng thì giá cả trên thị
trường sẽ cao hơn rất nhiều so với giá cả nguyên gốc của nó. Ví dụ một chiếc xe hơi được sản
xuất tại nước ngoài chỉ giá 10.000 USD, nhưng khi nhập o một nước khác sẽ bị đánh
thuế lên đến 100% thì giá bán của nó tại thị trường đó ít nhất là 20.000 USD. Vì vậy nếu một
người kinh doanh sử dụng các biện pháp để trốn thuế vẫn bán với giá hiện hành trên thị
trường thì họ đã đạt được siêu lợi nhuận.
- Yếu tố độc quyền kinh tế cũng góp phần tạo nên lợi nhuận siêu ngạch
- Tăng giờ làm
- Ngoài ra, chính các mặt hàng với các tính chất rủi ro cao cũng có thể tạo ra
siêu lợi nhuận. Tờng hợp này điển hình là ma túy. Việc kinh doanh ma túy và
các sản phẩm của nó đã tạo nên một siêu lợi nhuận cho người kinh doanh vì hầu
hết các quốc gia trên thế giới đều nghiêm cấm việc buôn bán ma túy và trừng phạt
những người buôn ma túy.
4. Liên hệ: Giá trị thặng dư siêu ngạch – Một trong những nguồn gốc cho sự
giàu có của các quốc gia trong điều kiện hiện đại
Bằng những thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại nắm
giữ được, chủ nghĩa tư bản đã thực hiện sự bóc lột tinh vi gắn quyện và rất hiệu nghiệm ở cả
ba phương pháp. Nhưng chủ yếu là bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch.
Ở các nước tư bản phát triển nhờ áp dụng một cách phổ biến khoa học phương tiện kỹ
thuật hiện đại trong tất cả các ngành sản xuất dịch vụ năng suất lao động hội tăng
cao. Do đó m cho giá trị của hàng hoá đều giảm xuống thì do giá trị các hàng hoá liên
quan đến tái sản xuất sức lao động quyết định. Cho nên trong các nước này động lực trực tiếp,
thường xuyên thúc đẩy các nhà tư bản chăm lo tổ chức sản xuất và tiến bộ khoa học kỹ thuật
giá trị thặng siêu ngạch. Nhưng phương pháp bóc lột giá trị thặng tương đối chủ
lOMoARcPSD| 58583460
yếu. Vì giá trị thặng tương đối tăng lên cùng với sự tăng lên giảm xuống của sức sản
xuất lao động.
Ngày nay khối lượng lợi nhuận kếch sù mà các nước tư bản có được chủ yếu là do bóc
lột giá trị thặng siêu ngạch thông qua kinh tế với thị trường nông thôn chính quốc đặc
biệt là mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, nhất là các nước kém phát triển.
Trong điều kiện của cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại, các nước
bản phát triển nhất các Công ty độc quyền xuyên quốc gia đa quốc gia ưu thế hơn
hẳn trong việc áp dụng những thành tựu khoa học mới nhất của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Do đó các nước bản các tchức độc quyền đó có
nhiều khả năng sản xuất ra GTTTD siêu ngạch, đây là nguồn rất to lớn và khá ổn định của lợi
nhuận siêu ngạch khổng lồ mà các nước tư bản phát triển và các tổ chức độc quyền thu được
trong quan hệ kinh tế với các nước kém phát triển. Chẳng hạn như thông thường họ bán những
mặt hàng công nghệ phẩm với mức giá hàng năm tăng từ 15% đến 17% trong khi đó họ mua
hàng khoáng sản và nông – lâm – hải sản của các nước kém phát triển với mức giá hàng năm
chỉ tăng từ 3- 5% thậm chí có một số mặt hàng giá trị giảm nghĩa là, CNTB hiện đại đang sử
dụng giá cả canh kéo” độc quyền trong quan hệ kinh tế Đông Tây” để bóc lột gián tiếp
giai cấp công nhân và quần chúng lao động ở các nước kém phát triển.
Hậu quả của quá trình trên các ớc bản thu được lợi nhuận siêu ngạch kếch
giàu lên nhanh chóng. Trái lại các nước kém phát triển thì tài nguyên ngày một cạn kiệt,
sức người mòn mỏi, nợ chồng chất và nạn đói liên miên…
III. KẾT LUẬN
Mục đích của các nhà tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất giá trị thặng
dư. sản xuất giá trị thặng động lực vận động của phương thức sản xuất bản chủ
nghĩa.C.mac viết “mục đích của sản xuất bản chủ nghĩa làm giàu, nhân giá trị lên, làm
tăng giá trị do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị thặng dư”.
Nhìn chung, đề i: “CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ THU ĐƯỢC LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH
(GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH) CỦA TƯ BẢN CÔNG NGHIỆP”
lOMoARcPSD| 58583460
khái quát được tính chất các phương pháp sản sinh ra lợi nhuận siêu ngạch, từ đó bộc lộ
được sự bóc lột của CNTB. Hơn nữa, quan hệ bóc lột đó vẫn tồn tại cho tới ngày nay ảnh
hưởng tới tài nguyên và cuộc sống con người.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục Đào tạo, Giáo trình Những nguyên bản của chủ nghĩa Mác
Lênin.
2. PGS. TS. An Như Hải, PGS. TS. Trần Văn Phòng, PGS. TS. Đỗ Thị Thạch,
Phương cách làm bài môn “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”,
xuất bản tháng 8/2010
3. Wikipedia, Bách khoa toàn thư mở tiếng Việt.
a. https://vi.wikipedia.org/
4. hoaineh.blogspot.com
5. https://loigiaihay.com/tai-sao-noi-quy-luat-san-xuat-gia-tri-thang-du-la-quyluat-kinh-
te-co-ban-cua-chu-nghia-tu-ban-dac-diem-cua-san-xuat-gia-tri-thangdu-trong-giai-
doan-hien-nay-c126a20489.html#ixzz5i3PoYFuq

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58583460
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ض*ض*ض*ض*ض*ض*ض*ض*ض*ض*ض
TIỂU LUẬN MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN II
Đề tài: CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ THU ĐƯỢC LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH (GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH) CỦA TƯ BẢN CÔNG NGHIỆP Giảng viên:
ThS. Vũ Thị Quế Anh Sinh viên:
Nguyễn Quỳnh Nga MSV: 1813340042 SBD: 37 Chuyên ngành:
CLC Tài chính – Ngân hàng Lớp: Anh 2, Khoá 57
Hà Nội, tháng 3 năm 2019 lOMoAR cPSD| 58583460 MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU...........................................................................................3
II. NỘI DUNG.....................................................................................4
1. Một số vấn đề lý luận về giá trị thặng dư.................................4 1.1.
Giá trị thặng dư là gì? Phân tích thực chất của quá trình sản xuất giá trị
thặng dư? Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
trong chủ nghĩa tư bản?...................................................................4
1.2. Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của CNTB
.........................................................................................................6
1.3. Nội dung, vai trò và biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư....7
2. Giá trị thặng dư siêu ngạch – Hình thức biến tướng của giá trị
thặng dư tương đối...........................................................................8

2.1. Giá trị thặng dư siêu ngạch là gì?.............................................8
2.2. Điều kiện tạo nên giá trị thặng dư siêu ngạch?........................8
2.3. Tính chất của giá trị thặng dư siêu ngạch................................8
2.4. So sánh giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương
đối....................................................................................................9
3. Các biện pháp để thu được lợi nhuận siêu ngạch (giá trị thặng dư
siêu ngạch) của tư bản công nghiệp..........................................9
4. Liên hệ: Giá trị thặng dư siêu ngạch – Một trong những nguồn
gốc cho sự giàu có của các quốc gia trong điều kiện hiện
đại....................................................................................................15
III. KẾT LUẬN..................................................................................16
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................16 I. MỞ ĐẦU
Theo danh giá của VI LêNin thì lý luận giá trị thặng dư là hòn đá tảng của học thuyết
kinh tế của C.Mac. Các nhà tư bản để đạt được mục đích tối đa của mình họ đã mua sức lao
động của người công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm và thu về giá trị thặng dư. lOMoAR cPSD| 58583460
Đối với nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì vấn đề nhận thức và vận dụng
các học thuyết của Mac – Đặc biệt là học thuyết Giá trị thặng dư, để làm kim chỉ nam cho các
hoạt động để đi đến đích cuối cùng là một vấn đề cực kỳ quan trọng. Xuất phát từ nhận thức
trên với nền kinh tế nước ta đang chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị
trường thì không ai khác, không quốc gia nào khác mà tự tìm ra đường lối phát triển kinh tế
phù hợp với điều kiện tình hình hiện nay. Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ nguồn gốc,
bản chất của các yếu tố bên trong của nền kinh tế đặc biệt là những yếu tố chính thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế thị trường. Một trong những yếu tố chính là giá trị thặng dư siêu
ngạch (siêu lợi nhuận). Vậy thế nào là giá trị thặng dư siêu ngạch? Điều kiện, tính chất của
giá trị thặng dư siêu ngạch là gì và các biện pháp thu được giá trị thặng dư siêu ngạch… Đây
cũng chính là những vấn đề cấp thiết, tất yếu đòi hỏi phải có lời giải đáp nhanh chóng, chính
xác phù hợp với tình hình để đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện nay.
Tuy trình độ nhận thức còn hạn hẹp, vẫn còn những sai sót bỡ ngỡ của lần đầu tiên viết
tiểu luận nhưng em cũng mạnh dạn đưa ra nhận thức của mình về đề tài:
“CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ THU ĐƯỢC LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH (GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH) CỦA TƯ BẢN CÔNG NGHIỆP”
Qua đây em cũng xin được chân thành cám ơn cô giáo và nhiều thầy cô khác trong bộ
môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin 2 đã giúp đỡ em hoan thành tiểu
luận này. Do kiến thức cũng như sự hiểu biết còn hạn chế nên trong bài tiểu luận này, sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được các thầy cô thông cảm và chỉ bảo thêm cho em.
Em xin chân thành cảm ơn! II. NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về giá trị thặng dư
1.1. Giá trị thặng dư là gì? Phân tích thực chất của quá trình sản xuất giá trị
thặng dư? Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản?
a. Giá trị thặng dư là gì?
Giá trị thặng dư là một trong những khái niệm trung tâm của kinh tế chính trị Karl
Marx. Karl Marx đã nghiên cứu và đưa ra một số công thức tính toán xung quanh khái niệm lOMoAR cPSD| 58583460
này trong các tác phẩm viết về kinh tế chính trị của ông. Nó được sử dụng để khẳng định lao
động thặng dư của công nhân bị các nhà tư bản lấy đi, là nền tảng cho sự tích lũy tư bản.
b. Phân tích thực chất của quá trình sản xuất giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư được sản xuất trong nền kinh tế hàng hoá TBCN. Sản xuất TBCN là
sự thống nhất giữa quá trình sản xuất giá trị sử dụng với quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
* Ví dụ về quá trình sản xuất sợi của nhà tư bản.
Để tiến hành sản xuất nhà tư bản mua các yếu tố sản xuất và giả sử mua đúng giá trị. 10kg bông giá 10 USD
Khấu hao máy móc thiết bị 2 USD
Mua sức lao động 3 USD/12giờ
Trong 1 giờ người công nhân tạo ra 0,5 USD giá trị mới
Giả sử trong 6h lao động đầu người công nhân đã thực hiện kéo hết 10 kg bông thành sợi, giá
trị của sợi là 15USD. Nếu quá trình sản xuất chỉ dừng ở đây thì sẽ không tạo ra giá trị thặng
dư. Tuy nhiên vì nhà tư bản mua sức lao động trong 12h. Tức là trong 6h sau họ vẫn phải lao
động tạo ra hàng hoá sợi có giá trị 15 USD. Tuy nhiên trong quá trình này chi phí nhà tư bản
bỏ ra chỉ có 12 USD. ( Không tính thêm chi phí mua sức lao động công nhân).
Vậy, Tổng giá trị sản xuất trong ngày của công nhân 30USD
Tổng chi phí sản xuất 15+12= 27USD
Giá trị thặng dư: m = 3 USD
Từ sự phân tích trên cho phép rút ra kết luận sau: Ngày lao động của công nhân chia
làm hai phần, phần thời gian lao động (6h đầu) là thời gian lao động cần thiết (xã hội) (t),
Phần còn lại của lao động (6h sau) là thời gian lao động thặng dư (t’).
Giá trị sản phẩm được sản xuất ra bao gồm:
- Giá trị tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của công nhân bảo tồn và dichuyển
vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ (c)
- Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình laođộng gọi
là giá trị mới, phần giá trị này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động
(v) cộng với giá trị thặng dư (m).
Kết luận: Như vậy, giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài gía trị sức lao động do
công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt, là lao động không công của công nhân. lOMoAR cPSD| 58583460
c. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Trong nền sản xuất TBCN, có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư; sản suất giá
trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
- Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được bằng các kéo dài ngày lao động
hoặc tăng cường độ lao động trong khi thời gian lao động tất yếu, giá trị sức lao động và năng
suất lao động không thay đổi.
Giới hạn về thể chất, tinh thần: giới hạn này đòi hỏi trong 24h của một ngày đêm người
công nhân cần phải ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí... phục hồi sức lao động. Với sự phát triển của
sản xuất tư bản chủ nghĩa, ngày lao động có xu hướng ngày càng ngắn hơn trước.
Giới hạn về kinh tế - xã hội: về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao
động tất yếu nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
Về mặt xã hội, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản mới ra đời, nhà nước ban bố nhiều đạo luật có
lợi cho giai cấp tư sản.
- Sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động
tất yếu, bằng cách tăng năng suất lao động xã hội, qua đó hạ thấp giá trị sức lao động và làm
tăng tương ứng thời gian lao động thặng dư. Cơ sở để thực hiện phương pháp này là tăng năng
suất lao động. Do năng suất lao động có khả năng tăng lên vô hạn, nên sản xuất giá trị thặng
dư tương đối cũng không có giới hạn. Bởi vậy, nó được áp dụng ngày càng phổ biến trong
quá trình phát triển của CNTB.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối không gạt bỏ phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối. Trái lại, chúng được kết hợp với nhau, do việc sử dụng máy móc
với tốc độ nhanh làm cho cường độ lao động phải tăng lên.
1.2. Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của CNTB Mỗi một
phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ kinh
tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Đối với sản xuất hàng hóa giản đơn, thì quy
luật kính tế cơ bản là quy luật giá trị, còn quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy
luật giá trị thặng dư. lOMoAR cPSD| 58583460
+ Giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân
làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của
chủ nghĩa tư bản - quan hệ tư bản bóc lột lao dộng làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động
không công của công nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.
+ Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất
ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động
cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản
cố gắng sản xuất ra hàng hoá với chất lượng tốt đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ vì nhà tư bản
muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.
+ Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn mà các nhà tư bản sử dụng để đạt được
mục đích như tăng cường bóc lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và
kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.
Như vậy, quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Thực
chất của quy luật này là tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng
cường bóc lột lao động làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời
và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Quy luật này quyết định toàn bộ sự vận động của chủ nghĩa
tư bản, một mặt nó là động lực thúc đẩy sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng,
mặt khác lại làm tăng mâu thuẫn cơ bản của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
1.3. Nội dung, vai trò và biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư - Nội dung
của quy luật giá trị thặng dư là toạ ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng
cách tăng cường bóc lột lao động làm thuê.
- Vai trò của quy luật giá trị thặng dư
+ Quyết định mục đích, bản chất, nguyên tắc phân phối cơ bản và phương hướng phát
triển của phương thức sản xuất TBCN
+ Chi phối các quy luật kinh tế khác, hướng sự hoạt động của các quy luật kinh tế này
phục vụ quy luật giá trị thặng dư. lOMoAR cPSD| 58583460
+ Quy luật giá trị thặng dư tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội tư bản . Một mặt,
nó thúc đẩy kỹ thuật, phân công lao động xã hội, làm cho LLSX, năng suất lao động tăng lên
nhanh chóng và nền sản xuất được xã hội hoá cao. Mặt khác, nó làm cho các mâu thuẫn vốn
có của CNTB, trước hết là mâu tuẫn cơ bản – mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất
với sự chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX ngày càng gay gắt, quy định xu hướng lịch sử tất
yếu phải thay thế nó bằng một xã hội tốt đẹp hơn.
- Biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư
Quy luật giá trị thặng dư được biểu hiện thành lợi nhuận. 2.
Giá trị thặng dư siêu ngạch – Hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối
2.1. Giá trị thặng dư siêu ngạch là gì?
Siêu lợi nhuận hay còn được gọi là lợi nhuận siêu ngạch hay là giá trị thặng dư siêu
ngạch chính là phần giá trị thặng dự (lợi nhuận) thu được trong một chu trình sản xuất do áp
dụng công nghệ kỹ thuật mới vào sản xuất làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá
trị thị trường của nó.
Đây cũng chính là lợi nhuận đặc biệt vượt quá lợi nhuận bình quân mà chủ xí nghiệp
thu được trong một thời gian nhất định trong quá trình cạnh tranh do sử dụng những thiết bị,
kĩ thuật và công nghệ tiến bộ, đầu tư vào các ngành sản xuất mới. Khi các chủ xí nghiệp khác
cạnh tranh và nắm được kĩ thuật mới thì lợi nhuận đặc biệt trên không còn nữa và lúc đó sẽ
hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân.
2.2. Điều kiện tạo nên giá trị thặng dư siêu ngạch?
Tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó.
2.3. Tính chất của giá trị thặng dư siêu ngạch
- Mang tính chất tạm thời vời nhà tư bản, nhưng luôn luôn tồn tại, phổ biến trong xã hội.
- Là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy các nhà tư bản không ngừng gia tăng năng suất
lao động và cải tiến kỹ thuật
2.4. So sánh giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối lOMoAR cPSD| 58583460
Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối cùng có một cơ sở chung đó
là dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động để rút ngắn thời gian lao động cần thiết.
Điểm khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối:
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt, còn giá
trị thặng dư tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội. Giá trị thặng dư siêu
ngạch sẽ được thay thế bằng giá trị thặng dư tương đối khi trình độ kỹ thuật mới được áp dụng
ở các tư bản cá biệt trở thành phổ biến trong xã hội. Vì thế, C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu
ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
+ Giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu dược. Nó biểu hiện
sự tiến bộ kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản được áp dụng rộng rãi. Xét về mặt đó thì nó thể hiện
quan hệ giữa giai cấp công nhân và toàn bộ giai cấp các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu
ngạch là mục đích trực tiếp mà mỗi nhà tư bản cố gắng đạt tới trong cuộc cạnh tranh với các
nhà tư bản khác. Xét về mặt này, giá trị thặng dư siêu ngạch không chỉ biểu hiện mối quan hệ
giữa công nhân làm thuê và nhà tư bản, mà còn biểu hiện mối quan hệ giữa các nhà tư bản với nhau.
Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc
đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức
lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng xuất lao động giảm giá trị của hàng hoá.
3. Các biện pháp để thu được lợi nhuận siêu ngạch (giá trị thặng dư siêu ngạch)
của tư bản công nghiệp
Dưới tác động của qui luật giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản đã vận động phát triển
qua ba giai đoạn từng bước thực hiện các cuộc đảo lộn… có tác dụng đẩy nhanh tăng năng
suất lao động xã hội để giảm thời gian lao động tất yếu xuống mức tối thiểu cần thiết tăng tối
đa thời gia cho việc sản xuất ra giá trị thặng dư.
Bước đầu của quá trình đó diễn ra trong buổi “bình minh” của CNTB (cuối thế kỷ XV
đầu thế kỷ XVI). Khi đó, các nhà tư bản chỉ có số vốn liếng ít ỏi và công cụ lao động thủ công
lạc hậu, nhưng có khát vọng thu được nhiều giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản đã khắc phục lOMoAR cPSD| 58583460
mâu thuẫn này bằng cuộc cách mạng hoá tổ chức lao động biến lao động cá thể manh mún
thành lao động hiệp tác phù hợp với yêu cầu tất yếu kinh tế tạo ra sức lao động “cộng thể”
một mặt làm cho năng suất lao động xã hội được nâng cao, cho phép giảm lao động tất yếu,
tăng lao động thặng dư, do đó tạo ra nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Mặt khác, tạo tiền
đề cho CNTB tiến lên một giai đoạn cao hơn bằng quá trình cách mạng hoá sức lao động, từ
đó hình thành nên công trường thủ công. Công trường thủ công TBCN đã tạo nên bước phát
triển mới về năng suất lao động xã hội nhờ đó mà giảm thấp đáng kể thời gian lao động tất
yếu, tăng thêm tương ứng thời gian lao động thặng dư, đem lại nhiều lợi nhuân cho nhà tư
bản. Chính các công trường thủ công đã tạo ra cho CNTB có đủ các điều kiện tiền đề về kinh
tế kỹ thuật, xã hội để tiến lên thực hiện một bước đảo lộn toàn diện và sâu sắc quá trình lao
động cũng như bản thân phương thức sản xuất TBCN. Từ đó chuyển nền sản xuất này nên
giai đoạn công nghiệp cơ khí, thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc, tạo nên
bước nhảy vọt cho năng suất lao động, cho phép CNTB tiến hành bóc lột chủ yếu theo phương
pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư nhiều, lợi nhuận lớn, lại kích thích lòng thèm khát của các nhà tư bản
làm sao thu được nhiều hơn nữa. Bản thân các nhà tư bản này mở rộng được sử dụng máy
móc, các nhà tư bản khác cũng đua tranh sử dụng máy móc để thu được nhiều giá trị thặng
dư. Kết quả là máy móc trửo thành phổ biến trong các công xưởng và nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Sự phát triển của máy móc như vậy đã làm phát sinh giá trị thặng dư tương đối bằng
cách: trực tiếp làm cho sức lao động giảm giá, gián tiếp làm cho sức lao động rẻ đi nhờ tăng
năng suất lao động xã hội, làm cho những hàng hoá cấu thành giá trị sức lao động giảm xuống.
Do đó, người ta chỉ cần dùng một phần ít hơn của ngày lao động để bù đắp lại giá trị sức lao
động làm cho việc sản xuất giá trị thặng dư tương đối trở thành phương pháp chủ yếu trong
việc tăng giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Những doanh nghiệp nào đi đầu trong đổi mới công nghệ sẽ thu được giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư siêu ngạch chính là giá tri thặng dư tương đối do tăng năng suất lao động mà
có nhưng khác ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do tăng năng xuất lao động xã hội, do đó tất
cả các nhà tư bản đều được hưởng. Còn gía trị thặng dư siêu ngạch là do tăng năng suất lao
động cá biệt nên chỉ có những nhà tư bản nào có năng suất lao động cá biệt hơn năng suất lao
động xã hội thì mới được hưởng giá trị thặng dư siêu ngạch. lOMoAR cPSD| 58583460
Dưới đây là các biện pháp làm tăng lợi nhuận siêu ngạch: - Về chi phí
Để được gọi là siêu lợi nhuận thì yếu tố đầu tiên là chi phí bỏ ra thấp nhưng doanh thu
thu được rất lớn. Các nhà đầu tư, sản xuất (nhà tư bản) chỉ phải bỏ ra chi phí ít hơn các nhà
tư bản khác nhưng vẫn bán được giá như các nhà tư bản khác, từ đó sẽ thu được giá trị thặng dư (lợi nhuận) cao hơn.
Tuy vậy, lợi nhuận siêu ngạch không phải diễn ra mãi mãi, khi số đông các nhà tư bản
đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng dư siêu ngạch hay siêu
lợi nhuận sẽ không còn nữa.
Trong một xí nghiệp hay cơ sở sản xuất thì giá trị siêu ngạch là một hiện tượng mang
tính tạm thời, nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại thường xuyên tồn tại. Nó chính là động
lực mạnh mẽ nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ thường xuyên nhằm tăng
năng suất lao động cá biệt, đánh bại đối thủ trong cạnh tranh.
Karl Marx gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
- Giảm thời gian lao động tất yếu Thời gian lao động gồm 2 phần :
+ Tgian lao động tất yếu : Là thời gian lao động bỏ ra để bù vào cho bằng chi phí ban
đầu. ( hay sản xuất số sản phẩm cần thiết để bán )
+ Tgian lao động thặng dư : Là thời gian lao động tạo ra giá trị thặng dư cho xã hội.
Cho nên, khi giảm thời gian lao động tất , đồng thời tăng năng suất lao động, khi đó,
thời gian thặng dư được tăng lên, người lao động càng làm nhiều tgian thặng dư thì người
chủ càng thu được nhiều
- Tăng năng suất lao động lOMoAR cPSD| 58583460
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số lượng
sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để
sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động, nhưng
khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra
một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một
đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại.
Do vậy, khi tăng năng suất lao động thì thời gian thặng dư cũng sẽ tăng lên, góp phần
sản sinh ra lợi nhuận thặng dư.
- Yếu tố khoa học công nghệ
Để có lợi nhuận siêu ngạch trong sản xuất, một yếu tố quan trọng hàng đầu đó chính
là khoa học công nghệ mà theo kinh tế học chính trị thì nó chính là máy móc. Máy móc
tuy không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư nhưng nó góp phần làm tăng giá trị lao động.
Trong học thuyết giá trị thặng dư, Karl Mark khẳng định lao động sản xuất hàng hoá
có tính chất hai mặt. Chính tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá đã tạo ra giá trị
sử dụng và giá trị hàng hóa. Trong đó: Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng
hoá; Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa.
Do đó, quá trình sản xuất hàng hoá cũng sẽ bao gồm hai mặt là quá trình lao động và
quá trình tạo ra, làm tăng giá trị. Với tư cách là yếu tố của quá trình lao động, máy móc
gia nhập toàn bộ vào quá trình sản xuất, còn với tư cách là một yếu tố hình thành giá trị
thì máy móc chỉ gia nhập từng phần giá trị vào sản phẩm.
Quá trình lao động dù là giản đơn hay phức tạp cũng là sự kết hợp của người lao động
với tư liệu sản xuất. Sử dụng máy móc càng hiện đại thì sức sản xuất ngày càng được
nâng lên, càng tạo ra nhiều của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Nhưng khi nghiên cứu quá trình tạo ra và làm tăng giá trị hàng hoá thì máy móc tham
gia vào đây không còn được xét là nhân tố vật thể nữa mà chỉ được coi là những lượng
lao động đã vật hoá nhất định, giá trị của chúng được chuyển dần hoặc chuyển ngay vào lOMoAR cPSD| 58583460
trong một chu kỳ sản xuất sản phẩm. Dù máy móc có hiện đại đến đâu đi chăng nữa thì
cũng không thể tự chuyển giá trị của mình vào sản phẩm.
Một cái máy không dùng vào quá trình sản xuất là một cái máy vô ích, ngoài ra nó còn
bị hư hỏng dần bởi sức mạnh huỷ hoại của tự nhiên. Chính lao động sống, lao động của
con người đã "cải tử hoàn sinh", đã làm cho máy móc sống lại, chuyển giá trị của chúng sang sản phẩm mới.
Nhưng một tư liệu sản xuất không bao giờ chuyển vào sản phẩm mới một giá trị lớn
hơn phần mà nó đã hao mòn đi trong quá trình sản xuất. Tức là, tư liệu sản xuất nói chung
và máy móc nói riêng chỉ tạo điều kiện cho việc làm tăng giá trị của hàng hoá chứ bản
thân không trực tiếp tham gia vào quá trình làm tăng giá trị.
Khi đi sâu vào nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư thì ta thấy rằng
những doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị hiện đại thì sẽ thu được giá trị thặng dư siêu
ngạch, từ đó sẽ có lợi nhuận siêu ngạch hay siêu lợi nhuận.
Khi sử dụng máy móc hiện đại sẽ làm tăng khả năng sản xuất của lao động. Trong một
đơn vị thời gian sẽ tạo ra được nhiều hàng hoá hơn, với chất lượng tốt hơn, khi bán hàng hoá
trên thị trường (có thể bán với giá thấp hơn so với giá cả thị trường) nhưng vẫn thu được lợi
nhuận rất cao. Sở dĩ như vậy là do khi năng suất lao động tăng lên thì hao phí lao động để sản
xuất ra một hàng hoá giảm xuống dẫn đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm xuống.
Chính vì thế Karl Mark cho rằng: xã hội sẽ không thể tiến bộ nếu không luôn luôn cách
mạng hoá công cụ sản xuất.
- Cung – cầu trên thị trường
Bên cạnh yếu tố máy móc và lao động (là các yếu tố được xem xét trong quá trình sản
xuất) thì các yếu tố khác cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra siêu lợi nhuận, đó là
yếu tố liên quan đến cung, cầu trên thị trường. Nếu như nhu cầu của một mặt hàng đó tăng
lên so với cung của hàng hóa đó thì giá cả của mặt hàng đó sẽ tăng lên. Nếu giá cả tăng mạnh
có thể tạo ra siêu lợi nhuận. Người ta cũng có thể tích trữ hàng hóa để tạo ra tình trạng khan
hiếm hàng hóa trên thị trường khiến cầu cao hơn cung do đó giá tăng, sau đó họ bán hàng hóa
ra thị trường với giá cao để thu về siêu lợi nhuận. Hiện tượng này được gọi là đầu cơ. - Chính sách thuế lOMoAR cPSD| 58583460
Ngoài hiện tượng đầu cơ, siêu lợi nhuận cũng được hình thành từ việc trốn thuế, tránh
thuế, chuyển thuế. Giá cả hàng hóa trên thị trường, bên cạnh các yếu tố chính chi phối như
giá trị lao động, giá trị sử dụng, quy luật cung cầu thì một yếu tố khác cũng góp phần quan
trọng là thuế hay chính sách thuế. Yếu tố này là công cụ của một chính phủ để quản lý ở tầm
vĩ mô nền kinh tế của quốc gia. Nếu một hàng hóa bị đánh thuế nặng thì giá cả nó trên thị
trường sẽ cao hơn rất nhiều so với giá cả nguyên gốc của nó. Ví dụ một chiếc xe hơi được sản
xuất tại nước ngoài chỉ có giá 10.000 USD, nhưng khi nhập vào một nước khác sẽ bị đánh
thuế lên đến 100% thì giá bán của nó tại thị trường đó ít nhất là 20.000 USD. Vì vậy nếu một
người kinh doanh sử dụng các biện pháp để trốn thuế mà vẫn bán với giá hiện hành trên thị
trường thì họ đã đạt được siêu lợi nhuận.
- Yếu tố độc quyền kinh tế cũng góp phần tạo nên lợi nhuận siêu ngạch - Tăng giờ làm
- Ngoài ra, chính các mặt hàng với các tính chất rủi ro cao cũng có thể tạo ra
siêu lợi nhuận. Trường hợp này điển hình là ma túy. Việc kinh doanh ma túy và
các sản phẩm của nó đã tạo nên một siêu lợi nhuận cho người kinh doanh vì hầu
hết các quốc gia trên thế giới đều nghiêm cấm việc buôn bán ma túy và trừng phạt
những người buôn ma túy.
4. Liên hệ: Giá trị thặng dư siêu ngạch – Một trong những nguồn gốc cho sự
giàu có của các quốc gia trong điều kiện hiện đại
Bằng những thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại nắm
giữ được, chủ nghĩa tư bản đã thực hiện sự bóc lột tinh vi gắn quyện và rất hiệu nghiệm ở cả
ba phương pháp. Nhưng chủ yếu là bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch.
Ở các nước tư bản phát triển nhờ áp dụng một cách phổ biến khoa học phương tiện kỹ
thuật hiện đại trong tất cả các ngành sản xuất và dịch vụ mà năng suất lao động xã hội tăng
cao. Do đó làm cho giá trị của hàng hoá đều giảm xuống thì nó do giá trị các hàng hoá liên
quan đến tái sản xuất sức lao động quyết định. Cho nên trong các nước này động lực trực tiếp,
thường xuyên thúc đẩy các nhà tư bản chăm lo tổ chức sản xuất và tiến bộ khoa học kỹ thuật
là giá trị thặng dư siêu ngạch. Nhưng phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối là chủ lOMoAR cPSD| 58583460
yếu. Vì giá trị thặng dư tương đối tăng lên cùng với sự tăng lên và giảm xuống của sức sản xuất lao động.
Ngày nay khối lượng lợi nhuận kếch sù mà các nước tư bản có được chủ yếu là do bóc
lột giá trị thặng dư siêu ngạch thông qua kinh tế với thị trường nông thôn chính quốc và đặc
biệt là mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, nhất là các nước kém phát triển.
Trong điều kiện của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, các nước tư
bản phát triển nhất là các Công ty độc quyền xuyên quốc gia và đa quốc gia có ưu thế hơn
hẳn trong việc áp dụng những thành tựu khoa học mới nhất của cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Do đó các nước tư bản và các tổ chức độc quyền đó có
nhiều khả năng sản xuất ra GTTTD siêu ngạch, đây là nguồn rất to lớn và khá ổn định của lợi
nhuận siêu ngạch khổng lồ mà các nước tư bản phát triển và các tổ chức độc quyền thu được
trong quan hệ kinh tế với các nước kém phát triển. Chẳng hạn như thông thường họ bán những
mặt hàng công nghệ phẩm với mức giá hàng năm tăng từ 15% đến 17% trong khi đó họ mua
hàng khoáng sản và nông – lâm – hải sản của các nước kém phát triển với mức giá hàng năm
chỉ tăng từ 3- 5% thậm chí có một số mặt hàng giá trị giảm nghĩa là, CNTB hiện đại đang sử
dụng giá cả “ canh kéo” độc quyền trong quan hệ kinh tế “ Đông Tây” để bóc lột gián tiếp
giai cấp công nhân và quần chúng lao động ở các nước kém phát triển.
Hậu quả của quá trình trên là các nước tư bản thu được lợi nhuận siêu ngạch kếch xù
và giàu lên nhanh chóng. Trái lại các nước kém phát triển thì tài nguyên ngày một cạn kiệt,
sức người mòn mỏi, nợ chồng chất và nạn đói liên miên…
III. KẾT LUẬN
Mục đích của các nhà tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất giá trị thặng
dư. sản xuất giá trị thặng dư là động lực vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa.C.mac viết “mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu, nhân giá trị lên, làm
tăng giá trị do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị thặng dư”.
Nhìn chung, đề tài: “CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ THU ĐƯỢC LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH
(GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH) CỦA TƯ BẢN CÔNG NGHIỆP” lOMoAR cPSD| 58583460
khái quát được tính chất và các phương pháp sản sinh ra lợi nhuận siêu ngạch, từ đó bộc lộ
được sự bóc lột của CNTB. Hơn nữa, quan hệ bóc lột đó vẫn tồn tại cho tới ngày nay và ảnh
hưởng tới tài nguyên và cuộc sống con người.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
2. PGS. TS. An Như Hải, PGS. TS. Trần Văn Phòng, PGS. TS. Đỗ Thị Thạch,
Phương cách làm bài môn “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”, xuất bản tháng 8/2010
3. Wikipedia, Bách khoa toàn thư mở tiếng Việt. a. https://vi.wikipedia.org/
4. hoaineh.blogspot.com
5. https://loigiaihay.com/tai-sao-noi-quy-luat-san-xuat-gia-tri-thang-du-la-quyluat-kinh-
te-co-ban-cua-chu-nghia-tu-ban-dac-diem-cua-san-xuat-gia-tri-thangdu-trong-giai-
doan-hien-nay-c126a20489.html#ixzz5i3PoYFuq