Các cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

Thời kỳ đầu thế kỷ XX đánh dấu sự xuất hiện và lan rộng của những ý tưởng
dân chủ tư sản từ phương Tây. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD|45562685
Các cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam
đầu thế kỷ XX
Mục lục
A Giới thiệu đề tài
Thời kỳ đầu thế kỷ XX đánh dấu sự xuất hiện và lan rộng của những ý tưởng
dân chủ tư sản từ phương Tây. Cùng với đó là phong trào cách mạng dân chủ tư
sản ở Châu Á với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa như Iran, Thổ Nhĩ Kì,
Trung Quốc. Ấn Độ... mang một nội dung mới. Những ý tưởng này đã tác động
mạnh mẽ đến tầng lớp trí thức và những người có ý thức yêu nước ở Việt Nam,
thúc đẩy họ tìm kiếm những phương pháp mới để thúc đẩy sự phát triển chính
trị và xã hội. Trước sự suy tàn của chế độ phong kiến và những yêu cầu mới của
lịch sử, những người yêu nước Việt Nam đã ý thức được sự lỗi thời của thiết
chế cũ về mọi mặt, họ nhận thấy rằng, “quan niệm trung quân ái quốc" của thời
kì Cần Vương không thể là con đường cứu nước, cứu dân được nữa. Đây là
những tiền đề cho sự hình thành một khuynh hướng cách mạng mới. Cùng với
đó ở trên thế giới, cuộc Cách mạng Pháp (1789), cuộc vận động Duy Tân
(1898) và Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc và đặc biệt sau chiến
thắng vang dội của quân đội Nhật trong chiến tranh Nga – Nhật (1904-1905)
càng củng cố niềm tin của các sĩ phu yêu nước vào con đường cách mạng tư sản
và họ đã dấy lên một cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng này. Và sau
này, các cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở đầu thế
kỷ XX đã trở thành một dấu mốc lịch sử quan trọng trong trang sử hào hùng của
dân tộc Việt Nam ta.
B Nội dung
I.Bối cảnh lịch sử xuất hiện các phong trào
1.1. Tình hình thế giới
Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa nền kinh tế
hàng hoá phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường và là nguyên
nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến
Phương Đông. Biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng
hoá, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của
các nước đế quốc. Từ đó mang lại lợi nhuận tối đa cho tư bản chính quốc. Chính
sự áp bức và thôn tính dân tộc của chủ nghĩa Đế quốc tăng mâu thuẫn giữa dân
lOMoARcPSD|45562685
tộc thuộc địa với thực dân ngày càng gay gắt, sự phản ứng đấu tranh của nhân
dân các thuộc địa càng quyết liệt.
Cách Mạng tháng mười Nga thành công năm 1917 nó không chỉ có ý
nghĩa đối với riêng nước nga mà còn có ý nghĩa to lớn, ảnh hưởng sâu rộng đến
khắp thế giới lôi cuốn nhiều người tham gia trong đó có lớp thanh niên những
người yêu nước Việt Nam. Hồ Chí Minh đã nói về Cách Mạng tháng mười Nga:
“Cách Mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu”.
Cách Mạng tháng mười làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước
tư bản chủ nghĩa phương tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa phương đông có quan hệ mật thiết với nhau cùng đấu tranh chống kẻ thù
chung là chủ nghĩa đế quốc nhằm một mục đích chung là độc lập dân tộc, hạnh
phúc cho nhân dân. Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi chủ nghĩa Mác-Lênin
trở thành hiện thực và được truyền bá rộng rãi khắp nơi và dẫn tới sự ra đời
hàng loạt các Đảng Cộng sản như Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921), Đảng
Cộng sản Pháp (1920), Đảng Cộng sản Mỹ (1919).
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập và tại đại hội II của
Quốc tế Cộng sản (1920), Lênin đã thông qua bản sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Luận cương của Lênin có ảnh
hưởng rất lớn tới quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc , nó đã chỉ
ra con đường, phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp
bức: “Luận cương của Lênin cho tôi rất cảm động , phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng biết bao tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng
mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo. Hỡi đồng bào bị
đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta” Sau này Hồ Chí Minh khẳng định Lênin là người đầu tiên có
vai trò to lớn đối với các dân tộc thuộc địa Người viết: “Lênin là người đầu
tiên đã hiểu và đánh giá hết tầm quan trọng lớn lao của việc lôi cuốn nhân
dân các dân tộc thuộc địa của phong trào cách mạng, Lênin là người đầu tiên
chỉ rõ rằng nếu không có sự tham gia của các dân tộc thuộc địa, thì cách
mạng xã hội chủ nghĩa không thể có được”.
Như vậy tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có nhiều biến
đổi đã ảnh hưởng đến Cách mạng Việt Nam.
1.2. Tình hình trong nước
Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm xã hội
Việt Nam biến đổi sâu sắc cả về kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội.
lOMoARcPSD|45562685
Về kinh tế:
Thực dân Pháp du nhập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào Việt
Nam làm quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành lên nhiều đô thị mới ,
những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Tuy nhiên thực dân không du
nhập hoàn toàn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào nước ta mà vấn duy
trì quan hệ kinh tế phong kiến làm cho nền kinh tế của Việt Nam không phát
triển bình thường lên chủ nghĩa tư bản được mà phát triển một cách quèo quặt,
lạc hậu, phụ thuộc vào kinh tế pháp.
Về chính trị:
Bên cạnh bộ máy thực dân pháp cho thiết lập ở Việt Nam một chế độ
chuyên chế điển hình.Với quyền hành đều nằm trong tay người Pháp, vua quan
nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn. Chúng tiến hành chính sách “ chia để trị”, chia nước
ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó với nước Lào
và nước Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp để xoá bỏ tên
nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới. Đồng thời chúng còn gây
chia rẽ dân tộc , thù hận giữa ba miền ,giữa các tôn giáo, các dân tộc, các đảng
phái…
Dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp, người Việt Nam mất hết mọi
quyền tự do dân chủ, đất nước Việt Nam mất độc lập.
Về văn hoá-xã hội :
Thực dân Pháp thi hành cách ngu dân triệt để,giam hãm, đầu độc nhân
dân ta trong vòng tăm tối. Chúng xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học. Trong
các trường học chúng mở dạy tiếng Pháp nhằm đào tạo một đội ngũ tay sai ở
thuộc địa. Chúng còn có những chính sách bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng văn
hoá tiến bộ trên thế giới, kể cả văn hoá xã hội Pháp, trúng khuyến khích phát
triển văn hoá đồ truỵ, mê tín dị đoan…
*Xã hội:
Tính chất của xã hội Việt Nam từ một xã hội phong kiến độc lập thành
một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, làm mâu thuẫn xã hội thay đổi, hai mâu
thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp
xâm lược và tay sai phản động mâu thuẫn nhân dân Việt Nam là nhân dân mâu
thuẫn với giai cấp phong kiến làm kết cấu xã hội thay đổi: Bên cạnh hai giai cấp
cũ là địa chủ và người nông dân xã hội Việt Nam xuất hiện ba giai cấp,tầng lớp
mới là:giai cấp công nhân, giai cấp tư bản và giai cấp tư sản
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân pháp đối với Việt Nam và cả
Đông Dương nói chung là một chính sách tự trị chuyên chế về chính trị, bóc lột
lOMoARcPSD|45562685
nặng nề về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hoá, giáo dục chứ không phải
đem đến cho nhân dân một sự khai hoá và cải tạo thực sự theo kiểu phương tây.
Hồ Chí Minh từng nói về nhà khai hoá như sau: “Khi người ta đã là một nhà
khai hoá thì người ta có thể m những việc dã man mà vẫn cứ là người văn
minh nhất”, “nếu dân bản xứ không chịu nhục được, phải vùng lên, thì các
nhà khai hoá điều quân đội, súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến,
người ta ra lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy công
cuộc khai hoá nhân từ là như thế đấy.”
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các phong trào yêu nước Việt Nam theo
khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ, liên tục , sôi nổi và rộng
khắp tuy nhiên các phong trào yêu nước đều đi đến thất bại do thiếu một đường
lối đúng đắn thiếu một tổ chức cách mạng có khả năng dẫn dắt dân tộc đến
thắng lợi, cuộc đấu tranh của nhân dân ta rơi vào tình trạng khủng hoảng về
đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo cách mạng.
II. Các phong trào tiêu biểu theo khuynh hướng dân chủ tư sản
2.1. Phong trào theo xu hướng bạo động
2.1.1 Phan Bội Châu cùng khuynh hướng bạo động- Tthành lập Duy Tân
hội đến phong trào Đông Du.
2.1.1.1. Chủ trương:
- Phan Bội Châu cho rằng: “nợ máu chỉ có thể trả bằng máu”, ông kiên trì
dùng bạo lực giành độc lập.
- Ông cũng quan niệm, Nhật Bản cùng màu da, cùng văn hoá Hán
học(đồng chủng, đồng văn), lại đi theo con đường tư bản châu Âu, giàu
mạnh lên và đánh thắng đế quốc Nga (1905).
2.1.1.2. Hoạt động:
- Phan Bội Châu lập Hi Duy tân ở Quảng Nam.
Năm 1904, ông cùng Nguyễn Hàm khoảng 20 đồng chí khác thành lập
Duy Tân hội Quảng Nam để đánh đuổi Pháp, chọn Kỳ Ngoại hầu Cường
Để một người thuộc dòng dõi nhà Nguyễn làm hội chủ.
Mục đích của hội đánh Pháp, giành lại độc lập cho tổ quốc, thành lập
thiết chế quân chủ lập hiến - theo đó vua có danh mà không có quyền. Hội
nghị thành lập Hội đề ra 3 nhiệm vụ trước mắt như sau:
+ Phát triển thế lực hội về người cũng như về tài chính
+ Xúc tiến việc chuẩn bị bạo động và các công việc sau đó
+ Chuẩn bị xuất dương cầu viện, xác định phương châm và thủ đoạn xuất
dương
lOMoARcPSD|45562685
Trong ba nhiệm vụ trên, nhiệm vụ thứ ba hết sức quan trọng và bí mật, nên
Duy Tân hội đã cử Phan Bội Châu và Nguyễn Hàm tự định liệu. Theo đó,
đây là tiền đề cho phong trào Đông Du sau này.
Năm
i
sang
Nhật, được khuyên nên dùng thơ văn (nghe lời Phan Bội Châu viết
Việt Nam vong quốc sử) để thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt
Nam. Lại nghe hai nhân vật quan trọng của Đảng Tiến Bộ đang cm quyền
Nhật Bản, tước Okuma Shigenobu (Ôi Trọng Tín) Thủ tướng
Inukai Tsuyoshi (Khuyển Dưỡng Nghị) khuyên là nên cổ động thanh niên
ra nước ngoài học tập để sau này về giúp nước.
- Phong trào Đông Du:
Tháng 6 năm 1905
số sách Việt Nam vong
quốc sử ,
ông và các đồng chí nòng cốt trong Duy Tân hội bàn bạc rồi đưa ra kế
hoạch hành động đó là:
+ Nhanh chóng đưa Kỳ Ngoại hầu Cường Để ra nước ngoài.
+ Lập các hội nông, hi buôn, hội học để tập hợp quần chúng và để có tài
chánh cho hội.
+Chọn một số thanh niên thông minh hiếu học, chịu được gian khổ, đưa
đi học ở nước ngoài
Tháng 10 năm 1905, Phan Bội Châu trở lại Nhật Bản cùng với ba thanh
niên, sau đó lại thêm 45 người nữa. m 1906, Cường Để qua Nhật,
được bố trí vào học trường Chấn Võ. Kể từ đó cho đến năm 1908, số học
sinh sang Nhật Bản du học lên tới khoảng 200 người, sinh hoạt chung trong
một tổ chức có quy củ gọi là Cống hiến hội
Chương trình nhằm đào tạo những người trình độ văn hóa quân sự
cần thiết cho công cuộc đánh Pháp cứu nước về sau. Đến giữa năm 1903,
việc học tập của các học sinh Việt Nam Nhật đã ổn định phát triển
thuận lợi.
Năm 1908, phong trào “cự sưu khất thuế” (tức phong trào chống sưu thuế
Trung Kỳ) nổi lên rầm rộ Quảng Nam rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh
khác. Bị thực dân Pháp đưa quân đàn áp, nhiều hội viên bị bắt, trong số đó
Nguyễn Hàm, một yếu nhân của hội. Tiếp đó, Hoàng Quang Thanh và
Đặng Bỉnh Thành lại bị Pháp đón bắt được khi từ Nhật về Nam Kỳ nhận
tiền quyên góp cho phong trào Đông Du. Cũng trong năm đó, Pháp Nhật
vừa ký với nhau một hiệp ước, theo đó chính phủ Nhật ra lệnh
1905
Nhật Bả
, ông cùng
Đặng Tử Kính
Tăng Bạt Hổ
sang
Trung Quốc
n
, để cầu viện Nhật giúp Duy Tân hội đánh đuổi Pháp. Tại
, ông gặp
Lương Khải Siêu
, một nhà cách mạng người
Trung Quốc
, Phan Bội Châu cùng Đặng Tử Kính mang theo một
về nước. Tháng 8
năm 1905 tại
Hà Tĩnh
lOMoARcPSD|45562685
Để
mà Phan Bội Châu và các thành viên khác đã dày công xây dựng hoàn
toàn tan rã, kết thúc một hoạt động quan trọng của hội.
Cuối năm 1910, Phan Bội Châu chuyển một đại bộ phận hội viên (trong đó
khoảng 50 thanh niên) Quảng Đông về xây dựng căn cứ địa Bạn
Thầm (Xiêm La). Tại đây, họ cùng nhau cày cấy, học tập luyện tập võ
nghệ để chuẩn bị cho một kế hoạch phục quốc sau này.
Năm 1912, trong cuộc “Đại hội nghị” tại từ đường nhà Lưu Vĩnh Phúc
Quảng Đông (Trung Quốc), có đông đủ đại biểu khắp ba kỳ đã quyết định
giải tán Duy Tân hội và thành lập Việt Nam Quang phục Hội, tức thay đổi
tôn chỉ từ chủ nghĩa quân chủ sang chủ nghĩa dân chủ đđánh đuổi quân
Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân quốc kiến lập
Việt Nam, đáp ứng tình hình chuyển biến mới trên trường quốc tế.
2.1.1.3. Kết quả, ý nghĩa
- Kết quả: Bị đàn áp và đi đến con đường thất bại.
- Ý nghĩa: Thúc giục lòng yêu nước của nhân dân đương thời, tạo nên
trong lòng xã hội những mầm mống, tư tưởng thúc đẩy sự phát triển
của những con đường cứu nước theo những khuynh hướng khác, đã
sử dụng được sức mạnh của nhân dân làm gốc, tiếp thu được những
kết quả của cách mạng thế giới.
2.1.1.4. Hạn chế
- Phan Bội Châu đã biết tiếp thu những kết quả trong công cuộc đổi
mới của Nhật Bản nhưng cũng chính vì lẽ này mà cụ đã xác định sai
con đường cứu của mình: Cầu viện Nhật để chống Pháp không
thấy được tham vọng và bản chất của đế quốc Nhật. Do quá tin vào
Nhật sự giúp đỡ của Nhật Phan Bội Châu đã quên mất bản
chất của một nước đế quốc họ sẵn sàng trở mặt, thỏa hiệp khi đụng
đến quyền lợi của họ
2.1.1.4. Bài học kinh nghiệm
- Chủ trương bạo động đúng, những tưởng cầu viện sai (không
thểdựa đế quốc đánh đế quốc được).
- Cần xây dựng thực lực trong nước, trên cơ sở đó mà tranh thủ sự hỗ
trợquốc tế chân chính.
2.2. Phong trào theo xu hướng cải cách
Phong trào Duy Tân là tên dùng để chỉ cuộc vận động cải cách duy tân ở
miền Trung Việt Nam, do Phan Châu Trinh (1872 - 1926) phát động
trục xuất các du học sinh người Việt
ra khỏi đất Nhật. Năm
1909,
Cường
và Phan Bội Châu cũng bị trục xuất. Đến đây, phong trào Đông Du
lOMoARcPSD|45562685
năm 1906 cho đến năm 1908 thì kết thúc sau khi bị thực dân Pháp đàn
áp.
Sau khi phong trào Cần vương thất bại, nhiều cuộc đấu tranh chống thực
dân Pháp ở Việt Nam lại tiếp tục nổ ra, nhưng theo hướng mới. Trong số
đó, theo đường lối duy tân (theo cái mới), nổi bật có Duy Tân hội cùng
phong trào Đông Du (1905-1909) do Phan Bội Châu đề xướng và Phong
trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động tại miền Trung Việt Nam.
Khoảng thời gian ấy, sau khi tiếp thu tư tưởng canh tân, Phan Châu
Trinh từ quan (1904), rồi làm cuộc vào Nam, ra Bắc với mục đích xem
xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn đồng chí hướng. Sau đó, ông bí mật sang
Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng
sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây (trong số đó có
Lương Khải Siêu) và xem xét công cuộc duy tân của xứ sở này. Ông
hoan nghênh việc Phan Bội Châu đưa thanh niên ra nước ngoài học tập,
phổ biến tài liệu tuyên truyền giáo dục trong nước, nhưng ông phản đối
chủ trương duy trì nền quân chủ, phương pháp bạo động vũ trang và
việc mưu cầu ngoại viện. Bởi theo ông, muốn cứu được nước nhà, phải
đi theo con đường dân chủ và cải cách xã hội, bằng việc nâng cao dân trí
và dân quyền ri mới có thể mưu tính được việc khác.
2.2.1. Chủ trương:
Đấu tranh ôn hòa, bằng những biện pháp cải cách như nâng cao dân trí
dân quyền, dựa vào Pháp để đánh đổ vua quan phong kiến hủ bại, xem
đó là điều kiện tiên quyết để giành độc lập.
2.2.2. Hoạt động:
Mùa hè năm 1906, Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi
một bức chữ Hán cho toàn quyền Jean Beau vạch trần chế độ phong
kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với
sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để giúp nhân dân Việt từng
bước tiến lên văn minh.
Liền theo đó, với phương châm “tự lực khai hóa” và tư tưởng dân
quyền, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi
khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân.
Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: Chấn dân khí, khai dân trí, hậu
dân sinh.
lOMoARcPSD|45562685
- Chấn dân khí: Làm cho mọi người thức tnh tinh thần tự cường,
hiểu được quyền lợi của mình, dám tố cáo sự hà hiếp bóc lột của
quan lại và sự nhũng lạm của cường hào…
- Khai dân trí: Là bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ
Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ h tục và thói xa
hoa...
- Hậu dân sinh: Khuyến khích dân học nghề nghiệp, khai hoang làm
vườn, lập hội buôn và sản xuất hàng nội hóa…
Ngoài ra, Phan Châu Trinh còn viết bài Tỉnh quốc hồn ca để kêu gọi mọi
người hăng hái duy tân theo hướng dân chủ tư sản.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đã bộc lộ hai khuynh hướng. Một
số sĩ phu như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng chủ trương cải cách
ôn hòa, nghị viện. Họ vận đng mở trường dạy học, cải đổi phong tục
tập quán và lối sống, khuyến khích mở mang công thương. Một số khác
như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên thì thiên về khuynh hướng bạo
động...
Sau đây là một số hoạt động nổi bật theo khuynhớng ôn hòa:
-Về lĩnh vực kinh tế: Thông qua việc mua bán để tập hợp nhau lại. Tiền
kiếm được dùng để mở trường, nuôi thầy, cấp phát sách vở cho học
sinh.
Vì vậy, việc mua bán này còn được gọi là Quốc thương.
Đáng kể ở Quảng Nam có Hợp thương diên phong của cử nhân Phan
Thúc Duyện, hiệu buôn của bang tá Nguyễn Toản. Ở Phan Thiết,
Công ty Liên Thành của Nguyễn Trọng Lội (con danh sĩ Nguyễn
Thông). Ở Nghệ An, có Triêu Dương thương quán do Đặng Nguyên
Cẩn và Ngô Đức Kế thành lập...
Ngoài việc buôn bán, các sĩ phu cải cách còn chú ý phát triển nghề làm
vườn, nghề thủ công. Ngay tại quê nhà, Phan Châu Trinh đã thành lập
“nông hội”, chuyên việc san đổi trồng quế, hồ tiêu…, mở lò rèn, xưởng
mộc…
lOMoARcPSD|45562685
-Về lĩnh vực giáo dục: Mở trường dạy học để mmang dân trí. Các môn
học được giảng dạy ở nhiều trường, thay thế cho Tứ thư, Ngũ kinh của
Nho học là: Quốc ngữ, toán, cách trí (khoa học thường thức), sử Việt,
địa lý, thể dục...Có nơi, còn dạy thêm tiếng Pháp, chữ Hán và võ Việt.
Ngoài ra, nhà trường còn là nơi tuyên truyền mở rộng công, thương
nghiệp, đẩy mạnh sản xuất, phê phán quan lại, đả phá tập tc lạc hậu,
thực hiện đời sống mới...
Đáng kể ở Quảng Nam có trường Diên Phong do Trần Quý Cáp tổ chức,
trường Phú Lâm (có một lớp dành riêng cho nữ sinh), trường do Lê Cơ
(anh em họ với Phan Châu Trinh) thành lập. Ở Quảng Ngãi, có trường
do cử nhân Nguyễn Đình Quảng thành lập tại làng Song Tích (Sơn
Tịnh). Ở Phan Thiết, ngoài Công ty Liên Thành, Nguyễn Trọng Lợi còn
lập trường tư thục Dục Thanh (1907) rồi giao cho em ruột là Nguyễn
Quý Anh làm quản đốc. Ở Bình Thuận, một thư xã (nhà giảng sách)
được thành lập (1905) tại đình Phú Tài. Ở Thanh Hóa có Hạc thành thư
xã, v.v…
Theo “Trung Kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký” do Phan Chu Trinh viết
năm 1911, có nhắc đến: "Trong năm 1906, 40 trường dân lập kiểu mới
đã được mở ra ở Quảng Nam”.
Một hoạt động độc đáo khác là cuộc vận động cải cách trang phục và lối
sống. Phan Châu Trinh cùng các cộng sự của mình vận động nhân dân
cắt tóc ngắn, mặc áo ngắn với các kiểu quần áo “Âu hóa”, may bằng vải
nội. Những hủ tục phong kiến bị lên án mạnh mẽ.
Cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam diễn ra trên nhiều lĩnh
vực (nổi bật là hai lĩnh vực vừa nêu trên), được sự hưởng ứng đông đảo
của giới sĩ phu và dân chúng, nên ngày càng phát triển mạnh. Bởi vậy,
chính quyền thực dân và phong kiến tìm mọi cách ngăn cấm. Như việc
tổng đốc Quảng Nam là Hồ Đắc Trung cấm không cho dân chúng tụ tập
nghe diễn thuyết, Đặng Nguyên Cẩn đang là đc học Hà Tĩnh bị đổi vào
Bình Thuận (đầu năm 1907), Ngô Đức Kế bị bắt vì án sát Cao Ngọc Lễ
vu cho tội mưu loạn, Lê Đình Cẩn bị công sứ Quảng Ngãi xét hỏi nhiều
lần…
Đến năm 1908, dưới ảnh hưởng trực tiếp của phong trào này, nhân dân
Trung Kỳ đang điêu đứng vì nạn sưu thuế, đã đứng lên làm cuộc đấu
tranh "chống đi phu, đòi giảm sưu thuế" (sử Việt thường gọi là Phong
lOMoARcPSD|45562685
trào chống sưu thuế Trung Kỳ). Khởi đầu là ở các huyện Đại Lộc,
Thăng Bình, Tam Kỳ, Hòa Vang, Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam;
rồi lan ra các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Thừa Thiên, Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh…
Lo ngại, chính quyền thực dân Pháp thẳng tay đàn áp phong trào. Họ ra
lệnh phải đóng cửa các trường học, giải tán các hội buôn. Đồng thời cho
lính đi lùng sục bắt bớ hàng trăm người có liên quan, trong đó các thành
viên lãnh đạo phong trào Duy Tân. Sau đó, có mt bị kết án tử hình, như
Trần Quý Cáp, Lê Khiết, Nguyễn Bá Loan...Còn bao nhiêu thì bị đày đi
Côn Đảo (trong số đó có Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần
Cao Vân, Ngô Đức Kế...) hay Lao Bảo. Đến cuối tháng 5 năm đó, thì
cuộc đấu tranh chống sưu thuế và phong trào Duy Tân đều kết thúc.
Mặc dù thất bại, nhưng nhìn chung, cuộc vận động Duy Tân ở Trung K
đã khẳng định sức thu hút mạnh mẽ của tư tưởng duy tân, có ảnh hưởng
lớn đến trình độ giác ngộ và tinh thần đấu tranh của nhân dân đòi cải
cách đời sống về mọi mặt. Bên cạnh đó, qua phong trào còn cho thấy vai
trò lãnh đạo của những sĩ phu tiến bộ.
2.2.3. Nguyên nhân thất bại:
- Các đề nghị cải cách của phong trào Duy Tân còn tản mạn, xa rời
thực tế, không phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ.
- Quan trọng hơn cả là các đề nghị này không đáp ứng được nguyện
vọng của các tầng lớp nhân dân, do đó không được nhân dân ủng
hộ.
- Do triều đình Huế bảo thủ, từ chối mọi cải cách và không muốn đổi
mới. Điều này khiến cho xã hội Việt Nam luẩn quẩn trong trong bế
tắc của xã hội thực dân nửa phong kiến, đồng thời cũng khiến các
cải cách của phong trào Duy Tân xa rời thực tế.
III.Đánh giá về các phong trào
3.1. Mặt tích cực
- Các cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam
đầu thế kỷ XX có nhiều mặt tích cực, góp phần quan trọng vào quá trình phát
triển của dân tộc. Cụ thể như sau:
lOMoARcPSD|45562685
+ Thứ nhất, tiếp tục truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
+ Thứ hai, các cuộc vận động này đã khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đấu
tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta.
+ Thứ ba, đưa ra những tưởng mới, tiến bộ, góp phần thức tỉnh nhân dân.
+ Cuối cùng,những nhà yêu nước theo khuynh hướng dân chủ sản đã
tiếp thu những tưởng mới của thời đại, như tư tưởng dân chủ, tưởng
tự do, dân quyền,... Những tưởng này đã góp phần thức tỉnh nhân dân
ta, giúp họ nhận thức hơn về tình hình đất nước con đường cứu nước,
phá vỡ sự trì trệ, lạc hậu của xã hội phong kiến.
+ Bên cạnh đó, các cuộc vận động này đã góp phần thúc đẩy sự phát triển
của các lực lượng hội mới, như giai cấp sản, giai cấp công nhân,... Sự
phát triển của các lực lượng hội mới đã góp phần phá vỡ sự trì trệ, lạc
hậu của xã hội phong kiến, tạo tiền đề cho sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản.
=> Các cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã góp
phần chuẩn bị về tưởng, lực lượng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam phong trào giải phóng dân tộc theo khuynh hướng sản Việt
Nam. Mặc dù các cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư
sản đã thất bại, nhưng chúng đã đlại những bài học kinh nghiệm quý báu
cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam sau này.
3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Các cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
Việt Nam đầu thế kỷ XX đã đạt được những thành tựu to lớn, góp
phần quan trọng vào quá trình phát triển của dân tộc. Tuy nhiên, các
cuộc vận động này cũng còn tồn tại một số hạn chế, nguyên nhân của
những hạn chế này có thể được giải thích như sau:
Về mặt hạn chế, ta có thể dễ dàng nhận thấy những hạn chế dưới
đây.Hạn chế vđường lối cứu nước: Các nhà yêu nước theo khuynh
hướng dân chủ sản đã tiếp thu những tưởng mới của thời đại, nhưng
vẫn còn nặng tính cải lương, chưa tầm nhìn xa trông rộng về con
đường giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa xã hội.Hạn chế về lc lượng
và tổ chức: Các cuộc vận động yêu nước này chủ yếu dựa vào tầng lớp
tiểu sản, sản dân tộc, chưa sự liên kết chặt chẽ giữa các giai cấp,
tầng lớp.Hạn chế về tác động của thực dân Pháp: Thực dân Pháp đã sử
dụng nhiều biện pháp đàn áp, khủng bố để ngăn chặn các cuộc vận động
yêu nước
lOMoARcPSD|45562685
Về mặt nguyên nhân, do khách quan: Sự ra đời của các cuộc vận
động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản Việt Nam đầu thế
kỷ XX tất yếu do sự phát triển của xã hội Việt Nam và những ảnh
hưởng của các trào lưu tư tưởng tiến bộ trên thế giới. Tuy nhiên, do điều
kiện khách quan như sự thống trị của thực dân Pháp, sự lạc hậu của xã
hội Việt Nam,... nên các cuộc vận động này đã gặp nhiều khó khăn và
hạn chế. Lý do chủ quan: Các nhà yêu nước theo khuynh hướng dân chủ
sản đã những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
nhưng do hạn chế về nhận thức, trình độ,... nên họ chưa tầm nhìn xa
trông rộng, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa các giai cấp, tầng lớp,... để
tạo nên sức mạnh tổng hợp.
3.3. Ý nghĩa lịch sử
3.3.1. Ý nghĩa đối với quốc tế.
Phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX góp
phần khích lệ, động viên nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng
lên tự giải phóng mình khỏi sự lệ thuộc, sự áp bức bóc lột của ch nghĩa
thực dân giành lại độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho chính bản thân.
Nhất là đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc vào thực dân Pháp.
Qua phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến
và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thể hiện sức mạnh của dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc, các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc hoàn toàn có
khả năng tự giải phóng mình, và có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản chính quốc như Hồ Chí Minh đã nói : Cách mạng vô sản ở
chính quốc và cách mạng vô sản ở thuộc địa có vị trí và có mối quan h
mật thiết với nhau và ngang bằng nhau hay đó là mối quan hệ biện chứng.
Hồ Chí Minh ví mối quan hệ đó bằng hình ảnh hai cánh của một con
chim và Người sớm cho rằng: “Cách mạng thuộc địa không những
không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành
thắng lợi trước” . Và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn
tại của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng
hoàn toàn”. Đây cũng là luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với
quan điểm của Lênin, Lênin cho rằng giữa cách mạng vô sản ở thuộc địa
và cách mạng vô sản ở chính quốc quan hệ khăng khít với nhau nhưng
cách mạng thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng chính quốc tức là phụ
thuộc vào sự thắng lợi của giai cấp vô sản ở chính quốc trong cuộc đấu
tranh để giành lại chính quyền về tay giai cấp vô sản, sau đó sẽ gắn với
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do đó cách mạng thuộc địa có mối quan hệ
khăng khít nhưng sẽ nổ ra và thắng lợi sau cách mạng chính quốc và
Lênin cũng cho rằng cách mạng thuộc địa phải nhờ vào sự giúp đỡ của
lOMoARcPSD|45562685
cách mạng chính quốc hay cách mạng chính quốc phải có trách nhiệm
giúp đỡ cách mạng thuộc địa và sự giúp đỡ của cách mạng
Chính quốc là một trong những điều kiện để thắng lợi ở cách mạng
thuộc địa. Như vậy Lênin đã khẳng định vị trí không ngang bằng giữa
cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng vô sản ở thuộc địa. Qua các
phong trào yêu nước Việt Nam thể hiện sức mạnh của các dân tộc thuộc
địa, đó là sức mạnh của toàn dân chống lại sự áp bức bóc lột của đế quc
và hoàn toàn có khả năng giành thắng lợi.
Phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tuy
không dành được thắng lợi nhưng đã giáng một đòn mạnh mẽ vào chủ
nghĩa thực dân kiểu cũ là Pháp. Với các phong trào yêu nước n ra liên
tục mạnh mẽ, rộng khắp cả nước đã làm tiêu diệt một bộ phận sinh lực
của thực dân Pháp và làm cho thực dân Pháp trong nhiều cuộc khởi nghĩa
phải chịu lùi bước trước sức mạnh của nhân dân, phải chịu nhường mt
số quyền lợi cho nhân dân. Góp phần cổ và tạo điều kiện cho các dân
tộc và thuộc địa nhất là các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc của thực dân
Pháp đứng lên giành thắng lợi
Phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến và
tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng để lại cho phong trào cách
mạng ở các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc nói chung và phong trào cách
mạng thế giới những bài học kinh nghiệm quý báu về đường lối cách
mạng, phương pháp cách mạng, lực lượng cách mạng, sức mạnh đoàn kết
toàn dân và khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất thuộc về giai cấp vô sản
và chính Đảng của nó . Về đường lối cách mạng phong trào yêu nước
Việt Nam đã để lại bài học kinh nghiệm cho cách mạng các dân tộc thuộc
địa, phụ thuộc cũng như cách mạng thế giới đó là đường lối cách mạng
phải đề ra phù hợp với yêu cầu cụ thể của dân tộc, nguyện vọng của nhân
dân đồng thời cũng phải phù hợp với xu thế khách quan của cách mạng
thế giới. Bài học về vấn đề nhận thức của giai cấpnh đạo cách mạng là
hết sức quan trọng , những nhà lãnh đạo cách mạng phải nhận thức được
xu thế vận động của cách mạng thế giới, phải xác định được mâu thuẫn
chủ yếu và cơ bản của các nước thuộc địa và phụ thuộc để nhận thấy
được đâu là bạn đâu là kẻ thù cần phải đánh đổ qua đó đề ra phương pháp
tiến hành cách mạng phù hợp, chứ không phải đi cầu viện vào thực dân
để chống lại thực dân hay bằng phương pháp cải lương cầu xin sự xót
thương của kẻ thù. Qua các phong trào đó cũng khẳng định vai trò lãnh
đạo cách mạng thuộc về giai cấp tiên tiến đại diện cho phương thức sản
lOMoARcPSD|45562685
xuất hiện đại, có kỷ luật và được trang bị những tri thức khoa học, thế
giới quan khoa học có như thế mới có đủ khả năng và nhận thức đúng đắn
lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi. Còn các giai cấp, tầng lớp khác
chưa đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích giai cấp chưa thực sự chịu
cảnh khổ cực của nhân dân, nên chưa hiểu được tâm tư nguyện vọng của
họ vì vậy chưa đưa các cuộc khởi nghĩa trở thành khởi nghĩa toàn dân,
chưa khơi dậy được tinh thần dân tộc của dân nên chưa có sự giúp đỡ to
lớn của dân. Đó là những bài học kinh nghiệm để cách mạng các nước rút
kinh nghiệm và đề ra những đường lối đúng đắn cho cho cách mạng của
dân tộc mình giành thắng lợi.
Tóm lại phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX không chỉ có ý nghĩa đối với dân tộc mà còn có ý nghĩa quốc tế lớn
lao, góp phần vào động viên, khuyến khích các dân tộc chưa thức tỉnh,
chưa nhận thấy được đâu là nguồn gây ra nỗi khổ cho mình để xác định
đúng kẻ thù và tự đứng lên giải phóng mình.
3.3.2. Ý nghĩa đối với dân tộc:
Phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến
tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tuy thất bại nhưng có ý nghĩa rất to
lớn nó là mt trong ba bộ phận cấu thành nên Đảng Cộng Sản Việt Nam
sau này đó là ch nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước. Phong trào yêu nước phát triển liên tục sâu rộng
qua các thời kỳ là stập dượt để nhân dân thích nghi và có kinh nghiệm
trong các phong trào cách mạng sau này nên khi có lý luận cách mạng
tiến bộ chủ nghĩa Mác- Lê được truyền bá vào Việt Nam nó nhanh chóng
phát triển mạnh mẽ và có sự chuyển hóa về chất góp phần vào sự thành
lập Đảng sau này.
Phong trào yêu nước Việt Nam thể hiện lòng yêu nước sâu sắc
nồng nàn của nhân dân ta, truyền thống đó đã có từ ngàn xưa khi dân tộc
ta quá trình dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Truyền thống yêu nước
đó đã được nhân dân ta phát huy trong mọi thời kỳ, mọi cuộc đấu tranh
chống xâm lược và chính nhờ truyền thống này mà nhân dân ta đã chiến
thắng tất cả kẻ thù xâm lược mạnh hơn ta nhiều lần như hai lần chống
quân Tống và ba lần chống quân Nguyên Mông xâm lược… Dù thất bại
nhưng nó nối liền lại với phong trào vô sản sau đó tạo thành sợi dây yêu
nước, tinh thần yêu nước Việt Nam.
lOMoARcPSD|45562685
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có ý nghĩa nâng cao nhận thức cho nhân dân,
góp phần mmang dân chí, xoá bỏ những hủ tục lạc hậu, những phong
tục tập quán cũ. Như phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu với ảnh
hưởng mạnh mẽ sâu rộng đến mọi nơi, đến các tầng lớp và ông đề ra một
loạt chủ trương cải cách ôn hoà: như cải cách thuế khoá phát triển công
nghệ, phát triển văn hoá, ban bố luật pháp, tôn trọng nhân quyền, mở rộng
quyền dân chủ, tự do báo chí, ngôn luận,chọn người tài… Hay tháng 3
năm 1907 các sĩ phu yêu nước tiến bộ là Lương Văn Can, Đào Nguyên
Phổ, Nguyễn Quyền… Đã cùng nhau mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục
nhằm mục đích diễn thuyết, bình văn, báo chí để đào tạo nhân tài, bồi
dưỡng và nâng cao lòng yêu nước, truyền bá học thuật mới, nếp sống văn
minh… Phong trào trước hết là một cuộc vận động văn hoá và tư tưởng
lớn mang tính dân tộc dân chủ thời cận đại mà thành tích nổi bật là đề cao
và phổ biến chữ Quốc ngữ, khẳng định tân học, phê phán tư tưởng phong
kiến Nho Giáo. Qua đó mà mmang dân trí, truyền bá những tư tưởng
tiến bộ vào nhân dân để nhân dân để nhân dân nhận thức sâu sắc đâu
nỗi khổ thật sự và kẻ gây ra nỗi khổ đó mà đoàn kết đứng lên cùng giai
cấp lãnh đạo đánh đuổi bọn xâm lược và bọn bán nước tay sai. Phong trào
chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng có ý nghĩa rất lớn.
Các phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến
và tư sản tuy thất bại song nó là những cuộc tập dượt của nhân dân ta làm
quen với các hình thức và phương pháp đấu tranh để có thêm kinh
nghiệm cho những cuộc đấu tranh hiện đại mà quân địch sử dng vũ khí
chiến tranh hiện đại. Phong trào thất bại nhưng đã lôi cuốn được đông đảo
nhân dân tham gia với các hình thức đấu tranh phong phú, được đông đảo
nhân dân ủng hộ và giúp đỡ, nên mới đầu các phong trào nổ ra mạnh m
gây cho địch sự bất ngờ và tn thất nhất định, nhưng do không có tổ chức
chặt chẽ, không có đường lối đúng đắn cùng với phương pháp cách mạng
không phù hợp nên dù chiến đấu rất anh dũng nhưng khi thực dân Pháp
tập trung lực lượng đàn áp thì phong trào lại thất bại.
Bên cạnh đó phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng
phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX còn giáng một đòn
mạnh mẽ vào thực dân Pháp, kẻ đi xâm lược đã làm cho nhân dân ta chịu
bao khổ cực, mất tự do, kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hoá. Một số
phong trào yêu nước Việt Nam còn gây tiếng vang lớn không chỉ trong
nước mà cả đến thế giới, các nước tiến b neen các nước đã dần biết đến
việt Nam. Đúng như chủ trương của Phan Bội Châu khi tiến hành
lOMoARcPSD|45562685
phương pháp cách mạng là bạo động trong sự phát triển của tư tưởng
Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám của Trần Văn Dầu đã
viết: “Bạo động mà Phan Bội Châu chủ trương chủ yếu là bạo động
của số đông, trước hết là của binh lính nhưng cũng là bạo động của
cá nhân nữa . Theo Phan Bội Châu thì, trong lúc phong trào yêu nước
thấp kém, kẻ địch dường như ngồi vững, tảng đá, nhân dân tâm tưởng
như thờ ơ với cách mạng, với mọi người mê ngủ, lời cnh tỉnh chẳng
dựng được mấy ai, để đánh thức nhân dân để cảnh cáo quân thù, để
hâm nóng nóng người, chưa phải dành ngày độc lập bằng quả bom
đạn ấy”.
Kết luận
Để giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, các phong trào
yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản đã nổ ra với sự đấu tranh bất
khuất, kiên cường vì độc lập tự do của nhân dân ta trong bối cảnh cả dân tộc đã
trở thành thuộc địa.Tuy nhiên tất cả các phong trào yêu nước theo khuynh
hướng phong kiến đều thất bại vì thiếu một đường lối tiên tiến dẫn đường, chưa
tập hợp được sức mạnh toàn dân, cách tổ chức và hoạt động còn nhiều sait
chưa chặt chẽ, k luật chưa rõ ràng. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư
sản cũng đều thất bại vì chưa có nhận thức đúng đắn, chưa xác định được kẻ thù
của nhân dân nên chưa có đường lối đúng đắn lúc thì dựa vào kẻ thù để đuổi kẻ
thù như Phan Bội Châu hay lại chủ trương cải cách nhằm “khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh”, làm cho đất nước giàu mạnh buộc địch phải trao trả tự
do nói như Trần Dật Tiên có khác nào “xin địch nhủ lòng thương”.
Mặc dù thất bại nhưng phong trào yêu nước theo dân chủ tư sản đã để lại
rất nhiều bài học, kinh nghiệm cho phong trào cách mạng Việt Nam sau này
Phong trào đã đề xướng chủ trương cứu nước mới, thoát ra khỏi phạm trù và
cách thức cứu nước theo tư tưởng phong kiến, hướng theo con đường dân chủ
sản, gắn giải phóng dân tộc với cải biến về xã hội, hòa nhập vào trào lưu tiến
hóa của nhân loại. Ngoài ra, phong trào đã thu hút được đông đảo quần chúng
nhân dân tham gia, làm thức tỉnh dân tộc, dấy lên ý thức tự lực, tự cường, với
nhiều hình thức hoạt động và cách biểu hiện vô cùng phong phú; cùng với đó
tạo tiền đề quan trọng hợp thành Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. Thông qua
phong trào dân chủ tư sản, chúng ta đã thể hiện được truyền thống yêu nước,
sức mạnh dân tộc của Việt Nam, một nước nhỏ nhưng lịch sử dựng nước và giữ
nước luôn có những chiến thắng oanh liệt trước những kẻ tlớn mạnh.
lOMoARcPSD|45562685
Tài liệu tham khảo
- Giáo trình “ Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam”.
- Việt Nam những chuyển biến đầu thế kỷ 20” của Báo Thanh Niên.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo “Một số chuyên đề Lịch sử Đảng cộng sản
Việt Nam ”, tập I,II- NXB CTQG -HN.2007.
- TS Đinh Xuân Lý - Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh’’-
NXB CTQG -HN.2003.
- TS Đinh Xuân Lý - Quá trình vận động thành lập Đng Cng sản
Việt Nam ’’- NXB CTQG -HN.2007.
- Trang web của tạp chí cộng sản https://tapchicongsan.org.vn/.
- Báo điên tử Đảng Cộ ng sản Việ t Nam
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/lich-
sudang
| 1/17

Preview text:

lOMoARcPSD| 45562685
Các cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX Mục lục
A Giới thiệu đề tài
Thời kỳ đầu thế kỷ XX đánh dấu sự xuất hiện và lan rộng của những ý tưởng
dân chủ tư sản từ phương Tây. Cùng với đó là phong trào cách mạng dân chủ tư
sản ở Châu Á với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa như Iran, Thổ Nhĩ Kì,
Trung Quốc. Ấn Độ... mang một nội dung mới. Những ý tưởng này đã tác động
mạnh mẽ đến tầng lớp trí thức và những người có ý thức yêu nước ở Việt Nam,
thúc đẩy họ tìm kiếm những phương pháp mới để thúc đẩy sự phát triển chính
trị và xã hội. Trước sự suy tàn của chế độ phong kiến và những yêu cầu mới của
lịch sử, những người yêu nước Việt Nam đã ý thức được sự lỗi thời của thiết
chế cũ về mọi mặt, họ nhận thấy rằng, “quan niệm trung quân ái quốc" của thời
kì Cần Vương không thể là con đường cứu nước, cứu dân được nữa. Đây là
những tiền đề cho sự hình thành một khuynh hướng cách mạng mới. Cùng với
đó ở trên thế giới, cuộc Cách mạng Pháp (1789), cuộc vận động Duy Tân
(1898) và Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc và đặc biệt sau chiến
thắng vang dội của quân đội Nhật trong chiến tranh Nga – Nhật (1904-1905)
càng củng cố niềm tin của các sĩ phu yêu nước vào con đường cách mạng tư sản
và họ đã dấy lên một cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng này. Và sau
này, các cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở đầu thế
kỷ XX đã trở thành một dấu mốc lịch sử quan trọng trong trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam ta. B Nội dung
I.Bối cảnh lịch sử xuất hiện các phong trào
1.1. Tình hình thế giới
Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa nền kinh tế
hàng hoá phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường và là nguyên
nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến
Phương Đông. Biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng
hoá, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của
các nước đế quốc. Từ đó mang lại lợi nhuận tối đa cho tư bản chính quốc. Chính
sự áp bức và thôn tính dân tộc của chủ nghĩa Đế quốc tăng mâu thuẫn giữa dân lOMoARcPSD| 45562685
tộc thuộc địa với thực dân ngày càng gay gắt, sự phản ứng đấu tranh của nhân
dân các thuộc địa càng quyết liệt.
Cách Mạng tháng mười Nga thành công năm 1917 nó không chỉ có ý
nghĩa đối với riêng nước nga mà còn có ý nghĩa to lớn, ảnh hưởng sâu rộng đến
khắp thế giới lôi cuốn nhiều người tham gia trong đó có lớp thanh niên những
người yêu nước Việt Nam. Hồ Chí Minh đã nói về Cách Mạng tháng mười Nga:
“Cách Mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu”.
Cách Mạng tháng mười làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước
tư bản chủ nghĩa phương tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa phương đông có quan hệ mật thiết với nhau cùng đấu tranh chống kẻ thù
chung là chủ nghĩa đế quốc nhằm một mục đích chung là độc lập dân tộc, hạnh
phúc cho nhân dân. Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi chủ nghĩa Mác-Lênin
trở thành hiện thực và được truyền bá rộng rãi khắp nơi và dẫn tới sự ra đời
hàng loạt các Đảng Cộng sản như Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921), Đảng
Cộng sản Pháp (1920), Đảng Cộng sản Mỹ (1919).
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập và tại đại hội II của
Quốc tế Cộng sản (1920), Lênin đã thông qua bản sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Luận cương của Lênin có ảnh
hưởng rất lớn tới quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc , nó đã chỉ
ra con đường, phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp
bức: “Luận cương của Lênin cho tôi rất cảm động , phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng biết bao tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng
mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo. Hỡi đồng bào bị
đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta”
Sau này Hồ Chí Minh khẳng định Lênin là người đầu tiên có
vai trò to lớn đối với các dân tộc thuộc địa Người viết: “Lênin là người đầu
tiên đã hiểu và đánh giá hết tầm quan trọng lớn lao của việc lôi cuốn nhân
dân các dân tộc thuộc địa của phong trào cách mạng, Lênin là người đầu tiên
chỉ rõ rằng nếu không có sự tham gia của các dân tộc thuộc địa, thì cách
mạng xã hội chủ nghĩa không thể có được”.

Như vậy tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có nhiều biến
đổi đã ảnh hưởng đến Cách mạng Việt Nam.
1.2. Tình hình trong nước
Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm xã hội
Việt Nam biến đổi sâu sắc cả về kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội. lOMoARcPSD| 45562685 Về kinh tế:
Thực dân Pháp du nhập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào Việt
Nam làm quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành lên nhiều đô thị mới ,
những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Tuy nhiên thực dân không du
nhập hoàn toàn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào nước ta mà vấn duy
trì quan hệ kinh tế phong kiến làm cho nền kinh tế của Việt Nam không phát
triển bình thường lên chủ nghĩa tư bản được mà phát triển một cách quèo quặt,
lạc hậu, phụ thuộc vào kinh tế pháp. Về chính trị:
Bên cạnh bộ máy thực dân pháp cho thiết lập ở Việt Nam một chế độ
chuyên chế điển hình.Với quyền hành đều nằm trong tay người Pháp, vua quan
nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn. Chúng tiến hành chính sách “ chia để trị”, chia nước
ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó với nước Lào
và nước Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp để xoá bỏ tên
nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới. Đồng thời chúng còn gây
chia rẽ dân tộc , thù hận giữa ba miền ,giữa các tôn giáo, các dân tộc, các đảng phái…
Dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp, người Việt Nam mất hết mọi
quyền tự do dân chủ, đất nước Việt Nam mất độc lập.
Về văn hoá-xã hội :
Thực dân Pháp thi hành cách ngu dân triệt để,giam hãm, đầu độc nhân
dân ta trong vòng tăm tối. Chúng xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học. Trong
các trường học chúng mở dạy tiếng Pháp nhằm đào tạo một đội ngũ tay sai ở
thuộc địa. Chúng còn có những chính sách bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng văn
hoá tiến bộ trên thế giới, kể cả văn hoá xã hội Pháp, trúng khuyến khích phát
triển văn hoá đồ truỵ, mê tín dị đoan… *Xã hội:
Tính chất của xã hội Việt Nam từ một xã hội phong kiến độc lập thành
một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, làm mâu thuẫn xã hội thay đổi, hai mâu
thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp
xâm lược và tay sai phản động mâu thuẫn nhân dân Việt Nam là nhân dân mâu
thuẫn với giai cấp phong kiến làm kết cấu xã hội thay đổi: Bên cạnh hai giai cấp
cũ là địa chủ và người nông dân xã hội Việt Nam xuất hiện ba giai cấp,tầng lớp
mới là:giai cấp công nhân, giai cấp tư bản và giai cấp tư sản
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân pháp đối với Việt Nam và cả
Đông Dương nói chung là một chính sách tự trị chuyên chế về chính trị, bóc lột lOMoARcPSD| 45562685
nặng nề về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hoá, giáo dục chứ không phải
đem đến cho nhân dân một sự khai hoá và cải tạo thực sự theo kiểu phương tây.
Hồ Chí Minh từng nói về nhà khai hoá như sau: “Khi người ta đã là một nhà
khai hoá thì người ta có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là người văn
minh nhất”, “nếu dân bản xứ không chịu nhục được, phải vùng lên, thì các
nhà khai hoá điều quân đội, súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến,
người ta ra lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy công
cuộc khai hoá nhân từ là như thế đấy.”

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các phong trào yêu nước Việt Nam theo
khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ, liên tục , sôi nổi và rộng
khắp tuy nhiên các phong trào yêu nước đều đi đến thất bại do thiếu một đường
lối đúng đắn thiếu một tổ chức cách mạng có khả năng dẫn dắt dân tộc đến
thắng lợi, cuộc đấu tranh của nhân dân ta rơi vào tình trạng khủng hoảng về
đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo cách mạng.
II. Các phong trào tiêu biểu theo khuynh hướng dân chủ tư sản
2.1. Phong trào theo xu hướng bạo động
2.1.1 Phan Bội Châu cùng khuynh hướng bạo động- Từ thành lập Duy Tân
hội đến phong trào Đông Du. 2.1.1.1. Chủ trương:
- Phan Bội Châu cho rằng: “nợ máu chỉ có thể trả bằng máu”, ông kiên trì
dùng bạo lực giành độc lập.
- Ông cũng quan niệm, Nhật Bản cùng màu da, cùng văn hoá Hán
học(đồng chủng, đồng văn), lại đi theo con đường tư bản châu Âu, giàu
mạnh lên và đánh thắng đế quốc Nga (1905). 2.1.1.2. Hoạt động:
- Phan Bội Châu lập Hội Duy tân ở Quảng Nam.
Năm 1904, ông cùng Nguyễn Hàm và khoảng 20 đồng chí khác thành lập
Duy Tân hội ở Quảng Nam để đánh đuổi Pháp, chọn Kỳ Ngoại hầu Cường
Để – một người thuộc dòng dõi nhà Nguyễn – làm hội chủ.
Mục đích của hội là đánh Pháp, giành lại độc lập cho tổ quốc, thành lập
thiết chế quân chủ lập hiến - theo đó vua có danh mà không có quyền. Hội
nghị thành lập Hội đề ra 3 nhiệm vụ trước mắt như sau:
+ Phát triển thế lực hội về người cũng như về tài chính
+ Xúc tiến việc chuẩn bị bạo động và các công việc sau đó
+ Chuẩn bị xuất dương cầu viện, xác định phương châm và thủ đoạn xuất dương lOMoARcPSD| 45562685
Trong ba nhiệm vụ trên, nhiệm vụ thứ ba hết sức quan trọng và bí mật, nên
Duy Tân hội đã cử Phan Bội Châu và Nguyễn Hàm tự định liệu. Theo đó,
đây là tiền đề cho phong trào Đông Du sau này.
Năm 1905 , ông cùng Đặng Tử Kính và Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc rồ i
Nhật Bả n , để cầu viện Nhật giúp Duy Tân hội đánh đuổi Pháp. Tại
sang , ông gặp Lương Khải Siêu , một nhà cách mạng người Trung Quốc
Nhật, và được khuyên là nên dùng thơ văn (nghe lời Phan Bội Châu viết
Việt Nam vong quốc sử) để thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt
Nam. Lại nghe hai nhân vật quan trọng của Đảng Tiến Bộ đang cầm quyền ở
Nhật Bản, là Bá tước Okuma Shigenobu (Ôi Trọng Tín) và Thủ tướng
Inukai Tsuyoshi (Khuyển Dưỡng Nghị) khuyên là nên cổ động thanh niên
ra nước ngoài học tập để sau này về giúp nước. - Phong trào Đông Du:
Tháng 6 năm 1905 , Phan Bội Châu cùng Đặng Tử Kính mang theo một
số sách Việt Nam vong
về nước. Tháng 8 năm 1905 tại Hà Tĩnh quốc sử ,
ông và các đồng chí nòng cốt trong Duy Tân hội bàn bạc rồi đưa ra kế
hoạch hành động đó là:
+ Nhanh chóng đưa Kỳ Ngoại hầu Cường Để ra nước ngoài.
+ Lập các hội nông, hội buôn, hội học để tập hợp quần chúng và để có tài chánh cho hội.
+Chọn một số thanh niên thông minh hiếu học, chịu được gian khổ, đưa đi học ở nước ngoài
Tháng 10 năm 1905, Phan Bội Châu trở lại Nhật Bản cùng với ba thanh
niên, sau đó lại có thêm 45 người nữa. Năm 1906, Cường Để qua Nhật,
được bố trí vào học trường Chấn Võ. Kể từ đó cho đến năm 1908, số học
sinh sang Nhật Bản du học lên tới khoảng 200 người, sinh hoạt chung trong
một tổ chức có quy củ gọi là Cống hiến hội
Chương trình nhằm đào tạo những người có trình độ văn hóa và quân sự
cần thiết cho công cuộc đánh Pháp cứu nước về sau. Đến giữa năm 1903,
việc học tập của các học sinh Việt Nam ở Nhật đã ổn định và phát triển thuận lợi.
Năm 1908, phong trào “cự sưu khất thuế” (tức phong trào chống sưu thuế
Trung Kỳ) nổi lên rầm rộ ở Quảng Nam rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh
khác. Bị thực dân Pháp đưa quân đàn áp, nhiều hội viên bị bắt, trong số đó
có Nguyễn Hàm, một yếu nhân của hội. Tiếp đó, Hoàng Quang Thanh và
Đặng Bỉnh Thành lại bị Pháp đón bắt được khi từ Nhật về Nam Kỳ nhận
tiền quyên góp cho phong trào Đông Du. Cũng trong năm đó, Pháp và Nhật
vừa ký với nhau một hiệp ước, theo đó chính phủ Nhật ra lệnh lOMoARcPSD| 45562685
trục xuất các du học sinh người Việt ra khỏi đất Nhật. Năm 1909, Để Cường
và Phan Bội Châu cũng bị trục xuất. Đến đây, phong trào Đông Du
mà Phan Bội Châu và các thành viên khác đã dày công xây dựng hoàn
toàn tan rã, kết thúc một hoạt động quan trọng của hội.
Cuối năm 1910, Phan Bội Châu chuyển một đại bộ phận hội viên (trong đó
có khoảng 50 thanh niên) ở Quảng Đông về xây dựng căn cứ địa ở Bạn
Thầm (Xiêm La). Tại đây, họ cùng nhau cày cấy, học tập và luyện tập võ
nghệ để chuẩn bị cho một kế hoạch phục quốc sau này.
Năm 1912, trong cuộc “Đại hội nghị” tại từ đường nhà Lưu Vĩnh Phúc ở
Quảng Đông (Trung Quốc), có đông đủ đại biểu khắp ba kỳ đã quyết định
giải tán Duy Tân hội và thành lập Việt Nam Quang phục Hội, tức thay đổi
tôn chỉ từ chủ nghĩa quân chủ sang chủ nghĩa dân chủ để đánh đuổi quân
Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân quốc kiến lập
Việt Nam, đáp ứng tình hình chuyển biến mới trên trường quốc tế.
2.1.1.3. Kết quả, ý nghĩa -
Kết quả: Bị đàn áp và đi đến con đường thất bại. -
Ý nghĩa: Thúc giục lòng yêu nước của nhân dân đương thời, tạo nên
trong lòng xã hội những mầm mống, tư tưởng thúc đẩy sự phát triển
của những con đường cứu nước theo những khuynh hướng khác, đã
sử dụng được sức mạnh của nhân dân làm gốc, tiếp thu được những
kết quả của cách mạng thế giới. 2.1.1.4. Hạn chế -
Phan Bội Châu đã biết tiếp thu những kết quả trong công cuộc đổi
mới của Nhật Bản nhưng cũng chính vì lẽ này mà cụ đã xác định sai
con đường cứu của mình: Cầu viện Nhật để chống Pháp mà không
thấy được tham vọng và bản chất của đế quốc Nhật. Do quá tin vào
Nhật và sự giúp đỡ của Nhật mà Phan Bội Châu đã quên mất bản
chất của một nước đế quốc là họ sẵn sàng trở mặt, thỏa hiệp khi đụng
đến quyền lợi của họ
2.1.1.4. Bài học kinh nghiệm -
Chủ trương bạo động là đúng, những tư tưởng cầu viện là sai (không
thểdựa đế quốc đánh đế quốc được). -
Cần xây dựng thực lực trong nước, trên cơ sở đó mà tranh thủ sự hỗ
trợquốc tế chân chính.
2.2. Phong trào theo xu hướng cải cách
Phong trào Duy Tân là tên dùng để chỉ cuộc vận động cải cách duy tân ở
miền Trung Việt Nam, do Phan Châu Trinh (1872 - 1926) phát động lOMoARcPSD| 45562685
năm 1906 cho đến năm 1908 thì kết thúc sau khi bị thực dân Pháp đàn áp.
Sau khi phong trào Cần vương thất bại, nhiều cuộc đấu tranh chống thực
dân Pháp ở Việt Nam lại tiếp tục nổ ra, nhưng theo hướng mới. Trong số
đó, theo đường lối duy tân (theo cái mới), nổi bật có Duy Tân hội cùng
phong trào Đông Du (1905-1909) do Phan Bội Châu đề xướng và Phong
trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động tại miền Trung Việt Nam.
Khoảng thời gian ấy, sau khi tiếp thu tư tưởng canh tân, Phan Châu
Trinh từ quan (1904), rồi làm cuộc vào Nam, ra Bắc với mục đích xem
xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn đồng chí hướng. Sau đó, ông bí mật sang
Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng
sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây (trong số đó có
Lương Khải Siêu) và xem xét công cuộc duy tân của xứ sở này. Ông
hoan nghênh việc Phan Bội Châu đưa thanh niên ra nước ngoài học tập,
phổ biến tài liệu tuyên truyền giáo dục trong nước, nhưng ông phản đối
chủ trương duy trì nền quân chủ, phương pháp bạo động vũ trang và
việc mưu cầu ngoại viện. Bởi theo ông, muốn cứu được nước nhà, phải
đi theo con đường dân chủ và cải cách xã hội, bằng việc nâng cao dân trí
và dân quyền rồi mới có thể mưu tính được việc khác. 2.2.1. Chủ trương:
Đấu tranh ôn hòa, bằng những biện pháp cải cách như nâng cao dân trí
dân quyền, dựa vào Pháp để đánh đổ vua quan phong kiến hủ bại, xem
đó là điều kiện tiên quyết để giành độc lập. 2.2.2. Hoạt động:
Mùa hè năm 1906, Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi
một bức chữ Hán cho toàn quyền Jean Beau vạch trần chế độ phong
kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với
sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để giúp nhân dân Việt từng
bước tiến lên văn minh.
Liền theo đó, với phương châm “tự lực khai hóa” và tư tưởng dân
quyền, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi
khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân.
Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. lOMoARcPSD| 45562685
- Chấn dân khí: Làm cho mọi người thức tỉnh tinh thần tự cường,
hiểu được quyền lợi của mình, dám tố cáo sự hà hiếp bóc lột của
quan lại và sự nhũng lạm của cường hào…
- Khai dân trí: Là bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ
Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục và thói xa hoa...
- Hậu dân sinh: Khuyến khích dân học nghề nghiệp, khai hoang làm
vườn, lập hội buôn và sản xuất hàng nội hóa…
Ngoài ra, Phan Châu Trinh còn viết bài Tỉnh quốc hồn ca để kêu gọi mọi
người hăng hái duy tân theo hướng dân chủ tư sản.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đã bộc lộ hai khuynh hướng. Một
số sĩ phu như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng chủ trương cải cách
ôn hòa, nghị viện. Họ vận động mở trường dạy học, cải đổi phong tục
tập quán và lối sống, khuyến khích mở mang công thương. Một số khác
như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên thì thiên về khuynh hướng bạo động...
Sau đây là một số hoạt động nổi bật theo khuynh hướng ôn hòa:
-Về lĩnh vực kinh tế: Thông qua việc mua bán để tập hợp nhau lại. Tiền
kiếm được dùng để mở trường, nuôi thầy, cấp phát sách vở cho học sinh.
Vì vậy, việc mua bán này còn được gọi là Quốc thương.
Đáng kể ở Quảng Nam có Hợp thương diên phong của cử nhân Phan
Thúc Duyện, hiệu buôn của bang tá Nguyễn Toản. Ở Phan Thiết, có
Công ty Liên Thành của Nguyễn Trọng Lội (con danh sĩ Nguyễn
Thông). Ở Nghệ An, có Triêu Dương thương quán do Đặng Nguyên
Cẩn và Ngô Đức Kế thành lập...
Ngoài việc buôn bán, các sĩ phu cải cách còn chú ý phát triển nghề làm
vườn, nghề thủ công. Ngay tại quê nhà, Phan Châu Trinh đã thành lập
“nông hội”, chuyên việc san đổi trồng quế, hồ tiêu…, mở lò rèn, xưởng mộc… lOMoARcPSD| 45562685
-Về lĩnh vực giáo dục: Mở trường dạy học để mở mang dân trí. Các môn
học được giảng dạy ở nhiều trường, thay thế cho Tứ thư, Ngũ kinh của
Nho học là: Quốc ngữ, toán, cách trí (khoa học thường thức), sử Việt,
địa lý, thể dục...Có nơi, còn dạy thêm tiếng Pháp, chữ Hán và võ Việt.
Ngoài ra, nhà trường còn là nơi tuyên truyền mở rộng công, thương
nghiệp, đẩy mạnh sản xuất, phê phán quan lại, đả phá tập tục lạc hậu,
thực hiện đời sống mới...
Đáng kể ở Quảng Nam có trường Diên Phong do Trần Quý Cáp tổ chức,
trường Phú Lâm (có một lớp dành riêng cho nữ sinh), trường do Lê Cơ
(anh em họ với Phan Châu Trinh) thành lập. Ở Quảng Ngãi, có trường
do cử nhân Nguyễn Đình Quảng thành lập tại làng Song Tích (Sơn
Tịnh). Ở Phan Thiết, ngoài Công ty Liên Thành, Nguyễn Trọng Lợi còn
lập trường tư thục Dục Thanh (1907) rồi giao cho em ruột là Nguyễn
Quý Anh làm quản đốc. Ở Bình Thuận, một thư xã (nhà giảng sách)
được thành lập (1905) tại đình Phú Tài. Ở Thanh Hóa có Hạc thành thư xã, v.v…
Theo “Trung Kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký” do Phan Chu Trinh viết
năm 1911, có nhắc đến: "Trong năm 1906, 40 trường dân lập kiểu mới
đã được mở ra ở Quảng Nam”.

Một hoạt động độc đáo khác là cuộc vận động cải cách trang phục và lối
sống. Phan Châu Trinh cùng các cộng sự của mình vận động nhân dân
cắt tóc ngắn, mặc áo ngắn với các kiểu quần áo “Âu hóa”, may bằng vải
nội. Những hủ tục phong kiến bị lên án mạnh mẽ.
Cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam diễn ra trên nhiều lĩnh
vực (nổi bật là hai lĩnh vực vừa nêu trên), được sự hưởng ứng đông đảo
của giới sĩ phu và dân chúng, nên ngày càng phát triển mạnh. Bởi vậy,
chính quyền thực dân và phong kiến tìm mọi cách ngăn cấm. Như việc
tổng đốc Quảng Nam là Hồ Đắc Trung cấm không cho dân chúng tụ tập
nghe diễn thuyết, Đặng Nguyên Cẩn đang là đốc học Hà Tĩnh bị đổi vào
Bình Thuận (đầu năm 1907), Ngô Đức Kế bị bắt vì án sát Cao Ngọc Lễ
vu cho tội mưu loạn, Lê Đình Cẩn bị công sứ Quảng Ngãi xét hỏi nhiều lần…
Đến năm 1908, dưới ảnh hưởng trực tiếp của phong trào này, nhân dân
Trung Kỳ đang điêu đứng vì nạn sưu thuế, đã đứng lên làm cuộc đấu
tranh "chống đi phu, đòi giảm sưu thuế" (sử Việt thường gọi là Phong lOMoARcPSD| 45562685
trào chống sưu thuế Trung Kỳ). Khởi đầu là ở các huyện Đại Lộc,
Thăng Bình, Tam Kỳ, Hòa Vang, Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam;
rồi lan ra các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Thừa Thiên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh…
Lo ngại, chính quyền thực dân Pháp thẳng tay đàn áp phong trào. Họ ra
lệnh phải đóng cửa các trường học, giải tán các hội buôn. Đồng thời cho
lính đi lùng sục bắt bớ hàng trăm người có liên quan, trong đó các thành
viên lãnh đạo phong trào Duy Tân. Sau đó, có một bị kết án tử hình, như
Trần Quý Cáp, Lê Khiết, Nguyễn Bá Loan...Còn bao nhiêu thì bị đày đi
Côn Đảo (trong số đó có Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần
Cao Vân, Ngô Đức Kế...) hay Lao Bảo. Đến cuối tháng 5 năm đó, thì
cuộc đấu tranh chống sưu thuế và phong trào Duy Tân đều kết thúc.
Mặc dù thất bại, nhưng nhìn chung, cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kỳ
đã khẳng định sức thu hút mạnh mẽ của tư tưởng duy tân, có ảnh hưởng
lớn đến trình độ giác ngộ và tinh thần đấu tranh của nhân dân đòi cải
cách đời sống về mọi mặt. Bên cạnh đó, qua phong trào còn cho thấy vai
trò lãnh đạo của những sĩ phu tiến bộ.
2.2.3. Nguyên nhân thất bại:
- Các đề nghị cải cách của phong trào Duy Tân còn tản mạn, xa rời
thực tế, không phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ.
- Quan trọng hơn cả là các đề nghị này không đáp ứng được nguyện
vọng của các tầng lớp nhân dân, do đó không được nhân dân ủng hộ.
- Do triều đình Huế bảo thủ, từ chối mọi cải cách và không muốn đổi
mới. Điều này khiến cho xã hội Việt Nam luẩn quẩn trong trong bế
tắc của xã hội thực dân nửa phong kiến, đồng thời cũng khiến các
cải cách của phong trào Duy Tân xa rời thực tế.
III.Đánh giá về các phong trào 3.1. Mặt tích cực
- Các cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam
đầu thế kỷ XX có nhiều mặt tích cực, góp phần quan trọng vào quá trình phát
triển của dân tộc. Cụ thể như sau: lOMoARcPSD| 45562685
+ Thứ nhất, tiếp tục truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
+ Thứ hai, các cuộc vận động này đã khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đấu
tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta.
+ Thứ ba, đưa ra những tư tưởng mới, tiến bộ, góp phần thức tỉnh nhân dân.
+ Cuối cùng,những nhà yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã
tiếp thu những tư tưởng mới của thời đại, như tư tưởng dân chủ, tư tưởng
tự do, dân quyền,... Những tư tưởng này đã góp phần thức tỉnh nhân dân
ta, giúp họ nhận thức rõ hơn về tình hình đất nước và con đường cứu nước,
phá vỡ sự trì trệ, lạc hậu của xã hội phong kiến.
+ Bên cạnh đó, các cuộc vận động này đã góp phần thúc đẩy sự phát triển
của các lực lượng xã hội mới, như giai cấp tư sản, giai cấp công nhân,... Sự
phát triển của các lực lượng xã hội mới đã góp phần phá vỡ sự trì trệ, lạc
hậu của xã hội phong kiến, tạo tiền đề cho sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản.
=> Các cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã góp
phần chuẩn bị về tư tưởng, lực lượng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam và phong trào giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản ở Việt
Nam. Mặc dù các cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư
sản đã thất bại, nhưng chúng đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu
cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam sau này.
3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Các cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đã đạt được những thành tựu to lớn, góp
phần quan trọng vào quá trình phát triển của dân tộc. Tuy nhiên, các
cuộc vận động này cũng còn tồn tại một số hạn chế, nguyên nhân của
những hạn chế này có thể được giải thích như sau:
Về mặt hạn chế, ta có thể dễ dàng nhận thấy những hạn chế dưới
đây.Hạn chế về đường lối cứu nước: Các nhà yêu nước theo khuynh
hướng dân chủ tư sản đã tiếp thu những tư tưởng mới của thời đại, nhưng
vẫn còn nặng tính cải lương, chưa có tầm nhìn xa trông rộng về con
đường giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa xã hội.Hạn chế về lực lượng
và tổ chức: Các cuộc vận động yêu nước này chủ yếu dựa vào tầng lớp
tiểu tư sản, tư sản dân tộc, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa các giai cấp,
tầng lớp.Hạn chế về tác động của thực dân Pháp: Thực dân Pháp đã sử
dụng nhiều biện pháp đàn áp, khủng bố để ngăn chặn các cuộc vận động yêu nước lOMoARcPSD| 45562685
Về mặt nguyên nhân, lý do khách quan: Sự ra đời của các cuộc vận
động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế
kỷ XX là tất yếu do sự phát triển của xã hội Việt Nam và những ảnh
hưởng của các trào lưu tư tưởng tiến bộ trên thế giới. Tuy nhiên, do điều
kiện khách quan như sự thống trị của thực dân Pháp, sự lạc hậu của xã
hội Việt Nam,... nên các cuộc vận động này đã gặp nhiều khó khăn và
hạn chế. Lý do chủ quan: Các nhà yêu nước theo khuynh hướng dân chủ
tư sản đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
nhưng do hạn chế về nhận thức, trình độ,... nên họ chưa có tầm nhìn xa
trông rộng, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa các giai cấp, tầng lớp,... để
tạo nên sức mạnh tổng hợp. 3.3. Ý nghĩa lịch sử
3.3.1. Ý nghĩa đối với quốc tế.
Phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX góp
phần khích lệ, động viên nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng
lên tự giải phóng mình khỏi sự lệ thuộc, sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa
thực dân giành lại độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho chính bản thân.
Nhất là đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc vào thực dân Pháp.
Qua phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến
và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thể hiện sức mạnh của dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc, các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc hoàn toàn có
khả năng tự giải phóng mình, và có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản chính quốc như Hồ Chí Minh đã nói : Cách mạng vô sản ở
chính quốc và cách mạng vô sản ở thuộc địa có vị trí và có mối quan hệ
mật thiết với nhau và ngang bằng nhau hay đó là mối quan hệ biện chứng.
Hồ Chí Minh ví mối quan hệ đó bằng hình ảnh hai cánh của một con
chim và Người sớm cho rằng: “Cách mạng thuộc địa không những
không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành
thắng lợi trước”
. Và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn
tại của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng
hoàn toàn”
. Đây cũng là luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với
quan điểm của Lênin, Lênin cho rằng giữa cách mạng vô sản ở thuộc địa
và cách mạng vô sản ở chính quốc quan hệ khăng khít với nhau nhưng
cách mạng thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng chính quốc tức là phụ
thuộc vào sự thắng lợi của giai cấp vô sản ở chính quốc trong cuộc đấu
tranh để giành lại chính quyền về tay giai cấp vô sản, sau đó sẽ gắn với
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do đó cách mạng thuộc địa có mối quan hệ
khăng khít nhưng sẽ nổ ra và thắng lợi sau cách mạng chính quốc và
Lênin cũng cho rằng cách mạng thuộc địa phải nhờ vào sự giúp đỡ của lOMoARcPSD| 45562685
cách mạng chính quốc hay cách mạng chính quốc phải có trách nhiệm
giúp đỡ cách mạng thuộc địa và sự giúp đỡ của cách mạng
Chính quốc là một trong những điều kiện để thắng lợi ở cách mạng
thuộc địa. Như vậy Lênin đã khẳng định vị trí không ngang bằng giữa
cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng vô sản ở thuộc địa. Qua các
phong trào yêu nước Việt Nam thể hiện sức mạnh của các dân tộc thuộc
địa, đó là sức mạnh của toàn dân chống lại sự áp bức bóc lột của đế quốc
và hoàn toàn có khả năng giành thắng lợi.
Phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tuy
không dành được thắng lợi nhưng đã giáng một đòn mạnh mẽ vào chủ
nghĩa thực dân kiểu cũ là Pháp. Với các phong trào yêu nước nổ ra liên
tục mạnh mẽ, rộng khắp cả nước đã làm tiêu diệt một bộ phận sinh lực
của thực dân Pháp và làm cho thực dân Pháp trong nhiều cuộc khởi nghĩa
phải chịu lùi bước trước sức mạnh của nhân dân, phải chịu nhường một
số quyền lợi cho nhân dân. Góp phần cổ vũ và tạo điều kiện cho các dân
tộc và thuộc địa nhất là các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc của thực dân
Pháp đứng lên giành thắng lợi
Phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến và
tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng để lại cho phong trào cách
mạng ở các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc nói chung và phong trào cách
mạng thế giới những bài học kinh nghiệm quý báu về đường lối cách
mạng, phương pháp cách mạng, lực lượng cách mạng, sức mạnh đoàn kết
toàn dân và khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất thuộc về giai cấp vô sản
và chính Đảng của nó . Về đường lối cách mạng phong trào yêu nước
Việt Nam đã để lại bài học kinh nghiệm cho cách mạng các dân tộc thuộc
địa, phụ thuộc cũng như cách mạng thế giới đó là đường lối cách mạng
phải đề ra phù hợp với yêu cầu cụ thể của dân tộc, nguyện vọng của nhân
dân đồng thời cũng phải phù hợp với xu thế khách quan của cách mạng
thế giới. Bài học về vấn đề nhận thức của giai cấp lãnh đạo cách mạng là
hết sức quan trọng , những nhà lãnh đạo cách mạng phải nhận thức được
xu thế vận động của cách mạng thế giới, phải xác định được mâu thuẫn
chủ yếu và cơ bản của các nước thuộc địa và phụ thuộc để nhận thấy
được đâu là bạn đâu là kẻ thù cần phải đánh đổ qua đó đề ra phương pháp
tiến hành cách mạng phù hợp, chứ không phải đi cầu viện vào thực dân
để chống lại thực dân hay bằng phương pháp cải lương cầu xin sự xót
thương của kẻ thù. Qua các phong trào đó cũng khẳng định vai trò lãnh
đạo cách mạng thuộc về giai cấp tiên tiến đại diện cho phương thức sản lOMoARcPSD| 45562685
xuất hiện đại, có kỷ luật và được trang bị những tri thức khoa học, thế
giới quan khoa học có như thế mới có đủ khả năng và nhận thức đúng đắn
lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi. Còn các giai cấp, tầng lớp khác
chưa đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích giai cấp chưa thực sự chịu
cảnh khổ cực của nhân dân, nên chưa hiểu được tâm tư nguyện vọng của
họ vì vậy chưa đưa các cuộc khởi nghĩa trở thành khởi nghĩa toàn dân,
chưa khơi dậy được tinh thần dân tộc của dân nên chưa có sự giúp đỡ to
lớn của dân. Đó là những bài học kinh nghiệm để cách mạng các nước rút
kinh nghiệm và đề ra những đường lối đúng đắn cho cho cách mạng của
dân tộc mình giành thắng lợi.
Tóm lại phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX không chỉ có ý nghĩa đối với dân tộc mà còn có ý nghĩa quốc tế lớn
lao, góp phần vào động viên, khuyến khích các dân tộc chưa thức tỉnh,
chưa nhận thấy được đâu là nguồn gây ra nỗi khổ cho mình để xác định
đúng kẻ thù và tự đứng lên giải phóng mình.
3.3.2. Ý nghĩa đối với dân tộc:
Phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến và
tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tuy thất bại nhưng có ý nghĩa rất to
lớn nó là một trong ba bộ phận cấu thành nên Đảng Cộng Sản Việt Nam
sau này đó là chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước. Phong trào yêu nước phát triển liên tục sâu rộng
qua các thời kỳ là sự tập dượt để nhân dân thích nghi và có kinh nghiệm
trong các phong trào cách mạng sau này nên khi có lý luận cách mạng
tiến bộ chủ nghĩa Mác- Lê được truyền bá vào Việt Nam nó nhanh chóng
phát triển mạnh mẽ và có sự chuyển hóa về chất góp phần vào sự thành lập Đảng sau này.
Phong trào yêu nước Việt Nam thể hiện lòng yêu nước sâu sắc
nồng nàn của nhân dân ta, truyền thống đó đã có từ ngàn xưa khi dân tộc
ta quá trình dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Truyền thống yêu nước
đó đã được nhân dân ta phát huy trong mọi thời kỳ, mọi cuộc đấu tranh
chống xâm lược và chính nhờ truyền thống này mà nhân dân ta đã chiến
thắng tất cả kẻ thù xâm lược mạnh hơn ta nhiều lần như hai lần chống
quân Tống và ba lần chống quân Nguyên Mông xâm lược… Dù thất bại
nhưng nó nối liền lại với phong trào vô sản sau đó tạo thành sợi dây yêu
nước, tinh thần yêu nước Việt Nam. lOMoARcPSD| 45562685
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có ý nghĩa nâng cao nhận thức cho nhân dân,
góp phần mở mang dân chí, xoá bỏ những hủ tục lạc hậu, những phong
tục tập quán cũ. Như phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu với ảnh
hưởng mạnh mẽ sâu rộng đến mọi nơi, đến các tầng lớp và ông đề ra một
loạt chủ trương cải cách ôn hoà: như cải cách thuế khoá phát triển công
nghệ, phát triển văn hoá, ban bố luật pháp, tôn trọng nhân quyền, mở rộng
quyền dân chủ, tự do báo chí, ngôn luận,chọn người tài… Hay tháng 3
năm 1907 các sĩ phu yêu nước tiến bộ là Lương Văn Can, Đào Nguyên
Phổ, Nguyễn Quyền… Đã cùng nhau mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục
nhằm mục đích diễn thuyết, bình văn, báo chí để đào tạo nhân tài, bồi
dưỡng và nâng cao lòng yêu nước, truyền bá học thuật mới, nếp sống văn
minh… Phong trào trước hết là một cuộc vận động văn hoá và tư tưởng
lớn mang tính dân tộc dân chủ thời cận đại mà thành tích nổi bật là đề cao
và phổ biến chữ Quốc ngữ, khẳng định tân học, phê phán tư tưởng phong
kiến Nho Giáo. Qua đó mà mở mang dân trí, truyền bá những tư tưởng
tiến bộ vào nhân dân để nhân dân để nhân dân nhận thức sâu sắc đâu là
nỗi khổ thật sự và kẻ gây ra nỗi khổ đó mà đoàn kết đứng lên cùng giai
cấp lãnh đạo đánh đuổi bọn xâm lược và bọn bán nước tay sai. Phong trào
chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng có ý nghĩa rất lớn.
Các phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến
và tư sản tuy thất bại song nó là những cuộc tập dượt của nhân dân ta làm
quen với các hình thức và phương pháp đấu tranh để có thêm kinh
nghiệm cho những cuộc đấu tranh hiện đại mà quân địch sử dụng vũ khí
chiến tranh hiện đại. Phong trào thất bại nhưng đã lôi cuốn được đông đảo
nhân dân tham gia với các hình thức đấu tranh phong phú, được đông đảo
nhân dân ủng hộ và giúp đỡ, nên mới đầu các phong trào nổ ra mạnh mẽ
gây cho địch sự bất ngờ và tổn thất nhất định, nhưng do không có tổ chức
chặt chẽ, không có đường lối đúng đắn cùng với phương pháp cách mạng
không phù hợp nên dù chiến đấu rất anh dũng nhưng khi thực dân Pháp
tập trung lực lượng đàn áp thì phong trào lại thất bại.
Bên cạnh đó phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng
phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX còn giáng một đòn
mạnh mẽ vào thực dân Pháp, kẻ đi xâm lược đã làm cho nhân dân ta chịu
bao khổ cực, mất tự do, kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hoá. Một số
phong trào yêu nước Việt Nam còn gây tiếng vang lớn không chỉ trong
nước mà cả đến thế giới, các nước tiến bộ neen các nước đã dần biết đến
việt Nam. Đúng như chủ trương của Phan Bội Châu khi tiến hành lOMoARcPSD| 45562685
phương pháp cách mạng là bạo động trong sự phát triển của tư tưởng
Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám của Trần Văn Dầu đã
viết: “Bạo động mà Phan Bội Châu chủ trương chủ yếu là bạo động
của số đông, trước hết là của binh lính nhưng cũng là bạo động của
cá nhân nữa . Theo Phan Bội Châu thì, trong lúc phong trào yêu nước
thấp kém, kẻ địch dường như ngồi vững, tảng đá, nhân dân tâm tưởng
như thờ ơ với cách mạng, với mọi người mê ngủ, lời cảnh tỉnh chẳng
dựng được mấy ai, để đánh thức nhân dân để cảnh cáo quân thù, để
hâm nóng nóng người, chưa phải dành ngày độc lập bằng quả bom đạn ấy”.
Kết luận
Để giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, các phong trào
yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản đã nổ ra với sự đấu tranh bất
khuất, kiên cường vì độc lập tự do của nhân dân ta trong bối cảnh cả dân tộc đã
trở thành thuộc địa.Tuy nhiên tất cả các phong trào yêu nước theo khuynh
hướng phong kiến đều thất bại vì thiếu một đường lối tiên tiến dẫn đường, chưa
tập hợp được sức mạnh toàn dân, cách tổ chức và hoạt động còn nhiều sai sót
chưa chặt chẽ, kỷ luật chưa rõ ràng. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư
sản cũng đều thất bại vì chưa có nhận thức đúng đắn, chưa xác định được kẻ thù
của nhân dân nên chưa có đường lối đúng đắn lúc thì dựa vào kẻ thù để đuổi kẻ
thù như Phan Bội Châu hay lại chủ trương cải cách nhằm “khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh”, làm cho đất nước giàu mạnh buộc địch phải trao trả tự
do nói như Trần Dật Tiên có khác nào “xin địch nhủ lòng thương”.
Mặc dù thất bại nhưng phong trào yêu nước theo dân chủ tư sản đã để lại
rất nhiều bài học, kinh nghiệm cho phong trào cách mạng Việt Nam sau này
Phong trào đã đề xướng chủ trương cứu nước mới, thoát ra khỏi phạm trù và
cách thức cứu nước theo tư tưởng phong kiến, hướng theo con đường dân chủ tư
sản, gắn giải phóng dân tộc với cải biến về xã hội, hòa nhập vào trào lưu tiến
hóa của nhân loại. Ngoài ra, phong trào đã thu hút được đông đảo quần chúng
nhân dân tham gia, làm thức tỉnh dân tộc, dấy lên ý thức tự lực, tự cường, với
nhiều hình thức hoạt động và cách biểu hiện vô cùng phong phú; cùng với đó là
tạo tiền đề quan trọng hợp thành Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. Thông qua
phong trào dân chủ tư sản, chúng ta đã thể hiện được truyền thống yêu nước,
sức mạnh dân tộc của Việt Nam, một nước nhỏ nhưng lịch sử dựng nước và giữ
nước luôn có những chiến thắng oanh liệt trước những kẻ thù lớn mạnh. lOMoARcPSD| 45562685
Tài liệu tham khảo
- Giáo trình “ Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam”.
- “Việt Nam những chuyển biến đầu thế kỷ 20” của Báo Thanh Niên.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo “Một số chuyên đề Lịch sử Đảng cộng sản
Việt Nam ”, tập I,II- NXB CTQG -HN.2007.
- TS Đinh Xuân Lý - “Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh’’- NXB CTQG -HN.2003.
- TS Đinh Xuân Lý - “Quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam ’’- NXB CTQG -HN.2007.
- Trang web của tạp chí cộng sản https://tapchicongsan.org.vn/.
- Báo điên tử Đảng Cộ ng sản Việ t Nam ̣
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/lich- sudang