



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58591236
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
ĐỀ TÀI: CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ
MỚI VÀ TÁC ĐỘNG TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Thành viên
: Trần Xuân Hưng - 11201699 ( Nhóm trưởng) Trần Hoàng Anh - 11217501
Nguyễn Quỳnh Anh - 11217493 Vũ Thảo Anh - 11217504 Vũ Ngọc Dương - 11217518 Nhóm : 4 ( Chủ đề 3) Lớp học phần : TMQT1120_03
Giảng viên hướng dẫn
: ThS. Trần Thị Phương Mai
Hà Nội, tháng 1 năm 2024 lOMoAR cPSD| 58591236 MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................................................................................................ 2
LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................................................... 3
NỘI DUNG ............................................................................................................................... 4
I. Tổng quan các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới ..................................................... 4
1. Định nghĩa của hiệp định thương mại tự do thế hệ mới ................................................ 4
2. Đặc điểm của các FTA thế hệ mới................................................................................. 5
3. Vai trò của các FTA thế hệ mới ..................................................................................... 6
4. Sự khác nhau giữa FTA truyền thống và FTA thế hệ mới ........................................... 10
5. Một số hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam tham gia ...................... 11
5.1. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương ( CPTPP) .............. 11
5.2. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU ( EVFTA) ..................................... 14
II. Các tác động của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến Việt Nam ................. 16
1. Tác động tích cực ........................................................................................................ 16
2. Tác động tiêu cực ........................................................................................................ 20
3. Cơ hội .......................................................................................................................... 20
4. Một số khó khăn, thách thức ....................................................................................... 22
5. Ví dụ tác động của EVFTA đến xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam ................... 25
5.1. Tác động tích cực ......................................................................................................... 25
5.2. Tác động tiêu cực .......................................................................................................... 26
III. Giải pháp ........................................................................................................................ 28
1. Đối với nhà nước ......................................................................................................... 28
2. Đối với doanh nghiệp .................................................................................................. 31
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 34 2 Downloaded by May May (ngocthien65@gmail.com) lOMoAR cPSD| 58591236 LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới đang trải qua những thay đổi to lớn. Ba xu hướng đang tác động mạnh
lên nền kinh tế các nước: sự chững lại của quá trình toàn cầu hóa ; bùng nổ các ứng
dụng công nghệ và sự xuất hiện ngày càng nhiều các biến cố kiểu “thiên nga đen - black
swan - một sự kiện vượt quá những gì thường được dự kiến về một tình huống nào đó
và có những hậu quả nghiêm trọng”, gây bất ngờ và xáo trộn mọi dự tính. Hệ thống hay
trật tự kinh tế thế giới đang có nhiều thay đổi. Đại dịch Covid-19 và cuộc chiến Nga -
Ukaina nổ ra được cho là đang tạo ra nhiều yếu tố mới có thể làm thay đổi trật tự này
thêm nữa. Khi vai trò của các quốc gia được đề cao, thì điều này cũng đồng nghĩa với
vai trò và ảnh hưởng của các thiết chế đa phương trong quản trị toàn cầu như UN, WTO,
WB, IMF, WHO... lại giảm đi một cách tương ứng và ngược lại. Điều đó sẽ tác động
sâu sắc đến việc thay đổi nhận thức về "kịch bản toàn cầu hóa mới 2.0", trong đó xuất
hiện làn sóng dịch chuyển, sắp xếp lại lớn nhất và với tốc độ nhanh nhất mà thế giới
chưa từng chứng kiến về đầu tư, sản xuất, thương mại, cung ứng, hậu cần, dịch vụ...tức
những nhân tố cấu thành "nền kinh tế chuỗi" của quá trình toàn cầu hóa 1.0 hiện nay.
Xu hướng tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và thực thi các FTA thế hệ mới, trong đó
tiến trình khu vực hóa ngày càng đóng vai trò quan trọng và sẽ dần thay thế tiến trình
toàn cầu hóa. Quá trình hội nhập kinh tế thông qua các FTA vẫn chưa thực sự “khắc
họa” được những tác động tích cực. Việt Nam mới đơn thuần tận dụng được lợi ích tĩnh
mang tính ngắn hạn, chưa tận dụng được các lợi ích động mang tính dài hạn, tạo động
lực cho đổi mới và sáng tạo, phát huy tối đa nội lực nhằm “bước lên” các “thang bậc”
có giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Lợi ích quốc gia thu được từ tiến
trình hội nhập chưa tương xứng với tiềm năng,vị thế địa kinh tế, chính trị của đất nước...
FTAs hứa hẹn mang lại nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ cho Việt Nam. Vì vậy nhóm
chúng em xin chọn đề tài “Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động tới
nền kinh tế Việt Nam” cho bài luận của mình.
Mặc dù đã nghiên cứu và tìm hiểu rất nhiều, tuy nhiên với kiến thức và sự hiểu
biết còn giới hạn chắc chắn bài luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm chúng
em kính mong nhận được những đánh giá và đóng góp ý kiến của giảng viên và các bạn
để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. 3 Downloaded by May May (ngocthien65@gmail.com) lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2 NỘI DUNG
I. Tổng quan các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
1. Định nghĩa của hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Hiệp định thương mại tự do (FTA) là một hiệp ước giữa hai hay nhiều quốc gia
hoặc vùng lãnh thổ, nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm
mặt hàng nào đó. Các nước tiến hành theo lộ trình việc cắt và xóa bỏ hàng rào thuế quan
cũng như phi thuế quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do, tạo
thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên.
Bốn nội dung mà FTA đề cập đến thường bao gồm: •
Quy định về việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan; •
Quy định danh mục mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan (thông lệ áp
dụng chung là 90% thương mại); •
Quy định lộ trình cắt giảm thuế quan, khoảng thời gian cắt giảm thuế
thường được kéo dài không quá 10 năm •
Quy định về quy tắc xuất xứ.
Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể thấy 03 thế hệ hiệp định thương mại tự do
(Free Trade Agreement - FTA) nối tiếp nhau đã diễn ra trong quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa. Theo đó :
- FTA thế hệ thứ nhất tập trung ở việc tự do hóa lĩnh vực thương mại hàng hóa (cắt
giảm thuế quan, loại bỏ các rào cản phi thuế quan);
- FTA thế hệ thứ hai mở rộng phạm vi tự do hóa sang các lĩnh vực dịch vụ nhất
định (xóa bỏ các điều kiện tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực dịch vụ liên quan); -
FTA thế hệ thứ ba tiếp tục mở rộng phạm vi tự do về dịch vụ, đầu tư.
Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là khái niệm mang tính tương đối, phản
ánh quá trình phát triển ngày càng mạnh và đa dạng của vấn đề tự do hóa thương mại
và liên kết sản xuất trên toàn thế giới thông qua kênh các hiệp định thương mại khu vực,
trong bối cảnh thỏa thuận đa phương toàn cầu chưa khắc phục được sự bế tắc cùng với
sự nảy sinh những quan ngại, thậm chí là chống lại quá trình toàn cầu hóa ở không ít
quốc gia. Các FTA thế hệ mới có phạm vi rộng hơn, có cả những quy định "ngoài kinh
tế" hay "kinh tế chính trị". Các FTA này khi có hiệu lực sẽ ảnh hưởng rất mạnh tới thể
chế của các bên liên quan.
Tính đến nay Việt Nam đàm phán và ký kết thành công nhiều Hiệp định thương
mại tự do (FTA) với các đối tác thương mại song phương và đa phương , trong đó đã ký
kết và thực thi 16 FTA, đang trong quá trình đàm phán và khởi động đàm phán là 3 FTA.
Các FTA đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn và quan
hệ thương mại trên 239 quốc gia. lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
2. Đặc điểm của các FTA thế hệ mới
Các FTA thế hệ mới thường có những đặc điểm:
Thứ nhất, mức độ tự do hóa thương mại cao. Các nước tham gia FTA thế hệ mới
thường đàm phán xóa bỏ phần lớn các dòng thuế. Điều đó có nghĩa khi tham gia FTA
thế hệ mới, độ mở của nền kinh tế rất cao, các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ... cơ bản
được tự do luân chuyển trong phạm vi không gian các quốc gia thành viên FTA.
Thứ hai, phạm vi cam kết rộng, không chỉ các nội dung liên quan đến tự do hóa
thương mại mà cả các nội dung phi thương mại. Các FTA thế hệ mới là những hiệp định
toàn diện, không chỉ bó hẹp trong thương mại và đầu tư như các FTA truyền thống, mà
với những cam kết mở cửa thị trường sâu rộng cả về thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu
tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức cao và những cam kết về thể chế kinh tế thị trường,
doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công... nhằm tạo môi trường kinh doanh minh bạch
và cạnh tranh công bằng.
Các hiệp định này còn bao gồm các nội dung tuy không phải là thương mại trực
tiếp nhưng có liên quan đến thương mại, như đấu thầu, môi trường, sở hữu trí tuệ, lao
động và công đoàn. Thực ra, tiêu chuẩn lao động và vấn đề môi trường là những vấn đề
đã từng được đưa ra khỏi Chương trình nghị sự thương mại toàn cầu kể từ Hội nghị Xia-
tơn của WTO năm 1999, bởi các nước đang phát triển lúc đó còn nghi ngại, cho rằng
đây dường như là những “hàng rào bảo hộ mới”.
Song, trong bối cảnh toàn cầu hóa, vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động
ngày càng được coi trọng, vì chính người lao động là người trực tiếp sản xuất các sản
phẩm hàng hóa, nên trước hết họ phải được bảo đảm các quyền, lợi ích và các điều kiện
lao động cơ bản, và cũng là để bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng giữa các bên
trong quan hệ thương mại. Đây là cách tiếp cận trong đàm phán của các FTA thế hệ mới
và đang trở thành một xu thế trong những năm gần đây trên thế giới.
Thứ ba, các cam kết cao, rộng, nhưng cũng linh hoạt, tạo điều kiện cho các nước
đi sau (các nước đang phát triển) có thể điều chỉnh chính sách theo lộ trình phù hợp với
trình độ phát triển của mình. Nếu như trong FTA truyền thống, lộ trình cắt giảm thuế
thường kéo dài không quá 10 năm, thì trong các FTA thế hệ mới nhìn chung lộ trình
được đẩy nhanh hơn. Chẳng hạn đối với tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) của Việt Nam, ngoài các mặt hàng được giảm thuế ngay, các mặt hàng
còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế trong vòng 5 - 10 năm, trừ một số mặt hàng nhạy cảm
có lộ trình trên 10 năm hoặc áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan.
Thứ tư, về cơ chế giám sát của các FTA thế hệ mới có yêu cầu cao hơn, chặt chẽ
hơn trong quá trình thực thi. Ví dụ theo quy tắc xuất xứ từ sợi trong TPP, sản phẩm may
mặc của một quốc gia phải được làm từ vải được dệt từ sợi do chính quốc gia đó sản
xuất mới được hưởng ưu đãi từ các nước thành viên TPP. Trong quá trình thực hiện TPP,
nếu các nước đối tác phát hiện ra mặt hàng nào đó xuất khẩu với số lượng ồ ạt từ một lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
nước có năng lực sản xuất còn hạn chế, họ sẽ thành lập đoàn kiểm tra, nếu vi phạm, thì
sẽ bị trừng phạt rất nặng.
Thứ năm, các FTA thế hệ mới áp dụng cơ chế pháp lý mới trong giải quyết các
tranh chấp phát sinh. Các FTA thế hệ mới nêu rất rõ quy chế giải quyết tranh chấp bằng
việc nhà nước kiện nhà nước hoặc nhà đầu tư kiện nhà nước mà các FTA thế hệ cũ không
có. Ngoài ra, TPP cũng yêu cầu xóa bỏ thuế xuất khẩu, bởi việc áp dụng thuế xuất khẩu
cũng là một biện pháp có thể “bóp méo” thị trường. Ví dụ, việc áp thuế xuất khẩu sẽ
khiến chi phí nhập khẩu của các nhà nhập khẩu từ các nước đối tác tăng lên, làm giá bán
sản phẩm tại thị trường nhập khẩu cũng cao hơn...
Thứ sáu, trong các FTA thế hệ mới đều có thành viên với trình độ phát triển kinh tế
cao hàng đầu thế giới. Đây cũng là điều khác biệt với các FTA truyền thống. Chẳng hạn,
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) bao gồm các nước đang phát triển. Ngay cả
FTA Việt Nam - Hàn Quốc, FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu (EAEU), tuy cũng
mới được ký kết nhưng cũng không phải là các FTA có các cam kết cao như TPP hay
Hiệp định thương mại tự do xuyên Đại Tây dương (TTIP).
Trong FTA Việt Nam và EAEU vẫn áp dụng quy trình cấp chứng nhận xuất xứ
thông qua một cơ quan có thẩm quyền do nhà nước quy định như trong các FTA truyền
thống Việt Nam đã ký, chứ không phải doanh nghiệp tự chứng nhận như trong TPP. Các
nội dung về sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, phát triển bền vững... chủ yếu mang tính hợp tác
và không vượt quá những cam kết như trong WTO.
Các thành viên có trình độ phát triển cao trong các FTA thế hệ mới là động lực dẫn
dắt hợp tác, là cơ sở cho các thỏa thuận sâu, rộng, và các cam kết ở mức cao trong nội khối FTA.
3. Vai trò của các FTA thế hệ mới
Với yêu cầu cao và tính toàn diện, các FTA thế hệ mới có vai trò quan trọng trong
thúc đẩy tự do thương mại cả về mặt lượng và chất, thể hiện trên một số khía cạnh sau:
Một là, trong khi các vòng đàm phán thương mại toàn cầu của WTO đang bế tắc
và trước mắt chưa thể có bước đột phá, thì các FTA thế hệ mới đang là giải pháp có
tính khả thi để thúc đẩy tiến trình tự do hóa thương mại và đầu tư, cạnh tranh, nâng
cao tiêu chuẩn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (IPR), môi trường và tiêu chuẩn lao động,
vốn chưa được quy định trong các hiệp định hiện tại của WTO. Các FTA thế hệ mới
được triển khai sẽ thúc đẩy mạnh hơn tiến trình tự do hóa. Trên thực tế, bản thân các
quốc gia không tự cắt giảm thuế, xóa bỏ các rào cản, mà chỉ có thông qua đàm phán,
thiết lập các FTA mới, mở ra các cơ hội để thúc đẩy tự do hóa, góp phần vào quá trình
tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia thành viên FTA. Có thể nói đây chính là vai trò kinh tế của các FTA.
Khi phân tích về tác động của FTA đối với thương mại và kinh tế toàn cầu, các
chuyên gia chỉ ra hai dạng tác động: tác động tĩnh và tác động động. Tác động tĩnh là
tác động diễn ra với bất cứ thành viên nào khi tham gia ký FTA, còn tác động động là lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
tác động có thể xảy ra hoặc không xảy ra trong mỗi FTA cũng như đối với mỗi thành viên FTA.
Tác động tĩnh của FTA có thể là tác động tạo thương mại hoặc tác động làm chuyển
hướng thương mại. Khi ký các FTA, các thành viên được hưởng ưu đãi, trong đó có việc
cắt giảm hoặc xóa bỏ các hàng rào thuế quan. Với việc này, xuất hiện tình trạng có hàng
hóa thông qua nhập khẩu sẽ rẻ hơn so với hàng hóa sản xuất trong nước do có chi phí cao hơn.
Điều này thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu nội khối và c ng vì vậy thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất và cơ cấu thương mại của các nước thành viên FTA.
Đối với các FTA thế hệ mới, mức cắt giảm thuế rất sâu trên nhiều hàng hóa và dịch vụ
nên tác động tạo thương mại càng mạnh, c ng có nghĩa cơ hội đặt ra nhiều đi liền với
thách thức trong quá trình cơ cấu lại, nâng cao sức cạnh tranh.
Cùng với tác động tạo thương mại, việc ký các FTA sẽ tác động làm chuyển hướng
thương mại. Trong quan hệ giữa các nước khi chưa tham gia FTA, hàng hóa luân chuyển
giữa các quốc gia thường theo hướng: đối với các hàng hóa có chất lượng tương ứng mà
chí phí sản xuất thấp sẽ có cơ hội xuất khẩu sang nước khác.
Tuy nhiên, khi một trong các quốc gia tham gia FTA, họ sẽ chuyển sang nhập khẩu
hàng hóa nội khối, cho dù chí phí sản xuất có cao hơn, nhưng do được giảm thuế và các
ưu đãi khác, nên giá nhập khẩu vẫn có tính cạnh tranh.
Do vậy, điều đó sẽ gây thiệt hại cho quốc gia không phải là thành viên FTA. Về
bản chất ở đây có sự phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại quốc tế. Đây là hiệu
ứng thúc đẩy các quốc gia không là thành viên FTA đàm phán để tham gia FTA hay ký
các FTA mới. Như vậy, khi một FTA được ký kết, nó sẽ có những tác động đến lợi ích
các quốc gia, và sẽ làm thay đổi chính sách của các quốc gia là thành viên c ng như
những quốc gia không là thành viên của một FTA nào đó.
Về tác động động của việc ký kết, triển khai các FTA c ng được các quốc gia thành
viên kỳ vọng. Tác động này đến từ việc mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư.
Do được hưởng các ưu đãi và xóa bỏ các rào cản thuế nên, về nguyên tắc, các thành
viên FTA được hưởng lợi từ sự gia tăng quy mô thị trường, cũng có nghĩa nhu cầu và
tính đa dạng thị trường tăng lên, mở ra các cơ hội với nhà sản xuất.
Tất nhiên, đi liền với mở rộng thị trường là sự gia tăng cạnh tranh trong sản xuất
và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Cạnh tranh được coi là động lực phát triển và đó c ng là
tác động lớn nhất của FTA. Tham gia FTA đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp trong
các quốc gia thành viên không còn nhận được sự bảo hộ từ các công cụ chính sách
thương mại của nhà nước. Họ sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt hơn từ các sản
phẩm của các nước thành viên FTA.
Các tác động mang tính động tạo ra sức ép để các nhà sản xuất trong nước phải
vận động vươn lên, nắm lấy cơ hội đổi mới hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
năng suất, chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, hạ giá thành sản phẩm. Đó là con
đường duy nhất để thành công trong hội nhập đối với các doanh nghiệp.
Tác động đáng lưu ý nữa của FTA là thúc đẩy sự lưu chuyển của các dòng vốn đầu
tư. Do các cam kết bảo đảm lợi ích cao, và cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư
trong FTA thế hệ mới và nhiều dịch vụ hỗ trợ đi kèm cùng các thị trường đầu tư mới
xuất hiện, nên dòng vốn đầu tư lưu chuyển mạnh hơn. Điều này mở ra cơ hội với các
nền kinh tế thành viên FTA, song c ng làm cho cạnh tranh đầu tư ngày càng quyết liệt.
Điều đáng chú ý, các tác động trên với các quốc gia thành viên còn tùy thuộc vào
điều kiện cụ thể mỗi quốc gia. Song những tác động đó sẽ làm cho quá trình tự do hóa
thương mại được tăng cường. Bởi lẽ, dù việc ký các FTA có dẫn đến thực tế tồn tại sự
phân biệt giữa các quốc gia thành viên và không phải thành viên, thì hiển nhiên là quá
trình tự do hóa thương mại đang được đẩy mạnh trong các khối FTA, và chính việc ký
kết nhiều các FTA tạo hiệu ứng kích thích cho tiến trình đàm phán tự do hóa thương mại đa phương.
Hai là, bên cạnh vai trò thúc đẩy mạnh mẽ hội nhập và liên kết kinh tế, các FTA
thế hệ mới có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chuẩn mực tự do hóa thương mại.
Vai trò chung của các FTA là thúc đẩy thương mại, trong bối cảnh tự do hóa thương mại
toàn cầu qua kênh đa phương đang gặp khó khăn.
Chúng ta biết rằng, với tác động của quá trình toàn cầu hóa, một thị trường lao
động mang tính toàn cầu đã và đang hình thành. Trong quá trình hoạt động, các doanh
nghiệp, các quốc gia phải tính đến thị trường lao động toàn cầu, mà ở đó có chuẩn mực,
các tiêu chuẩn chung về sử dụng lao động.
Bên cạnh đó, quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra ngày càng nghiêm
trọng, buộc các quốc gia, cả các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển phải cùng
nỗ lực đối phó, thích ứng và giảm thiểu tác động, nói cách khác trong quá trình tổ chức
sản xuất phải tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường và phát triển bền vững đã được Liên hợp quốc thông qua.
Tuy nhiên, trong các FTA trước đây, những tiêu chuẩn này ít được quan tâm, thậm
chí không được đề cập. Trong các FTA thế hệ mới, các nội dung này được quan tâm, trở
thành các chuẩn mực thương mại mới buộc các quốc gia phải đàm phán, chấp thuận khi
trở thành thành viên của các FTA thế hệ mới.
Ngày nay, vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động ngày càng được coi trọng
trên cơ sở coi người lao động là người trực tiếp làm ra các sản phẩm trong thương mại
quốc tế, nên trước hết họ phải được bảo đảm các quyền, lợi ích và các điều kiện lao
động cơ bản. Đây là cách tiếp cận của các FTA thế hệ mới và đang trở thành xu thế trong
những năm gần đây trên thế giới. Việc đưa nội dung về lao động vào các FTA còn nhằm
bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng giữa các quan hệ thương mại. lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
Việc đưa nội dung về lao động vào các FTA còn nhằm bảo đảm môi trường cạnh
tranh công bằng giữa các bên trong quan hệ thương mại. Nếu một nước duy trì tiêu
chuẩn lao động thấp, tiền lương và các điều kiện lao động không được xác lập trên cơ
sở thương lượng, thì được cho là sẽ có chi phí sản xuất thấp hơn so với nước thực hiện
những tiêu chuẩn lao động cao, dẫn tới cạnh tranh không bình đẳng.
Hơn nữa, việc nêu ra yêu cầu về phát triển bền vững, buộc các quốc gia phải nâng
cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất không chỉ nhìn ở lợi nhuận là sự gia tăng
về giá trị, mà còn ở sự bảo vệ và tái tạo môi trường sống. Và để làm được các điều đó,
buộc các quốc gia phải thể chế hóa để bảo đảm thực hiện các tiêu chuẩn lao động và
môi trường. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với các quốc gia đi sau trong tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ba là, tham gia các FTA thế hệ mới mở ra không gian phát triển mới với các quốc
gia thành viên. Các FTA truyền thống với các nội dung được thỏa thuận, cam kết với
các điều kiện giới hạn trong hội nhập, thông thường theo các quy chuẩn của WTO. Với
các FTA thế hệ mới, không gian phát triển của các quốc gia có sự thay đổi về chất, các
cơ hội phát triển được mởra cả về chiều rộng và chiều sâu.
Do vậy, các quốc gia thành viên có nhiều lựa chọn trong không gian phát triển mới.
Đây chính là cơ hội cho khởi nghiệp, cho phát triển sáng tạo ở các lĩnh vực, ngành, nghề
kinh doanh mới. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với các thành viên đi sau trong tiến trình
phát triển kinh tế - xã hội.
Không gian phát triển mới được hiểu chính là mở rộng dư địa của các ngành, nghề
hiện có, đồng thời mở ra các ngành, nghề và dịch vụ kinh doanh mới với những tiêu
chuẩn mới. Không gian này, vì vậy, thúc đẩy đa dạng hóa, hợp lý hóa và hiện đại hóa
cơ cấu xuất - nhập khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng. Không gian phát triển mới còn
là sự gia tăng về không gian bố trí sản xuất, không chỉ trong phạm vi biên giới quốc gia,
mà còn căn cứ vào nhu cầu thị trường thế giới. Các doanh nghiệp có thể tham gia và cần
phải tham gia cơ cấu chuỗi sản xuất, mạng lưới sản xuất, trước hết là trong nội khu vực FTA.
Như vậy, tầm nhìn và không gian sản xuất của các doanh nghiệp, cũng như chiến
lược phát triển của các quốc gia trong điều kiện thực thi các FTA, nhất là FTA thế hệ
mới không chỉ bó hẹp trong phạm vi từng quốc gia. Chính không gian phát triển mới
cũng đặt ra yêu cầu mới trong tư duy, định hình chiến lược phát triển quốc gia mới phù
hợp, hiệu quả trong bối cảnh thực thi các FTA thế hệ mới.
Bốn là, việc triển khai ký kết, thực hiện các FTA thế hệ mới một cách hiệu quả sẽ
góp phần củng cố và bảo đảm an ninh kinh tế, nâng cao vị thế đối với các quốc gia
thành viên. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, muốn bảo đảm an ninh kinh tế không chỉ chú
ý các điều kiện của riêng mình, mà cần hài hòa, cùng hợp tác với các quốc gia khác. Nói
cách khác, an ninh kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa là an ninh tương tác. lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
Do vậy, việc tăng cường liên kết với nhau là giải pháp hữu hiệu nhằm phòng, chống
những cuộc khủng hoảng chu kỳ hoặc khủng hoảng cơ cấu, bảo đảm an ninh kinh tế,
bền vững trong tăng trưởng. Hiện nay, việc chọn phương án ký kết các FTA được coi là
bước đi hợp lý nhằm củng cố quan hệ giữa các nước và tiến tới sự hợp tác ở những cấp
độ cao hơn, tạo tiền đề cho những giải pháp phòng, chống khủng hoảng khả thi hơn.
Nhìn chung, xét về quy mô và hiệu quả kinh tế hiện nay, không một quốc gia nào
có thể phát triển hiệu quả khi phát triển tách biệt. Do vậy, liên kết hợp tác dựa trên những
cam kết có độ rộng và sâu là cơ sở bảo đảm vững chắc hơn đối với an ninh kinh tế. So
với các FTA truyền thống, rõ ràng các FTA thế hệ mới là con đường hợp lý bảo đảm các
điều kiện cho các quốc gia và doanh nghiệp tăng trưởng bền vững trong thế giới luôn biến động khó lường.
Tham gia các FTA thế hệ mới, thông qua liên kết khu vực, vị thế các nước nhỏ
cũng được cải thiện thông qua vị thế chung của khối, bởi lẽ việc sát cánh bên nhau trong
một FTA cũng là một phương cách hữu hiệu gia tăng sức mạnh đàm phán trên các diễn
đàn thương mại khác nhau.
Mặt khác, việc hình thành các FTA có chuẩn mực cao, được dẫn dắt bởi những nền
kinh tế lớn, c ng là cơ hội để các nước này khẳng định vai trò trong xây dựng và thiết
lập trật tự khu vực, ảnh hưởng đến chiều hướng phát triển và cạnh tranh vị thế nước lớn trên trường quốc tế.
Với vai trò như trên, việc ký kết, triển khai các FTA thế hệ mới sẽ đưa lại nhiều cơ
hội song cũng không ít thách thức với các quốc gia thành viên. Đó là những cơ hội và
thách thức xung quanh mở rộng thị trường thương mại, đầu tư, lao động... đi liền với
cạnh tranh gia tăng; đó là cơ hội và thách thức nâng cao chất lượng và hoàn thiện hệ
thống quản trị quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh thể chế... Các cơ hội và thách
thức đan xen và chuyển hóa nhau, chúng phụ thuộc vào trình độ phát triển, sự năng động
và chủ động hội nhập trong tham gia các FTA của các quốc gia thành viên.
4. Sự khác nhau giữa FTA truyền thống và FTA thế hệ mới
FTA truyền thống: Là các FTA được đàm phán, ký kết trong giai đoạn đầu, thường
có phạm vi hẹp, mức độ tự do hóa hạn chế.
FTA thế hệ mới: Là các FTA được đàm phán, ký kết trong thời gian gần đây, có
phạm vi rộng, mức độ tự do hóa mạnh
- FTA truyền thống của Việt Nam
FTA truyền thống thường chỉ bao gồm các cam kết tự do hóa thương mại trong
lĩnh vực thương mại hàng hóa (mà quan trọng nhất là xóa bỏ thuế quan đối với khoảng
70-80% số dòng thuế). Một số ít có thêm các cam kết tự do hóa thương mại dịch vụ (mở
cửa thêm các dịch vụ so với mức mở cửa trong WTO) và các nguyên tắc chung về đầu
tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh… Tuy nhiên, những cam kết về các vấn đề này thường là
chung chung, ít ràng buộc cụ thể ở mức cao. lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
Tất cả các FTA mà Việt Nam đã ký trước năm 2014 (bao gồm 06 FTA trong khuôn
khổ ASEAN và 02 FTA song phương với Nhật Bản (VJEPA) và với Chile (VCFTA) đều
là các FTA truyền thống, với nội dung chủ yếu là loại bỏ thuế quan cho hàng hóa xuất
nhập khẩu giữa các Thành viên.
- FTA thế hệ mới của Việt Nam
Các FTA thế hệ mới bao gồm các cam kết tự do hóa thương mại trong nhiều lĩnh
vực (hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường…), trong đó mức
độ cam kết mở cửa mạnh (ví dụ thường là xóa bỏ thuế quan đối với khoảng 95-100%
số dòng thuế, mở cửa mạnh nhiều lĩnh vực dịch vụ, mở cửa mua sắm công), đặt ra nhiều
tiêu chuẩn cao trong các vấn đề quy tắc.
Mặc dù vậy, lĩnh vực “thế hệ mới” của các FTA chỉ được đề cập khá hạn chế, chủ
yếu là các cam kết mang tính tuyên bố định hướng, không có các nội dung ràng buộc cụ thể.
5. Một số hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam tham gia
Việt Nam hiện nay đã tham gia một số FTA thế hệ mới, trong đó nổi bật là Hiệp
định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương ( CPTPP) và Hiệp định
thương mại tự do giữa Việt Nam và liên minh châu Âu (EU)- EVFTA, cụ thể:
5.1. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương ( CPTPP)
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là Hiệp định
CPTPP, là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. CPTPP bao gồm 11 nước
thành viên là: Ốt-xtrây-li-a, Bru-nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-
cô, Niu Di-lân, Peru, Singapore và Việt Nam.
Hiệp định đã được ký kết ngày 08 tháng 3 năm 2018 tại thành phố Xan-ti-a-gô,
Chi-lê. Đây là kết quả của một quá trình nỗ lực của tất cả các thành viên sau khi Hoa
Kỳ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
• Quá trình hình thành và phát triển CPTPP
- Tháng 3/2010, Việt Nam tham gia vòng đàm phán chính thức đầu tiên của Hiệp
định TPP, được khởi động tại thành phố Men-bơn, Ốt-xtrây-li-a.
- Tháng 2/2016, Việt Nam cùng các nước thành viên ký kết Hiệp định TPP tại Niu Di-lân.
- Tháng 1/2017, Hoa Kỳ tuyên bố rút khỏi Hiệp định TPP
- Tháng 11/2017, 11 nước còn lại đã thống nhất đổi tên Hiệp định TPP thành Hiệp
định CPTPP với những nội dung cốt lõi.
- Ngày 08 tháng 3 năm 2018, các Bộ trưởng của 11 nước tham gia Hiệp định
CPTPP đã chính thức tham gia Lễ ký Hiệp định CPTPP tại thành phố Santiago, Chi-lê. lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
• Tổng quan về hiệp đinh CPTPP
Hiệp định CPTPP gồm 07 Điều và 01 Phụ lục quy định về mối quan hệ với Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được 12 nước gồm Ốt-xtrây-lia, Brunây
Đa-rút-xa-lam, Ca-na-đa, Chi-lê, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân,
Peru, Singapore và Việt Nam ký ngày 06 tháng 2 năm 2016 tại Niu Di-lân; cũng như xử
lý các vấn đề khác liên quan đến tính hiệu lực, rút khỏi hay gia nhập Hiệp định CPTPP.
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP (gồm 30 chương
và 9 phụ lục) nhưng cho phép các nước thành viên tạm hoãn 20 nhóm nghĩa vụ để bảo
đảm sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các nước thành viên trong bối cảnh Hoa
Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP. 20 nhóm nghĩa vụ tạm hoãn này bao gồm 11 nghĩa vụ liên
quan tới Chương Sở hữu trí tuệ, 2 nghĩa vụ liên quan đến Chương Mua sắm của Chính
phủ và 7 nghĩa vụ còn lại liên quan tới 7 Chương là Quản lý hải quan và Tạo thuận lợi
Thương mại, Đầu tư, Thương mại dịch vụ xuyên biên giới, Dịch vụ Tài chính, Viễn
thông, Môi trường, Minh bạch hóa và Chống tham nhũng. Tuy nhiên, toàn bộ các cam
kết về mở cửa thị trường trong Hiệp định TPP vẫn được giữ nguyên trong Hiệp định CPTPP.
Đối với Việt Nam, việc quyết định tham gia, đàm phán và ký kết Hiệp định TPP
trước đây và sau này là CPTPP đã trải qua một quá trình dài với sự chuẩn bị tích cực,
chủ động và bám sát vào những định hướng, chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Bộ
Chính trị, Chính phủ và các cấp có thẩm quyền. Kết quả đàm phán đạt được, về cơ bản,
đã đảm bảo được các lợi ích cốt lõi của Việt Nam cũng như dành được nhiều bảo lưu,
linh hoạt để thực thi Hiệp định hiệu quả, có lợi cho đất nước.
• Thời điểm có hiệu lực:
Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực từ ngày 30 tháng 12 năm 2018 đối với
nhóm 6 nước đầu tiên hoàn tất thủ tục phê chuẩn Hiệp định gồm Mê-hi-cô, Nhật Bản,
Xinh-ga-po, Niu-Di-lân,Ca-na-đa và Ốt-xtrây-lia.
Đối với Việt Nam, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn Hiệp định
CPTPP và các văn kiện có liên quan vào ngày 12 tháng 11 năm 2018. Theo đó, Hiệp
định sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14 tháng 01 năm 2019.
• Nội dung cam kết chính của Hiệp định CPTPP:
- Cam kết về cắt giảm thuế quan
Các nước CPTPP cam kết xóa bỏ hoàn toàn từ 97% đến 100% số dòng thuế nhập
khẩu đối với hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam, tùy theo cam kết của từng nước. Gần
như toàn bộ hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào các nước CPTPP khác sẽ được xóa
bỏ thuế nhập khẩu hoàn toàn ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc theo lộ trình
Việt Nam cam kết một biểu thuế chung cho tất cả các nước CPTPP. Theo đó, Việt
Nam sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 66% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu
lực và 86,5% số dòng thuế sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Các mặt hàng còn lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
lại có lộ trình giảm thuế chủ yếu từ 5 đến 10 năm. Nhìn chung, mức độ cam kết mở cửa
thị trường hàng hóa của ta là thấp hơn nhiều so với mức các nước cam kết mở cửa cho ta
- Cam kết về dịch vụ và đầu tư
Đối với lĩnh vực dịch vụ - đầu tư, các nước CPTPP áp dụng cách tiếp cận chọn -
bỏ và cơ chế “chỉ tiến không lùi-ratchet”.
Theo đó, các nước được quyền đưa ra các biện pháp bảo lưu trái với 4 nghĩa vụ
chính của chương Dịch vụ (Đối xử quốc gia, Đối xử tối huệ quốc, Tiếp cận thị trường,
và Hiện diện tại nước sở tại) và 4 nghĩa vụ chính của Chương Đầu tư (Đối xử quốc gia,
Đối xử tối huệ quốc, Yêu cầu thực hiện, và Quản lý nhân sự cấp cao và ban giám đốc)
dưới hình thức là một danh mục gọi là “Danh mục các biện pháp bảo lưu không tương
thích với nghĩa vụ chính của chương Dịch vụ và chương Đầu tư” (gọi tắt là Danh mục
NCM dịch vụ - đầu tư).
- Cam kết về mua sắm của Chính phủ
Các nước thống nhất một bộ quy tắc khá toàn diện về đấu thầu mua sắm của các
cơ quan Chính phủ. Các quy tắc này chủ yếu là:
(i) Về cơ bản, sẽ sử dụng hình thức đấu thầu quốc tế rộng rãi để lựa chọn nhà thầu từ các nước CPTPP;
(ii) Không áp dụng các điều kiện dự thầu mang tính ưu tiên đối với nhà thầu cũng
như hàng hóa và dịch vụ nội địa (Việt Nam bảo lưu lộ trình chuyển đổi 25 năm đối với quy tắc này)
(iii) Minh bạch thông tin và thủ tục tại tất cả các khâu, đồng thời có quy định để bảo
đảm liêm chính trong quá trình đấu thầu và xây dựng quy trình xem xét khiếu nại của nhà thầu.
- Cam kết về lao động
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP không đưa ra tiêu chuẩn riêng về lao động mà chỉ
khẳng định lại các tiêu chuẩn lao động được nêu trong Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
- Cam kết về sở hữu trí tuệ
Hiệp định CPTPP khẳng định lại rõ ràng các nguyên tắc quan trọng của Hiệp định
TRIPS, như mục tiêu bảo hộ nhằm tạo ra và phổ biến công nghệ, quyền bảo vệ lợi ích
sống còn về sức khỏe và dinh dưỡng của nhân dân
- Cam kết về doanh nghiệp Nhà nước
Các nghĩa vụ chính theo Hiệp định bao gồm: Các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
phải hoạt động theo cơ chế thị trường; Các DNNN không được có hành vi phản cạnh
tranh khi có vị trí độc quyền, gây ảnh hưởng đến thương mại 12 và đầu tư; Minh bạch
hóa một số thông tin như tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, báo cáo tài chính đã được kiểm lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
toán và được phép công bố; và Nhà nước không trợ cấp quá mức, gây ảnh hưởng lớn
đến lợi ích của nước khác.
5.2. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU ( EVFTA)
Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam (EVFTA) là một thỏa thuận
thương mại tự do giữa Việt Nam và 27 nước thành viên EU. EVFTA, cùng với Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TP), là hai FTA có phạm vi cam kết rộng và mức
độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ trước tới nay.
M ốc so n trong quan h ệ V i ệt Nam - EU
- Tổng quan về hiệp định EVFTA
EVFTA là một Hiệp định toàn diện, chất lượng cao, cân bằng về lợi ích cho cả
Việt Nam và EU, đồng thời phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Hiệp định gồm 17 Chương, 2 Nghị định thư và một số biên bản ghi nhớ kèm theo
với các nội dung chính là: thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết
mở cửa thị trường), quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện
pháp vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT),
thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), đầu tư,
phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm của Chính phủ, sở
hữu trí tuệ, thương mại và Phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, các vấn
đề pháp lý và thể chế.
- Cam kết chính trong hiệp định EVFTA •
Về thương mại hàng hóa: lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
Đối với xuất khẩu của Việt Nam, ngay khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ
thuế nhập khẩu đối với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Sau 7 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa
bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam. Đối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại, EU cam kết
dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%.
• Đối với hàng xuất khẩu của EU:
Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 48,5%
số dòng thuế, chiếm 64,5% kim ngạch nhập khẩu. Tiếp đó, sau 7 năm, 91,8% số dòng
thuế, tương đương 97,1% kim ngạch xuất khẩu từ EU được Việt Nam xóa bỏ thuế nhập
khẩu. Sau 10 năm, mức xóa bỏ thuế quan là khoảng 98,3% số dòng thuế, chiếm 99,8%
kim ngạch nhập khẩu. Đối với khoảng 1,7% số dòng thuế còn lại của EU, Việt Nam áp
dụng lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu dài hơn 10 năm hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan theo cam kết WTO.
Việt Nam và EU cũng thống nhất các nội dung liên quan tới thủ tục hải quan, SPS,
TBT, phòng vệ thương mại..., tạo khuôn khổ pháp lý để hai bên hợp tác, tạo thuận lợi
cho xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp.
• Về thương mại dịch vụ và đầu tư:
Cam kết của Việt Nam và EU về thương mại dịch vụ đầu tư nhằm tạo ra một môi
trường đầu tư cởi mở, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp hai bên. Cam kết
của Việt Nam có đi xa hơn cam kết trong WTO. Cam kết của EU cao hơn trong cam kết
trong WTO và tương đương với mức cam kết cao nhất của EU trong những Hiệp định FTA gần đây của EU.
Các lĩnh vực mà Việt Nam cam kết thuận lợi cho các nhà đầu tư EU gồm một số
dịch vụ chuyên môn, dịch vụ tài chính, dịch vụ viễn thông, dịch vụ vận tải, dịch vụ phân
phối. Hai bên cũng đưa ra cam kết về đối xử quốc gia trong lĩnh vực đầu tư, đồng thời
thảo luận về nội dung giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước. • Về mua
sắm của Chính phủ:
Việt Nam và EU thống nhất các nội dung tương đương với Hiệp định mua sắm của
Chính phủ (GPA) của WTO. Với một số nghĩa vụ như đấu thầu qua mạng, thiết lập cổng
thông tin điện tử để đăng tải thông tin đấu thầu, ..., Việt Nam có lộ trình để thực hiện.
EU cũng cam kết dành hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam để thực thi các nghĩa vụ này. Việt
Nam bảo lưu có thời hạn quyền dành riêng một tỷ lệ nhất định giá trị các gói thầu cho
nhà thầu, hàng hóa, dịch vụ và lao động trong nước.
• Về sở hữu trí tuệ:
Cam kết về sở hữu trí tuệ gồm cam kết về bản quyền, phát minh, sáng chế, cam
kết liên quan tới dược phẩm và chỉ dẫn địa lý.... Về cơ bản, các cam kết về sở hữu trí
tuệ của Việt Nam là phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
• Về chỉ dẫn địa lý:
Khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ bảo hộ trên 160 chỉ dẫn địa lý của EU (bao
gồm 28 thành viên) và EU sẽ bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam. Các chỉ dẫn địa lý
của Việt Nam đều liên quan tới nông sản, thực phẩm, tạo điều kiện cho một số chủng
loại nông sản của Việt Nam xây dựng và khẳng định thương hiệu của mình tại thị trường EU.
Hiệp định EVFTA cũng bao gồm các Chương liên quan tới cạnh tranh, doanh
nghiệp nhà nước, phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, pháp lý-thể chế.
Các nội dung này phù hợp với hệ thống pháp luật của Việt Nam, tạo khuôn khổ pháp lý
để hai bên tăng cường hợp tác, thúc đẩy sự phát triển của thương mại và đầu tư giữa hai bên.
Ngoài ra, Việt Nam đã ký kết một số FTA thế hệ mới, bao gồm CPTPP, EVFTA,
UKVFTA, VN-EAEU FTA…. Các FTA này sẽ mở ra nhiều cơ hội, song cũng tạo ra
nhiều khó khăn mới cho Việt Nam trong quá trình phát triển.Sau đây chúng ta cùng đi
tìm hiểu về tác động cũng như những cơ hội thách thức mà các FTA thế hệ mới đem lại
cho nền kinh tế Việt Nam
II. Các tác động của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến Việt Nam
1. Tác động tích cực
Các FTA thế hệ mới góp phần đưa Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan trọng
trong mạng lưới các liên kết kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu trên thế giới; tạo
thuận lợi cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam bước lên "nấc thang" cao hơn trong
chuỗi giá trị toàn cầu, góp phần nâng cao giá trị gia tăng và thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế.
- Đối với đầu tư nước ngoài
Cùng với đó, các FTA thế hệ mới còn góp phần quan trọng, tạo môi trường đầu
tư thông thoáng, thu hút được nhiều tập đoàn, nhà đầu tư lớn, có tiềm năng từ các nước
trong khu vực và thế giới đến Việt Nam; Góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam
chuyển từ sản xuất xuất khẩu các sản phẩm thô và thủ công sang giai đoạn chế biến
tinh với giá trị gia tăng cao hơn. Theo thống kê, lũy kế đến hết tháng 10 năm 2023, cả
nước có 38.622 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 460,07 tỷ USD. Vốn thực
hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt gần 292 tỷ USD, bằng 63,5%
tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực. Và chỉ trong 10 tháng đầu năm 2023 đã có
1.051 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư, tăng 19,4% so với cùng kỳ, tổng vốn
đầu tư tăng thêm đạt hơn 5,33 tỷ USD.Tính theo tỷ lệ % GDP, vốn FDI vào Việt Nam
đã vượt Trung Quốc, Ấn Ðộ và các nước ASEAN. lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
Nguồn: Bộ Tài chính
- Đối với hoạt động xuất nhập khẩu
Các FTA thế hệ mới được coi như là một chiến lược mang tầm dài hạn nhằm giúp
DN Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực, nâng cao năng lực sản xuất xuất
khẩu và cạnh tranh. Khảo sát cho thấy, tất cả các thị trường mà Việt Nam ký kết FTA
(gồm cả các FTA thế hệ mới) đều ghi nhận sự tăng trưởng vượt trội.
Báo cáo của Bộ Công Thương cho biết, năm 2023 có 52/63 tỉnh, thành phố có
hoạt động xuất khẩu với các nước CPTPP, tăng 11 địa phương so với năm 2022. Địa
phương có trao đổi thương mại lớn nhất với các nước CPTPP trong năm qua là TP. Hồ
Chí Minh, tiếp theo là Bình Phước, Bắc Ninh, Hà Nội và Thái Nguyên.
Tỷ lệ tận dụng Giấy chứng nhận xuất xứ CPTPP (C/O CPTPP) của hầu hết các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng tích cực và tăng đáng
kể so với năm 2022 như: Thủy sản tăng 41,7%; giày dép tăng 51,7%; dệt may tăng
185,2%; cà phê tăng 140,1%; máy móc và thiết bị tăng 152,3%... Các thị trường mới
như Canada và Mexico ghi nhận tỷ lệ sử dụng C/O mẫu CPTPP nhiều nhất với mức
tương ứng 13,7% và 30,8%.
Đối với các nước EVFTA, Bộ Công Thương cho biết trong năm 2023 có 49/63
địa phương có hoạt động xuất khẩu với khu vực này, tăng 11 địa phương so với năm
2022. Trong đó TP. Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hà Nội là những địa
phương có trao đổi thương mại lớn nhất với các đối tác EU. Trong 2 năm đầu thực thi
EVFTA, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đến 27 nước thành viên EU đạt bình quân
41,7 tỷ USD/năm, cao hơn 24% so với con số trung bình 33,5 tỷ USD trong giai đoạn
2016-2019. Điều này có nghĩa là nhiều nhà xuất khẩu tại Việt Nam đã được hưởng lợi lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
từ việc giảm thuế từ EVFTA. Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính, chỉ cần được hưởng
mức cắt giảm thuế quan như đã thỏa thuận, EVFTA có thể thúc đẩy GDP và xuất khẩu
của Việt Nam tăng lần lượt 2,4% và 12% vào năm 2030, đồng thời giúp thêm
100.000800.000 người thoát nghèo vào năm 2030.
Tương tự, năm 2023 có 44/63 tỉnh, thành phố có hoạt động xuất khẩu với Vương
quốc Anh theo Hiệp định UKVFTA, tăng 13 địa phương so với năm 2022. Những địa
phương có trao đổi thương mại lớn với Vương quốc Anh là TP. Hồ Chí Minh, Ninh
Bình, Thái Nguyên và Lâm Đồng. Kim ngạch xuất khẩu sang Anh sử dụng mẫu C/O
ưu đãi EUR.1 trong năm 2023 đạt 1,4 tỷ USD, chiếm 23,5% tổng kim ngạch xuất khẩu
chung của Việt Nam sang thị trường này.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2023 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
của Việt Nam ước đạt 683 tỷ USD, giảm 6,6 % so với cùng kỳ năm 2022, trong đó
xuất khẩu 355,5 tỷ USD (giảm 4,4 %) và nhập khẩu 327,5 tỷ USD (giảm 8,9 %).
Điểm sáng tích cực, nổi bật trong xuất khẩu năm 2023 đó là kim ngạch xuất khẩu
được cải thiện dần, đặc biệt vào các tháng cuối năm. Nếu 9 tháng của năm 2023 kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam giảm 8,2% so với cùng kỳ năm trước, thì trong quý IV
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 96,5 tỷ USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm
trước và tăng 3,2% so với quý III. Và mặc dù kim ngạch xuất khẩu năm 2023 tuy có
sự suy giảm so với năm 2022, nhưng vẫn cao hơn thời điểm trước đại dịch
COVID19.Trong giai đoạn 2015-2023 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp
2,19 lần, từ 162,01 tỷ USD năm 2015 lên 355,5 tỷ USD vào năm 2023. Hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam đến năm 2023 đã có mặt tại gần 200 quốc gia và lãnh thổ trên thế
giới, trong đó có các thị trường lớn và khó tính, như Mỹ, Nhật Bản và EU. Đáng chú
ý đến nay, Việt Nam đã có 33 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD và có
6 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD. lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Đặc biệt, nền kinh tế vẫn duy trì xuất siêu, mức xuất siêu ước đạt 28 tỷ USD,
vượt xa năm 2022 (11,2 tỷ USD). Đây là năm thứ 8, Việt Nam duy trì được thặng dư
cán cân ngoại thương, với mức xuất siêu tăng kỷ lục gấp 2,5 lần năm 2022. Điều này
chứng tỏ Việt Nam đã khai thác được thế mạnh của kinh tế trong nước, đồng thời tận
dụng được cơ hội của hội nhập để mở rộng quy mô xuất khẩu, tiếp cận thị trường quốc tế.
- Đối với hoạt động thương mại trong nước
Ngoài thúc đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu, các FTA thế hệ mới còn góp phần
giúp Việt Nam phát triển thương mại nội địa. Đóng góp của thương mại trong nước
vào tăng trưởng GDP ngày càng cao, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Việt Nam, đảm bảo việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
Hoạt động lưu thông hàng hóa trong nước cũng liên tục gia tăng về quy mô. Giai
đoạn 2011 - 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng từ
1.677,3 nghìn tỷ đồng năm 2010 lên 6.231,8 nghìn tỷ đồng năm 2023.
Kết cấu hạ tầng thương mại phát triển cả về số lượng lẫn loại hình, đan xen giữa
truyền thống và hiện đại, đặc biệt là ở các khu vực đô thị. Hình thức bán hàng, phương
thức kinh doanh thương mại và dịch vụ trên thị trường trong nước đã phát triển mạnh,
ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Thương mại điện tử đang dần trở thành kênh
phân phối quan trọng. Các cam kết về dịch vụ - đầu tư, mua sắm chính phủ cũng như
những quy định cụ thể về mở cửa thị trường đã tạo cơ hội cho DN, sản phẩm hàng hóa lOMoAR cPSD| 58591236 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2
và dịch vụ của các thành viên trong FTA thuận lợi hơn trong tiếp cận thị trường gần
100 triệu dân của Việt Nam, đổi lại người tiêu dùng Việt Nam cũng được tiếp cận sản
phẩm và dịch vụ chất lượng cao…
2. Tác động tiêu cực
Thời gian để triển khai và thực thi cam kết tại các FTA thế hệ mới đang là lực
cản lớn đối với Việt Nam. Với FTA thông thường, tổng thời gian thực thi tất cả cam
kết kéo dài 10 năm. Với các FTA thế hệ mới, Việt Nam sẽ phải thực hiện cam kết trong
vòng 5 - 7 năm; trong đó, nhiều điều khoản phải thực hiện ngay sau khi hiệp định có
hiệu lực, nhiều thỏa thuận sẽ phải thực hiện sau 2 - 3 năm. Trình độ phát triển của Việt
Nam đang ở mức trung bình và thấp. Với mức độ mở cửa tự do hóa sâu hơn, các lĩnh
vực còn thiếu, còn yếu của Việt Nam như: Giao thông vận tải, đào tạo nguồn nhân lực,
lao động kỹ thuật có tay nghề cao… sẽ khó có thể đáp ứng yêu cầu thực tiễn khi phân
luồng đầu tư từ nước ngoài, với dòng vốn mạnh mẽ đổ vào trong nước, cạnh tranh cao
sẽ gây sức ép đối với DN.
Áp lực của việc cắt giảm thuế nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến các ngành nghề
trong nước. Nhiều sản phẩm truyền thống của Việt Nam chưa được đăng ký theo Luật
Sở hữu trí tuệ quốc tế, nguy cơ mất thương hiệu, cạnh tranh yếu trên thị trường cả
trong và ngoài nước là điều chắc chắn. Các ngành kinh tế được dự báo sẽ chịu lép vế
khi Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới gồm: ngành cơ khí, chế tạo; nông sản (một
số sản phẩm nông nghiệp, thực phẩm, chăn nuôi…); thủy sản và một số lĩnh vực trong
ngành dịch vụ (hậu cần thương mại, phân phối bản lẻ…).
Việt Nam mặc dù đã tận dụng được cơ hội của hội nhập để mở rộng quy mô xuất
khẩu, tiếp cận thị trường quốc tế, song tỷ lệ xuất khẩu trên GDP cao cho thấy, nền kinh
tế Việt Nam đang phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới, điều này tiềm ẩn những
nguy cơ bất ổn khi thị trường thế giới có biến động. Các hàng rào kỹ thuật và hệ thống
vệ sinh, kiểm dịch thực vật khắt khe sẽ tạo rào cản khiến hàng hóa Việt Nam khó thâm
nhập vào thị trường các nước đối tác... 3. Cơ hội
Trước bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay,
việc gia nhập và kí kết các FTA đã mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội lớn. Thông qua
việc mở rộng thị trường xuất khẩu, góp phần nâng cao các mối quan hệ thương mại
song phương giữa Việt Nam và các cường quốc trên thế giới lên tầm cao mới, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội vượt lên trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Do đó, chúng ta cần hiểu rõ, nắm bắt được các lợi thế tạo ra và tận dụng tốt các cơ hội,
từ đó đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Một số cơ hội nổi bật khi Việt
Nam gia nhập các FTA thế hệ mới như sau:
Một là, góp phần phục hồi nền kinh tế cho Việt Nam. Cuộc chiến thương mại
Mỹ - Trung Quốc, xung đột Nga - Ukraine và đại dịch Covid-19 trong những năm gần