Các loại hợp đồng lao động hiện nay? Trình tự ký hợp đồng lao động?

Khi giao kết hợp đồng lao động, căn cứ vào tính chất công việc cũng như điều kiện thực tể của mỗi bên, người lao động và người sử dụng lao động sẽ lựa chọn và quyết định loại hợp đồng lao động để giao kết. Bài viết phân tích và làm rõ các loại hợp đồng lao động theo quy định hiện nay

Môn:

Tài liệu Tổng hợp 1.2 K tài liệu

Trường:

Tài liệu khác 1.3 K tài liệu

Thông tin:
7 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Các loại hợp đồng lao động hiện nay? Trình tự ký hợp đồng lao động?

Khi giao kết hợp đồng lao động, căn cứ vào tính chất công việc cũng như điều kiện thực tể của mỗi bên, người lao động và người sử dụng lao động sẽ lựa chọn và quyết định loại hợp đồng lao động để giao kết. Bài viết phân tích và làm rõ các loại hợp đồng lao động theo quy định hiện nay

12 6 lượt tải Tải xuống
1. Khái niệm hợp đồng lao động
Hợp đồng lao độnglà văn bản thỏa thuận giữa người lao động người sử dụng
lao động về việc làm trả công, trong đó quy định điều kiện lao động, quyền và nghĩa
vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Hợp đồng lao động được kết theo nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng, phù hợp với các quy định của pháp luật lao động. Trong thời
gian thực hiện hợp đồng lao động các bên kết thể thỏa thuận sửa đổi nội dung
của hợp đồng lao động. Trong trường hợp sự thay đổi của một trong những nội
dung chủ yếu về điều kiện lao động thì người lao động có quyềnhợp đồng lao động
mới.
2. Phân loại hợp đồng lao động
nhiều cách để phân loại hợp đồng lao động như căn cứ vào tính kế tiếp của hợp
đồng (có hợp đồng thử việc, hợp đồng lao động chính thức), tính hợp pháp của hợp
đồng lao động (có hợp đồng lao động hợp pháp, hợp đồng lao động bất hợp pháp)...,
song dưới góc độ pháp luật người ta thường phân chia loại họp đồng trên sở thời
hạn của hợp đồng. Bởi lẽ, để thể chuyên giao được hàng hoá sức lao động, người
lao độngcần phải có một khoảng thời gian để thực hiện công việc theo hợp đồng. Thời
hạn của họp đồng lao động dài hay ngắn thường được dựa trên tính chất công việc,
thời hạn thực hiện hoàn thành công việc. Thông thường, pháp luật các nước đều
chia hợp đồng lao động thành 3 loại: Hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp
đồng lao động xác định thời hạn và hợp đồng lao động theo mùa vụ. Tuy nhiên, đối với
hợp đồng lao động xác định thời hạn, tuỳ theo điều kiện kinh tế-xã hội của từng nước
thời hạn của hợp đồng có thể là 3 năm hoặc 5 năm hoặc cũng thể tuỳ thuộc vào
sự thoả thuận của các bên. Bộ luật lao động năm 2012 quy định 3 loại hợp đồng lao
động, đó hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định
thời hạn và hợp đồng lao động theo mùa vụ, theo công việc nhất địnhthời hạn dưới
1 tháng.Bộ luật lao động năm 2019quy định hợp đồng lao động gồm các loại sau
đây:
-Hợp đồng lao động không xác định thời hạn:Hợp đồng lao động không
xác định thời hạn hợp đồng trong đó các bên không xác định thời hạn, thời điểm
chấm dứt hiệu lực của hợp đồng. Đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn,
các bên không bị ràng buộc với nhau về thời gian. Bởi vậy, hợp đồng này thường là lâu
dài nên được áp dụng cho những công việc chất thường xuyên liên tục, không xác
định được thời điểm kết thúc hoặc những công việc có thời gian kết thúc trên 36 tháng.
-Hợp đồng lao động xác định thời hạn:Hợp đồng lao động xác định thời hạn
hợp đồng trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của
hợp đồng trong thời gian không quá 36 tháng kể từ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
Tuy nhiên trên thực tế, những trường hợp khi hết thời hạn hợp đồng nhưng người
lao động vẫn tiếp tục làm việc. Vậy vấn đề này được giải quyết như thế nào?
Theo Điều 20, Bộ luật lao động năm 2019, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hợp đồng
lao động hết hạn, hai bên phải kí kết hợp đồng lao động mới, trong thời gian chưa kí kết
hợp đồng lao động mới thì quyền, nghĩa vụ, lợi ích của các bên được thực hiện theo
hợp đồng lao động đã giao kết. Trường họp hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày hợp đồng
lao động hết hạn mà hai bên không kí hợp đồng lao động mới thì hợp đồng lao động đã
giao kết trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Đặc biệt, để bảo vệ
người lao động, hướng tới việc sử dụng lao động lâu dài, tránh tình trạng người sử
dụng lao động không hợp đồng lao động dài hạn với người lao động, pháp luật còn
quy định về số lượng lần các bên được quyền hợp đồng lao động xác định thời hạn.
Trường hợp người lao động làm việc liên tục cho một người sử dụng lao động thì chỉ
được quyền 2 lần hợp đồng lao động xác định thời hạn, nếu người đó vẫn tiếp tục
làm việc thì lần thứ 3 phải họp đồng lao động không xác định thời hạn, trừ một số
trường hợp đặc biệt.
3. Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động
Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động là những nguyên lí, tưởng chỉ đạo quán triệt
xuyên suốt trong quá trình giao kết hợp đồng lao động. Khi thực hiện giao kết hợp
đồng lao động cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận
Nguyên tắc tự do, tự nguyện trong giao kết hợp đồng lao động là sự cụ thể hóa nguyên
tắc đảm bảo sự tự lựa chọn việc làm, nơi làm việc của công dân. nghĩa rằng khi
tham gia hợp đồng lao động, các chủ thể hoàn toàn tự do về mặt ý chí trong việc tham
gia giao kết về hợp đồng lao động, bất kể hành vi lừa gạt, cưỡng bức đều thể làm
cho hợp đồng bị vô hiệu.
Nguyễn tắc bình đẳng
Nguyên tắc bình đẳng khẳng định vị trí ngang hàng của người lao động người sử
dụng lao động khi giao kết hợp đồng. Tức không sự phân biệt đối xử giữa bên
người lao động người sử dụng lao động. Hành vi tạo ra sự bất bình đẳng giữa các
chủ thể luôn bị coi là vi phạm pháp luật về hợp đồng lao động
Tuy nhiên trên thực tế, không thể tránh khỏi việc khi tham gia hợp đồng lao động, các
chủ thể không hoàn toàn bình đẳng với nhau. vậy, nguyên tắc này sự bình đẳng
nhấn mạnh ở khía cạnh pháp lý.
Nguyên tắc không trái pháp luật và thỏa ước lao động tập thể
Đây là nguyên tắc chung không những đảm bảo cho quyền và lợi ích của các bên tham
gia hợp đồng còn đảm bảo không làm ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác
liên quan lợi ích chung của hội. Hợp đồng lao động phải tuân thủ nguyên tắc
tự do thỏa thuận, tuy nhiên sự tự do thỏa thuận đây phải nằm trong khuôn khổ.
Khuôn khổ đó chính là chuẩn mực về đạo đức, không trái với pháp luật và thỏa ước lao
động tập thể.
4. Trình tự giao kết hợp đồng lao động
Trình tự giao kết hợp đồng lao động là các bước mà người lao độngngười sử dụng
lao động tiến hành khi giao kết hợp đồng lao động. Đây chính là giai đoạn các bên đàm
phán, thương lượng và đi đến thống nhất các điều khoản trong hợp đồng đồng thời tiến
hành kết họp đồng lao động. Pháp luật lao động không quy định cụ thể về trình tự
giao kết hợp đồng nhưng thể khái quát các bước trong trình tự giao kếthợp đồng
lao độngnhư sau:
- Đề nghị giao kết hợp đồng lao động
Đề nghị giao kết hợp đồng bước đầu tiên trong trình tự giao kết hợp đồng lao động.
Bởi khi một người muốn giao kết hợp đồng thì ý muốn đó phải được thể hiện ra bên
ngoài thông qua một hành vi nhất định để phía đối tác biết được ý muốn đó từ đó
mới có thể dẫn đến việc giao kết hợp đồng. Thực chất đề nghị giao kết hợp đồng chính
việc một bên thể hiện việc ý chí của mình trước người khác về việc họ cổ nhu cầu
giao kết hợp đồng lao động. Hợp đồng lao động được giao kết giữa người lao động
người sử dụng lao động nên chủ thể đề nghị giao kết hợp đồng lao động thể
người lao động người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động nếu nhu cầu
giao kết hợp đồng lao động sẽ đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng lao động với người
lao động ngược lại nếu người lao độngcó nhu cầu giao kết hợp đồng cũng thể
đưa ra lời đề nghị với người sử dụng lao động. Đề nghị giao kết hợp đồng lao động
thông thường các nội dung như nhu cầu tuyển dụng (hoặc được tuyển dụng), vị trí
công việc sẽ tuyển dụng, địa điểm làm việc, mức lương... Khi đưa ra đ nghị giao kết
hợp đồng đòi hỏi các bên phải đưa ra các thông tin đầy đủ, ràng đặc biệt các
thông tin này phải đảm bảo tính trung thực. Việc đề nghị giao kết hợp đồng lao động
được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau. Các bên thể trực tiếp đưa ra
lời đề nghị hoặc thể thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông qua
các trung tâm giới thiệu việc làm... Trên sở lời đề nghị, các bên thể gặp gỡ
cung cấp thêm cho nhau những thông tin cần thiết theo yêu cầu của phía bên kia.
Chẳng hạn như khi nhận được lời đề nghị giao kết họp đồng của người sử dụng lao
động, người lao động cung cấp cho nguời sử dụng lao động các thông tin như họ tên,
ngày tháng năm sinh, nơi trú, trình độ học vấn, trình độ kĩ năng nghề, xác nhận tình
ttạng sức khoẻ vấn đề khác liên quan trực tiếp việc giao kết hợp đồng lao động
người sử dụng lao động yêu cầu. Các thông tin của người lao độngkhông liên quan
đến việc tuyển dụng như thông tin nhân hoặc các thông tin mang tính hội không
được cho phép thì người sử dụng lao động không thể điều tra và cũng không được yêu
cầu người lao động cung cấp những thông tin đó. Tuy nhiên, những thông tin mà người
lao động đưa ra cần phải chính xác, trung thực người lao động cần phải chịu trách
nhiệm về việc cung cấp thông tin của mình. một số nước (như Nhật Bản Hàn
Quốc), người sử dụng lao động có thể yêu cầu người lao động bồi thường thiệt hại cho
họ khi cung cấp thông tin tuyển dụng sai lệch.
Người sử dụng lao động cũng trách nhiệm cung cấp thông tin trung thực cho người
lao động về công việc, địa điểm làm việc, điều kiện làm việc, thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi, an toàn vệ sinh lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, quy định về bảo vệ
mật công nghệ, mật kinh doanh các vấn đề liên quan trực tiếp đến việc giao kết
hợp đồng lao động người lao độngyêu cầu... Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, các
thông tin được cung cấp giai đoạn này chỉ những thông tin bản nhất về điều
kiện, khả năng của mỗi bên. Trên thực tế, mức độ cung cấp thông tin (đặc biệt về
phía người sử dụng lao động như về mật công nghệ kinh doanh...) còn phụ thuộc
vào quy chế của doanh nghiệp cũng như thoả thuận giữa tập thể lao động với người sử
dụng lao động trong thoả ước lao động tập thể.
Như vậy, ở giai đoạn này, các bên mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra lòi đề nghị, thể hiện ý
chí mong muốn giao kết hợp đồng và cung cấp cho nhau những thông tin cần thiết cho
việc giao kết hợp đồng. Do đó, giai đoạn này các bên chưa sự ràng buộc về mặt
pháp và các bên hoàn toàn vẫn quyền thay đổi, rút lại hoặc huỷ bỏ lời đề nghị của
mình.
- Đàm phán, thương lượng nội dung hợp đồng lao động
Đàm phán thương lượng hợp đồng là giai đoạn thứ hai của quá trình giao kết hợp đồng
lao động. Đây có thể được xem là giai đoạn quan trọng của quá trình giao kết họp đồng
bởi họp đồng lao động được giao kết hay không, quyền lợi của các bên ữong quan
hệ lao động cao hay thấp sẽ phụ thuộc rất nhiều vào giai đoạn này. giai đoạn này,
các bên sẽ đưa ra các vấn đề (các điều khoản của hợp đồng) để hai bên cùng nhau
thương lượng, thoả thuận. Việc thương lượng, thoả thuận của các bên trong giai đoạn
này sẽ được tuân theo các nguyên tắc của việc giao kết họp đồng lao động. Điều đó có
nghĩa, các bên được quyền tự do bình đẳng khi đưa ra các vấn đề; được tự do
bình đẳng trong việc đàm phán, thương lượng với nhau về các điềụ khoản...
Trong một số trường hợp trước khi giao kết họp đồng lao động, các bên còn thể
thoả thuận vấn đề thử việc nếu thấy cần thiết.
Chẳng hạn như người sử dụng lao động muốn kiểm tra xem người lao động khả
năng, trình độ thực hiện được công việc đó hay không hoặc người lao động muốn kiểm
tra xem mình thực hiện được công việc đó hay không thì hai bên thoả thuận về vấn
đề thử việc. Thử việc không phải Ịà thủ tục bắt buộc trong giao kết họp đồng tuỳ
thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, trong thời gian thử việc, quyền lợi của
người lao động thường thấp hơn so với khi người lao động chính thức tham gia quan
hệ lao động nên để bảo vệ người lao động cũng như hạn chế sự lạm dụng của người
sử dụng lao động trong thử việc, pháp luật thường quy định những quyền nghĩa vụ
bản nhất của các bên trong thời gian thử việc, đó là thời gian thử việc và tiền lương
trong thời gian thử việc. Thông thường, thời gian thử việc được pháp luật xác định
mức tối đa căn cứ vào tính chất mức độ phức tạp của công việc, còn tiền lương
được pháp luật quy định mức tối thiểu nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động,
tránh tình trạng người sử dụng lao động lạm dụng để xâm hại. Nhìn chung pháp luật
các nước đều quy định hạn chế thời gian thử việc, cũng như những hạn chế việc kéo
dài thêm thời gian thử việc. dụ như Pháp, chỉ khi trong thoả ước lao động tập thể
hoặc hợp đồng lao động quy định thì thời gian thử việc mới thể được gia hạn,
nếu như sau thời gian hợp đồng thử việc kể cả người lao động đồng ý thì thời gian
thử việc cũng không được phép kéo dài thêm. Thời gian thử việc kết thúc, nếu người
lao độngthử việc đạt kết quả thì người sử dụng lao động phải họp đồng làm việc
chính thức với người lao động, trường hợp sau thời gian thử việc người sử dụng lao
động không giao kết hợp đồng lao động với người lao động không do chính
đáng thì ở Nhật Bản (án lệ), Hàn Quốc (án lệ), Anh (án lệ), Đức (các điều 134, 242 Luật
Dân sự ) sẽ coi đó là sa thải không chính đáng.
Việt Nam, thời gian thử việc do hai bên thoả thuận căn cứ vào tính chất mức độ
phức tạp của công việc. Cụ thể không quá 180 ngày đối với công việc của người
quản doanh nghiệp, không quá 60 ngày đối với công việc chức danh nghề nghiệp
cần trình độ chuyên môn thuật từ cao đẳng trở lên, không quá 30 ngày đối với công
việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ chuyên môn trung cấp, công nhân kĩ thuật,
nhân viên nghiệp vụ không quá 6 ngày đối với các công việc khác (theo Điều 25 Bộ
luật lao động năm 2019). Để tránh tình trạng người sử dụng lao động lạm dụng thử việc
người lao động nhiều lần, pháp luật thường quy định thử việc chỉ được thực hiện 1 lần
đối với một công việc.
Quyền lợi của người lao động trong thời gian thử việc do người lao động người
sử dụng lao động thoả thuận, song riêng về tiền lương của người lao động trong thời
gian thử việc ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó. Trong thời gian thử
việc, mỗi bên quyền huỷ bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết
mà không cần phải báo trước và không phải bồi thường. Khi kết thúc thời gian thử việc,
người sử dụng lao động có trách nhiệm thông báo kết quả thử việc cho nguời lao động.
Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động tiếp tục thực hiện hợp đồng
lao động đã giao kết đối với trường hợp thoả thuận thử việc trong hợp đồng lao động
hoặc phải giao kết họp đồng lao động đối với trường họp giao kết hợp đồng thử việc.
Trường hợp thử việc không đạt yêu cầu thì chấm dứt hợp đồng lao động đã giao kết
hoặc hợp đồng thử việc.
- Giao kết hợp đồng lao động
Sau khi đàm phán, thương lượng đạt được kết quả, các bên đã thống nhất được với
nhau những điều khoản trong hợp đồng lao động, bước tiếp theo các bên sẽ tiến
hành giao kết hợp đồng lao động. Đối với hợp đồng lao động giao kết bằng văn bản thì
đây chính giai đoạn các bên ghi các điều khoản đã thoả thuận vào trong bản hợp
đồng các bên cùng vào hợp đồng. Đối với hợp đông lao động bằng miệng thì đây
chính giai đoạn các bên thống nhất lại với nhau một lần nữa các điều khoản đã thoả
thuận, về mặt pháp lí đây giai đoạn hết sức quan trọng hành vi giao kết hợp đồng
lao động được coi là căn cứ pháp lí làm phát sinh quan hệ lao động.
Hợp đồng lao động được giao kết trực tiếp giữa người lao động người sử dụng lao
động. Tuy nhiên, trong một số trường hợp (như đối với công việc dưới 12 tháng, công
việc theo mùa vụ) thì nhóm người từ 18 tuổi trở lên có thể uỷ quyền cho một người lao
động trong nhóm để giao kết hợp đồng lao động. Trong trường hợp này, hợp đồng lao
động phải được giao kết bằng văn bản hiệu lực như giao kết với từng người lao
động. Tuy nhiên, hợp đồng lao động do người được ủy quyền giao kết phải kèm theo
danh sách ghi họ tên, tuổi, giới tính, địa chỉ thường trú, nghề nghiệp chữ của
từng người lao động. Người lao động thể giao kết hợp đồng lao động với nhiều
người sử dụng lao động nhưng phải đảm bảo thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao
kết.
Để bảo vệ người lao động, pháp luật còn quy định những hành vi người sử dụng lao
động không được phép thực hiện khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động. Đó giữ
bản chính giấy tờ tuỳ thân, văn bằng chứng chỉ của người lao động; yêu cầu người lao
động phải thực hiện biện pháp đảm bảo bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện
họp đồng hay buộc người lao động thực hiện hợp đồng lao động để trả nợ cho người
sử dụng lao động (theo Điều 17 Bộ luật lao độngnăm 2019). Đây những biện pháp
trên thực tế người sử dụng lao động hay áp dụng nhằm ràng buộc người lao động,
buộc họ phải thực hiện họp đồng. Tuy nhiên, những biện pháp này ảnh hưởng đến
quyền tự do việcm của người lao động dễ dẫn đến hiện tượng lao động ltrá
hình nên việc pháp luật lao động quy định cấm thực hiện là hoàn toàn hợp lí.
5. Hình thức hợp đồng lao động
Theo quy định tại Điều 14 Bộ luật Lao đông 2019, hợp đồng lao độngthể được giao
kết dưới 03 hình thức sau:
- Giao kết bằng văn bản;
- Giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu;
- Giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói đối với hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng.
Bộ luật Lao động 2019 đã bổ sung thêm hình thức hợp đồng lao động thông qua
phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về
giao dịch điện tử giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản. Việc bổ sung thêm
hình thức hợp đồng lao động thông qua phương tiện điện tử tạo điều kiện thuận tiện
hơn cho các bên khi thực hiện hợp đồng lao động nhất trong thời đại công nghệ 4.0
như hiện nay.
| 1/7

Preview text:

1. Khái niệm hợp đồng lao động

Hợp đồng lao động là văn bản thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, trong đó quy định điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Hợp đồng lao động được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, phù hợp với các quy định của pháp luật lao động. Trong thời gian thực hiện hợp đồng lao động các bên ký kết có thể thỏa thuận sửa đổi nội dung của hợp đồng lao động. Trong trường hợp có sự thay đổi của một trong những nội dung chủ yếu về điều kiện lao động thì người lao động có quyền ký hợp đồng lao động mới.

2. Phân loại hợp đồng lao động

Có nhiều cách để phân loại hợp đồng lao động như căn cứ vào tính kế tiếp của hợp đồng (có hợp đồng thử việc, hợp đồng lao động chính thức), tính hợp pháp của hợp đồng lao động (có hợp đồng lao động hợp pháp, hợp đồng lao động bất hợp pháp)..., song dưới góc độ pháp luật người ta thường phân chia loại họp đồng trên cơ sở thời hạn của hợp đồng. Bởi lẽ, để có thể chuyên giao được hàng hoá sức lao động, người lao động cần phải có một khoảng thời gian để thực hiện công việc theo hợp đồng. Thời hạn của họp đồng lao động dài hay ngắn thường được dựa trên tính chất công việc, thời hạn thực hiện và hoàn thành công việc. Thông thường, pháp luật các nước đều chia hợp đồng lao động thành 3 loại: Hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn và hợp đồng lao động theo mùa vụ. Tuy nhiên, đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn, tuỳ theo điều kiện kinh tế-xã hội của từng nước mà thời hạn của hợp đồng có thể là 3 năm hoặc 5 năm hoặc cũng có thể tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Bộ luật lao động năm 2012 quy định 3 loại hợp đồng lao động, đó là hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn và hợp đồng lao động theo mùa vụ, theo công việc nhất định có thời hạn dưới 1 tháng. Bộ luật lao động năm 2019 quy định hợp đồng lao động gồm có các loại sau đây:

- Hợp đồng lao động không xác định thời hạn: Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó các bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng. Đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn, các bên không bị ràng buộc với nhau về thời gian. Bởi vậy, hợp đồng này thường là lâu dài nên được áp dụng cho những công việc có chất thường xuyên liên tục, không xác định được thời điểm kết thúc hoặc những công việc có thời gian kết thúc trên 36 tháng.

- Hợp đồng lao động xác định thời hạn: Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong thời gian không quá 36 tháng kể từ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên trên thực tế, có những trường hợp khi hết thời hạn hợp đồng nhưng người lao động vẫn tiếp tục làm việc. Vậy vấn đề này được giải quyết như thế nào?

Theo Điều 20, Bộ luật lao động năm 2019, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải kí kết hợp đồng lao động mới, trong thời gian chưa kí kết hợp đồng lao động mới thì quyền, nghĩa vụ, lợi ích của các bên được thực hiện theo hợp đồng lao động đã giao kết. Trường họp hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn mà hai bên không kí hợp đồng lao động mới thì hợp đồng lao động đã giao kết trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Đặc biệt, để bảo vệ người lao động, hướng tới việc sử dụng lao động lâu dài, tránh tình trạng người sử dụng lao động không kí hợp đồng lao động dài hạn với người lao động, pháp luật còn quy định về số lượng lần các bên được quyền kí hợp đồng lao động xác định thời hạn. Trường hợp người lao động làm việc liên tục cho một người sử dụng lao động thì chỉ được quyền kí 2 lần hợp đồng lao động xác định thời hạn, nếu người đó vẫn tiếp tục làm việc thì lần thứ 3 phải kí họp đồng lao động không xác định thời hạn, trừ một số trường hợp đặc biệt.

3. Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động

Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động là những nguyên lí, tư tưởng chỉ đạo quán triệt và xuyên suốt trong quá trình giao kết hợp đồng lao động. Khi thực hiện giao kết hợp đồng lao động cần tuân thủ các nguyên tắc sau:

Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận

Nguyên tắc tự do, tự nguyện trong giao kết hợp đồng lao động là sự cụ thể hóa nguyên tắc đảm bảo sự tự lựa chọn việc làm, nơi làm việc của công dân. Có nghĩa rằng khi tham gia hợp đồng lao động, các chủ thể hoàn toàn tự do về mặt ý chí trong việc tham gia giao kết về hợp đồng lao động, bất kể hành vi lừa gạt, cưỡng bức đều có thể làm cho hợp đồng bị vô hiệu.

Nguyễn tắc bình đẳng

Nguyên tắc bình đẳng khẳng định vị trí ngang hàng của người lao động và người sử dụng lao động khi giao kết hợp đồng. Tức là không có sự phân biệt đối xử giữa bên người lao động và người sử dụng lao động. Hành vi tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ thể luôn bị coi là vi phạm pháp luật về hợp đồng lao động

Tuy nhiên trên thực tế, không thể tránh khỏi việc khi tham gia hợp đồng lao động, các chủ thể không hoàn toàn bình đẳng với nhau. Vì vậy, ở nguyên tắc này sự bình đẳng nhấn mạnh ở khía cạnh pháp lý.

Nguyên tắc không trái pháp luật và thỏa ước lao động tập thể

Đây là nguyên tắc chung không những đảm bảo cho quyền và lợi ích của các bên tham gia hợp đồng mà còn đảm bảo không làm ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác có liên quan và lợi ích chung của xã hội. Hợp đồng lao động phải tuân thủ nguyên tắc tự do thỏa thuận, tuy nhiên sự tự do thỏa thuận ở đây phải nằm trong khuôn khổ. Khuôn khổ đó chính là chuẩn mực về đạo đức, không trái với pháp luật và thỏa ước lao động tập thể.

4. Trình tự giao kết hợp đồng lao động

Trình tự giao kết hợp đồng lao động là các bước mà người lao động và người sử dụng lao động tiến hành khi giao kết hợp đồng lao động. Đây chính là giai đoạn các bên đàm phán, thương lượng và đi đến thống nhất các điều khoản trong hợp đồng đồng thời tiến hành kí kết họp đồng lao động. Pháp luật lao động không quy định cụ thể về trình tự giao kết hợp đồng nhưng có thể khái quát các bước trong trình tự giao kết hợp đồng lao động như sau:

- Đề nghị giao kết hợp đồng lao động

Đề nghị giao kết hợp đồng là bước đầu tiên trong trình tự giao kết hợp đồng lao động. Bởi khi một người muốn giao kết hợp đồng thì ý muốn đó phải được thể hiện ra bên ngoài thông qua một hành vi nhất định để phía đối tác biết được ý muốn đó và từ đó mới có thể dẫn đến việc giao kết hợp đồng. Thực chất đề nghị giao kết hợp đồng chính là việc một bên thể hiện việc ý chí của mình trước người khác về việc họ cổ nhu cầu giao kết hợp đồng lao động. Hợp đồng lao động được giao kết giữa người lao động và người sử dụng lao động nên chủ thể đề nghị giao kết hợp đồng lao động có thể là người lao động và người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động nếu có nhu cầu giao kết hợp đồng lao động sẽ đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng lao động với người lao động và ngược lại nếu người lao động có nhu cầu giao kết hợp đồng cũng có thể đưa ra lời đề nghị với người sử dụng lao động. Đề nghị giao kết hợp đồng lao động thông thường có các nội dung như nhu cầu tuyển dụng (hoặc được tuyển dụng), vị trí công việc sẽ tuyển dụng, địa điểm làm việc, mức lương... Khi đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng đòi hỏi các bên phải đưa ra các thông tin đầy đủ, rõ ràng và đặc biệt các thông tin này phải đảm bảo tính trung thực. Việc đề nghị giao kết hợp đồng lao động được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau. Các bên có thể trực tiếp đưa ra lời đề nghị hoặc có thể thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm... Trên cơ sở lời đề nghị, các bên có thể gặp gỡ và cung cấp thêm cho nhau những thông tin cần thiết theo yêu cầu của phía bên kia. Chẳng hạn như khi nhận được lời đề nghị giao kết họp đồng của người sử dụng lao động, người lao động cung cấp cho nguời sử dụng lao động các thông tin như họ tên, ngày tháng năm sinh, nơi cư trú, trình độ học vấn, trình độ kĩ năng nghề, xác nhận tình ttạng sức khoẻ và vấn đề khác liên quan trực tiếp việc giao kết hợp đồng lao động mà người sử dụng lao động yêu cầu. Các thông tin của người lao động không liên quan đến việc tuyển dụng như thông tin cá nhân hoặc các thông tin mang tính xã hội không được cho phép thì người sử dụng lao động không thể điều tra và cũng không được yêu cầu người lao động cung cấp những thông tin đó. Tuy nhiên, những thông tin mà người lao động đưa ra cần phải chính xác, trung thực và người lao động cần phải chịu trách nhiệm về việc cung cấp thông tin của mình. Ở một số nước (như Nhật Bản và Hàn Quốc), người sử dụng lao động có thể yêu cầu người lao động bồi thường thiệt hại cho họ khi cung cấp thông tin tuyển dụng sai lệch.

Người sử dụng lao động cũng có trách nhiệm cung cấp thông tin trung thực cho người lao động về công việc, địa điểm làm việc, điều kiện làm việc, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn vệ sinh lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, quy định về bảo vệ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh và các vấn đề liên quan trực tiếp đến việc giao kết hợp đồng lao động mà người lao động yêu cầu... Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, các thông tin được cung cấp ở giai đoạn này chỉ là những thông tin cơ bản nhất về điều kiện, khả năng của mỗi bên. Trên thực tế, mức độ cung cấp thông tin (đặc biệt là về phía người sử dụng lao động như về bí mật công nghệ kinh doanh...) còn phụ thuộc vào quy chế của doanh nghiệp cũng như thoả thuận giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động trong thoả ước lao động tập thể.

Như vậy, ở giai đoạn này, các bên mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra lòi đề nghị, thể hiện ý chí mong muốn giao kết hợp đồng và cung cấp cho nhau những thông tin cần thiết cho việc giao kết hợp đồng. Do đó, ở giai đoạn này các bên chưa có sự ràng buộc về mặt pháp lí và các bên hoàn toàn vẫn có quyền thay đổi, rút lại hoặc huỷ bỏ lời đề nghị của mình.

- Đàm phán, thương lượng nội dung hợp đồng lao động

Đàm phán thương lượng hợp đồng là giai đoạn thứ hai của quá trình giao kết hợp đồng lao động. Đây có thể được xem là giai đoạn quan trọng của quá trình giao kết họp đồng bởi họp đồng lao động có được giao kết hay không, quyền lợi của các bên ữong quan hệ lao động cao hay thấp sẽ phụ thuộc rất nhiều vào giai đoạn này. Ở giai đoạn này, các bên sẽ đưa ra các vấn đề (các điều khoản của hợp đồng) để hai bên cùng nhau thương lượng, thoả thuận. Việc thương lượng, thoả thuận của các bên trong giai đoạn này sẽ được tuân theo các nguyên tắc của việc giao kết họp đồng lao động. Điều đó có nghĩa, các bên được quyền tự do và bình đẳng khi đưa ra các vấn đề; được tự do và bình đẳng trong việc đàm phán, thương lượng với nhau về các điềụ khoản...

Trong một số trường hợp trước khi giao kết họp đồng lao động, các bên còn có thể thoả thuận vấn đề thử việc nếu thấy cần thiết.

Chẳng hạn như người sử dụng lao động muốn kiểm tra xem người lao động có khả năng, trình độ thực hiện được công việc đó hay không hoặc người lao động muốn kiểm tra xem mình có thực hiện được công việc đó hay không thì hai bên thoả thuận về vấn đề thử việc. Thử việc không phải Ịà thủ tục bắt buộc trong giao kết họp đồng mà tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, trong thời gian thử việc, quyền lợi của người lao động thường thấp hơn so với khi người lao động chính thức tham gia quan hệ lao động nên để bảo vệ người lao động cũng như hạn chế sự lạm dụng của người sử dụng lao động trong thử việc, pháp luật thường quy định những quyền và nghĩa vụ cơ bản nhất của các bên trong thời gian thử việc, đó là thời gian thử việc và tiền lương trong thời gian thử việc. Thông thường, thời gian thử việc được pháp luật xác định ở mức tối đa căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc, còn tiền lương được pháp luật quy định ở mức tối thiểu nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, tránh tình trạng người sử dụng lao động lạm dụng để xâm hại. Nhìn chung pháp luật các nước đều quy định hạn chế thời gian thử việc, cũng như những hạn chế việc kéo dài thêm thời gian thử việc. Ví dụ như ở Pháp, chỉ khi trong thoả ước lao động tập thể hoặc hợp đồng lao động có quy định rõ thì thời gian thử việc mới có thể được gia hạn, nếu như sau thời gian hợp đồng thử việc kể cả là người lao động đồng ý thì thời gian thử việc cũng không được phép kéo dài thêm. Thời gian thử việc kết thúc, nếu người lao động thử việc đạt kết quả thì người sử dụng lao động phải kí họp đồng làm việc chính thức với người lao động, trường hợp sau thời gian thử việc người sử dụng lao động không giao kết hợp đồng lao động với người lao động mà không có lí do chính đáng thì ở Nhật Bản (án lệ), Hàn Quốc (án lệ), Anh (án lệ), Đức (các điều 134, 242 Luật Dân sự ) sẽ coi đó là sa thải không chính đáng.

Ở Việt Nam, thời gian thử việc do hai bên thoả thuận căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc. Cụ thể là không quá 180 ngày đối với công việc của người quản lí doanh nghiệp, không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ chuyên môn kĩ thuật từ cao đẳng trở lên, không quá 30 ngày đối với công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ chuyên môn trung cấp, công nhân kĩ thuật, nhân viên nghiệp vụ và không quá 6 ngày đối với các công việc khác (theo Điều 25 Bộ luật lao động năm 2019). Để tránh tình trạng người sử dụng lao động lạm dụng thử việc người lao động nhiều lần, pháp luật thường quy định thử việc chỉ được thực hiện 1 lần đối với một công việc.

Quyền lợi của người lao động trong thời gian thử việc là do người lao động và người sử dụng lao động thoả thuận, song riêng về tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó. Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần phải báo trước và không phải bồi thường. Khi kết thúc thời gian thử việc, người sử dụng lao động có trách nhiệm thông báo kết quả thử việc cho nguời lao động. Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao kết đối với trường hợp thoả thuận thử việc trong hợp đồng lao động hoặc phải giao kết họp đồng lao động đối với trường họp giao kết hợp đồng thử việc. Trường hợp thử việc không đạt yêu cầu thì chấm dứt hợp đồng lao động đã giao kết hoặc hợp đồng thử việc.

- Giao kết hợp đồng lao động

Sau khi đàm phán, thương lượng đạt được kết quả, các bên đã thống nhất được với nhau những điều khoản trong hợp đồng lao động, bước tiếp theo là các bên sẽ tiến hành giao kết hợp đồng lao động. Đối với hợp đồng lao động giao kết bằng văn bản thì đây chính là giai đoạn các bên ghi các điều khoản đã thoả thuận vào trong bản hợp đồng và các bên cùng kí vào hợp đồng. Đối với hợp đông lao động bằng miệng thì đây chính là giai đoạn các bên thống nhất lại với nhau một lần nữa các điều khoản đã thoả thuận, về mặt pháp lí đây là giai đoạn hết sức quan trọng vì hành vi giao kết hợp đồng lao động được coi là căn cứ pháp lí làm phát sinh quan hệ lao động.

Hợp đồng lao động được giao kết trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên, trong một số trường hợp (như đối với công việc dưới 12 tháng, công việc theo mùa vụ) thì nhóm người từ 18 tuổi trở lên có thể uỷ quyền cho một người lao động trong nhóm để giao kết hợp đồng lao động. Trong trường hợp này, hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản có hiệu lực như giao kết với từng người lao động. Tuy nhiên, hợp đồng lao động do người được ủy quyền giao kết phải kèm theo danh sách ghi rõ họ tên, tuổi, giới tính, địa chỉ thường trú, nghề nghiệp và chữ kí của từng người lao động. Người lao động có thể giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động nhưng phải đảm bảo thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao kết.

Để bảo vệ người lao động, pháp luật còn quy định những hành vi người sử dụng lao động không được phép thực hiện khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động. Đó là giữ bản chính giấy tờ tuỳ thân, văn bằng chứng chỉ của người lao động; yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp đảm bảo bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện họp đồng hay buộc người lao động thực hiện hợp đồng lao động để trả nợ cho người sử dụng lao động (theo Điều 17 Bộ luật lao động năm 2019). Đây là những biện pháp mà trên thực tế người sử dụng lao động hay áp dụng nhằm ràng buộc người lao động, buộc họ phải thực hiện họp đồng. Tuy nhiên, những biện pháp này ảnh hưởng đến quyền tự do việc làm của người lao động và dễ dẫn đến hiện tượng lao động nô lệ trá hình nên việc pháp luật lao động quy định cấm thực hiện là hoàn toàn hợp lí.

5. Hình thức hợp đồng lao động

Theo quy định tại Điều 14 Bộ luật Lao đông 2019, hợp đồng lao động có thể được giao kết dưới 03 hình thức sau:

- Giao kết bằng văn bản;

- Giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu;

- Giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói đối với hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng.

Bộ luật Lao động 2019 đã bổ sung thêm hình thức hợp đồng lao động thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản. Việc bổ sung thêm hình thức hợp đồng lao động thông qua phương tiện điện tử tạo điều kiện thuận tiện hơn cho các bên khi thực hiện hợp đồng lao động nhất là trong thời đại công nghệ 4.0 như hiện nay.