-
Thông tin
-
Quiz
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:


















Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
I.
KHÁI NIỆM QUY LUẬT:
Quy luật là mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, bền
vững, tất yếu giữa các đối tượng và nhất định tác động khi có
các điều kiện phù hợp”. Phân loại quy luật:
Nếu căn cứ vào lĩnh vực tác động thì quy luật chia thành:
Quy luật tự nhiên: chỉ tác động trong lĩnh vực tự nhiên
ví dụ: quy luật đấu tranh sinh tồn.
Quy luật xã hội: chỉ tác động trong lĩnh vực xã hội
ví dụ: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ của lực lượng sản xuất.
Quy luật tư duy: chỉ tác động trong lĩnh vực ý thức, tư duy
ví dụ: quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn...
Nếu căn cứ vào mức độ của tính phổ biến thì quy luật được chia thành:
Quy luật riêng: chỉ tác động ở một lĩnh vực nhất định
của các sự vật, hiện tượng cùng loại (ví dụ: quy luật
biến đổi gen, quy luật cung - cầu).
Quy luật chung: tác động ở một số lĩnh vực của hiện
thực (ví dụ:quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng).
Quy luật phổ biến: tác động trong toàn bộ thế giới
khách quan từ tự nhiên, xã hội đến tư duy.
Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến,
bao gồm ba quy luật cơ bản là quy luật từ những sự thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định. II.
QUY LUẬT CHUYỂN HÓA LƯỢNG CHẤT 1. Các khái niệm
1.1 Khái niệm về chất
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy luật
khách quan vốn có của sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu
cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác.
VD: Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt
độ nóng chảy là 1083 độ C, nhiệt độ sôi là 2880 độ C… những
thuộc tính này nói lên những chất riêng của đồng, để phân biệt
nó với các kim loại khác. Đặc điểm:
- Chất của sự vật là các thuộc tính khách quan vốn có của
sự vật nhưng không đồng nhất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự
vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ
bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự
vật, hiện tượng. Khi các thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật thay đổi.
- Chất của sự vật, hiện tượng không chỉ được xác định bởi
chất của các yếu tố cấu thành mà còn bởi cấu trúc và phương
thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối liên hệ cụ thể, do
đó việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và
thuộc tính chỉ có ý nghĩa tương đối.
- Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất mà còn có
nhiều chất, tuỳ thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với
những cái khác. Chất không chỉ tồn tại thuần tuý tách rời sự vật,
biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.
1.2. Khái niệm lượng
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định
khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số lượng các
yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của
các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
VD: Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác như
trọng lượng cơ thể hay chiều cao của một con người.
- Lượng biểu hiện kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay
nhỏ, trình độ cao haythấp, số lượng nhiều hay ít…
VD: Số lượng người trong một lớp học, vận tốc của ánh sáng.
- Lượng cũng mang tính khách quan như chất, là cái vốn có của sự vật.
- Lượng thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ
thể với con số chính xác nhưng cũng có lượng biểu thị dưới
dạng khái quát, phải dùng tới khả năng trừu tượng hoá để nhận thức.
VD: Trình độ nhận thức, phẩm chất đạo đức của một con người.
- Một sự vật có thể có nhiều loại lượng khác nhau. Có lượng
biểu thị yếu tố bên ngoài (VD: chiều cao, chiều dài của một vật,
…), có lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong (VD: số
lượng nguyên tử của một nguyên tố hoá học, …).
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa mang tính
tương đối: có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất
nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng (VD: Số lượng sinh
viên học giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó).
2. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
Mỗi sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa hai cặp đối lập
chất và lượng. Hai mặt đối lập không tách rời nhau mà tác động
qua lại biện chứng làm cho sự vận động, biến đổi theo cách
thức từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất của sự vật và ngược lại.
2.1. Lượng đổi dẫn đến chất đổi
Khi sự vật đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
- Độ là giới hạn mà trong đó lượng biến đổi nhưng chưa gây
nên sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật vẫn là nó, mọi sự vật
hiện tượng đều tồn tại trong một độ thích hợp khi lượng biến đổi
vượt qua giới hạn độ thì sự vật không còn là nó.
Trong phạm vi một độ nhất định, hai mặt chất và lượng tác
động qua lại lẫn nhau làm cho sự vật vận động. Mọi sự thay đổi
về lượng đều có ảnh hưởng đến trạng thái chất của sự vật,
nhưng không phải những thay đổi về lượng nào cũng dẫn đến sự
thay đổi về chất. Chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về lượng
đạt tới mức phá vỡ độ cũ thì chất của sự vật mới thay đổi, sự
vật chuyển thanh sự vật khác.
VD: Độ tồn tại của nước nguyên chất ở trạng thái lỏng từ 0 độ đến 100 độ C.
- Điểm nút: Là điểm mà tại đó lượng biến đổi đã gây nên
sự thay đổi căn bản, tập hợp những điểm nút gọi là đường nút.
Sự thay đổi về lượng của sự vật có thể làm chất thay đổi
ngay lập tức nhưng cũng có thể làm thay đổi dần dần chất cũ.
Lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định có xu hướng tích luỹ
đạt tới điểm nút, nếu có điều kiện sẽ diễn ra bước nhảy làm
thay đổi chất của sự vật.
VD: 100 độ C là điểm nút để nước chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái khí.
- Bước nhảy: Sự thay đổi căn bản về chất, cái cũ mất đi cái
mới ra đời phải thông qua bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi
căn bản từ chất sự vật này sang chất của sự vật khác. Bước
nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng và mở đầu cho
một giai đoạn phát triển mới. Đó là gián đoạn trong quá trình
vận động liên tục của sự vật, đồng thời là một tiền đề cho một
quá trình tích luỹ liên tục về lượng tiếp theo.
VD: Tốt nghiệp được coi là bước nhảy trong quá trình học
tập, làm việc của sinh viên.
2.2. Chất mới ra đời, nó tác động trở lại lượng mới,
làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ nhịp điệu của sự
vận động phát triển của sự vật.
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện
chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm
nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy. Chất
mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá
trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của
các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội, tư duy.
Các hình thức của bước nhảy:
- Căn cứ vào nhịp điệu:
Bước nhảy đột biến là bước nhảy xảy ra trong thời
gian ngắn làm thay đổi bản chất của sự vật. Bước
nhảy này diễn ra bằng một sự bùng nổ mãnh liệt.
VD: Cách mạng tháng Mười Nga là một bước nhảy đột biến.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện bằng
việc loại bỏ dần những yếu tố, những bộ phận chất cũ
xảy ra trong một thời gian dài mới loại bỏ hoan toàn
chất cũ thành chất mới.
VD: Quá trình tiến hóa của loài người. - Căn cứ vào quy mô:
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của
toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật.
VD: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa theo nghĩa rộng.
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của
những mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
VD: Những kỳ thi học phần.
2.3. Nội dung quy luật
Mọi sự vật hiện tượng đều vận động, phát triển bằng cách
thay đổi dần về lượng, lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt
quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì diễn ra bước nhảy, tạo
ra sự thay đổi về chất của sự vật, Kết quả là sự vật cũ, chất cũ
mất đi và sự vật mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động trở
lại lượng mới, lượng lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó,
vượt qua độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì lại diễn ra bước
nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy tác động qua lại giữa
hai mặt chất và lượng tạo ra con đường vận động, phát triển
không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng.
Câu hỏi: Điền các cụm từ thích hợp vào chỗ trống:
Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại :
Trong mối quan hệ với các loài động vật khác thì : khả
năng chế tạo, sử dụng công cụ, có tư duy là những
thuộc tính cơ bản của con người tạo nên - ________(chất).
Chiều cao cân nặng, trình độ,... là ______(lượng)
Sự tác động của lượng làm thay đổi chất : Khi con
người với nhận thức, trình độ tiếp thu thế giới bên
ngoài tăng lên đến________ (điểm nút) và từ đó xuất
hiện những_________ (bước nhảy) về khả năng chế
tạo, tư duy (như chế tạo công cụ sản xuất, trồng trọt,
chăn nuôi, xây dựng, …).
3. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất
3.1. Ý nghĩa trong nhận thức
- Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà chung ta hiểu
rằng bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
- Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng và
Chất. Do đó khi nhận thức, chúng ta cần nhận thức về cả hai
mặt lượng và chất để có có cái nhìn phong phú hơn về những sự
vật, hiện tượng tồn tại xung quanh chúng ta.
-Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng
bằng cách xác định giới hạn độ, điểm nút, bước nhảy.
3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
- Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về
lượng (bao gồm độ và điểm nút);
- Cần tránh hai khuynh hướng sau:
Một là, nôn nóng tả khuynh: Đây là việc mà một cá nhân
không kiên trì và nỗ lực để có sự thay đổi về lượng nhưng lại
muốn có sự thay đổi về chất;
Hai là, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức
điểm nút nhưng không muốn thực hiện bước nhảy để có sự thay đổi về chất.
- Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách
kiểm soát lượng trong giới hạn độ.
- Bước nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực
hiện bước nhảy phải được thực hiện một cách cẩn thận.
Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn
điểm nút và thực hiện bước nhảy một cách phù hợp với từng
thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để tránh được những
hậu quả không đáng có như không đạt được sự thay đổi về chất,
dẫn đến việc phải thực hiện sự thay đổi về lượng lại từ đầu.
III. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH 1. Khái niệm
1.1. Mặt đối lập
Mặt đối lập là sự khái quát những thuộc tính có xu hướng
vận động trái ngược nhau, loại trừ, bài xích, chống đối lẫn nhau.
Chúng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhưng lại song
song tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó.
VD: Trong mỗi con người, các mặt đối lập là hoạt động ăn và
hoạt động bài tiết, trong sinh vật, các mặt đối lập là đồng hóa và dị hóa.
Giữa các mặt đối lập trên luôn luôn có sự liên hệ, quy định,
ràng buộc lẫn nhau gọi là sự thống nhất của các mặt đối lập.
Thống nhất ở đây không phải là chúng đứng bên cạnh nhau mà
chúng có sự liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt
đối lập kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Một sự vật không thể
tồn tại nếu thiếu đi một trong hai mặt đối lập chính tạo nên sự
vật đó. Điều đó có nghĩa là sự tồn tại của bất cứ sự vật, hiện
tượng nào cũng không thể thiếu được sự thống nhất của các
mặt đối lập tồn tại trong bản thân sự vật, hiện tượng.
1.2. Mâu thuẫn biện chứng
Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái mà các mặt đối lập liên
hệ, tác động qua lại lẫn nhau.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ
biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng
trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và nguồn
gốc phát triển của nhận thức.
Cần phân biệt mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn lô-gic
hình thức. Mâu thuẫn lô-gic hình thức chỉ tồn tại trong tư duy,
xuất hiện do sai lầm trong tư duy.
1.3. Sự “thống nhất” của các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau,
tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của
mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Ví dụ: Trong mỗi con người, hoạt động ăn và hoạt động bài
tiết rõ ràng là các mặt đối lập. Nhưng chúng phải nương tựa
nhau, không tách rời nhau. Nếu có hoạt động ăn mà không có
hoạt động bài tiết thì con người không thể sống được. Như vậy,
hoạt động ăn và hoạt động bài tiết thống nhất với nhau ở khía cạnh này.
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng
bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố
giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập. Do có
sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của
mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hóa cho nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác
động ngang nhau của chúng. Tuy nhiên, đó chỉ là trạng thái vận
động của mâu thuẫn khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
1.4. Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu
hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú,
đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ qua lại giữa các
mặt đối lập và điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh.
Ví dụ: Trong một lớp học, hoạt động đoàn kết và hoạt động
cạnh tranh là các mặt đối lập. Có những lúc hoạt động đoàn kết
nổi trội hơn, nhưng có những lúc hoạt động cạnh tranh lại nổi
trội hơn. Như thế, hoạt động đoàn kết và hoạt động cạnh tranh
đang “đấu tranh” với nhau.
2. Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
Nội dung quy luật này phát biểu rằng:
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những
khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản
thân mình; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo
thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự
mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
2.1. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
– Sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập là hai
xu hương tác động khác nhau của các mặt đối lập.
Hai xu hướng này tạo thành một loại mâu thuẫn đặc biệt.
Như vậy, mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả “sự thống
nhất” lẫn “sự đấu tranh” của các mặt đối lập.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách
rời nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật.
Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, ổn định tạm thời của
sự vật. Còn sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động, phát triển.
– Đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu
sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển.
Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn
bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau
đó ngày càng lớn lên, rộng ra và đi đến trở thành đối lập. Khi hai
mặt đối lập xung đột gay gắt và đã hội đủ điều kiện, chúng sẽ
chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ sự giải
quyết này mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống
nhất mới; sự vật cũ mất đi, thay thế bằng sự vật mới.
Ví dụ: Trong hoàn cảnh sống của bạn A đang tồn tại một
mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa việc có tiền ít và muốn đi du
lịch nhiều. Khi mâu thuẫn này phát triển đến mức bạn A không
đi du lịch nhiều thì không thể thấy hạnh phúc, nên bạn A đã
quyết tâm học tiếng Anh để đi kiếm tiền nhiều hơn. Kiếm được
tiền nhiều nghĩa là mâu thuẫn đã được giải quyết. Cuộc sống cũ
ít hạnh phúc của A được thay bằng cuộc sống mới nhiều hạnh phúc hơn.
– Sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Ta thấy rõ, không có thống nhất của các mặt đối lập thì sẽ
không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng.
Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất
giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của
sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Các nhân viên đều phấn đấu làm giám đốc. Họ cùng cố
gắng, cạnh tranh nhau, do đó đều trở nên giói hơn. Như thế,
mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
2.2. Phân loại mâu thuẫn:
Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính phong phú, đa
dạng đó được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của
các mặt đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại của chúng, bởi
trình độ tổ chức của hệ thống mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
- Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, ta có thể
phân loại các mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các
mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật.
VD: Mâu thuẫn giữa hoạt động ăn và hoạt động bài
tiết là mâu thuẫn bên trong mỗi con người.
Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là
mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác.
VD: Mâu thuẫn giữa các nhân viên trong kinh doanh
- Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của
toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản
và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của
sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn
của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản tồn tại trong suốt quá
trình tồn tại của sự vật. Mâu thuẫn này được giải quyết
thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng
cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không quy
định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay
được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại, phát
triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, ta có mâu thuẫn
chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở
một giải đoạn phát triển nhất định của sự vật, nó chi
phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải
quyết được mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là
điều kiện để sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn
tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật,
nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu
thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu
góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biểu
hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản, hay là kết quả vận động
tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định.
Việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết
từng bước mâu thuẫn cơ bản.
- Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, ta chia mâu
thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai
cấp, những tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau.
Ví dụ: Mâu thuẫn giữa công nhân với giới chủ, giữa
nông dân với địa chủ, giữa thuộc địa với chính quốc.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những
lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau,
chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời.
Ví dụ: Mâu thuẫn giữa thành thị và nông thông, giữa
lao động trí óc với lao động chân tay.
Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có
ý nghĩa trong việc xác định đúng phương pháp giải quyết mâu
thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng mâu thuẫn
đối kháng. Giải quyết mâu thuẫn không đối kháng thì phải bằng
phương pháp đàm phán, hiệp thương… 3. Ý nghĩa
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực cuả sự vận động, phát
triển và có tính khách quan phổ biến nên cần phải phát hiện ra
mâu thuẫn của sự việc bằng cách phân tích để tìm ra những
mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau và mối liên hệ, tác
động lẫn nhau giữa chúng, nắm được bản chất, nguồn gốc sự
vận động và phát triển.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng phong phú, vì vậy khi tìm
hiểu và giải quyết mâu thuẫn cần phải biết phân tích cụ thể
từng loại mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng vai
trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng điều kiện hoàn cảnh
nhất định, những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương
pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải tôn trọng mâu
thuẫn, giải quyết mâu thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn
và tìm cách giải quyết mâu thuẫn, mâu thuẫn chỉ được giải
quyết điều kiện đã chin muồi.Phải chống thái độ chủ quan, nóng
vội, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm các
điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Phải giải quyết
mâu thuẫn một cách linh hoạt, phù hợp để làm cho sự vật, hiện
tượng phát triển không ngừng.
Câu hỏi: Điền từ thích hợp vào chỗ trống:
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập :
Ngay trong cơ thể của chúng ta cũng có hoạt động_______ đối
lập là ăn và hoạt động bài tiết. Nếu thiếu một trong hai hoạt
động này thì con người chúng ta không thể sống được. Rõ ràng
chúng vừa đối lập nhau nhưng lại vừa nương tựa nhau không
thể tách rời (ta có thể nói chúng có tính_________ (thống nhất) ở khía cạnh này).
IV. Quy luật phủ định của phủ định: IV.1
Vị trí của quy luật: là một trong ba quy luật của phép
biện chứng duy vật, quy luật phủ định của phủ định
chỉ ra khuynh hướng vấn động của mọi sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. IV.2
Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng:
Phủ định: là sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng
sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này
bằng hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật trong
quá trình vận động và phát triển.
Phủ định biện chứng: phạm trù triết học dùng để chỉ
sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt
khâu trong quá trình ra đời sự vật, hiện tượng mới tiến
bộ hơn sự vật, hiện tượng cũ. Là sự phủ định tạo điều
kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. IV.3
Tính chất của phủ định biện chứng:
Tính khách quan: nguyên nhân của phủ định nằm
ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng chứ không
phải ở bên ngoài sự vật, hiện tượng hay một lực lượng
siêu nhiên nào đó. Nguyên nhân đó chính là những
mâu thuẫn tồn tại bên trong sự vật, hiện tượng. Việc
giải quyết những mâu thuẫn này làm cho sự vật, hiện
tượng không ngừng vận động, phát triển. Như vậy,
phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong
quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng;
không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người hay
một lực lượng thần bí.
Tính kế thừa: cái mới ra đời trên nền tảng cái cũ, là sự
phát truển liên tục của cái cũ chứ không phải là sự
thủ tiêu, phá hủy hoàn toàn cái cũ. Cái mới ra đời trên
cơ sở khẳng định những mặt tốt, những yếu tố tích
cực, phù hợp của cái cũ; đồng thời loại bỏ những cái
tiêu cực, lạc hậu, những mặt không còn phù hợp với
hiện thực. Tuy nhiên, những nhân tố của sự vật, hiện
tượng cũ được giữ lại vẫn phải được cải tạo, được biến
đổi cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Phủ
định biện chứng là sự liên hệ giữa cái cũ và cái mới, là
sự thống nhất giữa khẳng định và phủ định, là mắt
khâu tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. IV.4
Phủ định của phủ định:
Trong quá trình phát triển, sự vật, hiện tượng trải qua
nhiều lần phủ định biện chứng, mỗi lần phủ định đó
đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển
tiếp theo của nó. Quá trình này diễn ra vô tận làm
cho sự vật phát triển từ thấp đến cao, diễn ra có tính
chất chu kì theo đường xoáy ốc. Quá trình phát triển
đó được gọi là “phủ định của phủ định”.
Phủ định của phủ định có tính chu kì. Mỗi chu kì đều
trải qua ít nhất hai lần phủ định biện chứng, trong đó,
sự vật, hiện tượng mới ra đời dường như lặp lại sự
vật, hiện tượng ban đầu nhưng ở trình độ phát triển
cao hơn về chất do kế thừa và biến đổi được những
nhân tố tích cực, hợp lý và loại bỏ được những nhân
tố tiêu cực, không hợp lý của sự vật, hiện tượng ban
đầu qua những lần phủ định; đồng thời, điểm kết
thúc của chu kỳ phát triển này của sự vật, hiện tượng
lại là điểm khởi đầu cho chu kỳ phát triển mới của nó.
Phủ định của phủ định diễn ra vô tận, các chu kỳ
phát triển của nó nối tiếp nhau tạo ra khuynh hướng
phát tiển có tính chất phổ biến: sự phát triển không
diễn ra theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc.
Đường xoáy ốc là khái niệm dùng để chỉ sự vận động
của những nội dung mang tính chất kế thừa có trong
sự vật, hiện tượng mới nên không thể đi theo đường
thẳng mà diễn ra theo đường tròn không nằm trên
một mặt phẳng tựa đường xoáy ốc. Khuynh hướng
phát triển theo đường xoáy ốc đã khái quát được tính
chất biện chứng của sự phát triển bao gồm tính kế
thừa, tính lặp lại và tính tiến lên vô tận; đồng thời thể
hiện tính quanh co, phức tạp, đa dạng của quá trình phát triển.
Ví d ụ 1: Để chứng minh quy luật phủ định của phủ
định một cách dễ hiểu, Ăng-ghen viết: “Hãy lấy ví dụ
một hạt thóc. Có hàng nghìn triệu hạt thóc giống
nhau được xay ra, nấu chín và đem làmrượu, rồi tiêu
dùng đi. Nhưng nếu một hạt thóc như thế gặp những
điều kiện bình thường đối với nó, nếu nó rơi vào một
miếng đất thích hợp, thì nhờ ảnh hưởng của sức nóng
và độ ẩm, trong mình nó sẽ xảy ra một sự biến hóa
riêng, nó nẩy mầm: hạt thóc biến đi, không còn là
hạtthóc nữa, nó bị phủ định, bị thay thế bởi một cây
do nó đẻ ra, đấy là sự phủ định hạt thóc. Nhưng cuộc
sống bình thường của cây này như thế nào? Nó lớn
lên, ra hoa, thụ phấn và cuối cùng sinh ra những hạt
thóc mới, và khi hạt thóc đó chín thì thân cây chết đi,
bản thân nó bị phủ định. Kết quả của sự phủ định này
là chúng ta lại có hạt thóc ban đầu, nhưng không
phải chỉ là một hạt thóc mà nhiều gấp mười, hai
mươi, ba mươi lần”. Ví dụ trên cho thấy qua hai lần
phủ định, sự vật dường như lập lại cái cũ nhưng trên
cơ sở mới cao hơn. - Lần thứ nhất: cây lúa phủ định
hạt thóc - Lần thứ hai: những hạt thóc mới lại phủ
định cây lúa (phủ định của phủđịnh).- Như vậy là ở
đây thể hiện tính chu kỳ của sự phát triển. Từ một
điểm xuất phát (hạt thóc banđầu), trải qua một số
lần phủ định (hai lần phủ định - cây lúa phủ định hạt
thóc và những hạt thóc lại phủ định cây lúa), sự vật
dường như lặp lại điểm xuất phát (hạt thóc - hạt
thóc), nhưng trên cơ sở mới cao hơn (số lượng hạt
thóc nhiều hơn. Số lượng đã thay đổi, chất lượng
cũng thay đổi nhưng khó nhận ra ngay). Sự phát triển
dường như lặp lại như cũ nhưng trên cơ sở mới cao
hơn là đặc điểm quan trọng nhất của quy luật phủ định của phủ định.
Ví dụ 2: Trong giai đoạn bạn học tiểu học chẳng hạn:
quá trình học của bạn là quá trình tích lũy dần về
lượng. Khi bạn học lớp 5, sự tích lũy này đã đạt được
đủ lượng cần thiết, chỉ cần bạn thực hiện một bước
nhảy (thi tốt nghiệp) thành công nữa là bạn trở thành
học sinh THCS, đây là sự thay đổi về chất. Và khi bạn
đã là một học sinh cấp 2, có sự khác biệt lớn đối với
học sinh cấp 1, thì chính bạn đã phủ định lại cấp 1.
Mà trước đó, khi bạn bước vào học cấp 1 (tiểu học thì
bạn đã phủ định cấp mẫu giáo...). Vậy xét trong
phạm vi từ mẫu giáo đến cấp 2 thì: cấp một phủ định
mẫu giáo, cấp 2 phủ định cấp 1, do đó cấp 2 là sự
phủ định của phủ định. IV.5
Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận
động của sự vật, hiện tượng; sự thống nhất giữa tính
tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển; sau khi đã
trải qua các mắt xích chuyển hóa, có thể xác định
được kết quả cuối cùng của sự phát triển.
Khi nhận thức sự vật, hiện tượng phải nắm được xu
thế phát triển tất yếu của nó, đồng thời phải thấy
được quá trình phát triển đó không diễn ra theo
đường thẳng mà là một quá trình quanh co, phức tạp
gồm nhiều giai đoạn, quá trình khác nhau.
Theo quy luật này, trong thế giới khách quan, cái mới
tất yếu ra đời thay thế cái cũ. Vì vậy, cần có thái độ
lạc quan trước cái mới và tạo điều kiện cho cái mới ra đời.
Mặt khác đối với cái cũ, cần kế thừa có phê phán, có
chọn lọc, kế thừa những nhân tố tích cực, hợp quy
luật và loại bỏ những nhân tố trái quy luật để thúc
đẩy sự vật, hiện tượng phát triển theo chiều hướng tiến bộ.
III. BÀI HỌC THỰC TIỄN
“Triết học không phải là hiểu cuộc đời
Triết học là suy nghĩ và làm rõ mọi thứ.”
Thật vậy, Triết học không chỉ đem lại cho chúng ta hiểu biết
thêm về bản chất sâu nhất của thế giới quan xung quanh mình
mà còn giúp chúng ta có thêm những nhận thức sâu sắc, đúng
đắn hơn khi đưa ra mọi quyết định của chính mình.