





Preview text:
    lOMoAR cPSD| 15962736                                        
Các thành tựu của hy lạp cổ đại         
Cultural Studies (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố  Hồ Chí Minh)                                                                                                        lOMoAR cPSD| 15962736          
II. Các thành tựu văn minh       
Chữ viết và văn học    Chữ viết :   
+ Chữ viết của cư dân Cret – Myxen : Cư dân Cret – Myen đã sáng tạo ra chữ 
viết, gồm có hai loại. Loại 1 : có niên đại khoảng đầu thiên niên kỷ II TCN, là loại 
chữ tượng hình thuần túy ; Loại 2 : có dạng thức đơn giản hơn, được cấu tạo bởi 
một số đường nét khá đều đặn, thống nhất về kiểu thức, nó lại chia ra làm hai 
loại, trong đó loại A – cổ xưa hơn (1700 – 1400 TCN), chưa dịch được, B – muộn 
hơn (1400 – 1200 TCN), đã dịch được[1]. Tuy vậy đó là hai thứ chữ không được 
tiếp tục phát triển.       
+ Chữ cái Hi Lạp : Qua quan hệ buôn bán (thế kỷ IX – VIII TCN), họ kế thừa và 
phát triển từ chữ viết của người Phênixi (Phoenician), một tộc người chuyên về 
buôn bán đường biển trên Địa Trung Hải. Bảng chữ cái của người Hi Lạp ban 
đầu có 40 chữ cái, rồi có 24 chữ cái (18 phụ âm, và 6 nguyên âm). Ưu điểm : Tính 
khái quát hóa cao, với cách ghép linh hoạt, có thể thể hiện mọi kết quả của tư 
duy. Hệ thống chữ cái Slavơ và Latinh bắt nguồn từ đó, được phần lớn các dân 
tộc trên thế giới sử dụng        Văn học :   
Thần thoại Hi Lạp :   
+ Thuật ngữ thần thoại – Mitologia (tiếng Nga), Mythology (tiếng Anh) , 
Mythologie (tiếng Pháp) xuất phát từ chữ Hi Lạp Mythologos (Mythos : truyền 
thuyết ; logos : lời nói, truyện kể, học thuyết).       
+ Thần thoại Hi Lạp là thể loại văn học ra đời sớm, hình thành chủ yếu trong 
thời kỳ tan rã của xã hội thị tộc, bộ lạc (thế kỷ XI - IX) và phát triển thành một 
hệ thống hoàn chỉnh vào thế kỷ VIII TCN – VII TCN.       
Thần thoại ra đời trong điều kiện trình độ phát triển của xã hội còn thấp và được 
thể hiện dưới hình thức truyền thuyết, những câu chuyện hoang đường về giới tự                  lOMoAR cPSD| 15962736          
nhiên, xã hội và con người, song thể phản ánh quá trình nhận thức của con người 
về thế giới xung quanh, gắn với thực tiễn.       
Thần thoại Hi Lạp, cùng với anh hùng ca, thể hiện thời kỳ lịch sử quan trọng của 
Hi Lạp : chuyển tiếp từ xã hội nguyên thủy sang xã hội có giai cấp và nhà nước. 
Giữa thần thoại và anh hùng ca vừa đan xen, vừa nối tiếp, trong đó thần thoại là 
khúc dạo đầu, thể hiện tiến trình lịch sử đầu tiên ấy.       
+ Thế giới các thần : đông đảo, với nhiều thế hệ, nhiều mối quan hệ phức tạp. 
Dưới đây chỉ là các vị thần linh tiêu biểu cho hệ thống thần linh đông đảo ấy       
Ban đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn mang Kaốt (Chaos), từ đó sinh ra thần đất 
mẹ Gaia. Thần Gaia sinh thần bầu trời Uranos. Rồi Gaia và Uranos kết hôn, sinh 
ra 12 thần khổng lồ Tităng (Titan), gồm 6 nam thần và 6 nữ thần. Đây là thế hệ « 
các thần già ». Trong các thần đó, thần Cronos đã lật đổ cha mình – Uranos để 
chiếm ngôi vi chúa tể. Các thần Tităng kết hôn với nhau theo cặp, sinh ra nhiều  con.       
Các thần con của Tităng gọi là thế hệ « các thần trẻ ». Một trong số đó, thần Dớt 
(Zeus), con trai của Crônốt (Cronos), đã lãnh đạo các thần trẻ đánh bại « các 
thần già » và cai trị thế giới, ngự trên đỉnh Ôlympơ (Olympe, một ngọn núi ở Bắc 
Hi Lạp, phân biệt với thành phố Olimpia, nơi tổ chức thế vận hội Olimpic, nằm 
trên bán đảo Pêlôpône). Trong thế giới thần linh đông đúc ấy có 12 thần tiêu biểu 
do Dớt đứng đầu (Một số vị thần già tham gia phe Dớt cũng tiếp tục cai quản thế 
giới, như thần Mặt trời Hêliốt)       
Thần Dớt (Zeus) : thần tối cao, « cha của các thần » và của con người và thần  sấm sét       
Thần Đêmêtê : chị ruột Dớt, nữ thần nông nghiệp, tạo ra sự phì nhiêu       
Thần Hađét : anh ruột Dớt, thần cai quản thế giới âm phủ                lOMoAR cPSD| 15962736                
Thần Hestia : chị ruột Dớt, thần cai quản bếp lửa gia đình       
Thần Pôsêiđông : anh ruột Dớt, thần biển và các nguồn nước       
Thần Hêra : em gái và vợ Dớt, quản lý việc hôn nhân và bảo vệ các bà mẹ khi  sinh nở       
Thần Apôlô : con trai Dớt, thần ánh sáng và nghệ thuật       
Thần Áctêmít : con gái thần Dớt, nữ thần săn bắn       
Thần Aphrôđit : Nữ thần tình yêu và sắc đẹp       
Thần Ares : con trai Dớt, thần chiến tranh       
Thần Hêphaixtốt: con trai Dớt, thần lửa – thợ rèn       
Thần Atêna: con gái Dớt, thần trí tuệ, bảo trợ Aten và sự phát triển của khoa 
học, nghệ thuật, nghề thủ công.       
Thần Promete: thần đã sáng tạo ra loài người và mang ngọn lửa xuống trần gian. 
Vì thế, Prômêtê bị xiềng vào núi, hàng ngày có con đại bàng đến xé lồng ngực để 
ăn gan, khi ngày mới bắt đầu, lá gan lại như cũ và tiếp tục chịu cực hình đó. Về 
sau, thần được Heraclex, con trai thần Dớt với một người trần đến cứu thoát. 
Câu chuyện này là đề tài của vở kịch “Promete bị xiềng” của nhà bi kịch Etsin. 
Qua cơn đại hồng thủy, con trai của thần đã sống sót, sinh ra chàng Hêlen, thủy 
tổ của người Hi Lạp (Hellas)                            lOMoAR cPSD| 15962736          
Thần thoại Hi Lạp có nét đặc trưng : hình ảnh, cuộc sống, những đặc điểm vê 
tâm lý, tính cách gần gũi với con người. Đó là sự « thần thánh hóa » con người, 
hội tụ những nét đẹp của con người (dũng cảm, hảo hiệp, vì nghĩa lớn, yêu chân 
lý và cái đẹp) cũng như những khiếm khuyết của con người (sự độc ác, tính tị  hiềm, ghen tuông,…).       
Nhà thơ Hê-đi-ốt, sống khoảng cuối thế kỷ VIII, đầu thế kỷ VII TCN đã viết « 
Gia phả các thần », phân rõ ba triều đại thần linh, sắp xếp nên một hệ thống thần  linh hoàn chỉnh.        Thơ ca :   
Sử thi : Iliad và Odysse       
Iliát (Iliad) : 15.693 câu thơ, chia ra 24 khúc ca, kể về 49 ngày cuối cùng trong 
năm thứ 10 của cuộc chiến tranh thành Tơroa (Troy)[2], cũng gọi là thành Iliông 
(Ilion), một thành bang ven bờ Tiểu Á, giữa các thành bang Hi Lạp do 
Agamemnông (Agamemnon, vua của Myxen - Mycenae) thống lĩnh. Nội dung 
chính là mối bất hòa giữa Asin (Achillse), vị tướng giỏi nhất của quân Hi Lạp và 
Agamemnông vì nàng Brêdêit (Brideis). Cuối cùng Asin chết trong chiến trận, kết 
thúc với lễ hỏa táng của Hector, hoàng tử và là tướng chỉ huy của Tơroa.       
Ôđixê (Odyssey) : 12.110 câu thơ, gồm 24 khúc ca, kể về cuộc hành trình kéo dài 
10 năm của Uylixơ (Uylisses, tức Odysseus), người đã nghĩ ra mưu kế « Con ngựa 
thành Tơroa », sau chiến tranh Tơroa, trải qua sóng gió mới trở về quê hương 
Itác (Ithaca) bên người vợ chung thủy Pêlênốp và con trai. Hai vợ chồng nhận ra 
nhau qua chi tiết chiếc giường trong phòng ngủ có một chân vốn là một gốc cây 
được đẽo nên không di chuyển được.       
Hai bộ sử thi đồ sộ này vừa là những kiệt tác văn học, vừa phản ánh một thời kỳ 
lịch sử của người Hi Lạp, tức thời kỳ tan rã của xã hội nguyên thủy Hi Lạp – 
Thời đại Hôme (thế kỷ XI – IX TCN), tương truyền do thi sĩ Hôme, người thi sĩ bị 
mù chuyên đi kể chuyện tại các thành phố. Hai bộ sử thi ấy còn thể hiện sự gắn 
bó chặt chẽ giữa thần thoại và tính chất anh hùng ca trong thần thoại và sử thi Hi              lOMoAR cPSD| 15962736          
Lạp. Đây là niềm tự hào của nền văn minh Hi Lạp và là tác phẩm phổ biến nhất 
trong di sản văn học Hi Lạp.        Thơ trữ tình :       
Nhà thơ xác thực đầu tiên là Hêđiốt, khoảng nửa sau thế kỷ VIII TCN, đầu thế 
kỷ VII TCN, tác giả của « Nguồn gốc các vị thần » và « Lao động và ngày tháng 
». “Nguồn gốc các vị thần” là văn bản viết đầu tiên về thế giới thần thoại Hi Lạp, 
hệ thống hóa những câu chuyện kể dân gian và do đó đôi khi có những khác biệt 
so với truyền thuyết, sử thi (ví dụ: về nguồn gốc của nữ thần tình yêu Aphrôđit, 
theo Hôme là do thần Dớt sinh ra, nhưng theo ông là do bọt biển sinh ra)   
Các thi sĩ khác : Thế kỷ VII – VI TCN xuất hiện nhiều nhà thơ, tiêu biểu như 
Ackhilốc (Archiloque), Ankây (Alcaeus), Saphô (Sappho)…   
Nữ thi sĩ Sa phô (Sappho), được người Hi Lạp xưng tụng là nàng thơ thứ 10 của 
thơ ca Hi Lạp (theo quan niệm của người Hi Lạp, có 9 nàng tiên bảo trợ cho hoạt 
động thi ca). Bà để lại 9 tập thơ, thể hiện sâu sắc và tinh tế những sắc thái tình 
cảm sâu sắc của con người.       
Kịch thơ : Bi kịch và hài kịch       
Kịch thơ là một trong thể loại văn học rất phát triển ở Hi Lạp cổ đại, vừa là một 
loại hình nghệ thuật sân khấu, một đóng góp lớn vào kho tàng văn hóa nhân loại.       
Chính kịch ra đời bắt nguồn từ các hoạt động ca hát, kể chuyện trong lễ hội tôn 
vinh thần rượu nho Dionisos, nhất là khoảng thế kỷ VI TCN, được trình diễn lần 
đầu tiên năm 534 TCN. Thế kỷ VI – V TCN là thời kỳ hoàng kim của kịch cổ điển 
Hi Lạp. Các chủ nô tài trợ nhiều cho hoạt động sáng tác và trình diễn, chẳng hạn 
như tổ chức thi và trao giải hàng năm.       
* Bi kịch: Ba nhà sáng tác bi kịch lớn, Etslin, Xôphôcclơ và Ơripit                          lOMoAR cPSD| 15962736          
Etsin (525 TCN – 456 TCN) : đứng về phía các chủ nô Aten, tham gia chống quân 
Ba Tư. Ông tin vào vai trò quyết định của các thần linh, đề cao chính nghĩa, ca 
ngợi tinh thần yêu nước và bất khuất của con người, phản kháng chuyên chế. 
Hiện còn 7 vở kịch của ông (trong số 70 bi kịch và 20 hài kịch), tiêu biểu là  Prômêtê bị xiềng.       
Xôphôcclơ (496 TCN – 406 TCN) : có thế giới quan tôn giáo truyền thống. Ông 
cho rằng bi kịch sinh ra từ sự phản kháng số mệnh của con người. Ông đã sáng 
tác 123 vở kịch, nay chỉ còn lại 7 vở nguyên vẹn, chẳng hạn như Ơđip làm vua[3].       
Ơripit (khoảng 485/480 TCN – 406 TCN) : viết 90 vở kịch, nay còn giữ được 18 
vở kịch (17 bi kịch, 1 hài kịch). Quan điểm của ông là không tin vào số mệnh, con 
người rơi vào bi kịch do không thắng nổi dục vọng của mình. Trong các tác phẩm 
của ông, cuộc đấu tranh giữa trí tuệ và tình cảm rất mạnh mẽ, nên được xem là 
người khởi đầu cho thể loại bi kịch tâm lí – xã hội.       
* Hài kịch : Arixtôphan (khoảng 445 – 386 TCN)       
Ông là nhà sáng tác hài kịch tiêu biểu nhất, với 44 ở kịch, nay còn 11 vở kịch, tiêu 
biểu như Hòa bình, Kỵ sĩ, Đàn chim…Đề tài của ông xoay quanh các vấn đề thời 
sự, chính trị, mang tính đả kích, châm biếm xã hội đương thời, như phản đối 
cuộc chiến tranh Pêlôpônne (431 – 404 TCN), các thói hư, tật xấu của con 
người… Về quan điểm chính trị, ông thuộc phái bảo thủ, thường chỉ trích các 
nhà cầm quyền dân chủ của Aten.                                                  
