Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đưa Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới | Tiểu luận Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Cách mạng tháng Tám năm 1945 – cuộc cách mạng mở ra bình minh cho toàn thể  dân tộc Việt Nam sau những đêm dài kháng chiến giành lại độc lập tự do. Những  vần thơ, những câu chuyện về mùa thu Cách mạng lộng lẫy, hào hùng ấy vẫn luôn  được ghi nhớ và truyền lại qua các thế hệ con dân Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Môn:
Thông tin:
27 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đưa Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới | Tiểu luận Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Cách mạng tháng Tám năm 1945 – cuộc cách mạng mở ra bình minh cho toàn thể  dân tộc Việt Nam sau những đêm dài kháng chiến giành lại độc lập tự do. Những  vần thơ, những câu chuyện về mùa thu Cách mạng lộng lẫy, hào hùng ấy vẫn luôn  được ghi nhớ và truyền lại qua các thế hệ con dân Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

32 16 lượt tải Tải xuống
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG
TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đưa Việt Nam
bước sang kỷ nguyên mới. Trách nhiệm của sinh viên đối với công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Họ và tên: Nguyễn Thị Diệu An
Mã sinh viên: 2051070001
Ngành: Truyền thông quốc tế
1
Hà nội, tháng 12 năm 2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................2
2. Ý nghĩa đề tài..............................................................................................3
NỘI DUNG........................................................................................................4
CHƯƠNG I: CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945............................................4
1. Bối cảnh lịch sử..........................................................................................4
2. Diễn biến cuộc Cách mạng tháng Tám.......................................................5
CHƯƠNG II: CÁCH MẠNG THÁNG TÁM LÀ BƯỚC NGOẶT ĐƯA VIỆT
NAM BƯỚC SANG KỶ NGUYÊN MỚI.......................................................14
1. Nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.........................14
1.1. Nguyên nhân khách quan....................................................................14
1.2. Nguyên nhân chủ quan.......................................................................14
2. Cách mạng tháng Tám 1945 đã đưa Việt Nam bước sang kỉ nguyên mới15
CHƯƠNG III: TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC...........................................................20
KẾT LUẬN......................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................24
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tổng khởi nghĩa! Lệnh truyền đêm trước
Sáng quân ra giải phóng Thái Nguyên
Hà Nội, Huế, Sài Gòn, cả nước
Đứng lên ta giành hết chính quyền!
Việt Nam, ta lại gọi tên mình
Hạnh phúc nào hơn được tái sinh
Mát dạ ông cha nghìn thuở trước
Cho đời, hai tiếng mới quang vinh!
Hôm nay sáng mồng hai tháng chín
Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình
Muôn triệu tim chờ... chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình
Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh!
( Trích “Theo chân Bác” – Tố Hữu )
Cách mạng tháng Tám năm 1945 – cuộc cách mạng mở ra bình minh cho toàn
thể dân tộc Việt Nam sau những đêm dài kháng chiến giành lại độc lập tự do.
Những vần thơ, những câu chuyện về mùa thu Cách mạng lộng lẫy, hào hùng
ấy vẫn luôn được ghi nhớ và truyền lại qua các thế hệ con dân Việt Nam. Cách
mạng tháng Tám thành công, đưa nước ta dân tộc ta bước vào thời độc
lập gắn với chủ nghĩa hội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nếu cách mạng tháng Tám không thành công thì dân tộc Việt Nam lẽ đã
không được hòa bình tự do như ngày nay. Thuộc tầng lớp thế hệ trẻ Việt
Nam, sinh viên cần phải nắm được những nhận thức đầy đủ, đúng đắn về hệ
3
thống lịch sử lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi Đảng ra đời năm
1930 cho đến khi Đảng cầm quyền năm 1945. Tương lai là chủ nhân đất nước,
thế hệ sinh viên cần phải tin vào sự lãnh đạo của Đảng, thấy được những ưu
điểm để phát huynhững khuyết điểm cần sửa đội để tiếp tục đưa Việt Nam
tiến tới hội chủ nghĩa, xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu nước mạnh.
Trong bài tiểu luận này, em xin phép chọn đề tài “Cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công đã đưa Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới. Trách nhiệm của
sinh viên đối với công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc hiện nay” với mục
tiêu để nghiên cứu tiếp thu về lịch sử, những châm ngôn, chính sách
Đảng đưa ra trong Cách mạng tháng Tám 1945. Từ đó rút ra những bài học và
trách nhiệm cần phải thực hiện của sinh viên đối với việc xây dựngbảo vệ
Tổ quốc trong thời đại phát triển ngày nay.
2. Ý nghĩa đề tài
Sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám không chỉ mang lại độc lập tự do cho
nhân dân ta cònbước ngoạt phát triển của cách mạng Việt Nam. Chứng
minh được tính đúng đắn của cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới ở Việt Nam,
khẳng định tưởng Hồ Chí Minh trong dự báo cách mạng thuộc địa khả
năng thắng lợi trước cách mạng chính quốc, bổ sung phát triển Học thuyết
Mác Lênin, làm sáng tỏ nhiều vấn đề luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vấn đề dân tộc và thuộc địa. Nghiên cứu về đề tài này giúp cho sinh viên hiểu
nắm được hơn những giá trị cuộc cách mạng mang lại cho việc xây
dựng phát triển Đảng, từ đó từng bước áp dụng vào chính cuộc sống của
mình để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
1. Bối cảnh lịch sử
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn
cuối. . Hồng quân Liên truy kích phát xít Đức trên chiến trường châu Âu,
giải phóng nhiều nước Đông Âu tiến về phía Berlin (Đức). Ngày
9/5/1945, phát xít Đức đầu hàngđiều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu.
Ngày 8/8/1945, Hồng quân Liên tiến công như bão vào quân đội Nhật,
đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc). Mỹ ném
hai quả bon nguyên tử xuống các thành phố Hirôsima (6/8/1945) Nagazaki
(9/8/1945). Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàngđiều kiện, Chiến tranh
thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của quân Đồng minh, sau khi
phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh quân đội Trung Quốc sẽ vào Đông
Dương để giải giáp quân đội Nhật. Thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh
hòng khôi phục địa vị thống trị của mình, trở lại xâm lược Việt Nam. Bên
cạnh đó, đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào
Đông Dương. Giặc ngoài thù trong, nước ta lúc đó vẫn tồn tại những thành
phần ngoan cố, phản động của chính quyền tay sai Nhật nhăm nhe lợi dụng
thời cơ chống phá cách mạng.
trong nước ta, trong vòng 15 năm trải qua nhiều cuộc diễn tập như:
Cao trào viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), Cao trào dân chủ (1936-1939)
Cao trào cứu nước trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945); đến năm
1945 các phong trào cách mạng ngày càng được dâng cao hơn nữa. Trước tình
thế khó khăn, thời cách mạng chỉ xuất hiện rất ngắn, từ khi Nhật tuyên bố
đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, yêu
cầu Việt Nam đặt ra giành được chính quyền, khai sinh đất nước để khi
5
quân Anh và quân Tưởng vào nước ta giải giáp quân Nhật thì chúng ta với
cách chủ nhà sẽ tiếp đón nhằm ngăn chặn những ý đồ xấu bên ngoài. Ngay sau
khi phát xít Nhật mở cuộc đảo chính hất cẳng Pháp ngày 9/3/1945, trong đêm
đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một
cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức
tuyên truyền, cổ động, tổ chức đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3/1945,
Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau hành động của chúng
ta”. Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ,
quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng trang thành
Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ
chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải
phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam. Chuẩn
bị tất cả mọi điều kiện để chớp lấy thời cơ tiến hành Tổng khởi nghĩa.
2. Diễn biến cuộc Cách mạng tháng Tám
Bắt đầu từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi và
mạnh mẽ. Đầu Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh về Tuyên Quang, chọn Tân Trào
làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước, chỉ thị gấp rút chuẩn bị đại hội quốc
dân, thành lập “khu giải phóng”. Ngày 4/6/1945, khu giải phóng chính thức
được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc Bắc Giang, Phú
Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Ủy ban lâm thời khu giải phóng được thành lập
thi hành các chính sách của Việt Minh. Khu giải phóng Việt Bắc trở thành căn
cứ địa chính của cách mạng cả nước. Nhiều chiến khu mới được xây dựng như
chiến khu Vần-Hiền Lương vùng giáp giới hai tỉnh Phú Thọ Yên Bái,
chiến khu Đông Triều (Quảng Yên), chiến khu Hoà-Ninh-Thanh (ở phía Tây
6
ba tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa), chiến khu Vĩnh Tuy Đầu Rái
(Quảng Ngãi)…
Trong các đô thị, nhất là những thành phố lớn, các đội danh dự Việt Minh
đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ gian, tạo điều kiện phát
triển các tchức cứu quốc trong các tầng lớp nhân dân thành thị xây dựng
lực lượng tự vệ cứu quốc. Ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, khẩu hiệu “phá
kho thóc, giải quyết nạn đói” đã nhận được sự đồng tình của nhân dân, thổi
bùng lên ngọn lửa chiến đấu Tại nhiều vùng và địa phương, quần chúng tự vũ.
trang, xung đột với binh lính chính quyền Nhật, biến thành những cuộc
khởi nghĩa từng phần, giành quyền làm chủ.
Tháng 8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào,
Tuyên Quang, do lãnh tụ Hồ Chí Minh Tổng thư Trường Chinh chủ trì.
trên sở phân tích đánh giá tình hình cách mạng trong nước đã sự phát
triển mạnh mẽ, sôi sục rộng khắp bối cảnh quốc tế đang những diễn
biến thuận lợi đã đi đến khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã
tới” quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay
phát xít Nhật tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Khẩu
hiệu đấu tranh lúc này là: Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính
quyền nhân dân!; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó
là: Tập trung - tập trung lực lượng vào những việc chính, thống nhất - thống
nhất về mọi phương diện quân s chính trị, hành động chỉ huy, kịp thời
- kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội. Phương hướng hành động trong tổng
khởi nghĩa: phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố
hay nông thôn; quân sự chính trị phải phối hợp; phải làm tan tinh thần
quân địch dụ chúng hàng trước khi đánh. Phải chộp lấy những căn cứ
7
chính (cả ở các đô thị) trước khi quân Đồng minh vào, thành lập ủy ban nhân
dân ở những nơi đã giành được quyền làm chủ.
Ngày 12/8/1945, Ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa
trong khu. Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập
Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc
ban bố “Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc. Ngày
16/8/1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào tán thành quyết định tổng khởi
nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập Ủy ban giải
phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào cả nước, được truyền đi khắp nơi
trước cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công. (Ảnh: hochiminh.vn)
Từ ngày 14-18/8/1945, tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng
do nắm vững tinh thần các nghị quyết, chỉ thị trước đó của Đảng, căn cứ vào
8
tình hình thực tiễn, đảng bộ nhiều địa phương đã kịp thời, chủ động, lãnh đạo
nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Bốn tỉnh giành chính quyền sớm nhất Hải
Dương, Bắc Giang, Tĩnh, Quảng Nam. Các đơn vị Giải phóng quân lần
lượt tiến công các đồn binh Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Yên Bái,… hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở tỉnh
lỵ. Ngày 16/8/1945, một đơn vị Giải phóng quân doNguyên Giáp chỉ huy
từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên.
Sáng ngày 16/8, tại số nhà 101 phố Gămbétta (nay Trần Hưng Đạo)
đồng chí Nguyễn Khang, triệu tập một cuộc họp, phổ biến nghị quyết về việc
thành lập Uỷ ban Quân sự cách mạng Nội (tức Uỷ ban Khởi nghĩa). Cuộc
họp nhất trí phải xúc tiến khởi nghĩa Nội. Các đồng chí tham gia cuộc
họp đều thấy cần phải nắm chắc hơn nữa thái độ của Nhật bọn nhìn;
trước mắt nên đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động chính trị để động viên sâu
rộng quần chúng đẩy mạnh việc chuẩn bị trang. Uỷ ban Quân sự cách
mạng Nội được thành lập gồm năm đồng chí: Nguyễn Khang- Uỷ viên
Thường vụ Xứ uỷ, Nguyễn Huy Khôi (tức Trần Quang Huy)- cán bộ Xứ uỷ,
Lê Trọng Nghĩa- cán bộ Xứ uỷ, Nguyễn Quyết- Bí thư Thành uỷ, Nguyễn Duy
Thân- Thành uỷ viên. Đêm ngày 16/8, các rạp hát Hiệp Thành, Quảng Lạc,
Tố Như, các rạp chiếu bóng Êđen, Majestic, các Đội tuyên truyền xung phong
Việt Minh đứng lên diễn thuyết. Cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên đường phố
Nội.
Chiều ngày 17/8, tại cuộc mít tinh do Tổng hội công chức tổ chức, các
đội viên tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong Việt Minh đứng lên diễn
thuyết. Sau đó, cuộc mít tinh chuyển thành cuộc tuần hành ủng hộ Việt Minh.
Ngay tối 17/8, Uỷ ban Quân sự cách mạng họp mở rộng tại Dịch Vọng (Từ
Liêm, Hà Nội) quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19/8.
9
Hội nghị vạch ra kế hoạch khởi nghĩa là: huy động 10 vạn quần chúng nội,
ngoại thành, Gia Lâm, các đội trang sẽ làm nòng cốt đưa quần chúng vào
những nơi trọng yếu như: Phủ Khâm sai, Toà Thị chính, Trại Bảo an, Sở Liêm
phóng. Uỷ ban Quân sự cách mạng cũng bàn chủ trương lập Nhật, đưa ra
khẩu hiệu: "Chống một hành động của đế quốc can thiệp vào công cuộc độc
lập của dân tộc Việt Nam"; đồng thời cho rải truyền đơn quanh trại lính Nhật
khuyên chúng không can thiệp vào công việc nội bộ nước ta.
Ngày 18/8, trong lúc cuộc khởi nghĩa vùng ngoại thành đang nổ ra thì
3.000 công nhân biểu tình trước phủ Khâm sai, hô vang khẩu hiệu ủng hộ Việt
Minh, đả đảo bù nhìn. Trong khi đó, tất cả tù chính trịHoả Lò đấu tranh đòi
trả tự do để tham gia ngay vào khởi nghĩa. Cũng trong ngày này, hàng nghìn
công nhân nhân dân Nội biểu tình đòi phát xít Nhật thả hai công nhân
Hãng Avia bị bắt, khi hai người này dùng ô tô Nhật chở vũ khí từ Gia Lâm vào
nội thành, buộc chúng phải nhượng bộ. Đêm 18/8, một Đội tuyên truyền xung
phong đột nhập vào Nhà in báo Tin mới, hướng dẫn công nhân in truyền đơn,
áp phích kêu gọi khởi nghĩa. Cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên các
đường phố Nội, từ Bưởi, qua Dịch Vọng, xuống Tương Mai, Mai Động...
Cả Hà Nội sôi động trước lúc vùng lên.
Sáng ngày 19/8, Thủ đô Nội tràn ngập cờ đỏ sao vàng. Quần chúng
cách mạng xuống đường tập hợp thành đội ngũ, Hàng vạn nông dân, dân
nghèo, với các khí thô từ Láng, Mọc kéo ra chiếm đại Hoàn Long,
tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng khu vực Ngã Sở, mở đầu cho
cuộc khởi nghĩa nội thành. Hàng vạn quần chúng nhân dân ngoại thành, từ
các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên, Hoài Đức, Đan Phượng (Hà
Đông), Gia Lâm (Bắc Ninh) mang theo cờ Việt Minh, gậy gộc, tấu, dao
phát bờ, câu liêm tiến vào nội thành với sức mạnh như thác đổ, rầm rộ kéo đến
quảng trường Nhà hát thành phố trong tiếng hát “Tiến quân ca” cờ đỏ sao
10
vàng để dự cuộc mít-tinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Ủy ban quân sự
cách mạng đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh. Cuộc mít-tinh chuyển
thành biểu tình trang. Quần chúng cách mạng chia thành nhiều đoàn đi
chiếm Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Trại Bảo an binh, Sở Cảnh sát các
công sở của chính quyền thân Nhật. Riêng ở trại lính bảo an, quân Nhật cho xe
tăng chặn đầu đoàn biểu tình, nhưng trước khí thế sôi sục của quần chúng, lại
được các đồng chí ta thuyết phục, nói rõ chính sách của Đảng, Việt Minh, hơn
một vạn quân Nhật Nội không dám chống cự. Chính quyền về tay nhân
dân. Ngay khi chiếm được Phủ Khâm sai, đồng chí uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ
Bắc Kỳ mặt tại đó gọi điện cho Thị trưởng, Tỉnh trưởng các tỉnh Hải
Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Nam, Nam Định báo tin cách mạng đã
thành công Nội, ra lệnh cho chúng phải nhanh chóng trao chính quyền
cho Việt Minh địa phương. Tối ngày 19/8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
Nội kết thúc thắng lợi. Khởi nghĩa thành công Nội như một tiếng
bom vang dội nhanh chóng lan truyền khắp nơi, động viên, cổ nhân dân cả
nước gấp rút nổi dậy giành chính quyền. Gần như toàn bộ các tỉnh miền Bắc
đến Thanh Hoá, Nghệ An đều tiếp theo Hà Nội tiến hành khởi nghĩa. Quân đội
chính quyền Trung Hoa dân quốc mới vào tỉnh lỵ thượng du, thì tất cả các
vùng trung du, châu thổ đã rợp bóng cờ cách mạng.
Sáng ngày 23/8, cả thành phố Huế rực rỡ cờ đỏ sao vàng 15 vạn nhân dân
Huế cùng nhân dân các phủ, huyện theo kế hoạch tiến vào thành phố, dòng
người tràn ngập các khu phố, chật ních trên các ngả đường. Dưới sự lãnh đạo
của Ủy ban Khởi nghĩa, quần chúng nhân dân tiến công chiếm nốt các sở
còn lại của chính quyền địch, rồi kéo về dự cuộc mít-tinh khổng lồ tại sân vận
động thành phố, chào mừng cách mạng thành công. Tại đây, Uỷ ban Việt
Minh và Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh Thừa Thiên tuyên bố xoá bỏ chính quyền
nhìn, lập chính quyền cách mạng. Uỷ ban Nhân dân cách mạng lâm thời Thừa
11
Thiên Huế ra đời. Khởi nghĩa Huế thắng lợi nhanh chóng không đổ-
máu. Huế khởi nghĩa thắng lợi đã dẫn đến sự tuyên bố thoái vị Vua phong kiến
cuối cùng Việt Nam vào ngày 30/8/1945, chấm dứt chế độ phong kiến hàng
nghìn nămnước ta, giáng một đòn nặng nề vào chính quyền nhìn còn lại
các tỉnh Nam Trung Bộ, động viên, cổ vũ, tạo thêm sức mạnh tinh thần
uy thế cho nhân dân các tỉnh Nam Trung Bộ và cả ở Nam Bộ vùng lên.
18 giờ ngày 24/8, Uỷ ban Khởi nghĩa của Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong)
phát lệnh khởi nghĩa. Chấp hành lệnh của Uỷ ban Khởi nghĩa, từ 20 giờ các
đội Thanh niên Tiền phong xung kích gồm hàng nghìn đội viên ưu tú, đa số là
đoàn viên Tổng công đoàn nòng cốt các đảng viên cộng sản, được
trang triển khai lực lượng đánh chiếm các sở trọng yếu trong thành phố
như: Kho bạc, Nhà máy đèn, Nhà máy nước, Sở bưu điện, Dinh Thống đốc
Nam Kỳ, Sở chữa cháy, Sở công an, các đầu cầu vào Sài Gòn, các bốt cảnh
sát, các vùng lân cận trại lính Nhật, khu Pháp kiều, khu vực trại lính Pháp...
Đến 22 giờ, ngày 24/8, tất cả bộ máy cai trị của chính quyền nhìn trong
thành phố đã về tay cách mạng, trừ Dinh Toàn quyền, cảng hải quân, Đông
Dương ngân hàng, sân bay Tân Sơn Nhất vì Nhật không chịu nhượng bộ. Nửa
đêm 24/8, hàng chục vạn quần chúng, nhân dân từ các vùng ngoại thành
Điểm, Hóc Môn, Bình Đông, Bình Xuyên, Chợ Đệm... Từ các tỉnh Gia Định,
Chợ Lớn, Tân An, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, với băng cờ, gậy gộc,
dao găm, giáo mác, súng... ạt tiến vào Thành phố Sài Gòn. Cả thành phố
vang lên những tiếng hát, tiếng khẩu hiệu: “Đả đảo Khâm sai Nguyễn Văn
Sâm", "Chính quyền về tay Việt Minh", "Việt Minh độc lập muôn năm",...
Sáng ngày 25/8, cuộc khởi nghĩa Sài Gòn thành công rực rỡ. Cuộc khởi
nghĩa tiếp tục nổ ra khắp các địa phương. Ngày 28/8, Tiên Đồng Nai
Thượng là hai tỉnh cuối cùng giành được chính quyền về tay nhân dân.
12
Ngày 25/8/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng
Ủy ban Dân tộc giải phóng về đến Nội. Sáng ngày 26/8/1945, Hồ Chí
Minh chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng, thống nhất những
chủ trương đối nội và đối ngoại trong tình hình mới; đề nghị mở rộng hơn nữa
thành phần của Chính phủ lâm thời, chuẩn bị ra Tuyên ngôn Độc lập, tổ
chức mít-tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ ra mắt nhân dân, cũng là ngày nước
Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập thiết lập chế độ dân chủ cộng
hoà. Ngày 27/8, Uỷ ban Giải phóng dân tộc tập hợp một cuộc họp các thành
viên trong Uỷ ban. Tại cuộc họp này theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Quốc dân Đại hội (Tân Trào) bầu ra
được cải tổ thành Chính phủ cách mạng lâm thời nhằm đoàn kết rộng rãi các
tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước những nhân sự tiến bộ. Một số
uỷ viên Việt Minh tự nguyện rút khỏi Chính phủ để nhường chỗ cho các thành
phần khác, cả những người đã từng tham gia trong chính quyền cũ. Hành
động đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: "Đó là một cử chỉ vô tư tốt đẹp
không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên
trên lợi ích cá nhân". Cũng trong ngày 27/8, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp các vị
bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày hôm
sau, danh sách Chính phủ gồm 15 thành viên do Người đứng đầu được công
bố trên các báo ở Hà Nội.
Ngày 30/8/1945, tại Ngọ Môn, thành phố Huế, vua Bảo Đại thoái vị giao
nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Trung ương Đảng Chính phủ lâm thời hoàn toàn ý thức được phải
khẩn trương làm tất cả mọi việc thể để xác lập vị thế người chủ đất nước
của nhân dân Việt Nam để tiếp đón những người mang danh “Đồng minh”
trước khi họ thể thực hiện những mưu đồ riêng của mình tại Việt Nam. T
ngày 28/8, theo sự phân công của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, tại số
13
nhà 48, phố Hàng Ngang, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung trí lực tình cảm
soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Nhằm huy động trí tuệ tập thể, ngày 30/8,
Người mời một số đồng chí đến trao đổi, góp ý kiến vào văn kiện lịch sử quan
trọng này. Người trào dâng niềm xúc động trong quá trình hoạt động cách
mạng Người "đã viết nhiều nhưng đến bây giờ mới viết được một bản Tuyên
ngôn như vậy". Sau khi suy ngẫm, trăn trở, ngày 31/8/1945, Người quyết định
bổ sung thêm một số điểm vào bản Tuyên ngôn, hoàn chỉnh bản khai sinh của
nước Việt Nam độc lập, dân chủ, tự do.
Ngày 2/9/1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại Quảng trường Ba
Đình, Hà Nội. Từ sáng sớm, cả Hà Nội bừng lên trong màu cờ đỏ sao vàng
đèn, hoa rực rỡ. Những biểu ngữ lớn bằng chữ Việt, Pháp, Nga, Anh, Trung
Quốc chăng khắp các đường phố: "Nước Việt Nam của người Việt Nam",
"Độc lập hay chết", “Ủng hộ Chính phủ lâm thời”, “Ủng hộ Chủ tịch Hồ
Chí Minh"...nhân dân thành phố các vùng lân cận cuồn cuộn đổ về vườn
hoa Ba Đình, nơi dựng lễ đài Độc lập, tràn ngập các phố xung quanh. Chính
phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đọc
Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân thế giới: Nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
Mùng 2 tháng 9 năm 1945 ngày độc lập, ngày hội lớn của dân tộc ta,
ngày Quốc khánh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày Nội trở
thành Thủ đô của cả nước, một ngày nghĩa cực kỳ trọng đại trong đời
sống chính trị, tinh thần của dân tộc".
14
CHƯƠNG II: CÁCH MẠNG THÁNG TÁM LÀ BƯỚC NGOẶT ĐƯA
VIỆT NAM BƯỚC SANG KỶ NGUYÊN MỚI
1. Nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945
1.1. Nguyên nhân khách quan
Cách mạng tháng Tám được tiến hành trong hoàn cảnh khách quan
cùng thuận lợi; quân phát xít Đức, Ý, Nhật bị đánh bại, phải đầu hàng quân
đồng minh trong đó kẻ thù trực tiếp của nước ta lúc bấy giờ Nhật Bản bị
thất bại nặng nề khiến cho quân đội Nhật Đông Dương mất hết tinh thần
chiến đấu, chính quyền thân Nhật rệu rã, tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân Việt
Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Không chỉ vậy nhờ cuộc đấu tranh của nhân dân Liên các lực
lượng dân chủ đã từng bước làm thất bại lực lượng phát xít, thúc đẩy dân tộc
thuộc địa đứng lên giải phóng, dẫn đến sự phát triển của phong trào giải phóng
Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Ðình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Ðộc lập. (Nguồn ảnh: sưu tầm)
15
dân tộc nổ ra nhiều nơi đã cổ cho tinh thần chiến đầu của nhân dân Việt
Nam.
1.2. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân khách quan là điều kiện đủ nhưng quan trọng hơn đó chính
là nguyên nhân chủ quan của mỗi quốc gia. Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công mau lẹ Việt Nam bởi nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo
của Đảng, sự vận dụng phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ
thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ sáng tạo. Đảng Cộng
sản những phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh
hoạt. Nhận thức rõ được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời
cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Không chỉ vậy, Cách mạng Tháng Tám thành công do tinh thần yêu
nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu
sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước. Qua 15 năm đấu tranh gian khổ,
nhân dân ta một lòng đi theo Đảng được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng
diễn tập, các cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 đã quyết
vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Quần chúng nhân dân cách mạng được
Đảng tổ chức lãnh đạo rèn luyện, bằng thực tiễn đấu tranh đó họ đã trở
thành lực lượng chính trị hùng hậu, lực lượng trang nhân dân làm nòng
cốt. Nhân dân ta đã đấu tranh cực kỳ gian khổ anh dũng dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đã biết bao đồng bào, chiến đã chiến đấu không hề tiếc máu
xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc.
16
2. Cách mạng tháng Tám 1945 đã đưa Việt Nam bước sang kỉ nguyên mới
Cách mạng tháng Tám thành công đã đưa Việt Nam bước sang kỉ nguyên
mới, kỉ nguyên của độc lập tự do hạnh phúc gắn liền với chủ nghĩa hội.
Suốt hơn 80 năm đất nước Việt Nam phải chịu đựng ách thống trị của thực dân
Pháp, nhân dân ta phải sống một cuộc sống lầm than cực khổ. Không chỉ vậy,
Pháp còn 2 lần “bán” nước ta cho Nhật khiến cho hơn 2 triệu đồng bào ta chết
đói, đất nước ta kiệt quệ về mọi mặt. Trong suốt khoảng thời gian ấy, nhân dân
ta còn không biết thế nào được tự do, được làm chủ chính cuộc sống của
mình. Vậy nên khi Cách mạng tháng Tám nổ ra đã nhanh chóng thành công
cũng nhờ ý chí quyết tâm, mong muốn giành lại độc lập dân tộc của nhân dân.
Sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã
trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình; đưa Việt Nam
bước sang thời đại của người Việt Nam, chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của
thực dân Pháp, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót
nghìn năm. Đánh giá về ý nghĩa lớn lao này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã
đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân
dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do,
hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta
[1]
Ngày mùng 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước Công
Nông đầu tiên Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến Việt
Nam. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một
nước độc lập, tự do và dân chủ. Giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực
lượng đông đảo nhất trong dân tộc. Nhờ Cách mạng tháng Tám, một phần
__________________________________________________________________________
[1]. Hồ Chí Minh Toàn tập,tập 7, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.26
[2]. Hồ Chí Minh Toàn tập,tập 7, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.25
17
ruộng đất của đế quốc Việt gian đã bị tịch thu, địa được tuyên bố giảm
25%, một số nợ lưu cữu được xoá bỏ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một
Đảng cầm quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:Chẳng những giai cấp
lao động nhân dân Việt Nam ta thể tự hào, giai cấp lao động
những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng thể tự hào rằng lần này lần đầu
tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địanửa thuộc địa, một
Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền
toàn quốc
[2]
; cho thấy ý nghĩa to lớn của cuộc Cách mạng tháng Tám không
Minh khắc họa:Lịch sử dân tộc ta đã nhiều thời kỳ rất vẻ vang. Nhưng
trước ngày Cách mạng Tháng Tám, dân tộc ta đã phải trải qua gần một thế kỷ
cùng tủi nhục. Trên địa đồ thế giới, tên nước ta đã bị xóa nhòa dưới bốn
chữ “Đông Dương thuộc Pháp”. Thực dân Pháp gọi đồng bào ta
Annamít bẩn. Thiên hạ gọi chúng ta vong quốc nô. Cụ Phan Bội Châu
đã phải thốt lên rằng:
Đã lắm lúc bầm gan tím ruột,
Vạch trời cao mà tuốt gươm ra,
Cũng xương, cũng thịt, cũng da,
Cũng hòn máu đỏ, con nhà Lạc Long,
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Mấy mươi năm nhơ nhuốc lầm than!...
Cách mạng Tháng Tám thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời. Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Nhân dân ta tự làm chủ vận
mạng của mình. Tên tuổi của nước ta lại lẫy lừng khắp năm châu, bốn biển .
[3]
Lần đầu tiên Việt Nam tên trên bản đồ thế giới, dân tộc ta đã mở ra mối
quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới với cách vị thế của một
______________________________________________________________________________
[3]. Hồ Chí Minh, Toàn tập,Sđd, tập 14, tr.621
18
quốc gia - dân tộc có độc lập, có chủ quyền; trả lời phóng vấn của VTC News
năm 2013, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước - Nguyên Tư lệnh Quân khu IV,
đại biểu Quốc hội các khóa VIII, IX, X đã nói; “Trước Cách mạng Tháng 8,
không hề tên nào Việt Nam trên bản đồ thế giới. Cho nên ngắn gọn
nói thì 2/9 mới tên Việt Nam trên bản đồ thế giới. Lần đầu thấy cái tên
nhiều đổi khác trong mắt họ.” Ta thể thấy được ý nghĩa cùng quan
trọng của Cách mạng tháng Tám, đưa Việt Nam xuất hiện trên bản đồ chính
trị; bước ngoặt cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, hội; một chế độ hội mới mẻ hoàn toàn đối với dân tộc Việt
Nam, hiện hữu đầy đủ bản chất dân chủ, nhân văn con người, vì hạnh phúc
của nhân dân lao động. Cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam kiên cường, anh dũng
tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng
chủ nghĩa hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đưa nước ta phát
triển, nâng cao địa vị quốc gia trên thế giới.
Sự thành công của Cách mạng tháng Tám còn khẳng định vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Nhờ sự lãnh đạo của Đảng đất
nước ta giành được độc lập dân tộc, Đảng Cộng sản Đông Dương từ việc phải
hoạt động bí mật đã trở thành Đảng cầm quyền, mở ra tương lai tươi sáng cho
nhân dân, cho đất nước. Từ khi ra đời năm 1930, Đảng ta đã đề ra đường lối
đúng đắn với mục tiêu xuyên suốt của sự nghiệp cách mạnggiải phóng dân
tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa hội, góp phần tích cực vào phong trào cách
mạng thế giới. Vậy nên trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã gắn máu thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng
hộ và tin tưởng tuyệt đối. Chỉ trong vòng 15 năm từ 1930 đến năm 1945, Đảng
ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách
19
mạng: cao trào cách mạng 1930 - 1931, với đỉnh cao phong trào Xôviết -
Nghệ Tĩnh; Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) Cao
trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945). Đến năm 1945, với nghệ
thuật lãnh đạo tài tình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận ra chớp thời
thuận lợi nhất chỉ xuất hiện một lần, lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam tiến
hành tổng khởi nghĩa, đánh đổ đế quốc phong kiến, thành lập nhà nước công
nông đầu tiên Đông Nam Á. lần đầu tiên một cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc dân chủ điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, giành thắng lợi một
nước thuộc địa là Việt Nam. Đảng ta đã sử dụng đường lối giải phóng dân tộc
đúng đắn, sáng tạo kết hợp với việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin
phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam tưởng độc lập do của chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Cách mạng tháng Tám thành công không chỉ ý nghĩa đại, bước
ngoặt của Việt Nam mà còn là một cuộc cách mạng vĩ đại đối với toàn thể dân
tộc đấu tranh giải phóng chống áp bức chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế
quốc. Thắng lợich mạng tháng Tám tấm gương, nguồn cổ cho các
quốc gia - dân tộc đang mất độc lập, tự do châu Á, châu Phi Mỹ Latinh,
nhất các nước láng giềng Đông Nam Á noi theo. Khẳng định vị thế, giá trị
thời đại của thắng lợi này, Chủ tich Hồ Chí Minh viết: Cách mạng Tháng
Tám thắng lợi đã làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình
dân chủ thế giới. Cách mạng Tháng Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to đến
hai dân tộc bạn Miên Lào. Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân
dân hai nước Miên, Lào cùng nổi lên chống đế quốc và đòi độc lập
[4]
. Chứng
minh một chân rằng các dân tộc bị áp bức, xâm lược nếu ý chí quyết
tâm, kiên cường; có đường lối sáng tạo, đúng đắn; biết chớp lấy thời cơ thuận
lợi, tranh thủ sức mạnh thời đại thì dân tộc đó hoàn toàn thể thắng lợi. Sự
thành công của cuộc cách mạng còn đột phá một khâu quan trọng trong hệ
____________________________________________________________________________
[4]. Hồ Chí Minh, Toàn tập,tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.27
| 1/27

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đưa Việt Nam
bước sang kỷ nguyên mới. Trách nhiệm của sinh viên đối với công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Họ và tên: Nguyễn Thị Diệu An Mã sinh viên: 2051070001
Ngành: Truyền thông quốc tế 1
Hà nội, tháng 12 năm 2021 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................2
2. Ý nghĩa đề tài..............................................................................................3
NỘI DUNG........................................................................................................4
CHƯƠNG I: CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945............................................4
1. Bối cảnh lịch sử..........................................................................................4
2. Diễn biến cuộc Cách mạng tháng Tám.......................................................5
CHƯƠNG II: CÁCH MẠNG THÁNG TÁM LÀ BƯỚC NGOẶT ĐƯA VIỆT
NAM BƯỚC SANG KỶ NGUYÊN MỚI.......................................................14
1. Nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.........................14
1.1. Nguyên nhân khách quan....................................................................14
1.2. Nguyên nhân chủ quan.......................................................................14
2. Cách mạng tháng Tám 1945 đã đưa Việt Nam bước sang kỉ nguyên mới15
CHƯƠNG III: TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC...........................................................20
KẾT LUẬN......................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................24 2 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tổng khởi nghĩa! Lệnh truyền đêm trước
Sáng quân ra giải phóng Thái Nguyên
Hà Nội, Huế, Sài Gòn, cả nước
Đứng lên ta giành hết chính quyền!
Việt Nam, ta lại gọi tên mình
Hạnh phúc nào hơn được tái sinh
Mát dạ ông cha nghìn thuở trước
Cho đời, hai tiếng mới quang vinh!
Hôm nay sáng mồng hai tháng chín
Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình
Muôn triệu tim chờ... chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình
Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh!
( Trích “Theo chân Bác” – Tố Hữu )
Cách mạng tháng Tám năm 1945 – cuộc cách mạng mở ra bình minh cho toàn
thể dân tộc Việt Nam sau những đêm dài kháng chiến giành lại độc lập tự do.
Những vần thơ, những câu chuyện về mùa thu Cách mạng lộng lẫy, hào hùng
ấy vẫn luôn được ghi nhớ và truyền lại qua các thế hệ con dân Việt Nam. Cách
mạng tháng Tám thành công, đưa nước ta và dân tộc ta bước vào thời kì độc
lập gắn với chủ nghĩa xã hội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nếu cách mạng tháng Tám không thành công thì dân tộc Việt Nam có lẽ đã
không có được hòa bình tự do như ngày nay. Thuộc tầng lớp thế hệ trẻ Việt
Nam, sinh viên cần phải nắm được những nhận thức đầy đủ, đúng đắn về hệ 3
thống lịch sử lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi Đảng ra đời năm
1930 cho đến khi Đảng cầm quyền năm 1945. Tương lai là chủ nhân đất nước,
thế hệ sinh viên cần phải tin vào sự lãnh đạo của Đảng, thấy được những ưu
điểm để phát huy và những khuyết điểm cần sửa đội để tiếp tục đưa Việt Nam
tiến tới xã hội chủ nghĩa, xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu nước mạnh.
Trong bài tiểu luận này, em xin phép chọn đề tài “Cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công đã đưa Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới. Trách nhiệm của
sinh viên đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay” với mục
tiêu để nghiên cứu và tiếp thu về lịch sử, những châm ngôn, chính sách mà
Đảng đưa ra trong Cách mạng tháng Tám 1945. Từ đó rút ra những bài học và
trách nhiệm cần phải thực hiện của sinh viên đối với việc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong thời đại phát triển ngày nay.
2. Ý nghĩa đề tài
Sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám không chỉ mang lại độc lập tự do cho
nhân dân ta mà còn là bước ngoạt phát triển của cách mạng Việt Nam. Chứng
minh được tính đúng đắn của cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới ở Việt Nam,
khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh trong dự báo cách mạng thuộc địa có khả
năng thắng lợi trước cách mạng chính quốc, bổ sung và phát triển Học thuyết
Mác – Lênin, làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vấn đề dân tộc và thuộc địa. Nghiên cứu về đề tài này giúp cho sinh viên hiểu
và nắm được rõ hơn những giá trị mà cuộc cách mạng mang lại cho việc xây
dựng và phát triển Đảng, từ đó từng bước áp dụng vào chính cuộc sống của
mình để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 4 NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
1. Bối cảnh lịch sử
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn
cuối. . Hồng quân Liên Xô truy kích phát xít Đức trên chiến trường châu Âu,
giải phóng nhiều nước ở Đông Âu và tiến về phía Berlin (Đức). Ngày
9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu.
Ngày 8/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật,
đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc). Mỹ ném
hai quả bon nguyên tử xuống các thành phố Hirôsima (6/8/1945) và Nagazaki
(9/8/1945). Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, Chiến tranh
thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của quân Đồng minh, sau khi
phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và quân đội Trung Quốc sẽ vào Đông
Dương để giải giáp quân đội Nhật. Thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh
hòng khôi phục địa vị thống trị của mình, trở lại xâm lược Việt Nam. Bên
cạnh đó, đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào
Đông Dương. Giặc ngoài thù trong, nước ta lúc đó vẫn tồn tại những thành
phần ngoan cố, phản động của chính quyền tay sai Nhật nhăm nhe lợi dụng
thời cơ chống phá cách mạng.
Ở trong nước ta, trong vòng 15 năm trải qua nhiều cuộc diễn tập như:
Cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), Cao trào dân chủ (1936-1939) và
Cao trào cứu nước trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945); đến năm
1945 các phong trào cách mạng ngày càng được dâng cao hơn nữa. Trước tình
thế khó khăn, thời cơ cách mạng chỉ xuất hiện rất ngắn, từ khi Nhật tuyên bố
đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, yêu
cầu Việt Nam đặt ra là giành được chính quyền, khai sinh đất nước để khi 5
quân Anh và quân Tưởng vào nước ta giải giáp quân Nhật thì chúng ta với tư
cách chủ nhà sẽ tiếp đón nhằm ngăn chặn những ý đồ xấu bên ngoài. Ngay sau
khi phát xít Nhật mở cuộc đảo chính hất cẳng Pháp ngày 9/3/1945, trong đêm
đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một
cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức
tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3/1945,
Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”. Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ,
quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành
Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ
chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải
phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam. Chuẩn
bị tất cả mọi điều kiện để chớp lấy thời cơ tiến hành Tổng khởi nghĩa.
2. Diễn biến cuộc Cách mạng tháng Tám
Bắt đầu từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi và
mạnh mẽ. Đầu Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh về Tuyên Quang, chọn Tân Trào
làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước, chỉ thị gấp rút chuẩn bị đại hội quốc
dân, thành lập “khu giải phóng”. Ngày 4/6/1945, khu giải phóng chính thức
được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc Bắc Giang, Phú
Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Ủy ban lâm thời khu giải phóng được thành lập và
thi hành các chính sách của Việt Minh. Khu giải phóng Việt Bắc trở thành căn
cứ địa chính của cách mạng cả nước. Nhiều chiến khu mới được xây dựng như
chiến khu Vần-Hiền Lương ở vùng giáp giới hai tỉnh Phú Thọ và Yên Bái,
chiến khu Đông Triều (Quảng Yên), chiến khu Hoà-Ninh-Thanh (ở phía Tây 6
ba tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa), chiến khu Vĩnh Tuy và Đầu Rái (Quảng Ngãi)…
Trong các đô thị, nhất là những thành phố lớn, các đội danh dự Việt Minh
đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ gian, tạo điều kiện phát
triển các tổ chức cứu quốc trong các tầng lớp nhân dân thành thị và xây dựng
lực lượng tự vệ cứu quốc. Ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, khẩu hiệu “phá
kho thóc, giải quyết nạn đói” đã nhận được sự đồng tình của nhân dân, thổi
bùng lên ngọn lửa chiến đấu Tại nhiều .
vùng và địa phương, quần chúng tự vũ
trang, xung đột với binh lính và chính quyền Nhật, biến thành những cuộc
khởi nghĩa từng phần, giành quyền làm chủ.
Tháng 8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào,
Tuyên Quang, do lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì.
trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình cách mạng trong nước đã có sự phát
triển mạnh mẽ, sôi sục và rộng khắp và bối cảnh quốc tế đang có những diễn
biến thuận lợi đã đi đến khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã
tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay
phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Khẩu
hiệu đấu tranh lúc này là: Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính
quyền nhân dân!; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó
là: Tập trung - tập trung lực lượng vào những việc chính, thống nhất - thống
nhất về mọi phương diện quân sự chính trị, hành động và chỉ huy, kịp thời
- kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội. Phương hướng hành động trong tổng
khởi nghĩa: phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố
hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần
quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh. Phải chộp lấy những căn cứ 7
chính (cả ở các đô thị) trước khi quân Đồng minh vào, thành lập ủy ban nhân
dân ở những nơi đã giành được quyền làm chủ.
Ngày 12/8/1945, Ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa
trong khu. Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập
Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc
ban bố “Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc. Ngày
16/8/1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào tán thành quyết định tổng khởi
nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập Ủy ban giải
phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào cả nước, được truyền đi khắp nơi
trước cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công. (Ảnh: hochiminh.vn)
Từ ngày 14-18/8/1945, tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng
do nắm vững tinh thần các nghị quyết, chỉ thị trước đó của Đảng, căn cứ vào 8
tình hình thực tiễn, đảng bộ nhiều địa phương đã kịp thời, chủ động, lãnh đạo
nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Bốn tỉnh giành chính quyền sớm nhất là Hải
Dương, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam. Các đơn vị Giải phóng quân lần
lượt tiến công các đồn binh Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Yên Bái,… hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở tỉnh
lỵ. Ngày 16/8/1945, một đơn vị Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy
từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên.
Sáng ngày 16/8, tại số nhà 101 phố Gămbétta (nay là Trần Hưng Đạo)
đồng chí Nguyễn Khang, triệu tập một cuộc họp, phổ biến nghị quyết về việc
thành lập Uỷ ban Quân sự cách mạng Hà Nội (tức Uỷ ban Khởi nghĩa). Cuộc
họp nhất trí phải xúc tiến khởi nghĩa ở Hà Nội. Các đồng chí tham gia cuộc
họp đều thấy cần phải nắm chắc hơn nữa thái độ của Nhật và bọn bù nhìn;
trước mắt nên đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động chính trị để động viên sâu
rộng quần chúng đẩy mạnh việc chuẩn bị vũ trang. Uỷ ban Quân sự cách
mạng Hà Nội được thành lập gồm năm đồng chí: Nguyễn Khang- Uỷ viên
Thường vụ Xứ uỷ, Nguyễn Huy Khôi (tức Trần Quang Huy)- cán bộ Xứ uỷ,
Lê Trọng Nghĩa- cán bộ Xứ uỷ, Nguyễn Quyết- Bí thư Thành uỷ, Nguyễn Duy
Thân- Thành uỷ viên. Đêm ngày 16/8, ở các rạp hát Hiệp Thành, Quảng Lạc,
Tố Như, các rạp chiếu bóng Êđen, Majestic, các Đội tuyên truyền xung phong
Việt Minh đứng lên diễn thuyết. Cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên đường phố Hà Nội.
Chiều ngày 17/8, tại cuộc mít tinh do Tổng hội công chức tổ chức, các
đội viên tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong Việt Minh đứng lên diễn
thuyết. Sau đó, cuộc mít tinh chuyển thành cuộc tuần hành ủng hộ Việt Minh.
Ngay tối 17/8, Uỷ ban Quân sự cách mạng họp mở rộng tại Dịch Vọng (Từ
Liêm, Hà Nội) quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19/8. 9
Hội nghị vạch ra kế hoạch khởi nghĩa là: huy động 10 vạn quần chúng ở nội,
ngoại thành, Gia Lâm, các đội vũ trang sẽ làm nòng cốt đưa quần chúng vào
những nơi trọng yếu như: Phủ Khâm sai, Toà Thị chính, Trại Bảo an, Sở Liêm
phóng. Uỷ ban Quân sự cách mạng cũng bàn chủ trương cô lập Nhật, đưa ra
khẩu hiệu: "Chống một hành động của đế quốc can thiệp vào công cuộc độc
lập của dân tộc Việt Nam"; đồng thời cho rải truyền đơn quanh trại lính Nhật
khuyên chúng không can thiệp vào công việc nội bộ nước ta.
Ngày 18/8, trong lúc cuộc khởi nghĩa ở vùng ngoại thành đang nổ ra thì
3.000 công nhân biểu tình trước phủ Khâm sai, hô vang khẩu hiệu ủng hộ Việt
Minh, đả đảo bù nhìn. Trong khi đó, tất cả tù chính trị ở Hoả Lò đấu tranh đòi
trả tự do để tham gia ngay vào khởi nghĩa. Cũng trong ngày này, hàng nghìn
công nhân và nhân dân Hà Nội biểu tình đòi phát xít Nhật thả hai công nhân
Hãng Avia bị bắt, khi hai người này dùng ô tô Nhật chở vũ khí từ Gia Lâm vào
nội thành, buộc chúng phải nhượng bộ. Đêm 18/8, một Đội tuyên truyền xung
phong đột nhập vào Nhà in báo Tin mới, hướng dẫn công nhân in truyền đơn,
áp phích kêu gọi khởi nghĩa. Cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên các
đường phố Hà Nội, từ Bưởi, qua Dịch Vọng, xuống Tương Mai, Mai Động...
Cả Hà Nội sôi động trước lúc vùng lên.
Sáng ngày 19/8, Thủ đô Hà Nội tràn ngập cờ đỏ sao vàng. Quần chúng
cách mạng xuống đường tập hợp thành đội ngũ, Hàng vạn nông dân, dân
nghèo, với các vũ khí thô sơ từ Láng, Mọc kéo ra chiếm đại lý Hoàn Long,
tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng khu vực Ngã Tư Sở, mở đầu cho
cuộc khởi nghĩa ở nội thành. Hàng vạn quần chúng nhân dân ngoại thành, từ
các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên, Hoài Đức, Đan Phượng (Hà
Đông), Gia Lâm (Bắc Ninh) mang theo cờ Việt Minh, gậy gộc, mã tấu, dao
phát bờ, câu liêm tiến vào nội thành với sức mạnh như thác đổ, rầm rộ kéo đến
quảng trường Nhà hát thành phố trong tiếng hát “Tiến quân ca” và cờ đỏ sao 10
vàng để dự cuộc mít-tinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Ủy ban quân sự
cách mạng đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh. Cuộc mít-tinh chuyển
thành biểu tình vũ trang. Quần chúng cách mạng chia thành nhiều đoàn đi
chiếm Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Trại Bảo an binh, Sở Cảnh sát và các
công sở của chính quyền thân Nhật. Riêng ở trại lính bảo an, quân Nhật cho xe
tăng chặn đầu đoàn biểu tình, nhưng trước khí thế sôi sục của quần chúng, lại
được các đồng chí ta thuyết phục, nói rõ chính sách của Đảng, Việt Minh, hơn
một vạn quân Nhật ở Hà Nội không dám chống cự. Chính quyền về tay nhân
dân. Ngay khi chiếm được Phủ Khâm sai, đồng chí uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ
Bắc Kỳ có mặt tại đó gọi điện cho Thị trưởng, Tỉnh trưởng các tỉnh Hải
Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định báo tin cách mạng đã
thành công ở Hà Nội, ra lệnh cho chúng phải nhanh chóng trao chính quyền
cho Việt Minh địa phương. Tối ngày 19/8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
ở Hà Nội kết thúc thắng lợi. Khởi nghĩa thành công ở Hà Nội như một tiếng
bom vang dội nhanh chóng lan truyền khắp nơi, động viên, cổ vũ nhân dân cả
nước gấp rút nổi dậy giành chính quyền. Gần như toàn bộ các tỉnh miền Bắc
đến Thanh Hoá, Nghệ An đều tiếp theo Hà Nội tiến hành khởi nghĩa. Quân đội
chính quyền Trung Hoa dân quốc mới vào tỉnh lỵ ở thượng du, thì tất cả các
vùng trung du, châu thổ đã rợp bóng cờ cách mạng.
Sáng ngày 23/8, cả thành phố Huế rực rỡ cờ đỏ sao vàng 15 vạn nhân dân
Huế cùng nhân dân các phủ, huyện theo kế hoạch tiến vào thành phố, dòng
người tràn ngập các khu phố, chật ních trên các ngả đường. Dưới sự lãnh đạo
của Ủy ban Khởi nghĩa, quần chúng nhân dân tiến công chiếm nốt các cơ sở
còn lại của chính quyền địch, rồi kéo về dự cuộc mít-tinh khổng lồ tại sân vận
động thành phố, chào mừng cách mạng thành công. Tại đây, Uỷ ban Việt
Minh và Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh Thừa Thiên tuyên bố xoá bỏ chính quyền bù
nhìn, lập chính quyền cách mạng. Uỷ ban Nhân dân cách mạng lâm thời Thừa 11
Thiên - Huế ra đời. Khởi nghĩa ở Huế thắng lợi nhanh chóng và không đổ
máu. Huế khởi nghĩa thắng lợi đã dẫn đến sự tuyên bố thoái vị Vua phong kiến
cuối cùng ở Việt Nam vào ngày 30/8/1945, chấm dứt chế độ phong kiến hàng
nghìn năm ở nước ta, giáng một đòn nặng nề vào chính quyền bù nhìn còn lại
ở các tỉnh Nam Trung Bộ, động viên, cổ vũ, tạo thêm sức mạnh tinh thần và
uy thế cho nhân dân các tỉnh Nam Trung Bộ và cả ở Nam Bộ vùng lên.
18 giờ ngày 24/8, Uỷ ban Khởi nghĩa của Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong)
phát lệnh khởi nghĩa. Chấp hành lệnh của Uỷ ban Khởi nghĩa, từ 20 giờ các
đội Thanh niên Tiền phong xung kích gồm hàng nghìn đội viên ưu tú, đa số là
đoàn viên Tổng công đoàn mà nòng cốt là các đảng viên cộng sản, được vũ
trang triển khai lực lượng đánh chiếm các cơ sở trọng yếu trong thành phố
như: Kho bạc, Nhà máy đèn, Nhà máy nước, Sở bưu điện, Dinh Thống đốc
Nam Kỳ, Sở chữa cháy, Sở công an, các đầu cầu vào Sài Gòn, các bốt cảnh
sát, các vùng lân cận trại lính Nhật, khu Pháp kiều, khu vực trại lính Pháp...
Đến 22 giờ, ngày 24/8, tất cả bộ máy cai trị của chính quyền bù nhìn trong
thành phố đã về tay cách mạng, trừ Dinh Toàn quyền, cảng hải quân, Đông
Dương ngân hàng, sân bay Tân Sơn Nhất vì Nhật không chịu nhượng bộ. Nửa
đêm 24/8, hàng chục vạn quần chúng, nhân dân từ các vùng ngoại thành Bà
Điểm, Hóc Môn, Bình Đông, Bình Xuyên, Chợ Đệm... Từ các tỉnh Gia Định,
Chợ Lớn, Tân An, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, với băng cờ, gậy gộc,
dao găm, giáo mác, súng... Ồ ạt tiến vào Thành phố Sài Gòn. Cả thành phố
vang lên những tiếng hát, tiếng hô khẩu hiệu: “Đả đảo Khâm sai Nguyễn Văn
Sâm", "Chính quyền về tay Việt Minh", "Việt Minh độc lập muôn năm",...
Sáng ngày 25/8, cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn thành công rực rỡ. Cuộc khởi
nghĩa tiếp tục nổ ra ở khắp các địa phương. Ngày 28/8, Hà Tiên và Đồng Nai
Thượng là hai tỉnh cuối cùng giành được chính quyền về tay nhân dân. 12
Ngày 25/8/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và
Ủy ban Dân tộc giải phóng về đến Hà Nội. Sáng ngày 26/8/1945, Hồ Chí
Minh chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng, thống nhất những
chủ trương đối nội và đối ngoại trong tình hình mới; đề nghị mở rộng hơn nữa
thành phần của Chính phủ lâm thời, chuẩn bị ra Tuyên ngôn Độc lập, và tổ
chức mít-tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ ra mắt nhân dân, cũng là ngày nước
Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chế độ dân chủ cộng
hoà. Ngày 27/8, Uỷ ban Giải phóng dân tộc tập hợp một cuộc họp các thành
viên trong Uỷ ban. Tại cuộc họp này theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Quốc dân Đại hội (Tân Trào) bầu ra
được cải tổ thành Chính phủ cách mạng lâm thời nhằm đoàn kết rộng rãi các
tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và những nhân sự tiến bộ. Một số
uỷ viên Việt Minh tự nguyện rút khỏi Chính phủ để nhường chỗ cho các thành
phần khác, có cả những người đã từng tham gia trong chính quyền cũ. Hành
động đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: "Đó là một cử chỉ vô tư tốt đẹp
không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên
trên lợi ích cá nhân". Cũng trong ngày 27/8, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp các vị
bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày hôm
sau, danh sách Chính phủ gồm 15 thành viên do Người đứng đầu được công
bố trên các báo ở Hà Nội.
Ngày 30/8/1945, tại Ngọ Môn, thành phố Huế, vua Bảo Đại thoái vị và giao
nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Trung ương Đảng và Chính phủ lâm thời hoàn toàn ý thức được phải
khẩn trương làm tất cả mọi việc có thể để xác lập vị thế người chủ đất nước
của nhân dân Việt Nam để tiếp đón những người mang danh “Đồng minh”
trước khi họ có thể thực hiện những mưu đồ riêng của mình tại Việt Nam. Từ
ngày 28/8, theo sự phân công của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, tại số 13
nhà 48, phố Hàng Ngang, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung trí lực và tình cảm
soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Nhằm huy động trí tuệ tập thể, ngày 30/8,
Người mời một số đồng chí đến trao đổi, góp ý kiến vào văn kiện lịch sử quan
trọng này. Người trào dâng niềm xúc động vì trong quá trình hoạt động cách
mạng Người "đã viết nhiều nhưng đến bây giờ mới viết được một bản Tuyên
ngôn như vậy". Sau khi suy ngẫm, trăn trở, ngày 31/8/1945, Người quyết định
bổ sung thêm một số điểm vào bản Tuyên ngôn, hoàn chỉnh bản khai sinh của
nước Việt Nam độc lập, dân chủ, tự do.
Ngày 2/9/1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại Quảng trường Ba
Đình, Hà Nội. Từ sáng sớm, cả Hà Nội bừng lên trong màu cờ đỏ sao vàng và
đèn, hoa rực rỡ. Những biểu ngữ lớn bằng chữ Việt, Pháp, Nga, Anh, Trung
Quốc chăng khắp các đường phố: "Nước Việt Nam của người Việt Nam",
"Độc lập hay là chết", “Ủng hộ Chính phủ lâm thời”, “Ủng hộ Chủ tịch Hồ
Chí Minh"...nhân dân thành phố và các vùng lân cận cuồn cuộn đổ về vườn
hoa Ba Đình, nơi dựng lễ đài Độc lập, tràn ngập các phố xung quanh. Chính
phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đọc
Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
Mùng 2 tháng 9 năm 1945 – ngày độc lập, ngày hội lớn của dân tộc ta,
ngày Quốc khánh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày Hà Nội trở
thành Thủ đô của cả nước, một ngày có "ý nghĩa cực kỳ trọng đại trong đời
sống chính trị, tinh thần của dân tộc". 14
CHƯƠNG II: CÁCH MẠNG THÁNG TÁM LÀ BƯỚC NGOẶT ĐƯA
Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Ðình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Ðộc lập. (Nguồn ảnh: sưu tầm)
VIỆT NAM BƯỚC SANG KỶ NGUYÊN MỚI
1. Nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 1.1. Nguyên nhân khách quan
Cách mạng tháng Tám được tiến hành trong hoàn cảnh khách quan vô
cùng thuận lợi; quân phát xít Đức, Ý, Nhật bị đánh bại, phải đầu hàng quân
đồng minh trong đó kẻ thù trực tiếp của nước ta lúc bấy giờ là Nhật Bản bị
thất bại nặng nề khiến cho quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần
chiến đấu, chính quyền thân Nhật rệu rã, tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân Việt
Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Không chỉ vậy nhờ cuộc đấu tranh của nhân dân Liên Xô và các lực
lượng dân chủ đã từng bước làm thất bại lực lượng phát xít, thúc đẩy dân tộc
thuộc địa đứng lên giải phóng, dẫn đến sự phát triển của phong trào giải phóng 15
dân tộc nổ ra ở nhiều nơi đã cổ vũ cho tinh thần chiến đầu của nhân dân Việt Nam. 1.2. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân khách quan là điều kiện đủ nhưng quan trọng hơn đó chính
là nguyên nhân chủ quan của mỗi quốc gia. Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công mau lẹ ở Việt Nam bởi nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo
của Đảng, sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ
thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng Cộng
sản có những phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh
hoạt. Nhận thức rõ được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời
cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Không chỉ vậy, Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu
nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu
sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước. Qua 15 năm đấu tranh gian khổ,
nhân dân ta một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng
diễn tập, các cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 đã quyết
vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Quần chúng nhân dân cách mạng được
Đảng tổ chức lãnh đạo và rèn luyện, bằng thực tiễn đấu tranh đó họ đã trở
thành lực lượng chính trị hùng hậu, có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng
cốt. Nhân dân ta đã đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã chiến đấu không hề tiếc máu
xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc. 16
2. Cách mạng tháng Tám 1945 đã đưa Việt Nam bước sang kỉ nguyên mới
Cách mạng tháng Tám thành công đã đưa Việt Nam bước sang kỉ nguyên
mới, kỉ nguyên của độc lập tự do hạnh phúc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Suốt hơn 80 năm đất nước Việt Nam phải chịu đựng ách thống trị của thực dân
Pháp, nhân dân ta phải sống một cuộc sống lầm than cực khổ. Không chỉ vậy,
Pháp còn 2 lần “bán” nước ta cho Nhật khiến cho hơn 2 triệu đồng bào ta chết
đói, đất nước ta kiệt quệ về mọi mặt. Trong suốt khoảng thời gian ấy, nhân dân
ta còn không biết thế nào là được tự do, được làm chủ chính cuộc sống của
mình. Vậy nên khi Cách mạng tháng Tám nổ ra đã nhanh chóng thành công
cũng nhờ ý chí quyết tâm, mong muốn giành lại độc lập dân tộc của nhân dân.
Sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã
trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình; đưa Việt Nam
bước sang thời đại của người Việt Nam, chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của
thực dân Pháp, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót
nghìn năm. Đánh giá về ý nghĩa lớn lao này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã
đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân
dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do,
hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”[1]
Ngày mùng 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước Công
Nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt
Nam. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một
nước độc lập, tự do và dân chủ. Giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực
lượng đông đảo nhất trong dân tộc. Nhờ có Cách mạng tháng Tám, một phần
__________________________________________________________________________
[1]. Hồ Chí Minh Toàn tập,tập 7, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.26
[2]. Hồ Chí Minh Toàn tập,tập 7, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.25 17
ruộng đất của đế quốc và Việt gian đã bị tịch thu, địa tô được tuyên bố giảm
25%, một số nợ lưu cữu được xoá bỏ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một
Đảng cầm quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp
lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và
những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng lần này là lần đầu
tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một
Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền
toàn quốc”[2] ; cho thấy ý nghĩa to lớn của cuộc Cách mạng tháng Tám không
Minh khắc họa: “Lịch sử dân tộc ta đã có nhiều thời kỳ rất vẻ vang. Nhưng
trước ngày Cách mạng Tháng Tám, dân tộc ta đã phải trải qua gần một thế kỷ
vô cùng tủi nhục. Trên địa đồ thế giới, tên nước ta đã bị xóa nhòa dưới bốn
chữ “Đông Dương thuộc Pháp”. Thực dân Pháp gọi đồng bào ta là lũ
Annamít dơ bẩn. Thiên hạ gọi chúng ta là vong quốc nô. Cụ Phan Bội Châu
đã phải thốt lên rằng:
Đã lắm lúc bầm gan tím ruột,
Vạch trời cao mà tuốt gươm ra,
Cũng xương, cũng thịt, cũng da,
Cũng hòn máu đỏ, con nhà Lạc Long,
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Mấy mươi năm nhơ nhuốc lầm than!...
Cách mạng Tháng Tám thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời. Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Nhân dân ta tự làm chủ vận
mạng của mình. Tên tuổi của nước ta lại lẫy lừng khắp năm châu, bốn biển”[3].
Lần đầu tiên Việt Nam có tên trên bản đồ thế giới, dân tộc ta đã mở ra mối
quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới với tư cách và vị thế của một
______________________________________________________________________________
[3]. Hồ Chí Minh, Toàn tập,Sđd, tập 14, tr.621 18
quốc gia - dân tộc có độc lập, có chủ quyền; trả lời phóng vấn của VTC News
năm 2013, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước - Nguyên Tư lệnh Quân khu IV,
đại biểu Quốc hội các khóa VIII, IX, X đã nói; “Trước Cách mạng Tháng 8,
không hề có tên nào là Việt Nam trên bản đồ thế giới. Cho nên ngắn gọn mà
nói thì có 2/9 mới có tên Việt Nam trên bản đồ thế giới. Lần đầu thấy cái tên
có nhiều đổi khác trong mắt họ.” Ta có thể thấy được ý nghĩa vô cùng quan
trọng của Cách mạng tháng Tám, đưa Việt Nam xuất hiện trên bản đồ chính
trị; là bước ngoặt cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội; là một chế độ xã hội mới mẻ hoàn toàn đối với dân tộc Việt
Nam, hiện hữu đầy đủ bản chất dân chủ, nhân văn vì con người, vì hạnh phúc
của nhân dân lao động. Cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam kiên cường, anh dũng
tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng
chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đưa nước ta phát
triển, nâng cao địa vị quốc gia trên thế giới.
Sự thành công của Cách mạng tháng Tám còn khẳng định vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng mà đất
nước ta giành được độc lập dân tộc, Đảng Cộng sản Đông Dương từ việc phải
hoạt động bí mật đã trở thành Đảng cầm quyền, mở ra tương lai tươi sáng cho
nhân dân, cho đất nước. Từ khi ra đời năm 1930, Đảng ta đã đề ra đường lối
đúng đắn với mục tiêu xuyên suốt của sự nghiệp cách mạng là giải phóng dân
tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần tích cực vào phong trào cách
mạng thế giới. Vậy nên trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng
hộ và tin tưởng tuyệt đối. Chỉ trong vòng 15 năm từ 1930 đến năm 1945, Đảng
ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách 19
mạng: cao trào cách mạng 1930 - 1931, với đỉnh cao là phong trào Xôviết -
Nghệ Tĩnh; Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và Cao
trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945). Đến năm 1945, với nghệ
thuật lãnh đạo tài tình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận ra và chớp thời cơ
thuận lợi nhất chỉ xuất hiện một lần, lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam tiến
hành tổng khởi nghĩa, đánh đổ đế quốc phong kiến, thành lập nhà nước công
nông đầu tiên ở Đông Nam Á. lần đầu tiên một cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc dân chủ điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, giành thắng lợi ở một
nước thuộc địa là Việt Nam. Đảng ta đã sử dụng đường lối giải phóng dân tộc
đúng đắn, sáng tạo kết hợp với việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin
phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và tư tưởng độc lập tư do của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cách mạng tháng Tám thành công không chỉ có ý nghĩa vĩ đại, là bước
ngoặt của Việt Nam mà còn là một cuộc cách mạng vĩ đại đối với toàn thể dân
tộc đấu tranh giải phóng chống áp bức chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế
quốc. Thắng lợi Cách mạng tháng Tám là tấm gương, là nguồn cổ vũ cho các
quốc gia - dân tộc đang mất độc lập, tự do ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh,
nhất là các nước láng giềng Đông Nam Á noi theo. Khẳng định vị thế, giá trị
thời đại của thắng lợi này, Chủ tich Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng Tháng
Tám thắng lợi đã làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình
dân chủ thế giới. Cách mạng Tháng Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to đến
hai dân tộc bạn là Miên và Lào. Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân
dân hai nước Miên, Lào cùng nổi lên chống đế quốc và đòi độc lập”[4]. Chứng
minh một chân lý rằng các dân tộc bị áp bức, xâm lược nếu có ý chí quyết
tâm, kiên cường; có đường lối sáng tạo, đúng đắn; biết chớp lấy thời cơ thuận
lợi, tranh thủ sức mạnh thời đại thì dân tộc đó hoàn toàn có thể thắng lợi. Sự
thành công của cuộc cách mạng còn đột phá một khâu quan trọng trong hệ
____________________________________________________________________________
[4]. Hồ Chí Minh, Toàn tập,tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.27