



















Preview text:
Họ và tên: Nguyễn Gia Khang       
Truờng Đại học Đồng Tháp  MSSV: 0022412732       
Lớp: ĐHGDTH22D FR04  
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG 
BÀI TẬP : Tại sao tâm lý của người này khác với người khác?  BÀI LÀM 
Tâm lý của người này khác với tâm lý của người khác vì: Các điều kiện tạo ra lăng kính chủ 
quan của mỗi người khác nhau: 
 Mỗi người có những đặc điểm riêng về thần kinh, bộ não, tư chất. 
Ví dụ: Người có bán cầu não trái phát triển hơn bán cầu não phải thì sẽ chiếm ưu 
thế về ngôn ngữ nên họ sẽ có tâm lý thoải mái hơn khi giao tiếp với người khác. 
Người có bán cầu não phải phát triển hơn bán cầu não trái thì sẽ chiếm ưu thế về 
sự định hướng không gian, nó không chỉ giúp thực hiện một cách chính xác các hoạt 
động phương hướng mà còn giải quyết một cách hiệu quả và sáng tạo các nhiệm vụ 
thực tiễn trong cuộc sống hàng ngày. 
 Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau. 
Ví dụ: Hai đứa trẻ có hoàn cảnh sống khác nhau, 1 người gia đình giàu có, 1 người 
gia đình nghèo khó. Khi cả hai được tặng 1 món đồ chơi hay bánh kẹo thì người gia 
đình giàu có sẽ cảm thấy bình thường hoặc vui một chút vì họ đã được trải nghiệm 
nhiều về những thứ đó, còn người có gia đình nghèo khó sẽ cảm thấy rất vui sướng 
vì họ ít khi được tiếp xúc với những thứ đó. 
 Mỗi người có điều kiện giáo dục khác nhau. 
Ví dụ: Trẻ em khi mới sinh ra như một tờ giấy trang nhưng khi được sự giáo dục, 
quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ tiếp xúc với nhiều điều tốt đẹp thì dần dần sẽ hiểu biết 
về mọi thứ xung quanh, tâm lý thay đổi theo chiều hướng tích cực. 
 Giới tính, lứa tuổi, thời điểm sống khác nhau. 
Ví dụ: - Sự khác nhau về tâm lý giữa nam và nữ thể hiện rõ qua việc nữ có tâm lý 
nhạy cảm và có sự đồng cảm hơn so với nam. Nam có tâm lý mạnh mẽ, vững vàn  hơn so với nữ.      - 
Khi người cha và người con nhỏ cùng xem phim hài có lúc người con thấyvui 
và cười còn người cha thì không vì người cha đã được trải nghiệm, tiếp xúc và quen 
với điều đó còn người con thì chỉ mới lần đầu được tiếp xúc.  - 
Trong thời kì chiến tranh con người sẽ có tâm lý lo sợ vì nguy hiểm luôn ởxung 
quanh, còn trong thời kì hoà bình, con người sẽ có tâm lý yên tâm hơn vì xung quanh  đã an ninh hơn trước. 
 Nhận thức, trình độ, trải nghiệm, nghề nghiệp... khác nhau. 
Ví dụ: Hai điều tra viên cùng tham gia khám nghiệm hiện trường nhưng do trình độ 
nhận thức, chuyên môn, khác nhau nên kết quả điều tra khác nhau. 
 Môi trường sống tự nhiên và xã hội khác nhau. 
Ví dụ: Thời nguyên thủy, con người có tâm lý lo sợ, đề phòng, tranh giành thức ăn 
vì khó kiếm được thức ăn. Còn thời hiện đại, con người có tâm lý thoải mái vì tìm 
được thức ăn dễ dàng. 
Những điều kiện này làm cho kết quả phản ánh tâm lý ở trong mỗi người bị khúc xạ theo 
các hướng khác nhau nên khiến cho tâm lý giữa họ khác nhau. 
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----------- 
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG 
BÀI TẬP : Hãy phân tích và lấy ví dụ chứng minh về bản chất xã hội của tâm lý con người.  BÀI LÀM  - 
Tâm lý người có nguồn gốc từ thế giới khách quan (thế giới tự nhiên và xã hội) trong 
đónguồn gốc xã hội là quyết định tâm lý con người, thể hiện qua: các mối quan hệ kinh tế-
xã hội, đạo đức, pháp quyền, mối quan hệ con người-con người, từ quan hệ gia đình, làng 
xóm, quê hương, quan hệ cộng đồng, nhóm,... Các mối quan hệ trên quyết định bản chất 
tâm lý con người. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.  - 
Trên thực tế, nếu con người thoát li khỏi các mối quan hệ xã hội, quan hệ giữa 
conngười với con người thì tâm lý người sẽ mất bản tính người.     
Ví dụ: Rochom P’ngieng mất tích năm 1989 khi đi chăn trâu. Sau 18 năm, Rochom được 
tìm thấy khi trên người không mặc quần áo và di chuyển như một con khi nói chuyện 
hay giao tiếp mà chỉ phát ra những tiếng gừ gừ, những âm thanh vô nghĩa, không thể 
hòa nhập vào cuộc sống con người. 
 Từ đó có thể thấy tâm lý người chỉ hình thành khi có điều kiện cần và đủ là sự tác 
động của hiện thực khách quan lên não người bình thường và phải có hoạt động  và giao tiếp.  - 
Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động giao tiếp trong các mối quan hệ xã hội, là 
sảnphẩm của con người với tư cách là chủ thể xã hội, chủ thể của nhận thức và hoạt động 
của giao tiếp một cách chủ động và sáng tạo. 
Ví dụ: Như ví dụ trên, Rochom do không tham gia hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ 
với con người nên không có tâm lí người bình thường.  - 
Cơ chế hình thành: cơ chế lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm, nền văn hóa xã hội 
thông qua hoạt động và giao tiếp, trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Hoạt động và mối 
quan hệ giao tiếp của con người có tính quyết định. 
Ví dụ: Một đứa trẻ khi sinh ra chúng như một trang giấy trắng, nhưng sau một thời 
gian được bổ mẹ chăm sóc, dạy dỗ, được tiếp xúc với nhiều người thì nó ngày cảng 
học hỏi, lĩnh hội, tiếp thu và hiểu biết nhiều hơn về mọi việc xung quanh.  - 
Tâm lý hình thành, phát triển và biển đổi cùng với sự phát triển của lịch sử cá nhân, 
lịchsử dân tộc và cộng đồng. Tâm lýcủa mỗi con người chịu sự chế ước bởi lịch sử của cá 
nhân và cộng đồng. Tuy nhiên không phải là sự “copy” một cách máy móc mà đã được 
thay đổi thông qua đời sống tâm lý cá nhân. Chính vì thế mỗi cá nhân vừa mang những 
nét chung đặc trưng cho xã hội lịch sử vừa mang những nét riêng tạo nên màu sắc của  mỗi cá nhân. 
Ví dụ: Trước đây thì xã hội rất định kiến về việc có thai trước khi cưới nhưng bây giờ 
xã hội biến đổi, sống phóng túng hơn nên con người xem vấn đề đó là binh thường.  - 
Tóm lại, tâm lý người là hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc con người thông 
quahoạt động và giao lưu tích cực của mỗi con người trong những điều kiện xã hội lịch sử 
nhất định. Nó có bản chất xã hội, tính lịch sử và tính chủ thể.     
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----------- 
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG 
BÀI TẬP : Phân tích vai trò của cơ sở tự nhiên đối với tâm lý con người.  BÀI LÀM  - 
Cơ sở tự nhiên là tiền đề cho sự phát triển tâm lý và chi phối đến sự phát triển của 
conngười. Nó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và tồn tại mãi mãi song song 
với sự tồn tại của con người, giúp cho con người nhận định về bản chất của sự vật và hiện  tượng.  - 
Tâm lý con người không phải do lực lượng siêu tự nhiên (thần thánh) nào đó sinh ra 
mànó do chính bộ não của con người sinh ra. Bộ não con người cùng với hoạt động phản 
xạ của nó và các quy luật của nó là cơ sở sinh lý của tâm lý. 
Có nhiều quan niệm khác nhau về mối quan hệ của não và tâm lý. Nhưng hiện nay các 
nhà khoa học đã chỉ ra rằng: tâm lý là chức năng của não, não chính là nơi sinh ra tâm 
lý, não nhận tác động của thế giới khách quan dưới dạng các xung động thần kinh từ 
các giác quan chuyển đến, não hoạt động (biển đổi lý hoá ở các tế bảo thần kinh...) và  sinh ra tâm lý. 
Não là tiền đề vật chất của tâm lý. Cỏ não hoạt động thì mới có tâm lý. Các tổ chức vật 
chất khác không thể sinh ra tâm lý. Khoa học đã xác định các mối quan hệ chặt chẽ của  não và tâm lý. 
Các quy luật hoạt động của não như:  - 
Quy luật hệ thống định hình: Muốn phản ảnh sự vật một cách trọn vẹn, hoặc 
phảnảnh các sự vật, hiện tượng liên quan với nhau hay một hoàn cảnh phức tạp thì các 
vùng trong não phải phối hợp với nhau, tập hợp các kích thích thành nhóm, thành bộ, tập 
hợp các mối liên hệ thần kinh tạm thời thành hệ thống chức năng.  - 
Quy luật lan toả, tập trung: Hưng phấn và ức chế là hai trạng thái phổ biển của 
hệthần kinh. Khi một điểm (hay trung khu) hưng phấn hay ức chế thì thưởng thưởng lúc 
đầu chúng được truyền sang các điểm (hay trung khu) khác. Đó là hiện tượng hưng phấn     
và ức chế lan tỏa. Sau đó trong những điều kiện bình thường chủng tập trung vào một nơi 
nhất định. Hai quả trình lan toa và tập trung xảy ra kế tiếp nhau, trong một trung khu thần  kinh.  - 
Quy luật cảm ủng qua lại: Hai quá trình thần kinh cơ bản (hưng phấn và ức chế) 
cóảnh hưởng qua lại với nhau, quy luật này có các dạng biểu hiện như sau: Cảm ứng qua 
lại đồng thời (giữa nhiều trung khu) là hưng phấn ở điểm này gây ra ức chế ở điểm kia và 
ngược lại. Cảm ứng qua lại tiếp diễn (trong một trung khu) là trường hợp ở trong một 
điểm có hưng phấn chuyển sang ức chế ở chỉnh điểm ấy, hay ngược lại. Cảm ứng dương 
tính là hiện tượng hưng phấn làm cho ức chế sâu hơn, hay ngược lại, ức chế làm hưng 
phản mạnh hơn. Ngược lại, hưng phấn gây ra ức chế, ức chế làm giảm hưng phấn, hưng 
phấn làm giảm ức chế — là các trường hợp cảm ứng âm tính.  - 
Quy luật phụ thuộc vào cường độ kích thích: I.P.Paplop khẳng định: “Trong mộtphản 
xạ có diễu kiện, kích thích cảng mạnh thì cường độ phản xạ càng mạnh". Trong trạng thái 
bình thưởng của vỏ não, độ lớn của phản ứng tỉ lệ thuận với cường độ của kích thích: kích 
thích mạnh thì phan ứng lớn và ngược lại. Sự phụ thuộc của phản ứng vào cường độ chỉ 
mang tính tương đối. Quy luật này chỉ đúng khi cưởng độ kích thích nằm trong giới hạn 
nhất định (ngưỡng cảm giác). 
Các quy luật trên đều tương ứng với các quy luật hoạt động tâm lý. 
Sự tiến hoá của não bộ qua các lớp động vật được chia thành nhiều giai đoạn, nhiều 
mức độ khác nhau. Tương ứng với các mức độ tiến hoá của não cũng đồng thời cỏ các 
mức độ phát triển của phản ảnh tâm lý. 
Với sự tương ứng, thống nhất chặt chẽ như thế có thể khẳng định não bộ là cơ sở quan 
trọng của tâm lý, nơi sinh ra tâm lý.  - 
Di truyền là sự lưu truyền đặc điểm giải phẫu của thế hệ trước cho thế hệ sau qua 
gen,để thế hệ sau tự nhiên có đặc điểm giống thế hệ trước. Nhờ có di truyền mà sinh vật 
duy trì được nòi giống của mình. 
Ở loài người chi có sự di truyền về đặc điểm giải phẫu sinh lý, cấu tạo, chức năng của 
các bộ phận trong cơ thể và của hệ thần kinh, nhưng không có sự di truyền tâm lý.     
Hiện nay TLH cũng khẳng định rằng : Đặc điểm bẩm sinh di truyền là tiền đề của sự 
phát triển tâm lý và chi phối sự phát triển tâm lý. Tiền đề, bẩm sinh di truyền của loài 
nào thi phát triển tâm lý tương ứng của loài đó. Ngay cả khi các loài sống gần gũi nhau, 
chúng cũng không bị ảnh hưởng tâm lý của nhau. Chỉ có những con người mang đặc 
điểm bẩm sinh di truyền của loài người mới có thể hình thành tâm lý loài người. 
Đặc điểm bẩm sinh dị truyền thuận lợi cho sự phát triển mặt tâm lý nào có được gọi là 
tư chất. Có tư chất thì thuận lợi cho sự phát triển của tâm lý và ngược lại. Như vậy, 
bẩm sinh di truyền không chỉ là tiền đề vật chất của tâm lý, nó còn có ảnh hưởng đến 
sự phát triển tâm lý nữa.  - 
Phản xạ có điều kiện là phản ứng của cơ thể đối với những kích thích gián tiếp. Phản 
xạcó điều kiện là phản xạ tập nhiễm, nó được hình thành trong đời sống cá thể nó khác 
với phản xạ không điều kiện (bẩm sinh). 
Cơ chế của sự thành lập phản xạ có điều kiện là sự kết hợp nhiều lần kích thích có điều 
kiện và kích thích không điều kiện để hai điểm trung ương trên vỏ não cùng hưng phấn 
→ để hình thành đường liên hệ thần kinh tạm thời (đường mòn) nối hai trung khu, tới 
mức này thì chỉ cần kích thích có điều kiện tác động vào trung khu không điều kiện thì 
cũng hưng phấn và phản ứng xảy ra. 
→ Như vậy, hình thành một tâm lý là hình thành một phản xạ có điều kiện. Tất cả các 
hiện tượng tâm lý đều có cơ sở sinh lý là phản xạ có điều kiện.  - 
Hệ thống tín hiệu thứ hai là cơ sở sinh lý của tư duy ngôn ngữ. Quan hệ của tín hiệu 
thứhai và tâm lý là quan hệ nội dung và hình thức. Tâm lý là nội dung, nó gồm ý và nghĩa. 
Còn ngôn ngữ là hình thức biểu đạt của ý và nghĩa. 
Ngôn ngữ có đường nét âm thanh cụ thể, nó là đại lượng vật lý, khác với tâm lý vì tâm 
lý là hiện tượng tinh thần. 
Con người dùng ngôn ngữ để diễn đạt tâm lý, cho nên ngôn ngữ luôn đi liền với tâm 
lý, vì vậy nhiều người nhầm tưởng rằng ngôn ngữ là tâm lý. Nhưng thực ra tâm lý và 
ngôn ngữ không đồng nhất với nhau, chúng chỉ thống nhất với nhau thôi vì: 
Mỗi cá nhân chị có một thế giới tâm lý nhưng họ có thể biểu đạt bằng nhiều ngôn 
ngữ khác nhau (tiếng Anh hoặc tiếng Việt).     
Muốn thống nhất tâm lý với ngôn ngữ phải có quá trình luyện tập. 
Ví dụ : em bé học nói, người lớn học ngoại ngữ. 
Chức năng của ngôn ngữ khác với chức năng của tâm lý. Tâm lý có chức năng phản 
ánh nhận thức, tỉnh cảm, ý chí. Còn chức năng của ngôn ngữ là thông báo và giao  tiếp. 
Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thêm một loại kích thích để phản ánh và làm cho 
nội dung tâm lý cũng được diễn dạt một cách phong phú ... Do đó sự phát triển và 
hoàn thiện ngôn ngữ của cá nhân là điều kiện cho sự phát triển tâm lý của cá nhân. Tử 
lâu dân gian đã cho rằng ngôn ngữ của cá nhân là cơ sở để đánh giá tâm lý và nhân  cách của họ : 
“Chim khôn hỏi tiếng rảnh rang 
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe" 
Nhờ có ngôn ngữ con người mới có thể phản ảnh tâm lý một cách gián tiếp, lưu truyền 
tâm lý tử người này sang người khác, từ dời này sang dời khác, từ thế hệ trước sang 
thế hệ sau và giao lưu tâm lý giữa các dân tộc khác nhau trên toàn thể giới. 
 Tóm lại: Cơ sở tự nhiên là tiền đề cho sự phát triển tâm lý và chi phối đến sự phát 
triển của con người. Nó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và tồn tại mãi 
mãi song song với sự tồn tại của con người, giúp cho con người nhận định về bản 
chất của sự vật và hiện tượng. 
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----------- 
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG 
BÀI TẬP : Phân tích và lấy ví dụ về các loại giao tiếp.  BÀI LÀM 
- Giao tiếp là mối quan hệ giữa con người với con người, thể hiện sự tiếp xúc tâm lý 
giữangười và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin và cảm xúc, 
tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Nói cách khác, giao tiếp là quá     
trình xác lập và vận hành các quan hệ người-người, hiện thực hoá các quan hệ xã hội giữa 
chủ thể này với chủ thể khác . 
- Có nhiều cách phân loại giao tiếp: 
1. Căn cứ vào phương tiện giao tiếp, có ba loại giao tiếp sau : 
• Giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết): đây là hình thức giao tiếp dục trưng 
của con người bằng cách sử dụng những tín hiệu chung là từ, ngữ. Ví dụ: Hoàng 
đi học về. Hoàng: "Thưa mẹ con đi học mới về". Mẹ: "Ừ. Đi thay đồ rồi ăn cơm  thôi con". 
• Giao tiếp bằng tín hiệu phi ngôn ngữ: Giao tiếp bằng cử chỉ, nét mặt, điệu bộ... 
Sự kết hợp giữa các động tác khác nhau có thể thể hiện sắc thái khác nhau. Ví 
dụ: Hoàng xin mẹ đi chơi nhưng mẹ lắc đầu. Điều đó có nghĩa là mẹ không  cho Hoàng đi chơi. 
• Giao tiếp vật chất: giao tiếp thông qua hành động với vật thể. 
Ví dụ: Bann Hoàng tặng cho mẹ một chiếc áo dài nhân ngày Phụ nữ Việt 
Nam 20/10, áo dài màu tím, vì mẹ rất thích màu tím. 
2. Căn cứ vào khoảng cách, có thể có hai loại giao tiếp cơ bản: 
• Giao tiếp trực tiếp: giao tiếp mặt đối mặt, các chủ thể trực tiếp đối diện nhau để 
phát và nhận tín hiệu của nhau. 
Ví dụ: Hoàng và mẹ đang ngồi bên bàn và chuẩn bị ăn cơm. Hoàng: " Con 
mời mẹ ăn cơm.". Mẹ: "Ừ, ăn cơm đi con". 
• Giao tiếp gián tiếp: giao tiếp qua thư từ, phương tiện kỹ thuật hoặc có khi qua 
ngoại cảm, thần giao cách cảm... 
Ví dụ: Hoàng và bạn của Hoàng nhắn tin trên Zalo. 
3. Căn cứ vào quy cách giao tiếp, người ta thường chia thành hai loại: 
• Giao tiếp chính thức: giao tiếp diễn ra theo quy định, thể chế, chức trách. Các chủ 
chế phải tuân thủ một số yêu cầu xác định. 
Ví dụ: Giao tiếp giữa bác sĩ với bệnh nhân hoặc người nhà của bệnh nhân về 
tình trạng bệnh của bệnh nhân.     
• Giao tiếp không chính thức: giao tiếp không bị ràng buộc bởi các nghi thức mà 
dựa vào tính tự nguyện, tự giác, phụ thuộc vào nhu cầu, hứng thú, cảm xúc...  của các chủ thể. 
Ví dụ: Hoàng trò chuyện với bạn bè về việc học tập. 
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- -----------       
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG 
BÀI TẬP : Tại sao nói ý thức là cấp độ phản ánh tâm lý cao nhất của con người?  BÀI LÀM 
Ý thức là cấp độ phản ánh tâm lý cao nhất của con người vì: 
• Trong quá trình tiến hoá của sinh vật, mốc phân biệt rõ ràng nhất giữa con vật và 
con người đó chính là ý thức. Ý thức là một cấp độ phản ánh tâm lý đặc trưng, cào  cấp chỉ có ở người. 
• Một quá trình nhận thức nào đó tạo ra trong não một hình ảnh tâm lý, nhờ có ngôn 
ngữ, chính hình ảnh tâm lý đó được khách quan hoá và trở thành đối tượng để ta 
tiếp tục phản ảnh, làm cho kết quả phản ảnh sâu sắc hơn, tinh vi hơn. Quá trình 
phản ánh cấp hai như vậy, phản ánh của phản ánh, được gọi là ý thức. 
• Nếu cảm giác, tri giác, tư duy... mang lại cho con người những tri thức về thế giới 
khách quan thì ý thức là năng lực hiểu biết tri thức đó. Vì vậy cũng có thể nói ý thức 
là tri thức của tri thức, là hiểu biết của hiểu biết. 
• Như vậy, ý thức là hình thức phản ảnh tâm lý cao nhất chỉ có ở người, là sự phản 
ảnh bằng ngôn ngữ những gì con người đã tiếp thu được trong quá trình quan hệ 
qua lại với thế giới khách quan. Có thể ví ý thức như là “cặp mắt thứ hai" soi vào các 
kết quả do “cặp mắt thứ nhất" (cảm giác, tri giác, tư duy, cảm xúc...) mang lại. 
Với ý nghĩa đó ta có thể nói “ý thức là tồn tại được nhận thức". 
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- -----------     
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG 
BÀI TẬP : Phân tích cấu trúc của ý thức và cho ví dụ minh hoạ.  BÀI LÀM 
Ý thức là một chỉnh thể mang lại chất lượng mới cho thế giới nội tâm của con người. Nó 
bao gồm ba thành phần (3 mặt) liên kết, thống nhất hữu cơ với nhau, đó là mặt nhận thức, 
mặt thái độ và mặt năng động của ý thức. 
• Mặt nhận thức của ý thức: 
Đây là sự nhận thức của ý thức, hiểu biết của hiểu biết. Bao gồm 2 quá trình: 
Nhận thức cảm tính: Mang lại những tư liệu cho ý thức, cảm giác cho ta hình 
ành từng thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng; tri giác mang lại cho 
ta những hình ảnh trọn vẹn bên ngoài của sự vật, hiện tượng. Những hình 
ảnh đó giúp chúng ta thấy được sự tồn tại thật của thế giới khách quan và 
đó là nội dung ban đầu và cũng là bậc sơ cấp của ý thức. 
Nhận thức lý tính: mang lại cho ta hình ảnh khái quát bản chất của thực tại 
khách quan và mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng. Đây là nội dung 
hết sức cơ bản của tri thức. Tri thức là hạt cơ bản của ý thức. Do vậy ý thức 
là sự hiểu biết về thế giới khách quan. 
Ví dụ: Hoàng là học sinh giỏi. Hoàng nhận thức được việc học của mình là  quan trọng. 
• Mặt thái độ của ý thức: 
Khi phản ảnh thế giới khách quan ở cấp độ ý thức, con người luôn thể hiện thái 
độ của mình (thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá, thái độ lựa chọn) đối với đối 
tượng. Thái độ được hình thành trên cơ sở nhận thức thế giới. 
- Ví dụ: Thái độ lựa chọn: Khi đi mua đồ, có 2 bộ đồ mà chúng ta đều 
thíchnhưng vì túi tiền có hạn chỉ có thể mua một bộ, lúc này trong tư duy 
của con người sẽ xuất hiện thái độ so sánh đối chiếu để chọn bộ đồ phù  hợp và tốt nhất. 
- Ví dụ: Thái độ cảm xúc (yêu, thương, hờn, ghét..) Khi xem một bộ phim 
cóngười cảm động khóc, có người buồn… lúc này họ đã thể hiện thái độ  cảm xúc. 
- Ví dụ thái độ đánh giá: sự nhận xét về một người nào đó, đẹp, xấu..     
• Mặt năng động của ý thức: 
Ý thức tạo cho con người có khả năng dự kiến trước hoạt động, điều khiển, điều 
chỉnh hoạt động nhằm thích nghi và cải tạo thế giới khách quan, đồng thời cải 
tạo cả bản thân. Mặt khác ý thức nảy sinh và phát triển trong hoạt động. Cấu 
trúc của hoạt động quy định cấu trúc của ý thức. Quá trình xác định mục đích là 
điều kiện để có ý thức, động cơ, mục đích có ảnh hưởng quyết định đối với kết 
quả của quá trình nhận thức. Vì thế, nhu cầu, hứng thú, động cơ, ý chí... đều có 
vị trí nhất định trong cấu trúc ý thức. 
Ví dụ: Hoàng là học sinh giỏi. Hoàng tự lên kế hoach học tập và thực hiện 
theo kế hoạch để đạt kết quả tốt trong học tập. 
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- -----------       
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG 
BÀI TẬP : Phân tích các thuộc tính cơ bản của chú ý và cho ví dụ.  BÀI LÀM 
Các thuộc tính cơ bản của chú ý gồm: Sức tập trung chú ý, sự bền vững của chú ý, sự phân 
phối của chú ý, sự di chuyển của chủ ý. 
1. Sức tập trung chú ý: 
- Là khả năng tập trung chú ý vào phạm vi đối tượng tương đối hẹp cần thiết cho 
hoạtđộng. Khối lượng chú ý phụ thuộc vào đặc điểm của hoạt động, nếu không lập 
trung chú ý sẽ khó có thể hoàn thành nhiệm vụ. Tập trung chú ý cao độ có thể dẫn đến  hiện tượng đãng trí.  • 
Ví dụ: Học sinh chú ý theo dõi, quan sát khi làm thí nghiệm; Bác sĩ tập trung 
choca mổ. Cơ sở sinh lý của sức tập trung chú ý là sự tập trung hưng phấn mạnh 
một điểm trên vỏ não, quá trình ức chế mạnh trải rộng các vùng lân cận.  • 
Ví dụ, Phạm Ngũ Lão ngồi đan sọt bên đường, mãi suy nghĩ việc nước, mãi 
khimũi giáo sắc ngọt của lính nhà vua đâm vào đùi, ông mới giật mình hay biết. 
- Trong cuộc sống, có tập trung chú ý nhiều khi ta sẽ không bỏ sót những chi tiết 
củacác hiện tượng. Đôi khi, những chi tiết này lại có ý nghĩa khoa học lớn.  • 
Ví dụ, Galile đi nhà thờ, ông đã không tập trung nghe cha giảng đạo, mà 
mãiquan sát cái đèn ba dây treo ở nhà thờ, đung đưa khi giữ thổi vào. Ông đã bắt 
theo nhịp đập của trái tim, và chợt nghĩ tới thời gian của một dao động. Và từ đó, 
định luật chu kỳ dao động của con lắc đã được ra đời. 
2. Sự bền vững của chú ý: 
- Đó là khả năng duy trì chú ý lâu vào đối tượng của hoạt động. Ngược lại sự tập 
trungchú ý là sự phân tán chú ý. Phân tán chú ý diễn ra theo chu kỳ, có xen kẽ sự bền 
vững chú ý gọi là dao động chú ý.  • 
Ví dụ, có những học sinh ngồi 2, 3 giờ liền giải hết bài toán này đến bài 
toánkhác không chán. Nhà bác học Pháp Lavoadiê thì 8 ngày đêm rồng rã trong     
phòng thí nghiệm mới tìm ra thí nghiệm điện phân về nước. Menđen, nhà di 
truyền học vĩ đại của nhân loại, với 34 họ đậu trong gần 10 năm mới tìm ra ba định  luật di truyền... 
- Cơ sở sinh lý của tính bền vững chú ý: là quá trình thần kinh đã được rèn luyện  trởthành động hình. 
- Tính bền vững của chú ý là thuộc tính cần thiết cho mọi thành công của công 
việc,không có kết quả của công việc nào đến ngày một ngày hai, một sớm một chiều. 
3. Sự phân phối chú ý: 
- Là khả năng chú ý đến nhiều đối tượng hay nhiều hoạt động khác nhau một lúc  mộtcách có chủ định. 
- Muốn phân phối chú ý tốt, thì trong những hoạt động tiến hành cùng một lúc, phảicó 
các hành động quen thuộc, để chú ý được dành cho hoạt động quen là tối thiểu, còn 
phần lớn dành cho hành động mới. 
• Ví dụ: Hoạt động của giáo viên trên lớp học, cùng một lúc phải theo dõi giáo án, 
ngôn ngữ truyền đạt, bao quát lớp, viết bảng... 
- Cơ sở sinh lý của sự phân phối chú ý: cùng một lúc trên vỏ não xuất hiện nhiều 
điểmhưng phấn hoạt động làm những nhiệm vụ khác nhau.  - Tuy nhiên:  • 
Muốn có sự phân phối chú ý được diễn ra, đòi hỏi hoạt động phải có sự 
thuầnthục, nhuần nhuyễn, quen thuộc đối với chủ thể hoạt động.  • 
Trong sự phân phối chú ý, không phải mọi hoạt động hay hành động đều 
đượcchú ý như nhau, mà chỉ những đối tượng nào là đối tượng chính, hành động 
chính mới được phân phối chú ý nhiều hơn.  • 
Ví dụ: Với hoạt động của giáo viên trên lớp thì theo dõi giáo án và ngôn 
ngữtruyền đạt là đối tượng chính. 
- Trong thực tế, có những người cùng một lúc có thể chú ý đến nhiều việc khác nhau,mà 
công việc nào cũng đạt kết quả tốt.     
4. Sự di chuyển chú ý: 
- Là khả năng chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối tượng khác theo yêu cầu của 
hoạt động, di chuyển chú ý dễ dàng khi hoạt động mới hấp dẫn hơn, quan trọng hơn. 
Sự di chuyển chú ý không mâu thuẫn với độ bền vững của chú ý, nó cũng không phải 
là sự phân tán chú ý. Sự di chuyển chú ý là sự thay đổi đối tượng chú ý một cách có ý  thức. 
• Ví dụ: Sau khi làm bài kiểm tra xong, học sinh nhanh chóng tập trung chú ý xem  bài giải. 
- Cơ sở sinh lý của sự di chuyển chú ý: là do sự dễ di chuyển trung khu hưng phấn 
vàức chế trên vỏ não. 
- Sự di chuyển chú ý phụ thuộc vào tính chủ động của con người, phụ thuộc vào 
kếtquả hoạt động trước và sự hấp dẫn ở hoạt động sau. 
• Ví dụ: Sau những giờ học toán khô khan, sinh viên háo hức vào học giờ tâm lý  học. 
- Nhờ có thuộc tính di chuyển của chú ý, để đạt kết quả trong học tập, công tác, cần 
phân phối thời gian hợp lý giữa các công việc, không nên vùi đầu hàng giờ vào một  công việc. 
 Trên đây là những thuộc tính cơ bản của chú ý, chúng có quan hệ bổ sung cho nhau, 
chúng được hình thành và phát triển trong hoạt động, tạo thành những phẩm chất 
tâm lý của cá nhân. Mỗi thuộc tính của chú ý có thể giữ vai trò tích cực hay không 
tuỳ thuộc vào chỗ ta biết cách sử dụng từng thuộc tính hay phối hợp các thuộc tính 
theo yêu cầu của hoạt động. 
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------- 
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG 
BÀI TẬP : Khái niệm của cảm giác và tri giác. So sánh cảm giác và tri giác.      BÀI LÀM 
* Khái niệm của cảm giác và tri giác:  - 
Cảm giác: là quá trình nhận thức phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính 
bênngoài của sự vật hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan của  chúng ta.  - 
Tri giác: là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính 
bênngoài của sự vật hiện tượng khi nó đang trực tiếp tác động vào các giác quan của  chúng ta. 
* So sánh cảm giác và tri giác:  • Giống nhau: 
- Cảm giác và tri giác đều là hiện tượng tâm lý ở con người. 
- Chúng đều phát sinh theo một quá trình tâm lý con người diễn biến. 
- Những hiện tượng của cảm giác và tri giác đều được phản ánh trực tiếp. 
- Cảm giác và tri giác đều xuất phát và chịu sự kiểm tra, đánh giá từ thực tiễn.  • Khác nhau: 
- Cảm giác phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính.Còn tri giác thì phản 
ánhmột cách trọn vẹn các thuộc tính. 
- Khi so sánh cảm giác và tri giác sẽ thấy chúng thể hiện mức độ cao – thấp  khácnhau hoàn toàn. 
- Cảm giác nói đến thuộc tính riêng rẽ ở bên ngoài. Mọi thứ sẽ rõ ràng nhất khicó 
sự tác động trực tiếp đến con người. Tri giác lại phản ánh cấu trúc đầy đủ ở sự 
vật, hiện tượng mang tính ảnh hưởng trực tiếp. 
- Cảm giác có thể liên kết mọi giác quan lại với nhau. Nhưng tri giác lại phối 
hợpgiác quan theo một hệ thống nhất định.     
- Cảm giác chính là tiền đề xuất hiện tri giác. Tri giác sẽ quy định và cho 
phépnhững chiều hướng cảm giác có mức độ, thành phần. Trong đó bao gồm 
cả tính chất cảm giác thành phần. 
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- -----------       
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG 
BÀI TẬP : Phân tích các biện pháp phát triển tư duy ở con người.  BÀI LÀM 
 Đôi lúc bạn cảm thấy đầu óc trống rỗng, tư duy trì trệ và dường như bất lực trước các 
vấn đề, điều đó không phải do khả năng tư duy bị giới hạn mà là do bạn chưa biết cách 
làm cho nó trở nên sắc bén hơn. Tư duy là yếu tố không thể thiếu để làm việc hiệu quả 
cho hầu hết việc làm, từ giáo viên, nhân viên sales cho đến nhân viên logistics, kiểm toán 
viên... Sau đây là các biện pháp phát triển tư duy ở con người: 
1. Chọn thời gian phù hợp: 
Đa số người lớn tuổi thường suy nghĩ sáng suốt hơn vào buổi sáng, trong khi 
những người trẻ lại thường minh mẫn hơn vào buổi chiều. Do đó, hãy cố gắng 
tìm ra những "khoảnh khắc vàng" của bộ não và để dành chúng cho những công 
việc đòi hỏi tư duy nhiều nhất. Hãy dành một thời gian tối thiểu trong ngày cho 
việc rèn luyện cơ thể. Bạn sẽ thấy điều này không vô ích. 
2. Viết ra những gì chợt đến trong đầu: 
Luôn luôn mang theo sổ và bút, hoặc bất cứ phương tiện nào giúp bạn ghi lại 
những gì nhìn thấy, nghe thấy mà bạn cho là quan trọng hoặc những ý tưởng 
chợt đến. Hơn 99% những điều này có thể là vô dụng, nhưng 1% còn lại sẽ 
khiến bạn trở thành thiên tài. Và bạn sẽ không thể nhớ được chúng nếu không  ghi lại. 
3. Xây dựng kiến thức mới trên nền tảng những gì đã có: 
Mỗi khi nhận được những thông tin mới, hãy liên hệ chúng với những gì bạn 
đã biết. Đó là phương pháp tối ưu khiến cho những kiến thức mới không bị rơi 
rụng và những hiểu biết đã có không bị lạc hậu.  4. Luôn luôn thực hành: 
Một nghiên cứu do Viện nghiên cứu lão khoa Mỹ tiến hành cho thấy, việc thực 
hành thường xuyên trên một số lĩnh vực đã khiến khả năng nhận thức và trí 
nhớ ở những người 70 tuổi làm việc tốt hơn lúc họ 60. Vì vậy, hãy thường xuyên 
thực hành kiến thức của mình từ khi bạn còn trẻ. 
5. Kết bạn với những người thông minh:     
Đừng bao giờ bỏ qua cơ hội kết bạn với những người có khả năng tư duy cao 
hơn bạn. Quan sát cách họ giải quyết vấn đề và suy nghĩ về điều đó, bạn sẽ rút 
ra cho mình được nhiều kinh nghiệm.  6. Học cách tập trung: 
Bạn đã bao giờ đột nhiên quên tên một người chỉ sau khi gặp anh ta vài phút? 
Vấn đề không phải trí nhớ mà là khả năng tập trung. Khi tiếp xúc với kiến thức 
mới hoặc bắt đầu một công việc trí tuệ, hãy cố gắng gạt bỏ ra khỏi đầu mọi vấn 
đề khác không liên quan. Nếu cảm thấy khó thực hiện, hãy tạo ra một môi 
trường thuận lợi: Đóng cửa phòng, tắt điện thoại, yêu cầu người khác không  làm phiền...  7. Thư giãn: 
Một trong những biện pháp thư giãn tốt nhất cho những người làm việc trí tuệ 
là nghe nhạc Mozart. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh âm nhạc của ông vừa 
có tác dụng thư giãn, giảm stress, vừa kích thích sự hình thành mối liên hệ phức 
hợp giữa các phần của não. Khả năng trao đổi thông tin trong não nhờ vậy trở 
nên hiệu quả hơn và tốc độ tư duy sẽ nhanh hơn. 
8. Thử thách bản thân ở những lĩnh vực mới: 
Khi gần cuối đời, họa sĩ theo trường phái ấn tượng nổi tiếng Henri Matisse đã 
chuyển từ việc sáng tác bằng cọ sang dùng kéo. Nhiều tác phẩm tranh cắt giấy 
của ông ra đời trong thời gian này đã trở thành kiệt tác nhờ có được phong 
cách thể hiện mới mẻ đến không ngờ. Bài học rút ra là đừng bao giờ ỷ lại vào 
kinh nghiệm. Kinh nghiệm có thể làm cho bạn trở thành chuyên gia trong nhiều 
lĩnh vực nhưng cũng có thể khiến bạn trở nên cổ hủ, lạc hậu trước sự biến đổi 
của thời cuộc. Vì vậy, từ khi còn trẻ, hãy tìm cơ hội để thử thách khả năng ở 
những lĩnh vự mới và đừng ngần ngại nếu phải làm lại từ đầu. 
9. Rèn luyện cơ thể để bồi dưỡng tinh thần: 
Một tinh thần minh mẫn chỉ có được trong một cơ thể khỏe mạnh. Nếu bạn 
đang chọn cho mình một hình thức luyện tập thì aerobic có thể là quyết định 
đúng đắn. Nhiều công trình nghiên cứu gần đây cho thấy aerobic có thể cải 
thiện đáng kể khả năng làm việc trí óc. Nguyên nhân có thể do các bài tập 
aerobic làm tăng lượng oxy và dưỡng chất lên não, đồng thời kích thích sản 
sinh một hợp chất tự nhiên là neurotrophin, vốn có tác dụng thúc đẩy các tế     
bào não phát triển. Vì thế, dù bận rộn, hãy dành một thời gian tối thiểu trong 
ngày cho việc rèn luyện cơ thể. Bạn sẽ thấy điều này không vô ích. 
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- -----------