lOMoARcPSD| 44919514
Cách phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà nước
Cách phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà nước
Các cơ quan trong bộ máy nhà nước có thể được phân loại theo nhiều cách
khác nhau dựa vào các tiêu chí khác nhau. Sau đây là một số cách phân
loại cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Căn cứ vào thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ, các cơ quan nhà
nước được chia thành cơ quan trung ươngcơ quan địa phương.
Cơ quan trung ương là cơ quan có thẩm quyền hoạt động trên toàn
lãnh thổ ví dụ: Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao…
Cơ quan địa phương là cơ quan có thẩm quyền hoạt động chỉ trong
phạm vi địa phương.
Ví dụ: Hội đồng nhân dân hoặc Ủy ban nhân
dân các địa phương…
Căn cứ vào chức năng, các cơ quan nhà nước được chia thành
quan lập pháp (có chức năng xây dựng pháp luật Ví dụ: Quốc hội hay
Nghị viện.); cơ quan hành pháp (có chức năng tổ chức thực hiện pháp
luật Ví dụ: Chính phủ, Nội các); cơ quan tư pháp (có chức năng bảo vệ
pháp luật Ví dụ: Tòa án.).
Căn cứ vào thời gian hoạt động, các cơ quan nhà nước được chia
thành cơ quan thường xuyên cơ quan lâm thời.
Cơ quan thường xuyên cơ quan được thành lập để thực hiện
những công việc thường xuyên của nhà nước, tồn tại thường xuyên
trong bộ máy nhà nước.
Cơ quan lâm thời là cơ quan được thành lập để thực hiện những công
việc có tính chất nhất thời của nhà nước, sau khi thực hiện xong công
việc đó nó sẽ tự giải tán, ví dụ, ủy ban sửa đổi Hiến pháp, các cơ
quan bầu cử ở nước ta...
Căn cứ vào con đường hình thành, tính chất, chức năng, các cơ quan
nhà nước được chia thành cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan
quản lí nhà nước, cơ quan xét xử, cơ quan kiểm sát.
Cơ quan quyền lực nhà nước là cơ quan do nhân dân bầu ra, đại
diện nhân dân để thực thi quyền lực nhà nước
Cơ quan quản lí nhà nước là cơ quan được hình thành từ cơ quan
quyền lực nhà nước, thực hiện chức năng quản lí, điều hành công việc
hàng ngày của đất nước trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại;
Cơ quan xét xử có chức năng xét xử các vụ án;
lOMoARcPSD| 44919514
Cơ quan kiểm sát có chức năng kiểm tra, giám sát việc thực hiện
pháp luật, thay mặt nhà nước thực hiện quyền công tố. Hiện nay ở
Việt Nam, cơ quan này chì có chức năng kiểm tra, giám sát các hoạt
động tư pháp và thực hành quyền công tố.
Mỗi cách tiếp cận trên đều có ý nghĩa khoa học nhất định làm cơ sở để xem
xét và giải quyết những vấn đề về bộ máy nhà nước. Ngoài các cách phân
loại trên, còn có nhiều cách khác để phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà
nước. Tuy nhiên, việc phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà nước
nhiều khi chỉ có ý nghĩa tương đối, nhiều trường hợp nó chỉ có ý nghĩa
trong một phạm vi nhất định
Nhìn chung, trong bộ máy nhà nước đều bao gồm khá nhiều cơ quan nhà
nước. Mỗi cơ quan nhà nước là một yếu tố, một đơn vị cấu thành bộ máy
nhà nước, vì thế, nếu xem xét nhà nước như một cơ thể sống thì mỗi cơ
quan nhà nước chính là những bộ phận cơ bản cấu thành nên cơ thể
sống đó. Mỗi bộ phận trên cơ thể sống đều có chức năng, nhiệm vụ riêng
song lại có liên hệ mật thiết với các bộ phận khác để bảo đảm sự tồn tại và
phát triển của cơ thể đó. Giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước luôn có
sự liên kết chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một thể
thống nhất, trong đó mỗi cơ quan nhà nước được xem như là một mắt xích
của hệ thống đó.
Tóm lại, về cơ cấu bộ máy nhà nước thường bao gồm:
- Nguyên thủ quốc gia (vua, tổng thống, chủ tịch nước...);
- Cơ quan lập pháp (vua, nghị viện, quốc hội...);
- Cơ quan hành pháp (vua, chính phủ, hội đồng bộ trưởng...);
- Cơ quan tư pháp (vua, tòa án...);
- Chính quyền địa phương: tùy theo đặc điểm cụ thể, có thể tổ chức 2, 3 thậm chí
4 cấp chính quyền địa phương. Ở mỗi cấp chính quyền địa phương có thể có một
hoặc nhiều cơ quan, chẳng hạn cơ quan quyết nghị, cơ quan chấp hành...; - Quân
đội, cảnh sát.
Bộ máy nhà nước được tchức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất
định
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lí, những
tư tưởng chỉ đạo có tính then chốt, xuất phát điểm, làm cơ sở cho toàn bộ quá trình
lOMoARcPSD| 44919514
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước thường bao gồm
nhiều cơ quan có vị trí, vai trò và phạm vi hoạt động... khác nhau, do vậy, nó
khó có thể phát huy được sức mạnh và hiệu quả hoạt động nếu không được tổ chức
một cách chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ. Do vậy, để thiết lập trật tự trong bộ máy
nhà nước nhằm tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, thống nhất trong hoạt động giữa các
cơ quan nhà nước, tang cường sức mạnh của cả bộ máy nhà nước, đòi hỏi quá trình
tổ chức và hoạt động của bộ máy này phải dựa trên cơ sở của những nguyên tắc
chung nhất định.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở các nước khác nhau
thường có sự khác nhau vì chúng được xác định trên cơ sở bản chất, chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước, trình độ phát triển của kinh tế xã hội, của nền dân chủ...
Chẳng hạn, bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam, Trưng Quốc... chủ yếu được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc “tôn quân quyền”, bộ máy nhà nước Việt Nam
hiện nay được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hệ thống các nguyên tắc được xác
lập trong Hiến pháp và luật.
Bộ máy nhà nước được thiết lập đthực hiện các chức năng, nhim v
của nhà nước
Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước,
khi nhà nước cần phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ nào đó, nhà nước thành lập
ra các cơ quan tương ứng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ ấy. Chính vì vậy, quy
mô, cơ cấu của bộ máy nhà nước cũng như cách thức tổ chức và hoạt động của
từng cơ quan nhà nước... trước tiên chịu sự chi phối của chức năng nhà nước.
Chẳng hạn, nếu chức năng chủ yếu của nhà nước là trấn áp thì trong bộ máy nhà
nước các cơ quan cưỡng chế, trấn áp cũng là chủ yếu và được coi trọng nhất;
ngược lại, nếu chức năng chủ yếu của nhà nước là tổ chức và quản lí kinh tế, xã
hội thì trong bộ máy nhà nước cũng chủ yếu bao gồm các cơ quan quản lí các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước còn chịu sự chi phối
của các yếu tố khác như năng lực, phẩm chất của đội ngũ nhân viên nhà nước, cách
nhìn nhận, đánh giá vấn đề của công tác thiết kế bộ máy nhà nước, trình độ phát
triển của xã hội, truyền thống dân tộc, mức độ thâm nhập của các học thuyết chính
trị pháp lí, sự ảnh hưởng của các nhà nước khác... Cùng với sự phát triển của xã
hội, của nền dân chủ cũng như của văn minh nhân loại thì bộ máy nhà nước cũng
ngày càng phát triển đa dạng, phong phú hơn, quy mô của bộ máy nhà nước ngày
càng mở rộng hơn, cách thức tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà
nước ngày càng dân chủ hơn.
lOMoARcPSD| 44919514
Chẳng hạn, cơ quan thực hiện chức năng lập pháp ở các nhà nước đương đại ch
yếu hình thành bằng con đường bầu cử phổ thông, trực tiếp và hoạt động theo che
độ tập thể..
CHƯƠNG 2: ĐẠI CƯƠNG VỀ PHÁP LUT
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUT
2.1.1. NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA PHÁP LUT
Mối quan hệ trong nguồn gốc hình thành nhà nước và pháp luật?
* Quan điểm Chủ nghĩa Mác -Lênin
- Theo học thuyết Mác-Lênin, nhà nước và pháp luật không có con đường tồn
tại riêng ngoài sự vận động của kinh tế, những nguyên nhân làm xuất hiện nhà
nước cũng là những nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật.
- Pháp luật là kết quả tất yếu khách quan của quá trình vận động lịch sử với
những nguyên nhân cụ thể. Những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước cũng như
pháp luật đều bắt nguồn từ thực tiễn đời sống xã hội của con người.
* Các quy phạm xã hội trong XH nguyên thủy
-Xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước và do đó chưa có pháp luật. Bằng
sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất, xuất hiện chế độ tư hữu, xóa bỏ nền
kinh tế nguyên thủy, xuất hiện nền kinh tế sản xuất. -> Xuất hiện xung đột về lợi
ích
-Khoảng cách về sự phân hóa xã hội ngày càng lớn khi xã hội xuất hiện giai cấp và
sự thống trị giai cấp.
=> Giai cấp thống trị tự đặt ra những quy định mới có lợi cho mình, những quy
định đó thể hiện ý chí, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị được áp đặt vào xã hội,
buộc xã hội thừa nhận và dần được coi là pháp luật.
=> Pháp luật chỉ xuất hiện khi cơ sở kinh tế, xã hội đã đạt đến trình độ nhất định.
Pháp luật là sản phẩm của ý thức con người nhưng pháp luật chỉ xuất hiện khi có
những điều kiện nhất định.
* Những con đường hình thành PL
lOMoARcPSD| 44919514
- Thứ nhất: Giai cấp thống trị thông qua nhà nước chọn lọc, thừa nhận các quy tắc
xử sự thông thường phổ biến trong xã hội (như các quy tắc đạo đức, phong tục
tập quán,..) nâng lên thành các quy định pháp luật.
- Thứ hai: nhà nước thông qua các cơ quan của mình ban hành các quy phạm mới.
- Thứ ba: Thông qua hoạt động giải quyết các vụ tranh chấp hay kiện tụng, các cơ
quan hành chính hoặc cơ quan xét xử ban hành các quyết định hoặc bản án.
Những bản án hay quyết định nào phù hợp sẽ được nhà nước sử dụng làm khuôn
mẫu để giải quyết các vụ việc tương tự sau này, hình thức này gọi là Luật án lệ
hay Tiền lệ pháp
2.1.2. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT CỦA PHÁP LUT Khái niệm :
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục
tiêu, định hướng cụ thể.
Đặc điểm
Đặc điểm: 5 đặc điểm
- Tính quyền lực nhà nước: Pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành và đảm bảo thực hiện.
- Nhà nước đảm bảo tính hợp lý về nội dung cho quy phạm pháp luật;
- Nhà nước đảm bảo việc thực hiện pháp luật một cách hiệu quả trên thực tế
bằng những biện pháp đảm bảo về kinh tế, tư tưởng, phương diện tổ chức
và hệ thống các biện pháp cưỡng chế nhà nước - Tính quy phạm phổ
biến:
- Pháp luật là khuôn mẫu, chuẩn mực cho hành vi xử sự của con người được
xác định cụ thể;
- Pháp luật đưa ra giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để các chủ thể
cóthể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép;
- Pháp luật có phạm vi tác động rộng lớn: điều chỉnh những quan hệ xã hội
cơ bản, phổ biến, điển hình; tác động đến mọi cá nhân, tổ chức trong những
điều kiện, hoàn cảnh mà nó đã dự liệu
- Tính bắt buộc chung: Bất kỳ chủ thể nào ở điều kiện, hoàn cảnh quy
phạm dự liệu đều phải thực hiện đúng yêu cầu của pháp luật. - Tính hệ
thống: Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự chung - Tính xác định
về mặt hình thức:
- pháp luật phải được xây dựng theo thẩm quyền, thủ tục một cách
chặt chẽ và minh bạch. Đảm bảo tính nghiêm ngặt về trình tự, thủ tục ban
hành, sửa đổi và hiệu lực pháp lý;
lOMoARcPSD| 44919514
- pháp luật phải được thể hiện thông qua những hình thức xác định (tập
quánpháp, tiền lệ pháp hoặc văn bản quy phạm pháp luật) và bằng ngôn
ngữ pháp lý (rõ ràng, chính xác, một nghĩa, có khả năng áp dụng trực tiếp)
Bản chất
Bản chất của pháp luật là vấn đề thuộc về những dấu hiệu bên trong của
pháp luật, mục đích điều chỉnh của pháp luật...Cũng giống như nhà nước,
bản chất pháp luật là một thể thống nhất bao gồm hai mặt – hai phương
diện cơ bản: phương diện giai cấp và phương diện xã hội, hay thường
được gọi là tính giai cấp (quyền sở hữu ruộng đất cho địa chủ) và tính xã
hội (các mối quan hệ vợ chồng, làm ăn).
Tính giai cấp của pháp luật: Pháp luật có tính giai cấp bởi pháp luật
là công cụ cai trị giai cấp và giai cấp là yếu tố tác động đến quá trình
hình thành và phát triển của pháp luật. Tính giai cấp của pháp luật
được thể hiện:
Pháp luật phản ánh ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, mà
nội dung ý chí đó được quy định bởi điều kiện sinh hoạt vật
chất của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà
nước, giai cấp thống trị thông qua nhà nước để thể hiện ý chí
của giai cấp mình một cách tập trung thống nhất và hợp pháp
hóa thành ý chí nhà nước, ý chí đó được cụ thể hóa trong các
văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành và được đảm bảo thực hiện, trở thành những quy tắc xử sự
chung có tính bắt buộc đối với mọi người.
Tính giai cấp của pháp luật còn được thể hiện ở mục đích điều
chỉnh của pháp luật. Pháp luật được hình thành, trước hết,
nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp
trong xã hội. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, định
hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo những mục đích,
đường lối phát triển phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị,
bảo vệ, củng cố địa vị của giai cấp thống trị.
Tính xã hội của pháp luật: Bên cạnh bản chất giai cấp, pháp luật còn
mang bản chất xã hội. Pháp luật có tính xã hội bởi vì pháp luật ra đời
không chỉ thuần túy từ nhu cầu cai trị của nhà nước, không chỉ là công
cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, mặc dù đó là phần chủ yếu;
pháp luật được hình thành còn để đáp ứng nhu cầu quản lý xã hội và
là công cụ để quản lý xã hội. Tính xã hội của pháp luật được thể hiện:
lOMoARcPSD| 44919514
Bên cạnh việc thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, pháp luật
còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác
trong xã hội. Nếu không quan tâm đúng mức đến vấn đề này
trong hoạt động của nhà nước và trong hệ thống pháp luật sẽ
dẫn đến nhiều ảnh hưởng tiêu cực dưới những mức độ, hình
thức nhất định đối với quá trình quản lý xã hội của nhà nước.
Tính xã hội của pháp luật còn được thể hiện dưới góc độ: thực
tiễn pháp luật là kết quả của quá trình “chọn lọc tự nhiên”
trong xã hội. Các quy phạm pháp luật mặc dù do các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội, nhưng trong thực tiễn, chỉ những quy phạm nào phù
hợp với thực tiễn mới được thực tiễn giữ lại thông qua nhà
nước. Đó là những quy phạm hợp lý, khách quan, được số
đông trong xã hội chấp nhận.
Giá trị xã hội của pháp luật còn được thể hiện ở chỗ, pháp luật vừa là
thước đo hành vi của con người (là phương tiện mô hình hóa cách thức
xử sự của con người), vừa có vai trò đánh giá, kiểm tra, kiểm nghiệm các
quá trình, các hiện tượng xã hội.
Đồng thời, pháp luật còn là công cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh
các quan hệ xã hội, hướng chúng vận động và phát triển theo những
tiêu chí, mục đích nhất định, phù hợp với các quy luật khách quan.
Pháp luật có khả năng hạn chế, loại bỏ các quan hệ xã hội tiêu cực,
thúc đẩy cá quan hệ xã hội tích cực.
Như vậy, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp, vừa thể hiện
tính xã hội. Hai thuộc tính này có quan hệ mật thiết, phụ thuộc, tác động lẫn
nhau và cả hai đều mang tính tất yếu, khách quan. Do đó, không có pháp luật
chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp, ngược lại, không có pháp luật chỉ thể
hiện tính xã hội.
Mức độ thể hiện và thực hiện tính giai cấp và tính xã hội trong các kiểu pháp
luật và trong một hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia vào các giai đoạn lịch
sử khác nhau cũng có sự khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào hàng loạt các
yếu tố khách quan và chủ quan như: điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa,
hội, truyền thống, đạo đức, tập quán; tương quan lực lượng giữa các giai
cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, xu thế phát triển quốc gia, quốc tế…
Cụ thể như: Tính giai cấp của pháp luật thường được thể hiện một cách công
khai, quyết liệu trong các nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến.
Trong xã hội đương đại, pháp luật cũng thể hiện tính giai cấp của mình,
lOMoARcPSD| 44919514
đồng thời theo xu hướng chung, tính xã hội, tính nhân loại ngày càng thể
hiện rõ nét hơn.
2.1.3. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUT (tr91-92)
2.2. QUY PHẠM PHÁP LUT

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44919514
Cách phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà nước
Cách phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà nước
Các cơ quan trong bộ máy nhà nước có thể được phân loại theo nhiều cách
khác nhau dựa vào các tiêu chí khác nhau. Sau đây là một số cách phân
loại cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Căn cứ vào thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ, các cơ quan nhà
nước được chia thành cơ quan trung ươngcơ quan địa phương.
Cơ quan trung ương là cơ quan có thẩm quyền hoạt động trên toàn
lãnh thổ ví dụ: Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao…
Cơ quan địa phương là cơ quan có thẩm quyền hoạt động chỉ trong
phạm vi địa phương. Ví dụ: Hội đồng nhân dân hoặc Ủy ban nhân
dân các địa phương…

Căn cứ vào chức năng, các cơ quan nhà nước được chia thành
quan lập pháp (có chức năng xây dựng pháp luật Ví dụ: Quốc hội hay
Nghị viện
.); cơ quan hành pháp (có chức năng tổ chức thực hiện pháp
luật Ví dụ: Chính phủ, Nội các); cơ quan tư pháp (có chức năng bảo vệ
pháp luật Ví dụ: Tòa án.).
Căn cứ vào thời gian hoạt động, các cơ quan nhà nước được chia
thành cơ quan thường xuyên cơ quan lâm thời.
Cơ quan thường xuyên cơ quan được thành lập để thực hiện
những công việc thường xuyên của nhà nước, tồn tại thường xuyên trong bộ máy nhà nước.
Cơ quan lâm thời là cơ quan được thành lập để thực hiện những công
việc có tính chất nhất thời của nhà nước, sau khi thực hiện xong công
việc đó nó sẽ tự giải tán, ví dụ, ủy ban sửa đổi Hiến pháp, các cơ
quan bầu cử ở nước ta...

Căn cứ vào con đường hình thành, tính chất, chức năng, các cơ quan
nhà nước được chia thành cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan
quản lí nhà nước, cơ quan xét xử, cơ quan kiểm sát.

Cơ quan quyền lực nhà nước là cơ quan do nhân dân bầu ra, đại
diện nhân dân để thực thi quyền lực nhà nước
Cơ quan quản lí nhà nước là cơ quan được hình thành từ cơ quan
quyền lực nhà nước, thực hiện chức năng quản lí, điều hành công việc
hàng ngày của đất nước trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại;
Cơ quan xét xử có chức năng xét xử các vụ án; lOMoAR cPSD| 44919514
Cơ quan kiểm sát có chức năng kiểm tra, giám sát việc thực hiện
pháp luật, thay mặt nhà nước thực hiện quyền công tố. Hiện nay ở
Việt Nam, cơ quan này chì có chức năng kiểm tra, giám sát các hoạt
động tư pháp và thực hành quyền công tố.
Mỗi cách tiếp cận trên đều có ý nghĩa khoa học nhất định làm cơ sở để xem
xét và giải quyết những vấn đề về bộ máy nhà nước. Ngoài các cách phân
loại trên, còn có nhiều cách khác để phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà
nước. Tuy nhiên, việc phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà nước
nhiều khi chỉ có ý nghĩa tương đối, nhiều trường hợp nó chỉ có ý nghĩa
trong một phạm vi nhất định

Nhìn chung, trong bộ máy nhà nước đều bao gồm khá nhiều cơ quan nhà
nước. Mỗi cơ quan nhà nước là một yếu tố, một đơn vị cấu thành bộ máy
nhà nước, vì thế, nếu xem xét nhà nước như một cơ thể sống thì mỗi cơ
quan nhà nước chính là những bộ phận cơ bản cấu thành nên cơ thể
sống đó.
Mỗi bộ phận trên cơ thể sống đều có chức năng, nhiệm vụ riêng
song lại có liên hệ mật thiết với các bộ phận khác để bảo đảm sự tồn tại và
phát triển của cơ thể đó. Giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước luôn có
sự liên kết chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một thể
thống nhất,
trong đó mỗi cơ quan nhà nước được xem như là một mắt xích của hệ thống đó.
Tóm lại, về cơ cấu bộ máy nhà nước thường bao gồm:
- Nguyên thủ quốc gia (vua, tổng thống, chủ tịch nước...);
- Cơ quan lập pháp (vua, nghị viện, quốc hội...);
- Cơ quan hành pháp (vua, chính phủ, hội đồng bộ trưởng...);
- Cơ quan tư pháp (vua, tòa án...);
- Chính quyền địa phương: tùy theo đặc điểm cụ thể, có thể tổ chức 2, 3 thậm chí
4 cấp chính quyền địa phương. Ở mỗi cấp chính quyền địa phương có thể có một
hoặc nhiều cơ quan, chẳng hạn cơ quan quyết nghị, cơ quan chấp hành...; - Quân đội, cảnh sát.
Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lí, những
tư tưởng chỉ đạo có tính then chốt, xuất phát điểm, làm cơ sở cho toàn bộ quá trình lOMoAR cPSD| 44919514
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước thường bao gồm
nhiều cơ quan có vị trí, vai trò và phạm vi hoạt động... khác nhau
, do vậy, nó
khó có thể phát huy được sức mạnh và hiệu quả hoạt động nếu không được tổ chức
một cách chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ. Do vậy, để thiết lập trật tự trong bộ máy
nhà nước nhằm tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, thống nhất trong hoạt động giữa các
cơ quan nhà nước, tang cường sức mạnh của cả bộ máy nhà nước, đòi hỏi quá trình
tổ chức và hoạt động của bộ máy này phải dựa trên cơ sở của những nguyên tắc chung nhất định.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở các nước khác nhau
thường có sự khác nhau vì chúng được xác định trên cơ sở bản chất, chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước, trình độ phát triển của kinh tế xã hội, của nền dân chủ...
Chẳng hạn, bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam, Trưng Quốc... chủ yếu được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc “tôn quân quyền”, bộ máy nhà nước Việt Nam
hiện nay được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hệ thống các nguyên tắc được xác
lập trong Hiến pháp và luật.
Bộ máy nhà nước được thiết lập để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước
Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước,
khi nhà nước cần phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ nào đó, nhà nước thành lập
ra các cơ quan tương ứng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ ấy. Chính vì vậy, quy
mô, cơ cấu của bộ máy nhà nước cũng như cách thức tổ chức và hoạt động của
từng cơ quan nhà nước... trước tiên chịu sự chi phối của chức năng nhà nước.
Chẳng hạn, nếu chức năng chủ yếu của nhà nước là trấn áp thì trong bộ máy nhà
nước các cơ quan cưỡng chế, trấn áp cũng là chủ yếu và được coi trọng nhất;
ngược lại, nếu chức năng chủ yếu của nhà nước là tổ chức và quản lí kinh tế, xã
hội thì trong bộ máy nhà nước cũng chủ yếu bao gồm các cơ quan quản lí các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước còn chịu sự chi phối
của các yếu tố khác như năng lực, phẩm chất của đội ngũ nhân viên nhà nước, cách
nhìn nhận, đánh giá vấn đề của công tác thiết kế bộ máy nhà nước, trình độ phát
triển của xã hội, truyền thống dân tộc, mức độ thâm nhập của các học thuyết chính
trị pháp lí, sự ảnh hưởng của các nhà nước khác... Cùng với sự phát triển của xã
hội, của nền dân chủ cũng như của văn minh nhân loại thì bộ máy nhà nước cũng
ngày càng phát triển đa dạng, phong phú hơn, quy mô của bộ máy nhà nước ngày
càng mở rộng hơn, cách thức tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà
nước ngày càng dân chủ hơn. lOMoAR cPSD| 44919514
Chẳng hạn, cơ quan thực hiện chức năng lập pháp ở các nhà nước đương đại chủ
yếu hình thành bằng con đường bầu cử phổ thông, trực tiếp và hoạt động theo che độ tập thể..
CHƯƠNG 2: ĐẠI CƯƠNG VỀ PHÁP LUẬT
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT
2.1.1. NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA PHÁP LUẬT
Mối quan hệ trong nguồn gốc hình thành nhà nước và pháp luật?
* Quan điểm Chủ nghĩa Mác -Lênin -
Theo học thuyết Mác-Lênin, nhà nước và pháp luật không có con đường tồn
tại riêng ngoài sự vận động của kinh tế, những nguyên nhân làm xuất hiện nhà
nước cũng là những nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật. -
Pháp luật là kết quả tất yếu khách quan của quá trình vận động lịch sử với
những nguyên nhân cụ thể. Những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước cũng như
pháp luật đều bắt nguồn từ thực tiễn đời sống xã hội của con người.
* Các quy phạm xã hội trong XH nguyên thủy
-Xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước và do đó chưa có pháp luật. Bằng
sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất, xuất hiện chế độ tư hữu, xóa bỏ nền
kinh tế nguyên thủy, xuất hiện nền kinh tế sản xuất. -> Xuất hiện xung đột về lợi ích
-Khoảng cách về sự phân hóa xã hội ngày càng lớn khi xã hội xuất hiện giai cấp và
sự thống trị giai cấp.
=> Giai cấp thống trị tự đặt ra những quy định mới có lợi cho mình, những quy
định đó thể hiện ý chí, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị được áp đặt vào xã hội,
buộc xã hội thừa nhận và dần được coi là pháp luật.
=> Pháp luật chỉ xuất hiện khi cơ sở kinh tế, xã hội đã đạt đến trình độ nhất định.
Pháp luật là sản phẩm của ý thức con người nhưng pháp luật chỉ xuất hiện khi có
những điều kiện nhất định.
* Những con đường hình thành PL lOMoAR cPSD| 44919514
- Thứ nhất: Giai cấp thống trị thông qua nhà nước chọn lọc, thừa nhận các quy tắc
xử sự thông thường phổ biến trong xã hội (như các quy tắc đạo đức, phong tục
tập quán,..) nâng lên thành các quy định pháp luật.
- Thứ hai: nhà nước thông qua các cơ quan của mình ban hành các quy phạm mới.
- Thứ ba: Thông qua hoạt động giải quyết các vụ tranh chấp hay kiện tụng, các cơ
quan hành chính hoặc cơ quan xét xử ban hành các quyết định hoặc bản án.
Những bản án hay quyết định nào phù hợp sẽ được nhà nước sử dụng làm khuôn
mẫu để giải quyết các vụ việc tương tự sau này, hình thức này gọi là Luật án lệ hay Tiền lệ pháp
2.1.2. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT CỦA PHÁP LUẬT Khái niệm :
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục
tiêu, định hướng cụ thể. Đặc điểm
Đặc điểm: 5 đặc điểm
- Tính quyền lực nhà nước: Pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành và đảm bảo thực hiện.
- Nhà nước đảm bảo tính hợp lý về nội dung cho quy phạm pháp luật;
- Nhà nước đảm bảo việc thực hiện pháp luật một cách hiệu quả trên thực tế
bằng những biện pháp đảm bảo về kinh tế, tư tưởng, phương diện tổ chức
và hệ thống các biện pháp cưỡng chế nhà nước - Tính quy phạm phổ biến:
- Pháp luật là khuôn mẫu, chuẩn mực cho hành vi xử sự của con người được xác định cụ thể;
- Pháp luật đưa ra giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để các chủ thể
cóthể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép;
- Pháp luật có phạm vi tác động rộng lớn: điều chỉnh những quan hệ xã hội
cơ bản, phổ biến, điển hình; tác động đến mọi cá nhân, tổ chức trong những
điều kiện, hoàn cảnh mà nó đã dự liệu
- Tính bắt buộc chung: Bất kỳ chủ thể nào ở điều kiện, hoàn cảnh quy
phạm dự liệu đều phải thực hiện đúng yêu cầu của pháp luật. - Tính hệ
thống
: Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự chung - Tính xác định về mặt hình thức:
- pháp luật phải được xây dựng theo thẩm quyền, thủ tục một cách
chặt chẽ và minh bạch. Đảm bảo tính nghiêm ngặt về trình tự, thủ tục ban
hành, sửa đổi và hiệu lực pháp lý; lOMoAR cPSD| 44919514
- pháp luật phải được thể hiện thông qua những hình thức xác định (tập
quánpháp, tiền lệ pháp hoặc văn bản quy phạm pháp luật) và bằng ngôn
ngữ pháp lý (rõ ràng, chính xác, một nghĩa, có khả năng áp dụng trực tiếp) Bản chất
Bản chất của pháp luật là vấn đề thuộc về những dấu hiệu bên trong của
pháp luật, mục đích điều chỉnh của pháp luật...Cũng giống như nhà nước,
bản chất pháp luật là một thể thống nhất bao gồm hai mặt – hai phương
diện cơ bản: phương diện giai cấp và phương diện xã hội, hay thường
được gọi là tính giai cấp (quyền sở hữu ruộng đất cho địa chủ) và tính xã
hội (các mối quan hệ vợ chồng, làm ăn).
Tính giai cấp của pháp luật: Pháp luật có tính giai cấp bởi pháp luật
là công cụ cai trị giai cấp và giai cấp là yếu tố tác động đến quá trình
hình thành và phát triển của pháp luật. Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện:
Pháp luật phản ánh ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, mà
nội dung ý chí đó được quy định bởi điều kiện sinh hoạt vật
chất của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà
nước, giai cấp thống trị thông qua nhà nước để thể hiện ý chí
của giai cấp mình một cách tập trung thống nhất và hợp pháp
hóa thành ý chí nhà nước, ý chí đó được cụ thể hóa trong các
văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành và được đảm bảo thực hiện, trở thành những quy tắc xử sự
chung có tính bắt buộc đối với mọi người.
Tính giai cấp của pháp luật còn được thể hiện ở mục đích điều
chỉnh của pháp luật. Pháp luật được hình thành, trước hết,
nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp
trong xã hội. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, định
hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo những mục đích,
đường lối phát triển phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị,
bảo vệ, củng cố địa vị của giai cấp thống trị.
Tính xã hội của pháp luật: Bên cạnh bản chất giai cấp, pháp luật còn
mang bản chất xã hội. Pháp luật có tính xã hội bởi vì pháp luật ra đời
không chỉ thuần túy từ nhu cầu cai trị của nhà nước, không chỉ là công
cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, mặc dù đó là phần chủ yếu;
pháp luật được hình thành còn để đáp ứng nhu cầu quản lý xã hội và
là công cụ để quản lý xã hội. Tính xã hội của pháp luật được thể hiện: lOMoAR cPSD| 44919514
Bên cạnh việc thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, pháp luật
còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác
trong xã hội. Nếu không quan tâm đúng mức đến vấn đề này
trong hoạt động của nhà nước và trong hệ thống pháp luật sẽ
dẫn đến nhiều ảnh hưởng tiêu cực dưới những mức độ, hình
thức nhất định đối với quá trình quản lý xã hội của nhà nước.
Tính xã hội của pháp luật còn được thể hiện dưới góc độ: thực
tiễn pháp luật là kết quả của quá trình “chọn lọc tự nhiên”
trong xã hội. Các quy phạm pháp luật mặc dù do các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội, nhưng trong thực tiễn, chỉ những quy phạm nào phù
hợp với thực tiễn mới được thực tiễn giữ lại thông qua nhà
nước. Đó là những quy phạm hợp lý, khách quan, được số
đông trong xã hội chấp nhận.
Giá trị xã hội của pháp luật còn được thể hiện ở chỗ, pháp luật vừa là
thước đo hành vi của con người (là phương tiện mô hình hóa cách thức
xử sự của con người), vừa có vai trò đánh giá, kiểm tra, kiểm nghiệm các
quá trình, các hiện tượng xã hội.
Đồng thời, pháp luật còn là công cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh
các quan hệ xã hội, hướng chúng vận động và phát triển theo những
tiêu chí, mục đích nhất định, phù hợp với các quy luật khách quan.
Pháp luật có khả năng hạn chế, loại bỏ các quan hệ xã hội tiêu cực,
thúc đẩy cá quan hệ xã hội tích cực.
Như vậy, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp, vừa thể hiện
tính xã hội. Hai thuộc tính này có quan hệ mật thiết, phụ thuộc, tác động lẫn
nhau và cả hai đều mang tính tất yếu, khách quan. Do đó, không có pháp luật
chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp, ngược lại, không có pháp luật chỉ thể hiện tính xã hội.
Mức độ thể hiện và thực hiện tính giai cấp và tính xã hội trong các kiểu pháp
luật và trong một hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia vào các giai đoạn lịch
sử khác nhau cũng có sự khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào hàng loạt các
yếu tố khách quan và chủ quan như: điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, truyền thống, đạo đức, tập quán; tương quan lực lượng giữa các giai
cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, xu thế phát triển quốc gia, quốc tế…
Cụ thể như: Tính giai cấp của pháp luật thường được thể hiện một cách công
khai, quyết liệu trong các nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến.
Trong xã hội đương đại, pháp luật cũng thể hiện tính giai cấp của mình, lOMoAR cPSD| 44919514
đồng thời theo xu hướng chung, tính xã hội, tính nhân loại ngày càng thể hiện rõ nét hơn.
2.1.3. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT (tr91-92) 2.2. QUY PHẠM PHÁP LUẬT