













Preview text:
lOMoAR cPSD| 61256830
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: CẠNH TRANH TRONG NỘI BỘ NGÀNH
LOGISTICS VÀ QUẢN LÝ CHUỖI CUNG ỨNG
& LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên: Phạm Vũ Ánh Dương Mã SV: 11221628
Lớp TÍN CHỈ: Kinh tế chính trị Mác – Lênin (222)_LSIC64 Số thứ tự: 19
Hà Nội, 06 tháng 06 năm 2023 lOMoAR cPSD| 61256830 Mục Lục
Phần I: Lời mở đầu ........................................................................................................... 3
Phần II: Nội dung .............................................................................................................. 3
1. Lý luận cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường .................................................... 3
1.1. Khái niệm cạnh tranh........................................................................................... 3
1.2. Những đặc trưng cơ bản của cạnh tranh ............................................................ 4
1.3. Các hình thức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường .................................... 5
1.4. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường .......................................... 6
1.5. Mục đích của cạnh tranh ..................................................................................... 8
2. Thực tiễn cạnh tranh ở Việt Nam ............................................................................. 8
2.1. Thực tiễn cạnh tranh nội bộ ngành Logistics và quản lý chuỗi cung ứng ....... 8
2.2. Nguyên nhân ....................................................................................................... 10
2.3. Giải pháp ............................................................................................................. 12
Phần III: Kết luận ........................................................................................................... 12 lOMoAR cPSD| 61256830
Phần I: Lời mở đầu
Cạnh tranh là tất yếu khách quan, là một cơ chế vận hành chủ yếu gắn với kinh tế hàng
hóa, kinh tế thị trường. Bất kì lĩnh vực nào cũng tồn tại sự cạnh tranh. Không có cạnh tranh
sẽ không có sự tiến bộ và phát triển. Đồng nghĩa với đó, kinh tế thị trường càng phát triển
thì cạnh tranh trên thị trường càng trở nên thường xuyên, quyết liệt hơn. Do đó, tính chất
cạnh tranh là vô cùng khắc nghiệt, đòi hỏi các chủ thể tham gia thị trường cần có nhận thức
đúng đắn về cạnh tranh, lấy cạnh tranh làm động lực, nâng cao năng lực sản suất, phát huy
lợi thế vốn có và phát triển, sáng tạo để không hòa tan trong mạng lưới các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, hay ở bất kì quốc gia nào trên thế giới, bên cạnh việc nắm bắt
những tác động ưu việt của cạnh tranh mang lại cho nền kinh tế thị trường, các chủ thể
kinh tế, các doanh nghiệp khi đứng trong áp lực của một môi trường cạnh tranh gay gắt,
đều tất yếu dẫn đến nhu cầu: tăng cường tích tụ, tập trung sản xuất, liên kết với nhau thành
các doanh nghiệp với quy mô ngày càng lớn hơn. Điều này hoàn toàn hợp lý với kết luận
sau nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh của C. Mác. Ông dự báo rằng: “Tự do
cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức
độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền”. (V.I. Lenin: Toàn tập, Sđd, t.27, tr.402)
Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, có khả năng chi phối thị trường về
một loại sản phẩm trên một đoạn thị trường nhất định. Các hãng cam kết lại, thỏa thuận và
cùng nhau quy định mức giá và sản phẩm làm ra, chia nhau thị trường hoặc cùng nhau vạch
ra các quyết định kinh doanh. (P. Samuelson: Kinh tế học. Sđd, t.1, tr.350). Một trong số
những nguyên nhân hình thành độc quyền chính là do cạnh tranh không lành mạnh đem
lại. Tuy độc quyền không thủ tiêu cạnh tranh nhưng nó sẽ làm hạn chế rất nhiều đối với
cạnh tranh và phát triển kinh tế.
Nhận thức được tác động tiêu cực đó của cạnh tranh lên nền kinh tế thị trường, nhà nước
ta đang đặt ra những giải pháp, nhằm: bảo vệ các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân khỏi
các tác động tiêu cực của cạnh tranh; đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, kiểm soát
độc quyền có hiệu quả. Phần II: Nội dung
1. Lý luận cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh trong kinh tế thị trường là một khái niệm có nhiều cách hiểu và cách
diễn đạt khác nhau tùy theo cách tiếp cận:
- Trong kinh tế chính trị, theo C. Mác: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh
quyết liệt giữa những người sản suất, kinh doanh hàng hóa nhằm giành giật
những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, để thu được lợi
nhuận cao nhất.” Tức là, cạnh tranh là sự tranh giành giữa các chủ thể tham gia lOMoAR cPSD| 61256830
thị trường với nhau, nhằm có được những ưu thế về sản xuất cùng như tiêu thụ,
để thông qua đó thu về lợi ích tối đa.
- Trong kinh tế học, khái niệm cạnh được định nghĩa là một quá trình đấu tranh
qua lại giữa các chủ thể kinh tế. Trong quá trình đó, mục tiêu chính đó là chiếm
lĩnh thị phần khách hàng, tăng mức tiêu thụ, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Đây là một quá trình khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải có chiến lược cụ
thể, nếu không sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Cạnh tranh có thể được xem như
là quá trình tích luỹ về lượng để từ đó thực hiện các bước nhảu thay đổi về chất.
Hay nói một cách khác, cạnh tranh chính là toàn bộ nỗ lực của doanh nghiệp để
có được giá cả đầu vào tốt nhất về mình, cố gắng giành lấy khách hàng hoặc
khách hàng của doanh nghiệp khác bằng cách cung cấp các sản phẩm khác nhau,
giao dịch tốt hơn, chất lượng phục vụ tốt hơn.
1.2. Những đặc trưng cơ bản của cạnh tranh
- Cạnh tranh thực chất là mối quan hệ giữa các chủ thể. Nói một cách đơn giản,
cạnh tranh là một quá trình nỗ lực có sự tham gia của nhiều tác nhân kinh tế có
cùng mục tiêu. Nếu chỉ có một nhà điều hành kinh tế trên thị trường thì không
có cạnh tranh. Các mục tiêu cạnh tranh cơ bản của một công ty là tồn tại và phát
triển, tối đa hóa lợi nhuận, mở rộng thị phần, mở rộng thị trường, dẫn đầu thị trường ngách…
Ví dụ: Tiêu dùng là sự tối đa hóa sự thoải mái hoặc sự hài lòng khi tiêu dùng một sản phẩm
- Trong cạnh tranh, những người chơi kinh tế luôn phải tuân thủ một loạt các quy
tắc và yêu cầu chung hay còn gọi là “luật bất thành văn” từ hệ thống luật pháp
quốc gia được quy định thành văn bản. Các đặc điểm và nhu cầu và sở thích của
khách hàng, hoặc các phương thức kinh doanh và thực hành trên thị trường ...
tất cả đều nhằm đảm bảo tính cạnh tranh vững chắc.
- Phương pháp cạnh tranh không chỉ là bán giá thấp, nâng cao chất lượng sản
phẩm, dịch vụ hậu mãi mà còn nhiều phương pháp khác như: đa dạng dòng sản
phẩm, thúc đẩy xúc tiến bán hàng...
- Trong nền kinh tế thị trường, nhìn chung, không chỉ tồn tại mỗi sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thêm vào đó nó còn có bao gồm các loại cạnh
tranh giữa các tập đoàn hay tổ chức độc quyền, chẳng hạn như:
• Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền và các công ty không độc quyền: lOMoAR cPSD| 61256830
Các tổ chức độc quyền thường tìm cách kiểm soát và thôn tính các công
ty không độc quyền thông qua một số phương thức, bao gồm: phương
thức, bao gồm: Độc quyền vận tải; Độc quyền tín dụng... Để có thể loại
bỏ những chủ thể yếu kém ra khỏi thị trường.
• Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền:
Loại cạnh tranh này có thể có nhiều hình thức: Cạnh tranh giữa các công
ty độc quyền trong cùng một ngành. Đây hoặc sẽ là một sự thỏa hiệp hoặc
một đối thủ cạnh tranh sẽ phá vỡ nền tảng. Cạnh tranh giữa các tổ chức
độc quyền trong các ngành khác nhau liên kết với nhau về nguồn lực đầu vào.
• Cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền:
Những doanh nghiệp tham gia các tổ chức độc quyền cũng có thể cạnh
tranh với nhau đề giành lợi thế trong hệ thống. Các thành viên trong các
tổ chức độc quyển cũng có thể cạnh tranh nhau để chiếm tỷ lệ cổ phần
khống chế, từ đó chiếm địa vị chi phối và phân chia lợi ích có lợi hơn.
1.3. Các hình thức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Dựa vào các căn cứ khác nhau thì cạnh tranh được chia thành nhiều loại cạnh tranh
khác nhau, như: cạnh tranh giữa người bán với người bán, giữa người bán với người
mua, giữa người mua với người mua; cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh
giữa các ngành; cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo; cạnh tranh lành
mạnh và cạnh tranh không lành mạnh; cạnh tranh doanh nghiệp, và cạnh tranh quốc gia; … lOMoAR cPSD| 61256830
Căn cứ theo phạm vi kinh tế: Cạnh tranh được phân thành: o Cạnh tranh
trong nội bộ ngành: là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một
ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoḠnhằm giành giật những điều
kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu
ngạch. o Cạnh tranh giữa các ngành: là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp
tư bản trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi nhất.
• Căn cứ theo hình thái cạnh tranh:
o Cạnh tranh hoàn hảo: Diễn ra khi xuất hiện thị trường hoàn hảo, ở
đó cả người bán và người mua đều có đầy đủ thông tin của thị
trường. Do đó, mọi sản phẩm, dịch vụ đều có cùng một quy cách
và mẫu mã, đòi hỏi người bán phải tìm mọi cách giảm chi phí để
hạ giá bán nhằm thu hút người tiêu dùng.
o Cạnh tranh không hoàn hảo: Cạnh tranh không hoàn hảo là hình
thái mà các doanh nghiệp chiếm ưu thế trong sản xuất, kinh doanh
chi phối những phân khúc khu vực hoặc thị trường. Ở đó, một sản
phẩm có cùng chất lượn như nhau nhưng giá bán khác nhau do giá
trị của thương hiệu, sự uy tín của doanh nghiệp. Các hình thức
cạnh tranh không hoàn hảo bao gồm: độc quyền nhóm và cạnh
tranh mang tính độc quyền.
• Căn cứ theo tính chất của phương thức cạnh tranh o Cạnh
tranh lành mạnh o Cạnh tranh không lành mạnh
1.4. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Khi đã tham gia thị trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh, bên cạnh việc hợp tác,
luôn phải chấp nhận cạnh tranh. Đồng nghĩa với việc, các chủ thể kinh tế cũng phải
chấp nhận luôn cả những tác động mà cạnh tranh mang lại. - Tác động tích cực:
• Cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hành vi, mọi hoạt động kinh tế của mọi
chủ thể kinh tế đều phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh. Do đó,
để thu về lợi nhuận tối đa, họ phải giành giật những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất và kinh doanh hàng hóa, bằng cách cải tiến kỹ thuật, hợp
lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hóa,
đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, … lOMoAR cPSD| 61256830
Cạnh tranh chính là cơ chế điều chỉnh linh hoạt và phân bổ các nguồn lực
kinh tế của xã hội một cách tối ưu.
Cạnh tranh cho phép các doanh nghiệp đầu tư vào những lĩnh vực mang
lại lợi nhuận cao: nơi cung nhỏ hơn cầu; và bỏ trống những lĩnh vực có
lợi nhuận thấp: nơi cung lớn hơn cầu.
• Cạnh tranh kích thích tiến bộ kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản
xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể kinh tế tự quyết định hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình. cạnh tranh là áp lực đối với người sản xuất,
buộc họ phải cải tiến kỹ thuật, ứng dụng những công nghệ tiên tiến, tăng
năng suất lao động, nhờ đó kỹ thuật và công nghệ sản xuất của toàn xã
hội phát triển, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh.
• Cạnh tranh góp phần tạo nên cơ sở cho sự phân phối thu nhập lần đầu.
Trong nền kinh tế thị trường, người sản xuất nào có năng suất, chất lượng,
hiệu xuất kinh doanh quả sản cao, tức là có lợi thế trong cạnh tranh, thì
sẽ có lợi nhuận cao, do đó có thu nhập cao.
• Cạnh tranh tạo ra khối lượng sản phẩm đa dạng, phong phú, chất lượng
tốt, giá thành hạ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng và xã hội.
Đối với người tiêu dùng, khi có sự cạnh tranh, họ sẽ dễ dàng so sánh mặt
hàng để tìm ra những sản phẩm có chất lượng tốt hơn. - Tác động tiêu cực:
• Cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí nguồn lực:
Trong quá trình sản xuất, sẽ có những chủ thể chiếm giữ các nguồn lực
mà không phát huy vai trò của nguồn lực trong kinh doanh nhằm chiếm
ưu thế cạnh tranh. Như vậy, cạnh tranh đã làm nguồn lực xã hội bị lãng phí.
• Cạnh tranh sẽ làm gia tăng nhanh sự ô nhiễm môi trường và làm mất cân bằng sinh thái
Trong nền kinh tế thị trường, vì mục tiêu lợi nhuận, nên các chủ thể kinh
tế phải giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu, do đó các chất thải do
quá trình sản xuất sinh ra không được các doanh nghiệp xử lý, gây ô
nhiễm môi trường, làm thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội. Hơn nữa,
cũng vì mục tiêu lợi nhuận, nên các doanh nghiệp khai thác bừa bãi, kiệt
quệ tài nguyên, gây mất cân bằng sinh thái, làm tổn hại đến hiệu quả của nền kinh tế. lOMoAR cPSD| 61256830
Cạnh tranh làm tăng nạn hàng giả, hàng nhái, trốn lậu thuế, gây thiệt hại
cho người tiêu dùng và xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh không lành mạnh như dùng
những thủ đoạn vi phạm đạo đức hoặc vi phạm pháp luật… làm xói mòn
môi trường kinh doanh, xói mòn giá trị đạo đức xã hội.
• Cạnh tranh góp phần làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội.
Trong quá trình cạnh tranh, những người có điều kiện sản xuất thuận lợi,
có trang bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, có trình độ lao động cao, hợp lý
hóa sản xuất, thì họ sẽ có năng suất lao động cao, có hao phí lao động cá
biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, họ sẽ mở rộng sản xuất
kinh doanh và do đó họ sẽ có lãi cao và giàu lên nhanh chóng.
1.5. Mục đích của cạnh tranh
- Cạnh tranh giành được nhiều lợi nhuận từ cá nhân, tổ chức khác.
- Có chỗ đứng trong thị trường, nguồn nguyên liệu dồi dào, thu hút nhiều khách
hàng… sẽ có nhiều ưu thế, thuận lợi cho sự phát triển và doanh thu cao.
- Cạnh tranh giúp giành được nhiều lợi thế, tránh được những rủi ro và thiệt hại
trong suốt quá trình kinh doanh.
- Cạnh tranh là động lực để cá nhân, tổ chức phấn đấu, thay đổi và nỗ lực phát triển về mọi mặt.
- Sự cần thiết về cạnh tranh chính là động lực để phát triển kinh tế thị trường.
Cạnh tranh sẽ tạo ra sức ép và kích thích sự tìm tòi, sáng tạo và phát triển về mọi mặt.
- Cạnh tranh là con đường để tồn tại, duy trì của doanh nghiệp.
Như P. Samuelson đã phát biểu trong cuốn Kinh tế học, Sđd, t.1, tr. 547: “Với
các nguồn lực và công nghệ cho trước của xã hội, ngay cả những nhà lập kế
hoạch thành thạo nhất hoặc một chương trình tái tổ chức thông minh nhất cũng
không thể tìm ra được một giải pháp tốt hơn so với thị trường cạnh tranh.”
2. Thực tiễn cạnh tranh ở Việt Nam 2.1.
Thực tiễn cạnh tranh nội bộ ngành Logistics và quản lý chuỗi cung ứng
Logistics được ví như những "mạch máu" của nền kinh tế quốc dân, không chỉ
đem lại nguồn lợi to lớn đối với quốc gia, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc
đổi mới mô hình tăng trưởng và bảo đảm cho tăng trưởng kinh tế bền vững thời kỳ
hội nhập. Logistics Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, tham gia ngày càng sâu rộng
vào mọi mặt của nền kinh tế-xã hội.
Năm 2019, ngành logistics của Việt Nam đạt tốc độ phát triển bình quân
1214%/năm, đóng góp vào GDP từ 4-5%. Tới cuối năm 2022, giá trị tổng kim ngạch lOMoAR cPSD| 61256830
xuất nhập khẩu cán mốc gần 700 tỷ USD. Đối với doanh nghiệp tham gia lĩnh vực
logistics, hiện nay nước ta có trên 30.000 doanh nghiệp hoạt động trong ngành, hơn
5.000 doanh nghiệp liên quan đến lĩnh vực logistics quốc tế và 69 trung tâm logistics quy mô lớn và vừa.
Tuy nắm giữ nhiều lợi thế trong phát triển ngành logistics: nằm ở trung tâm
khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trên tuyến hàng hải quốc tế, Việt Nam hội nhập
quốc tế sâu rộng, tham gia 17 FTA… nhưng để tạo nên sự đột phá và trở thành trung
tâm logistics khu vực và toàn cầu, Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm để nâng
cao năng lực cạnh tranh. Một trong số những vấn đề cấp bách cần được giải quyết
đó chính là tình trạng cạnh tranh manh mún, khiến chi phí vận chuyển đắt đỏ, làm mất sức cạnh tranh.
Mới đây, ngày 20/11/2022, Công ty CP Nông nghiệp hữu cơ Fusa, Hải Dương
cho biết công ty đã thu mua quả bưởi đỏ từ tỉnh Hòa Bình để xuất khẩu sang châu
Âu. Đây là doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam được xuất khẩu mặt hàng này sang
thị trường châu Âu. Tuy vậy, quá trình xuất khẩu lô hàng này khiến doanh nghiệp
rất lo lắng. Theo đó, ngày 24/12/2022, doanh nghiệp xếp hàng lên container tại Hòa
Bình. Sau đó, xe di chuyển từ Hòa Bình xuống khu vực cảng Hải Phòng hết 3 ngày.
Tuy vậy, phải đến tận ngày 3/2/2023 lô hàng mới tới được London (Anh). Theo ông
Phạm Ngọc Thức – Chủ tịch HĐQT công ty, với số ngày vận chuyển như thế, doanh
nghiệp không thể cạnh tranh được với hàng các nước và phải đổ bỏ hàng vì hư hỏng.
Điển hình, so với Thái Lan, thời gian xuất hàng sang châu Âu chưa đến 40 ngày, hoa quả tươi roi rói.
Với thời gian vận chuyển dài, tất yếu dẫn tới làm tăng cao chi phí logistics,
giảm sức cạnh tranh của hàng hóa do không đảm bảo được chất lượng sản phẩm sau
quá trình “lênh đênh” trên biển kéo dài. Chưa kể, người tiêu dùng cũng không có
kiên nhẫn và nhu cầu phải chờ đợi nông sản nước ta, họ có rất nhiều sự lựa chọn.
Như vậy, thiếu đi sự đồng bộ hóa trong khâu vận chuyển giữa các doanh nghiệp
logistics, chúng ta không chỉ làm tăng cao giá tiền mà còn mất cái giá quan trọng
hơn: là thời gian và chất lượng.
TS. Phạm Hoài Chung - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển giao
thông vận tải, Bộ Giao thông vận tải - cho hay, chi phí logistics ở Việt Nam khoảng
17,8% GDP (trong khi nhiều nước trên thế giới con số này dưới 10%-PV), tương
đương khoảng 60 tỷ USD. Do đó, việc cắt giảm chi phí trong các khâu của hoạt
động logistics, trong đó có vận tải hàng hóa là rất cấp bách, để có thể sớm đưa Việt
Nam tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. lOMoAR cPSD| 61256830
2.2. Nguyên nhân
Chi phí logistics ở Việt Nam chiếm gần 21% tổng GDP, cao hơn so với các nước Đông
Nam Á. Lý giải về chi phí logistics cao, đại diện Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, kết
quả khảo sát hơn 1.400 tài xế xe tải và hơn 150 công ty vận tải hàng hóa đường bộ trên
toàn quốc cho thấy, số doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam chiếm đa số. Các doanh
nghiệp này chủ yếu sở hữu số lượng nhỏ phương tiện và vận hành theo phương thức vừa
là chủ phương tiện, vừa là đơn vị kinh doanh vận tải. Tình trạng phát triển manh mún này
phổ biến khắp các vùng miền ở Việt Nam, với số lượng trung bình sở hữu 5 xe tải/công ty.
Một trong những nguyên nhân quan trọng làm gia tăng chi phí là sự cạnh tranh khốc
liệt trên thị trường quá manh mún dẫn đến làm giảm lợi nhuận biên và tính bền vững của
ngành vận tải hàng hóa đường bộ. Chi phí vận tải ước tính là 2.775 VND/tấn/km cho tuyến
ngắn và 952 VND/tấn/km cho đường dài, với lợi nhuận ước đạt từ 3% - 5% đối với doanh
nghiệp vận tải nhỏ có ít hơn 10 xe.
Mặt khác, chúng ta cũng không thể phủ nhận các yếu tố khách quan tác động tiêu cực
đến giá cước vận chuyển như: tình hình chiến sự, bất ổn chính trị, đại dịch lan tràn, … Do
đó, nhiều doanh nghiệp gặp áp lực cạnh tranh lớn, nguy cơ mất thị phần vào tay các nước
khác nếu không sớm đưa ra giải pháp kìm giá đầu vào. (Lãnh đạo VPA) lOMoAR cPSD| 61256830
Nguồn Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA)
Lại phải nói, bản thân các doanh nghiệp Việt cũng chưa thực sự tận dụng hết những
lợi thế cạnh tranh của nước nhà trên trường quốc tế. Việt Nam mới chỉ có hơn 300 doanh
nghiệp thuần Việt là nhà cung cấp cho các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam. Việc các
doanh nghiệp Việt Nam không tham gia sâu được vào chuỗi giá trị sản xuất của các tập
đoàn đa quốc gia có mặt tại Việt Nam đặt ra nhiều vấn đề. Đó là xuất khẩu của Việt Nam
mặc dù rất đáng tự hào nhưng khối doanh nghiệp FDI lại chiếm tới trên 70% thành tích
xuất khẩu nói trên. (TS Nguyễn Quốc Việt - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và
chính sách (VEPR), Đại học Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội)
Một trong số những nguyên nhân chính là tính liên kết giữa các doanh nghiệp logistics
nói riêng hay doanh nghiệp ở Việt Nam nói chung còn nhiều hạn chế, có thể nói là còn yếu.
Tâm lý kinh doanh của doanh nghiệp nội địa vẫn chưa lành mạnh theo lối mòn: “mạnh ai
nấy làm” hoặc “làm tất, ăn cả”; chỉ quan tâm đến việc tìm manh mối làm ăn cho riêng
mình, cũng chưa nhận thức được đầy đủ những lợi ích to lớn của việc liên kết thành cộng
đồng doanh nghiệp nội địa hoặc giữa doanh nghiệp nội với các doanh nghiệp nước ngoài,
thậm chí ngay cả trong những lĩnh vực có thế mạnh (ví dụ như chuỗi xuất khẩu thực
phẩm/nông sản xuất khẩu).
Điển hình cho việc thiếu kết nối liên hoàn là quy mô các trung tâm logistics được xây
dựng tự phát ở nước ta thường rất nhỏ (10ha, thậm chí 1 - 2ha, trong khi ở các nước lên
đến 1.500 ha). Ngoài ra, trung tâm logistics ở nước ta chủ yếu thuộc sở hữu của doanh lOMoAR cPSD| 61256830
nghiệp và cung ứng dịch vụ cho khách hàng, chưa phát triển đến quy mô hội đủ các yếu tố
của trung tâm logistics như các nước. Hệ lụy làm chi phí logistics tăng cao so với các nước
trong khu vực, gây ách tắc trong lưu thông hàng hóa giữa các vùng miền, làm giảm giá trị
và chất lượng hàng hóa, khả năng cạnh tranh trên các thị trường.
2.3. Giải pháp
Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng chính ngạch Việt Nam trên thị trường quốc tế,
cũng như gạt bỏ những rào cản lợi ích kinh tế của Việt Nam,
- Thay đổi nhận thức về cạnh tranh trong nội bộ ngành để các doanh nghiệp kết
nối với nhau tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh làm tăng tính liên kết
giữa các khâu vận chuyển. Bằng cách này có thể thay đổi phương thức cạnh
tranh manh mún trước giờ và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt
Nam, rút ngắn thời gian đưa sản phẩm Việt đến tay bạn bè quốc tế.
- Cần có sự đồng bộ trong quy hoạch của tất cả các địa phương để dành quỹ đất
cho trung tâm logistics. Các trung tâm logistics đòi hỏi quy mô lớn, tích hợp
nhiều dịch vụ, kết nối đa phương thức thì mới góp phần giảm được chi phí
logistics. Từ đó hình thành nên một tổ hợp kinh doanh logistics trong trung tâm.
- Các doanh nghiệp trong lĩnh vực vận chuyển cũng cần phải cải thiện để tăng tính
cạnh tranh toàn cầu như đạt các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng và theo lĩnh
vực. Doanh nghiệp cần đầu tư công nghệ, “số hóa” các khâu từ giao hàng đến
thanh toán; áp dụng công nghệ cao để theo dõi quá trình vận chuyển hàng hóa,
sử dụng kỹ thuật tiên tiến để liên kết giữa các kho hàng nhằm theo dõi chất lượng
hàng hóa trong quá trình vận chuyển xa.
- Các bộ, ngành cần có cơ chế đặc biệt cho doanh nghiệp để nâng cao năng lực
cạnh tranh; đồng thời triển khai giải pháp hình thành mạng lưới doanh nghiệp logistics mạnh.
Phần III: Kết luận
Cạnh tranh là xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Với cùng một mục tiêu: theo đuổi
lợi nhuận cao nhất, cạnh tranh trong nội bộ ngành thúc đẩy các doanh nghiệp trong cùng
một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa hay cùng cung cấp một dịch vụ thường
xuyên cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, hạ giá trị cá biệt lOMoAR cPSD| 61256830
của hàng hóa làm cho giá trị hàng hoá của xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của
hàng hoá đó để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Trong ngành logistics và quản lý chuỗi cung ứng tại Việt Nam, đứng trước những lợi thế
và tiềm năng phát triển lớn, rất nhiều những doanh nghiệp mới ra đời và cùng cạnh tranh
trên “mảnh đất vàng” logistics. Điều này, một mặt, mang lại động lực cho mỗi doanh
nghiệp phải cải tiến thường xuyên và đưa ra những đường lối chiến lược độc đáo, sáng tạo
nhằm giữ vững vị thế của mình trên lĩnh vực. Mặt khác, họ ganh đua để đem lại nguồn lực
xã hội lớn cho doanh nghiệp và cố gắng chiếm lĩnh những thị trường theo khu vực trong
nước mà quên đi lợi ích to lớn hơn cả là: mang lại lợi ích kinh tế cho nền kinh tế nước nhà.
Từ thực tế đặt ra yêu cầu về một môi trường cạnh tranh lành mạnh trong ngành logistics
tại Việt Nam. Cũng đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp tư nhân và nhà nước có nhận thức
đúng đắn về cạnh tranh để giảm chi phí logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành
và sớm đưa Việt Nam trở thành trung tâm logistics trên khu vực và thế giới. lOMoAR cPSD| 61256830
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia sự thật
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội
3. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính Thông tin Pháp luật Tài chính: “Phát triển vận
tải thủy để giảm chi phí logistics”. Ngày đăng: 08/04/2022.
4. Báo điện tử Hà Nội mới: “Nâng sức cạnh tranh cho ngành logistics”. Ngày đăng: 06/03/2022
5. Báo điện tử VnEconomy: “Phát triển logistics: Cần một chính sách đồng bộ”. Ngày đăng: 25/02/2022
6. Báo điện tử Chính phủ: “Hiện thực hóa khát vọng trung tâm logistics khu vực và
toàn cầu”. Ngày đăng 06/01/2022
7. Báo điện tử Đại đoàn kết: “Doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu: Không
thể mạnh ai nấy làm”. Ngày đăng: 08/03/2023
8. Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế xã hội – Xã hội quý IV và năm 2022
9. Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam: “Khuyến khích doanh nghiệp hình thành
chuỗi cung ứng ngắn, tránh đứt gãy, gián đoạn chuỗi cung ứng”. Ngày đăng: 29/09/2021