-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Câu hỏi ôn tập - Triết học Mác Lênin | Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Câu hỏi ôn tập - Triết học Mác Lênin | Trường Đại học Văn hóa Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học mác - lênin (THM00)
Trường: Đại học Văn hóa Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Câu 1: Triết học là gì? Vấn đề cơ bản của Triết học? Vai
trò của Triết học Mác Lênin trong đời sống xã hội?
- Khái niệm Triết học:
Với sự ra đời của triết học Mác - Lênin, “Triết học là hệ
thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con
người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật vận
động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy”.
“Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện
chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy - thế giới quan và phương
pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và
cải tạo thế giới”.
- Vấn đề cơ bản của Triết học:
Về nội dung, vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
+ Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước,
cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Nói cách khác, khi
truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng, sự vật, hay sự
vận động đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất hay
nguyên nhân tinh thần đóng vai trò là cái quyết định. Hay, giữa
vật chất và ý thức cái nào là tính thứ nhất, cái nào là tính thứ hai.
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế
giới hay không? Nói cách khác, khi khám phá sự vật và hiện
tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ nhận thức được sự vật
và hiện tượng hay không. Ý thức có thể phản ánh được vật chất
hay không, tư duy có thể phản ánh được tồn tại hay không? Mặt
này còn được gọi là mặt nhận thức.
- Vai trò của Triết học trong đời sống xã hội:
+ Triết học nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng đặt
ra và giải quyết rất nhều vấn đề của đời sống xã hội như: tổng
kết, đánh giá tri thức của con người; phê phán, xác định các giá
trị, truy tìm chân lý; phát triển duy lý luận; xác định vị trí vai trò
của con người trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài; xác
định mục tiêu phương hướng hoạt động của con người… Trong
số những vấn đề trên đây, trước hết phải kể đến vấn đề có tính
đặc trưng của triết học đó là vấn đề thế giới quan và phương pháp luận chung nhất.
+ Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của
con người về thế giới, về bản thân con người, về mối quan hệ
giữa con người và thế giới xung quanh nhằm giải đáp những vấn
đề về mục đích, ý nghĩa cuộc sống của con người. Thế giới quan
được hình thành trong quá trình con người sống, cải tạo thế giới
và phát triển nhận thức. Mặt khác hoạt động thực tiễn và nhận
thức của con người cần thiết phải được định hướng một cách tự
giác. Thế giới quan ra đời đáp ứng chính yêu cầu đó. Tuy nhiên
có nhiều loại hình thế giới quan và mỗi loại hình thế giới quan
có tác động đến hoạt động của con người với mức độ khác nhau.
Thế giới quan khoa học phản ánh đúng quy luật vận động phát
triển của hiện thực khách quan, phán ánh đúng mối quan hệ giữa
con người và thế giới, vị trí của con người trong thế giới, giúp
con người xác định đúng mục tiêu, phương hướng hoạt động, từ
đó con người điều chỉnh hoạt động của mình phù hợp với quy
luật khách quan, nhờ vậy hoạt động của con người đạt được hiệu
quả cao. Nhưng thế giới quan khoa học không hình thành một
cách tự phát. Muốn hình thành thế giới quan khoa học ơhari có
một cơ sở lý luận khoa học, mà lý luận đó tổng hợp những tri
thức khoa học, tổng kết được kinh nghiệm lịch sử của con
người. Lý luận đó chỉ có thể là một hệ thống triết học khoa học.
Triết học khoa học là một hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học.
+ Trong lịch sử phát triển của triết học đã tồn tại nhiều hệ
thống triết học khác nhau. Căn cứ vào cách giải quyết vấn đề
quan hệ giữa tư duy và tồn tại mà người ta phân chia các lý
thuyết triết học thành các trường phái khác nhau như: triết học
duy tâm, triết học duy vật, triết học nhị nguyên, triết học bất khả
tri… Triết học Mác - Lênin là hình thức phát triển cao nhất và
hợp lý nhất của triết học duy vật. Những đặc điểmcủa triết học
Mác - Lênin, như đã trình bày trong mục trên phản ánh bản chất
khoa học và nhân vân của triết học Mác - Lênin. Với những điều
trình bày trên đây, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng: Trong
thời đại ngày nay, triết học Mác - Lênin thực sự đóng vai trò là
hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học. Thông qua việc
hình thành thế giới quan khoa học cho con người, triết học Mác
- Lênintác động đến mọi mặt của đời sống xã hội.
+ Ngoài vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa
học, triết học Mác - Lênin còn đóng vai trò phương pháp luận
chung nhất của nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
Phương pháp luận là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc
xuất phát được rút ra từ một hệ thống lý luận để chỉ đạo con
người xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp thích
hợp nhất trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phương pháp
luận quyết định việc xác định phương pháp cụ thể thích hợp, từ
đó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của con người. Trên thực
tế, chúng ta thấy có thể mục tiêu phương hướng xác định đúng
nhưng nếu phương pháp hoạt động không đúng vẫn không đạt
được kết quả như mong muốn. Vì vậy phải có phương pháp luận
khoa học, tức là phải có hệ thống các nguyên tắc xuất phát phản
ánh đúng quy luật vận động của các sự vật và hoạt động của con
người. Nhưng nguyên tắc không thể được đặt ra một cách tùy
tiện theo ý muốn thuần túy chủ quan của con người, mà được rút
ra từ hệ thống lý luận. Nếu hệ thống lý luận không phản ánh
đúng hiện thực khách quan, chẳng hạn hệ thống triết học duy
tâm, thì nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ đó cũng không
phải là những nguyên tắc phù hợp. Như vậy, sự đúng đắn của hệ
thống lý luận là một trong những yếu tố đảm bảo cho sự đúng
đắn của nguyên tắc phương pháp luận. Triết học Mác - Lênin,
trong đó có phép biện chứng duy vật là hệ thống lý luận khoa
học phản ánh đúng quy luật khách quan của sự vận động, phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Tính khoa học đó
là yếu tố quyết định đảm bảo cho việc xác lập những nguyên tắc
phương pháp luận khoa học. Thông qua việc cung cấp phương
pháp luận khoa học làm cơ sở để xác định các phương pháp cụ
thể, triết học Mác - Lênin thể hiện vai trò của mình đối với đời
sống xã hội. Tuy nhiên không nên quan niệm rằng, triết học Mác
- Lênin có thể giải quyết được mọi vấn đề, là nhân tố quyết định
hoàn toàn đến sự hình thành các nguyên tắc phương pháp luận khoa học.
+ Triết học Mác - Lênin có sự thống nhất giữa chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng. Mỗi quan điểm, nhận định của triết
học Mác - Lênin đều có sự thống nhất giữa quan điểm duy vật
và quan điểm biện chứng. Do vậy triết học mác - Lênin vừa có
vai trò thế giới quan, vừa có vai trò phương pháp luận khoa học.
Câu 2: Triết học Mác Lênin ra đời dựa trên những điều
kiện, tiền đề nào? Chức năng của Triết học Mác Lênin là gì?
- Điều kiện, tiền đề ra đời Triết học Mác Lênin:
Triết học Mác-Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát
triển cho đến nay. Từ khi ra đời, triết học Mác-Lênin đã tạo ra
một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học và trở thành thế giới
quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng như hoạt
động thực tiễn của con người. Những điều kiện lịch sử của sự ra
đời triết học Mác nhìn chung có hai nguồn gốc ra đời của triết
học là nguồn tri thức và nguồn gốc xã hội. Đối với triết học thì
nuồng gốc ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau:
Điều kiện kinh tế - xã hội
Thứ nhất: Sự củng cố và phát triển của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp.
+ Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc
cách mạng trong công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
+ Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được cũng cố vững
chắc và trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã hội.
+ Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở
thành cường quốc công nghiệp.
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản
xuất tư bản được củng cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư
bản phát triên kèm theo đó mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt
và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng.
+ Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát
triển thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
Thứ hai: Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử.
+ Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng
với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa xác lập, giai cấp tư sản
trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở thành giai
cấp bị trị thì mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản vốn mang tình chất
đối kháng phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp
điển hình là cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở thành phố Lyon
(Pháp) năm 1831, ở Anh có phong trào
Hiến chương vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX, nước
Đức nổi lên phong trào đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi đã mang
tính chất giai cấp.Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản
không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng. Giai cấp tư sản
tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá trình
cải tạo dân chủ như trước.Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên
vũ đài lịch sử với sứ mệnh xía bỏ xã hội tư bản và trở thành lực
lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và
phong trào đấu tranh của họ đã tạo ra nguồn tư liệu quý báu về
thực tiễn xã hội để Các Mác và Ph. Ăngghen khai thác xây dựng
những quan điểm triết học.
🡺 Như vậy, từ thực tiễn xã hội (Đấu tranh của giai cấp vô
sản chỉ là đấu tranh 1 cách tự phát không làm thay đổi được địa
vị xã hội của họ) đòi hỏi phải được soi sáng bằng một hệ thống
lý luận, một học thuyết triết học mới. Học thuyết đó phải xuất
hiện để định hướng phong trào đấu tranh chuyển từ tự phát
sang tự giác để nhanh chóng đạt được thắng lợi toàn diện.
Điều kiện về mặt lý luận
+ Sự kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học.
+ Sự ra đời của triết học Mác phù hợp với quy luật của lịch
sử tư tưởng của nhân loại, là kế thừa và phát triển những thành
tựu quan trọng nhất của tư duy triết học nhân loại.
+ Xây dựng học thuyết mới trong chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
+ Triết học Mác ra đời là sự tác động qua lại với quá trình
các ông kế thừa và cải tạo học thuyết kinh tế chính trị của Anh
và lý luận chủ nghĩa của xã hội.
+ Các ông vừa phê phán chủ nghĩa duy tâm, vừa đánh giá
cao tư tưởng biện chứng của Heghen, của Phơbach, trong đó chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách
hữu cơ; đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét
giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
🡺 Từ những điều kiện trên, chủ nghĩa Mác Lênin ra đời:
Đến đầu thế kỷ XIX nền khoa học của nhân loại được phát
triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực của khoa học tự nhiên và xã hội.
+ Trong khoa khoa học tự nhiên: có 3 phát minh vĩ đại
Học thuyết tế bào: sự sống là sản phẩm của giới tự nhiên và
là quá trình phát triển đấu tranh chọn lọc của giới tự nhiên
chứ không phải do thượng đế sáng tạo.
Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: không có sự
phát sinh ra và mất đi của năng lượng mà chỉ có sự
chuyển biến từ dạng này sang dạng khác.
Thuyết tiến hóa của Đắc Uyn: các loài đang tồn tại hiện nay
là sinh ra từ các loài khác bằng con đường tự nhiên và sự
biến đổi động vật và thực vật là do chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. + Trong khoa học xã hội:
Triết học cổ điển Đức (Hêghen, Phơ Bách).
Kinh tế chính trị học cổ điển Anh (A.Smith và Đ.Ricardo).
Chủ nghĩa không tưởng phê phán.
Những giá trị khoa học mà các nhà khoa học trên để lại đã
tạo tiền đề cho các nhà tư tưởng, các nhà khoa học kế thừa.
Tất cả những tiền đề kinh tế - xã hội và tiền đề khoa học ở
trên đều góp phần cho các nhà tư tưởng, các nhà khoa học nhận
thức được những mâu thuẫn trong xã hội tư bản từ đó đề ra các
giải pháp khắc phục các mâu thuẫn đó để xây dựng một xã hội thay thế.
- Chức năng của Triết học Mác Lênin:
* Chức năng thế giới quan
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan
trọng định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới
hiện thực. Đây chính là “cặp kính” triết học để con người xem
xét, nhận thức thế giới, xét đoán mọi sự vật, hiện tượng và xem
xét chính mình. Nó giúp con người có cơ sở khoa học đi sâu
nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục
đích, ý nghĩa của cuộc sống.
Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình
thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động, từ đó xác
định thái độ và cả cách thức hoạt động của mình.
Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực,
sáng tạo của con người.
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa
học để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo,
phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới
quan duy vật biện chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý
luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản khoa học.
* Chức năng phương pháp luận
Vai trò phương pháp luận duy vật biện chứng được thể hiện
trước hết là phương pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa học.
Phương pháp luận duy vật biện chứng trang bị cho con người hệ
thống những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho hoạt
động nhận thức và thực tiễn.
Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống các
khái niệm, phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học;
giúp con người phát triển tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không phải là “đơn thuốc
vạn năng” có thể giải quyết được mọi vấn đề. Để đem lại hiệu
quả trong nhận thức và hành động, cùng với tri thức triết học,
con người cần phải có tri thức khoa học cụ thể và kinh nghiệm
hoạt động thực tiễn xã hội. Trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn không được xem thường hoặc tuyệt đối hóa phương pháp
luận triết học. Nếu xem thường phương pháp luận triết học sẽ sa
vào tình trạng mò mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động,
sáng tạo trong công tác. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của
phương pháp luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và dễ
bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng phương pháp luận duy vật biện
chứng giúp mỗi người tránh được những sai lầm do chủ quan,
duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.
Câu 3: Trình bày quan điểm của Triết học Mác Lênin về
vật chất? Ý nghĩa phương pháp luận đối với nhận thức và thực tiễn?
- Quan điểm của Triết học Mác Lênin về vật chất:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan, đem lại cho con người cảm giác và được cảm giác
chép lại, chụp lại, phản ánh lại và không lệ thuộc vào cảm giác”.
+ Vật chất được phản ánh với hình thức tồn tại cụ thể của
nó. Dùng để chỉ thực tại khách quan phản ánh qua cảm giác. Khi
đó, vật chất mang đến hình thức chứa đựng cụ thể và có dạng
tồn tại hữu hình. Từ khái niệm này, có thể thấy được với tính
chất tồn tại được chứng minh. Từ đó, đánh giá được đưa ra dễ
dàng với các dạng tồn tại đó có được xác định là vật chất hay không.
+ Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể
gây nên cảm giác ở con người. Con người thông qua cảm giác
để đánh giá về sự tồn tại của vật chất. Cũng như khẳng định
được, phân biệt được giữa vật chất và ý thức. Hai khái niệm này
tách rời nhau, và mang đến các dạng tồn tại khác hoàn toàn. Khi
nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người.
Vật chất là cái được ý thức phản ánh bằng cảm giác thỏa mãn với khái niệm trên.
+ Vật chất với tư cách là phạm trù triết học theo nghiên cứu.
Là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc
tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng. Khi
đó, hướng đến các giải thích cho sự tồn tại bên cạnh ý nghĩa
trong xác định. Nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận,
không sinh ra, không mất đi. Vật chất có dạng tồn tại cố định
hoặc không, nhưng được đảm bảo cho cảm giác phản ánh.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Định nghĩa của Lenin ngắn gọn, súc tính, mang tính khái
quát cao, phân biệt được giữa vật chất với vật thể.
+ Giải quyết 2 vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, giúp ta tìm được yếu tố vật chất trong lĩnh vực xã hội,
bác bỏ quan điểm duy tâm, siêu hình.
+ Đã tạo ra cơ sở cho các nhà khoa học tìm hiểu thế giới
khách quan, bác bỏ quan điểm bất khả tri.
+ Là cơ sở khoa học để xây dựng quan điểm duy vật biện
chứng trong lĩnh vực xã hội.
Câu 4: Trình bày quan điểm của Triết học Mác Lênin về
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa phương pháp
luận trong giải quyết mối quan hệ khách quan và chủ quan?
- Quan điểm của Triết học Mác Lênin về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức:
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện
chứng mà trong đó vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ
động mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
Theo Lênin thì vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực
tại khách quan, đem đến cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh lại và không
tồn tại lệ thuộc vào cảm giác.
Đặc điểm của vật chất:
+ Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động.
+ Không có vận động ngoài vật chất và không có vật chất không có vận động.
+ Vật chất vận động trong không gian và thời gian.
+ Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của
các dạng vật chất cụ thể và là hình thức tồn tại của vật chất.
Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển
tự nhiên và lịch sử xã hội. Ý thức mang bản chất là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan, chính là sự phản ánh tích cực, tự
giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người thông
qua hoạt động thực tiễn.
Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn
nhau. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được thể hiện qua
nhận thức và thực tiễn như sau:
Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là
bộ óc người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối
quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết
quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm
của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự
phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là
một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội
của ý thức (bộ óc người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc
gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ), hoặc là
chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là
những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản
ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan
về thế giới vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi
vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu
hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và
sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này
thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội
dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý
thức là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó
không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi
hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất.
Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên
vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế
giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại
khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra
phương huớng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện
pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu của mình.
Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất
thông qua hoạt động thực tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo
hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức
đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực,
có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật
khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức
trong quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải
tạo – đó là sự tác động tích cực cúa ý thức. Còn nếu ý thức của
con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất,
quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con
người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ
có tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Theo quan điểm ý thức tác động quan trọng đối với vật
chất, ta thấy cần phát huy tính năng động sáng tạo, phát huy vai
trò nhận thức con người, tránh việc ỷ lại, bảo thủ, trì trệ, thiếu
sáng tạo, phải xem trọng vai trò của nhận thức.
+ Theo quan điểm vật chất quyết định ý thức ta thấy được
vai trò to lớn của nhận thức và hoạt động thực tiễn , tất cả đều
phải được xuất phát từ hiện thực, từ thực tế khách quan, từ
những điều kiện mà vật chất hiện có, không xa rời hiện thực,
tránh chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, chủ nghĩa duy vật tầm
thường, thực dụng, viễn vông.
Câu 5: Trình bày nội dung nguyên lý mối liên hệ phổ
biến của Phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp
luận của nguyên lý này?
- Nội dung nguyên lý mối liên hệ phổ biến của Phép biện
chứng duy vật:
+ Khái niệm liên hệ: là quan hệ giữa 2 đối tượng mà sự thay
đổi của đối tượng này nhất định làm đối tượng kia thay đổi.
Mối liên hệ dùng để chỉ mối ràng buộc tương hỗ, quy định,
ảnh hưởng giữa các yếu tố, bộ phận của một sự vật hiện tượng,
hay giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của mối liên
hệ, chỉ các vật khác ở nhiều sự vật hiện tượng trong thế giới, hay
nói cách khác mối liên hệ được dùng theo 2 nghĩa: dùng để chỉ
tính phổ biến của mối liên hệ, dùng để chỉ sự khái quát những
mối liên hệ có tính phổ biến.
+ Nguyên lý của mối liên hệ phổ biến:
Quan điểm siêu hình
Quan điểm biện chứng
Mọi sự vật hiện tượng trên thế Các sự vật hiện tượng quy
giới khách quan đều tồn tại biệt trình khác nhau, vừa tồn
lập, tách rời, không quy định lẫn tại độc lập, vừa liên hệ,
nhau, nếu có thì chỉ là quan hệ bên quy định, chuyển hóa lẫn ngoài, ngẫu nhiên. nhau.
Tất cả các sự vật hiện tượng cũng như trên thế giới đều tồn
tại trong mối liên hệ phổ biến, quy định ràng buộc lẫn
nhau. Không có svht nào tồn tại cô lập, riêng lẻ, không liên hệ.
+ Nội dung nguyên lý phổ biến:
Làm điều kiện tiền đề quy định lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng.
Tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt của
sự vật hiện tượng
+ Tính chất của mối liên hệ phổ biến:
Mối liên hệ là khách quan: bản thân của các sự vật hiện
tượng, sự vận động, chuyển hóa không phụ thuộc vào ý
thức con người, con người chỉ có thể nhận thức được mối
liên hệ và vận dụng nó chứ không thể phá vỡ nó.
Mối liên hệ là phổ biến: nó có mặt ở trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Tự nhiên: thiên tai, bão lũ => ảnh hưởng đến đời sống sản
xuất và chất lượng cuộc sống của nhân dân
Xã hội: đại dịch covid 19 đã ảnh hưởng đến kinh tế, chính
trị, xã hội của Việt Nam và toàn thế giới.
Tư duy: một phát minh của một quốc gia nào đó => các
quốc gia khác được thụ hưởng phát minh đó
Mối liên hệ là phong phú, đa dạng: vì các svht của thế giới
khách quan vô cùng phong phú và đa dạng => mối liên hệ đa dạng, phong phú.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Quan điểm toàn diện: khi xem xét svht phải xem xét tất cả
các mối liên hệ của sự vật hiện tượng, đánh giá khách quan, đa
chiều, xác định vai trò của mối liên hệ trong từng trường hợp cụ
thể, vị trí và vai trò của nó.
Chống lại quan điểm ngụy biện: cố tình thay đổi vị trí vai
trò của mối liên hệ, làm đảo lộn vị trí và vai trò của các svht trong mối liên hệ.
Chống lại quan điểm chiết trung: không phân biệt được vị
trí, vai trò của mối liên hệ, làm lẫn lộn, không thể hiện chính kiến, ba phải.
+ Quan điểm lịch sử cụ thể: vẫn dựa trên quan điểm toàn
diện, tuy nhiên phải xem xét trong một trường hợp cụ thể, lịch
sử và thời gian cụ thể chứ không thể dàn trải tùy từng điều kiện tại thời điểm đó.
Câu 6: Trình bày nội dung nguyên lý về sự phát triển? Ý
nghĩa phương pháp luận của nguyên lý này?
- Nội dung nguyên lý về sự phát triển:
Khái niệm: “Phát triển là quá trình vận động theo hướng tiến
lên, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ thấp đến cao”. =>
Phát triển là vận động nhưng không có nghĩa mọi vận động là
phát triển, chỉ có vận động theo chiều hướng đi lên mới là phát triển.
Nội dung: Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của sự
phát triển xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau của thế giới,
nguyên lý về sự phát triển được phát biểu như sau:
+ Một là, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không
ngừng vận động và phát triển.
+ Hai là, phát triển mang tính khách quan – phổ biến, là
khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của
một hệ thống vật chất do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện
bước nhảy về chất gây ra, và hướng theo xu thế phủ định của phủ định.
+ Ba là: Thay đổi tư duy ngày càng lớn theo thời gian Tính chất:
Phát triển có tính khách quan: là thuộc tính tất yếu, khách
quan, sự phát triển không phụ thuộc vào ý thức con người.
Phát triển có tính phổ biến: được thể hiện trong quá trình
phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy.
Phát triển có tính kế thừa: phát triển dựa trên nền tảng cái
cũ, cái mới ra đời dựa trên những yếu tố mà cái cũ đã có.
Không có kế thừa thì không có phát triển.
Phát triển có tính đa dạng, phong phú: thế giới vật chất và
hiện thực khách quan vô cùng phong phú đa dạng => sự
phát triển của mọi yếu tố vật chất trong hiện thực khách
quan cũng vô cùng đa dạng, sự phát triển có thể thể hiện
trong tự nhiên, xã hội, tư duy...
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Phải có quan điểm phát triển: mọi sự vật hiện tượng luôn
phát triển, tư tưởng cũng phát triển phù hợp, tạo cái mới thay thế cho cái cũ.
+ Cái mới ra đời dựa trên nền tảng cái cũ, cái cũ mất đi, cái
mới ra đời phát triển hơn, tiến bộ hơn, phù hợp với xã hội và hiện thực.
+ Chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, lạc quan quá mức, tả khuynh, hữu khuynh.
+ Sự phát triển có nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có
những đặc điểm khác nhau => tìm ra phương pháp phù hợp để
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Câu 7: Trình bày nội dung, tính chất và mối liên hệ biện
chứng giữa nội dung và hình thức? Nêu ý nghĩa của phương pháp luận?
- Nội dung, tính chất và mối liên hệ biện chứng giữa nội
dung và hình thức:
a. Khái niệm nội dung, hình thức.
+ Nội dung là phạm trù chỉ tổng thể tất cả các mặt yếu tố tạo
nên sự vật hiện tượng.
+ Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại, biểu hiện
và phát triển của sự vật hiện tượng, là hệ thống mối liên hệ các
yếu tố cấu thành nội dung, không chỉ là các biểu hiện bên ngoài
mà còn là cấu trúc bên trong của sự vật hiện tượng.
b. Mối liên hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
+ Nội dung và hình thức là mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với
nhau. Không có hình thức nào mà không chứa đựng nội dung,
không có nội dung mà không tồn tại trong 1 hình thức nhất định.
VD: đi tham quan di tích lịch sử Quốc Tử Giám: hình thức
là học tập tích cực, nội dung là di tích lịch sử.
+ Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong
quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. Nội dung khuynh
hướng chủ đạo là biến đổi, hình thức là mặt tương đối ổn định
=> nội dung thay đổi thì hình thức thay đổi.
VD: nội dung: LLSX trong chế độ phong kiến => QHSX kém phát triển.
LLSX trong TBCN => QHSX phát triển hơn, phù hợp hơn.
+ Hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung
Hình thức phù hợp => thúc đẩy nội dung phát triển
Hình thức không phù hợp => cản trở, kìm hãm sự phát triển của nội dung.
VD: hình thức học tập phù hợp thì nội dung là kết quả đạt thành tích tốt.
+ 1 hình thức có thể chứa nhiều nội dung, một nội dung có
thể thể hiện dưới nhiều hình thức.
VD: để truyền tải nội dung về an toàn giao thông thì có
nhiều hình thức như: viết báo, truyên truyền, xử lý vi phạm…
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau. Trong hoạt
động thực tiễn tránh tách rời hoặc tuyệt đối hóa một trong 2 mặt vốn có của nó.
+ Nội dung có vai trò quyết đinh hình thức => khi xem xét
sự vật hiện tượng trước hết phải căn cứ vào nội dung, đồng thời
phải thấy được vai trò của hình thức đối với nội dung.
+ Một nội dung có thể có nhiều hình thức và một hình thức
có thể biểu hiện nhiều nội dung => áp dụng mọi hình thức có thể
để phát triển sản xuất vật chất.
+ Chống thái độ bảo thủ, trì trệ, chỉ muốn làm theo cái cũ,
đồng thời phủ nhận thái độ chủ quan, nóng vội, thay đổi hình
thức một cách vô cớ, phủ nhận vai trò của hình thức cũ trong hoàn cảnh mới.
Câu 8: Trình bày nội dung, tính chất và mối liên hệ biện
chứng giữa bản chất và hiện tượng? Nêu ý nghĩa của phương pháp luận?
- Nội dung, tính chất và mối liên hệ biện chứng giữa bản
chất và hiện tượng:
a) Nội dung và tính chất
Bản chất là phạm trù chỉ tổng hợp tất cả các mặt, những mối
liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong, quy định sự vận
động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Hiện tượng lag phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt,
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên ngoài, là
hình thức thể hiện bản chất của đối tượng.
VD: + bản chất sản xuất nhỏ => hiện tượng cày cấy thủ công.
+ bản chất của tư bản đối với cày thuê => hiện tượng là bóc lột thặng dư.
Giả tượng là hiện tượng xuyên tạc bản chất, làm nghèo nàn
hoặc phong phú bản chất, khiến chúng ta khó nhận thấy được bản chất. b) Mối liên hệ:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất
và hiện tượng có mối quan hệ biện chứng như sau:
Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống:
Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan
bất kể con người có nhận thức được hay không. Lý do là vì:
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất
định. Các yếu tố ấy tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan
xen chằng chịt với nhau, trong đó có những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định lại ở bên trong sự vật, do đó, đương
nhiên là chũng cũng tồn tại khách quan.
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài
để chúng ta nhìn thấy, nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng
còn có mối liên hệ hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
+ Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ
bản chất nào cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng.
+ Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất.
Bất kỳ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
Về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau.
Không có bản chất nào tồn tại một cách thuần túy, không cần có
hiện tượng. Ngược lại, cũng không có hiện tượng nào lại không
phải là sự biểu hiện của một bản chất nhất định.
Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác
nhau: Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó
cũng sẽ thay đổi theo. Khi bản chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
=> Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng,
giữa cái quy định sự vận động, phát triển của sự vật với những
biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ của nó mà ta có thể tìm ra cái
chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển
của những hiện tượng ấy.
Tuy thống nhất với nhau, bản chất và hiện tượng cũng có sự mâu thuẫn:
+ Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng.
Tức là, trong sự thống nhất ấy đã bao hàm sự khác biệt. Nói
cách khác, tuy bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, về
căn bản là phù hợp với nhau, nhưng chúng không bao giờ phù hợp với nhau hoàn toàn.
Sở dĩ như vậy là vì bản chất của sự vật bao giờ cũng được
thể hiện ra thông qua sự tương tác của sự vật ấy với những sự
vật xung quanh. Các sự vật xung quanh này trong quá trình
tương tác đã ảnh hưởng đến hiện tượng, đưa vào nội dung của
hiện tượng những thay đổi nhất định. Kết quả là, hiện tượng
biểu hiện bản chất nhưng không phải là sự biểu hiện y nguyên bản chất.
+ Sự không hoàn toàn trùng khớp khiến cho sự thống nhất
giữa bản chất và hiện tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện
tượng thể hiện ở chỗ:
+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định
sự tồn tại và phát triển của sự vật. Còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt.
Vì vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô
số hiện tượng khác nhau tùy theo sự biến đổi của của điều kiện và hoàn cảnh.
Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không những
vào bản chất, mà còn vào hoàn cảnh cụ thể, trong đó bản chất
được biểu hiện. Chính vì thế, hiện tượng phong phú hơn bản
chất. Ngược lại, bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.
+ Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực
khách quan. Còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.
Các hiện tượng biểu hiện bản chất không phải dưới dạng y
nguyên như bản chất vốn có mà dưới hình thức đã được cải biến,
nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản chất. VD: Nhúng
1 phần cái thước vào chậu nước, ta thấy cái thước gấp khúc,
trong khi thực tế cái thước vẫn thẳng
+ Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Còn hiện
tượng không ổn định, nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
Có tình hình đó là do nội dung của hiện tượng được quyết
định không chỉ bởi bản chất của sự vật, mà còn bởi những điều
kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi tác động qua lại của nó với các sự vật xung quanh.
Các điều kiện tồn tại bên ngoài đó và sự tác động qua lại của
sự vật này với sự vật khác lại thường xuyên biến đổi. Vì vậy,
hiện tượng thường xuyên biến đổi, trong khi bản chất vẫn giữ nguyên
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bản chất luôn giữ
nguyên như cũ từ lúc ra đời cho đến lúc mất đi. Mà bản chất
cũng biến đổi, nhưng là biến đổi rất chậm so với hiện tượng
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Trong nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải
tiếp đến nhận thức bản chất. phải thông qua sự biến đổi của hiện
tượng, nhất là những hiện tượng điển hình thì mới hiểu rõ được bản chất của sự vật.
+ Trong hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào bản chất chứ
không phải căn cứ vào hiện tượng thì mới có thể đánh giá chính
xác sự vật hiện tượng đó và mới có thể cải tạo căn bản sự vật hiện tượng đó.
+ Cần nâng cao các hiện tượng giả, phản ánh sai lệch bản chất.
Câu 9: Trình bày nội dung quy luật từ những thay đổi về
lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại? Nêu ý nghĩa
của phương pháp luận?
- Nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến
thay đổi về chất và ngược lại:
Quy luật: nói lên cách thức vận động và phát triển của sự vật hiện tượng a. Khái niệm
+ Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định
bên trong vốn có của sự vật hiện tượng, sự thống nhất hữu cơ
của các thuộc tính yếu tố tạo nên sự vật hiện tượng, phân biệt sự vật hiện tượng.
Chất của sự vật hiện tượng được tổng hợp bởi các thuộc tính và mang tính khách quan:
Riêng: từng sv có những thuộc tính khác nhau
Chung: các sv có những thuộc tính giống nhau
Cơ bản: quy định chất -> thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất
thay đổi -> sự vật thay đổi
VD: H2O có thuộc tính là dạng chất lỏng -> chất thay đổi khi
thuộc tính của nó là chất rắn hoặc khí
Chất của sự vật hiện tượng còn được quy định bởi phương
thức liên kết của các yếu tố cấu thành nó
VD: than chì và kim cương đề được cấu thành bởi Cacbon,
nhưng khác nhau ở phương thức liên kết.
+ Lượng là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quyết định
vốn có của sự vật hiện tượng, chưa nói rõ được sự khác nhau
giữa các svht mà chỉ nói đến tốc độ, quy mô, nhịp điệu vận động
và phát triển của sự vật hiện tượng
Lượng thường được biểu hiện ở các con số (to - nhỏ, cao -
thấp, ít - nhiều, đậm - nhạt…)
Như vậy: Chất và lượng tồn tại trong sự vật hiện tượng,
không thể tách rời giữa chất và lượng. Chất và lượng
thống nhất với nhau ở một mức độ nhất định.
+ Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa
chất và lượng, mà khi sự vật vẫn đang là nó, chưa thành chất
khác, sự thay đổi về lượng vẫn chưa thay đổi về chất
+ Điểm nút là giới hạn đến thời điểm đó có sự thay đổi về chất.
+ Bước nhảy là sự thay đổi về chất nhưng không thay đổi về lượng.
Bước nhảy đột biến: thay đổi 1 cách đột ngột, nhanh chóng
về chất trong mọi bộ phận cấu thành sự vật hiện tượng
Bước nhảy dần dần: sự thay đổi 1 cách từ từ trong thời gian dài.
b. Nội dung quy luật
+ Quy luật theo chiều xuôi: sự thay đổi về lương dẫn đến sự thay đổi về chất
VD: lượng khí thải từ 1 chiếc ô tô không làm ô nhiễm môi
trường, nhưng lượng khí thải từ nhiều ô tô có thể làm ô nhiễm môi trường
Lượng thay đổi gọi là tiến bộ xã hội.
Chất thay đổi gọi là cách mạng xã hội
VD: từ chế độ phong kiến => tư bản chủ nghĩa (cách mạng
xã hội). Trong quá trình chế độ phong kiến, lượng tích lũy và
phát triển, đòi hỏi 1 cuộc cách mạng xã hội để thay đổi về chất
đáp ứng nhu cầu của thời đại.
Nội dung quy luật: bất kỳ sv nào cũng có sự thống nhất
giữa chất và lượng. sự thay đổi dần dần về lượng đạt quá
giới hạn sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất của sự vật
thông qua bước nhảy. chất mới ra đời sẽ tác động trở lại
sự thay đổi về lượng. quá trình diễn ra liên tục.
+ Quy luật theo chiều ngược: chất mới ra đời tác động lên sự
thay đổi về lượng. tác động thể hiện ở chỗ quy mô, tốc độ, nhịp điệu phát triển.
VD: Chế độ phong kiến: quy mô sản xuất nhỏ, đơn giản, thủ
công. Khi tư bản chủ nghĩa xuất hiện thay thế, khoa học kỹ thuật
phát triển -> năng suất kinh tế phát triển -> sản xuất với quy mô
lớn hơn, máy móc hiện đại.
VD: học từ bậc tiêu học lên bậc THCS, sự thay đổi về chất
dẫn đến sự thay đổi về lượng kiến thức nhiều hơn, sâu hơn, thời
gian học nhiều hơn, quy mô lớn hơn…
Thay đổi về lượng là quá trình liên tục, khó thấy, khó nhận ra
Thay đổi về chất là quá trình đứt đoạn, dễ nhận ra
Tự nhiên và xã hội: tự nhiên thì tự phát; xã hội thông qua hoạt động thực tiễn
Một số hình thức của cự thay đổi về chất:
Bước nhảy dần dần
Bước nhảy đột biến
Diễn ra trong thời gian dài, Diễn ra trong thời gian ngắn,
quá trình chuyển biến lâu dài. quá trình chuyển biến nhanh
VD: vượn người-> người
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Chớp thời cơ cách mạng: nắm bắt thời điểm thuận lợi.
+ Chống lại quan điểm tả khuynh, hữu khuynh, duy ý chí,
nóng vội, bảo thủ, trì trệ…
+ Phải nhận thức được phương thức liên kết của các yếu tố
tạo thành sự vật hiện tượng để lựa chọn phù hợp.
Câu 10: Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực tiễn
đối với nhận thức? Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra?
- Khái niệm thực tiễn:
+ Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất-cảm tính, có tính
lịch sử-văn hóa của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội
phục vụ nhân loại tiến bộ. Thực tiễn là hoạt động của con người,
chỉ có con người mới có hoạt động thực tiễn.
Hoạt động thực tiễn mang tính chất sáng tạo, có tính lịch sử
- xã hội, có tính mục đích.
Sản xuất vật chất: vai trò quyết định
Hoạt động chính trị- xã hội: đấu tranh giai cấp, xã hội, dân tộc..
Thực nghiệm khoa học: quan sát thiên văn
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
+ Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở của nhận thức:
Con người thông qua thực tiễn, tác động vào thế giới khách
quan, buộc chúng phải bộc lộ các thuộc tính để con người nhận
thức. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, không có thực
tiễn thì không có nhận thức.
VD: chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay
vừa thì râm/ nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống…
+ Thực tiễn là động lực của nhận thức
Thực tiễn đặt ra những yêu cầu mới cho nhận thức, tạo ra
những tiền đề vật chất thúc đẩy sự phát triển.
Thực tiễn giúp con người nâng cao, phát triển tư duy hoàn
thiện, tìm hiểu nhận thức sâu hơn về thế giới.
VD: phát minh khoa học -> giúp con người phát triển tư
duy, hiểu rõ hơn về vũ trụ, thiên văn
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Mục đích cuối cùng của nhận thức là vận động khoa học, trí
tuệ vào hoạt động thực tiễn để cải biến thế giới.
VD: nghiên cứu ứng dụng trồng cây cao su -> sử dụng máy móc công nghệ
- Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Trong quá trình hoạt động để phát triển và tồn tại thì để thỏa
mãn nhu cầu hiểu biết của mình về thế giới con người luôn tìm
mọi cách để thỏa mãn nhu cầu đó để nhằm mục đích cải biến thế
giới. Các nhà khoa học đã phân sự hiểu biết của con người dựa
trên các cấp độ khác nhau để đo lường chúng.
Kinh nghiệm được xem là cấp độ thấp của nhận thức. Vậy
kinh nghiệm được hiểu theo một cách đơn giản nhất đó chính là
việc con người có nhận thức này sẽ hình thành từ sự quan sát
trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong
các thí nghiệm khoa học. Đến cuối cùng thì tri thức kinh nghiệm
là kết quả đạt được của nhận thức kinh nghiệm. Từ đó các nhà
kho học đã phân chia tri thức kinh nghiệm thành hai loại: tri
thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
Sự không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau của
thực tiễn và lý luận đã thể hiện được sự tống nhất giữ chúng.
Trong quá trình tác động lẫn nhau thì thực tiễn đóng vai trò là cơ
sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lí luận và là tiêu
chuẩn để kiểm tra chân lý.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Lý luận là “kim chỉ nam” soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo
hoạt động thực tiễn
Bởi vì lý luận nắm bắt được quy luật vận động và phát triển
của hiện thực. Do đó, lý luận giúp cho việc xác định được mục
tiêu, phương hướng, làm cho hoạt động trở nên chủ động, tự
giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát và điều chỉnh hoạt
động theo đúng mục tiêu đã xác định và vạch ra phương hướng
mới cho sự phát triển của thực tiễn.
+ Lý luận góp phần phát huy tối đa sức mạnh của cộng
đồng trong hoạt động thực tiễn
Lý luận được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động
thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng kích thích con
người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Lý luận
làm rõ vị trí, vai trò, lợi ích của chủ thể. Quá trình đó diễn ra
không ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận
ngày càng đầy đủ và phong phú và sâu sắc hơn. Từ đó, lý luận
không chỉ là sự giải thích thế giới ngày một rõ hơn mà còn giúp
con người hiểu thêm về ý nghĩa của thế giới đem lại mà không
ngừng cải tạo thế giới. Lý luận không chỉ mở rộng khả năng
nhìn thấy trước, dự báo tương lai, mà lý luận khoa học còn bao
hàm cả ý nghĩa tự giác hình thành cái tương lai đó. Khi lý luận
thâm nhập vào quần chúng, thông qua phong trào của quần
chúng trở thành sức mạnh vật chất.
Lý luận có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, xác định
phương pháp, biện pháp thực hiện, liên kết, tập hợp lực lượng
tạo thành sức mạnh to lớn cải tạo tự nhiên, xã hội vì sự phát
triển của các cá nhân và xã hội. Lý luận cách mạng có vai trò to
lớn trong việc giáo dục, thuyết phục, động viên, tổ chức, tập hợp
quần chúng khi đã thâm nhập vào quần chúng trở thành lực
lượng vật chất to lớn, cải tạo tự nhiên, xã hội vì sự phát triển của con người và xã hội.
+ Lý luận chỉ ra phương pháp tiến hành hoạt động thực tiễn
Bởi vì lý luận được tóm tắt trong phương pháp. Từ một hệ
thống lý luận rút ra các nguyên tắc chỉ đạo và điều chỉnh hoạt
động thực tiễn. Lý luận khoa học sẽ cho phương pháp khoa học
có hiệu quả. Xuất phát từ khả năng tư duy ưu việt của con người
mà bản chất, tính quy luật trong sự vận động, phát triển của thực
tiễn được con người nắm bắt. Nắm quy luật thực chất là nắm các
mối quan hệ bản chất, tất yếu, quyết định chiều hướng vận động,
phát triển của thực tiễn. Khi thực tiễn đang vận động, đang phát
triển đến một giai đoạn nhất định, bằng việc sử dụng lý luận mà
con người có khả năng dự báo trước được sự vận động, phát
triển của thực tiễn trong tương lai. Lý luận khoa học dự kiến sự
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai, từ
đó chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển.
Câu 11: Trình bày quan điểm của Chủ nghĩa duy vật lịch
sử về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất? Ý nghĩa phương pháp luận đối
với nhận thức sự phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay?
- Quan điểm về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
+ Lực lượng sản xuất là mối quan hệ của con người với tự
nhiên hình thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực
lượng sản xuất thể hiện ở trình độ khống chế tự nhiên của con
người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn của con người tác động
vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đảm bảo sự tồn tại và phát triển của loài người.
+ Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản
xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân
phối sản phẩm sản xuất ra. Quan hệ sản xuất do con người tạo
ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình
sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
=> Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Nội dung quy luật: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
là 2 mặt của một phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất
đóng vai trò nội dung còn quan hệ sản xuất đóng vai trò hình
thức. Lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định đối với quan hệ
sản xuất, quan hệ sản xuất tác động trở lại to lớn đối với lực lượng sản xuất.
Vai trò của Lực lượng sản xuất đối với Quan hệ sản xuất:
+ Lực lượng sản xuất mang tính động, cách mạng, thường
xuyên biến đổi thì quan hệ sản xuất phải phù hợp và phát triển tương ứng.
VD: Lực lượng sản xuất thời chiếm hữu nô lệ là những công
cụ thô sơ, khoa học kỹ thuật kém phát triển thì quan hệ sản xuất
ở thời kỳ này cũng phải phù hợp, tuy nhiên, khi kinh tế phát
triển, con người nhận thức cao hơn thì cơ cấu lao động phát triển
-> Quan hệ sản xuất phải thay đổi để phù hợp
+ Quan hệ sản xuất có tính tương đối, chậm biến đổi.
Sự tác động trở lại của Quan hệ sản xuất đối với Lực lượng sản xuất:
+ Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy sự phát triển của sản xuất
+ Quan hệ sản xuất không phù hợp thì kìm hãm sự phát triển sản xuất
VD: Khi khoa học phát triền, nhưng con người vẫn sản xuất
theo thủ công, dưới hình thức hộ gia đình hay nhỏ lẻ thì kìm
hãm sự phát triển của sản xuất.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Muốn phát triển kĩ thuật, đẩy mạnh phát triển lực lượng
sản xuất để nâng cao năng suất sản xuất vật chất
+ Căn cứ vào thực tiễn, tính chất, trình độ của lực lượng sản
xuất thì lựa chọn quan hệ sản xuất phù hợp.
+ Chống lại quan điểm chủ quan, duy ý chí, nóng vội hoặc bảo thủ, trì trệ.
Câu 12: Trình bày khái niệm hình thái kinh tế - xã hội?
Phân tích luận điểm của Các Mác: “Tôi coi sự phát triển của
các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”?
- Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội:
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù triết học của chủ
nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử
nhất định, với 1 kiểu quan hệ đặc trưng cho xã hội, phù hợp nhất
định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương
ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
- Phân tích luận điểm của Các Mác:
Lịch sử là những gì đã xảy ra tuân theo quy luật khách quan
và không phụ thuộc vào ý thức con người, phải trải qua 5 hình
thái kinh tế - xã hội chính theo chiều thấp -> cao: cộng sản
nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, tư bản chủ
nghĩa, xã hội chủ nghĩa.
Tự nhiên là các hình thái kinh tế - xã hội vận động và phát
triển theo các quy luật, không phụ thuộc vào ý thức con người
Quy luật lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
(cơ sở hạ tầng) tạo sự phát triển của sản xuất vật chất
Quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Quy luật tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Quy luật đấu tranh giai cấp
Các hình thái kinh tế - xã hội vận động và phát triển theo
quy luật khách quan đó là quá trình tự nhiên của sự phát triển
Loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội
thoe trật tự tự thấp đến cao đó là quá trình tự nhiên của lịch sử,
thể hiện tính liên tục của lịch sử.
Câu 13: Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội? Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ này?
- Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội: Khái niệm:
+ Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất
và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối
quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với tự nhiên và giữa
con người với nhau; trong đó, quan hệ giữa con người với tự
nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là hai
quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá
trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội gồm các thành phần chính như: phương thức
sản xuất vật chất; điều kiện tự nhiên, môi trường địa lý; dân số
và mật độ dân số v.v, trong đó phương thức sản xuất vật chất là
thành phần cơ bản nhất. Các quan hệ vật chất khác giữa gia
đình, giai cấp, dân tộc v.v cũng có vai trò nhất định đối với tồn tại xã hội.
+ Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao
gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý
luận…. nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội
trong những giai đoạn phát triển khác nhau.
Hiểu đơn giản thì ý thức xã hội là những quan hệ tinh thần
giữa con người với nhau, là mặt tinh thần trong quá trình lịch sử.
Ý thức xã hội có cấu trúc bên trong xác định, bao gồm những
mức độ khác nhau (ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận
(khoa học); tâm lý xã hội và hệ tư tưởng) và các hình thái của ý
thức xã hội (ý thức chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật, triết học, khoa học …). Mối quan hệ:
+ Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước,
nó sinh ra và quyết định ý thức. Trong lĩnh vực xã hội thì quan
hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và
quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người
ta không thể tìm nguồn gốc tư tưởng trong đầu óc con
người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó
phải tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.
Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi
phương thức SX đã thay đổi thì sớm hay muộn thì ý thức
xã hội cũng phải thay đổi theo.
+ Thứ hai: Ý thức xã hội thường lac hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất
rất lâu, nhưng ý thức xã hội cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng.
Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực
tâm lý xã hội như trong truyền thống, tập quán, thói quen.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội là do những nguyên nhân về:
Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường
xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con
người, thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội
có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa ý
thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung
chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng
như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái xã hội.
Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những
tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội.
Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người
đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước
sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác
dụng tổ chức chỉ đạo hoạt đông thực tiễn của con người, hướng
hoạt động đó vào hướng giải quyết những nhiệm vụ mới do sự
phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra.
Thứ tư: Ý thức xã hôi tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm
duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ
quan niệm duy vật tầm thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế
phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội
phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của
các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống
nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vậy công cuộc cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời
trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
+ Cần quán triệt rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ
bản nhất để thay đổi ý thức xã hội. Mặt khác, cũng cần thấy rằng
không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn
đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà
ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với
những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi
mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, một mặt phải coi trọng
cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai trò tác động tích
cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển
kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí
trong việc xây dựng văn hoá, xây dựng con người mới.
Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống
tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để
phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác
lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Câu 14: Trình bày quan điểm của Triết học Mác Lênin
về nguồn gốc, bản chất con người? Ý nghĩa phương pháp
luận trong nhận thức vai trò của con người trong quá trình phát triển xã hội?
- Quan điểm về nguồn gốc, bản chất con người:
Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã phê
phán vắt tắt nhưng quan niệm đó và xác lập quan niệm mới của
mình: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”
Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của
con người thì sự hình thành và phát triển của con người cùng
những khả năng sáng tạo lịch sử của nó cần phải được tiếp cận
từ giác độ phân tích và lý giải sự hình thành và phát triển của
những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử xã hội.
=> Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong
hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào
giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và
phát triển của nó thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch
sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người, ta có thể thấy:
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội
+ Con người vừa là một thực thể tự nhiên, là sản phẩm của
tự nhiên, nhưng là sản phẩm cao nhất của tự nhiên. Vừa là sản
phẩm, vừa là chủ thể của tự nhiên.
+ Là một thực thể tự nhiên, con người cũng có như động vật
khác như nhu cầu về sinh lí và cũng có các hoạt động bản năng:
đói phải ăn, khát phải uống… Như vậy, con người là một sinh
vật có đầy đủ bản tính sinh vật.
+ Mặt tự nhiên và măt xã hội thống nhất trong con người.
Mặt tự nhiên là “nền” cho con người, mặt xã hội nâng mặt tự
nhiên của con người lên trên động vật. Con người khác động vật
ở chỗ có tư duy và hoạt động có mục đích. Theo Mác mặt xã hội
của con người có điểm nổi bật hơn hẳn và phân biệt với động
vật là con người có hoạt động lao động sản xuất vật chất. Quá
trình lao động sản xuất con người sản xuất ra của cải vật chất
phục vụ cho cuộc sống của mình. Lao động là yếu tố hình thành
bản chất xã hội và nhân cách ở con người.
+ Là sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội nên ở con người
luôn chịu sự chi phối của ba hệ thống quy luật: hệ thống quy luật
tự nhiên, hệ thống quy luật tâm lí ý thức và hệ thống quy luật xã hội.
=> Tóm lại, con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt
tự nhiên và mặt xã hội. Hai mặt này vừa đối lập nhau, vừa quy
định ràng buộc và làm tiền đề cho nhau, trong đó mặt tự nhiên
quyết định sự tồn tại của con người, còn mặt xã hội quyết định bản chất con người.
Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
+ Bản chất con người được quy định bởi tất cả các mối quan
hệ xã hội, tức là bị quy định giữa mối quan hệ giữa người với người.
+ Bản chất con người phải đặt tổng quan hệ cộng đồng với
cá nhân. Con người hòa nhập vào cộng đồng củng cố thêm sự
phong phú và thể hiện bản sắc cá nhân.
+ Bản chất con người vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính
thời đại. Luận đề khẳng định bản chất con người của Mác không
phủ nhận mặt tự nhiên của con người mà muốn nhấn mạnh sự
khác biệt của con người và loài vật
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
+ Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì
không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của
lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều
quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
+ Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực
tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc
đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội.
+ Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng
làm nên lịch sử của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch
sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân
con người. Bản chất của con người không phải là một hệ thống
đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
Giải thích một cách khoa học các vấn đề của con người từ cả
hai phương diện tự nhiên và xã hội, trong đó phương diện xã hội
có vai trò quyết định tới bản chất của con người.
+ Động lực cơ bản của sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội
chính là năng lực sáng tạo lịch sử của con người, vì con người
chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ
và phát triển của xã hội.
+ Sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng
sáng tạo lịch sử của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng
những quan hệ kinh tế – xã hội
=> Phương pháp luận Triết học Mác Lênin giữ vai trò định
hướng cho con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Đồng thời phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.