Câu hỏi ôn thi học phần Lịch sử Nhà nước và Pháp Luật | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Câu hỏi ôn thi học phần Lịch sử Nhà nước và Pháp Luật | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

CÂU HỎI ÔN THI HỌC PHẦN
LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Áp dụng đối với lớp Luật thương mại quốc tế (2 tín chỉ), hình thức thi viết, năm 2022
PHẦN NHẬP MÔN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THẾ GIỚI
Câu 2. sở kinh tế hội của sự ra đời, tồn tại phát triển của các nhà nước
Phương Đông cổ đại (Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc)
Nhà nước phương Đông cổ đại ra đời trên sự thúc đẩy của việc trị thủy nhu cầu t
vệ. Cơ sở kinh tế vẫn là việc tư hữu về tư liệu sản xuất, cơ sở xã hội là sự phân chia giai
cấp, nhưng mâu thuẫn giữa những giai cấp không thật sự sâu sắc. Tuy vậy, yếu tố chính
làm xuất hiện nhà nướcsự phân hóa giai cấp, còn yếu tố quản và vai trò của người
thủ nh trong công cuộc trị thủy chiến tranh yếu tố thúc đẩy sự ra đời của nhà
nước sớm hơn.
Nhà nước phương Đông cổ đại tồn tại phát triển trên nền tảng lấy kinh tế nông
nghiệp làm chủ đạo. Do hình thành u vực các con sông lớn nên nông nghiệp phát
triển mạnh.
Câu 3. Nội dung bản của Bộ luật Hammurabi (ở Lưỡng Hà cổ đại), so sánh
nó với Bộ luật Manu (ở ấn Độ cổ đại)
*Nội dung cơ bản của bộ luật Hammurabi
- Bộ luật Hammurabibộ luật tương đối hoàn chỉnh thời kì cổ đại, gồm 282 điều (hiện
chỉ đọc được 247 điều) bao gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luật.
Đây là một bộ luật tổng hợp được xây dựng dưới dạng luật hình, bao gồm các quy phạm
pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực đềuchế tài, chủ yếu điều chỉnh quan hệ
hội liên quan tới lợi ích của giai cấp thống trị.
- Phần mở đầu Vua Hammurabi tuyên bố rằng các vị thần đã trao đất nước cho nhà vua
thống trị để làm cho đất nước giàu có, nhân dân no đủ.
- Phần nội dung phần chủ yếu của bộ luật. Nội dung của bộ luật bắt nguồn từ sự kế
thừa t những bộ luật trước đó, cụ thể những pháp điển của người Xume, ngoài ra
chứa đựng những sắc lệnh của vua Hammurabi nhiều quyết định của tòa án cao cấp
bấy giờ.
+ Trong đó, điều đầu tiên bộ luật quy định thủ tục kiện cáo, cách xét xử tức tục tố
tụng.
+ Tiếp đó những quy định về hình phạt của tội trộm cắp, bắt cóc lệ, về quyền
nghĩa vụ của binh lính, quyền lợi của người lính canh ruộng đất. Tội sử dụng bừa bãi
nguồn nước, tội để súc vật tàn phá hoa màu.
+ Các hình thức cho vay lãi, nô lệ vì nợ cũng được quy định rất cụ thể.
+ Sau đó bộ luật dành nhiều khoản về việc gả bán con gái, về gia đình, về các hình thức
trị tội khi làm tổn hại tới thân thể người khác, hình phạt đối với tội thủ tiêu dấu trên mặt
nô lệ, trách nhiệm và tiền công của những người làm thuê trong xây dựng, nông nghiệp,
chăn nuôi, thủ công nghiệp.
+ Và cuối cùng, những điều khoản quy định về mua bán nô lệ.
- Phần kết luận của bộ luật: khẳng định lại công đứcuy quyền của Hammurabi. Nhà
vua trừng trị thẳng tay những kẻ nào hủy hoại bộ luật.
*So sánh Bộ Luật Hammurabi và Bộ Luật Manu
- Bộ Luật Hammurabi bộ luật thành văn sớm nhất được xây dựng trên sở lấy từ
những tiền lệ pháp của người Xume, những quy định của tòa án các phán quyết của
tòa án lúc bây giờ, mệnh lệnh chiếu chỉ của nhà vua bởi vậy Bộ Luật chú trọng
tập trung điều chỉnh các mối quan hệ trong hội lúc bấy giờ. Tuy rằng Bộ Luật Manu
cùng được xây dựng từ những luật lệ, những tập quán của giai cấp thống trị nhưng
lại được các giáo La Môn tập hợp dưới dạng trường ca, được trình bày dưới dạng
câu trường ca, tuy có điều chỉnh quan hệ pháp luật nhưng nó còn bao gồm rất nhiều vấn
đề như chính trị, tôn giáo, quan niệm về thế giới trụ, bởi vậy Bộ Luật bao gồm
2685 điều trong khi đó Hammurabi chỉ 282 điều. Tuy nhiên, bộ Luật Hammurabi lại
điều chỉnh các quan hệ xã hội tiến bộ hơn rất nhiều so với Manu.
- Nội dung:
+ Chế độ hợp đồng: hai bộ luật điều phần điều kiện hiệu lực hợp đồng, Bộ Luật
Manu chủ yếu đề cập tới vấn đề hợp đồng vay mượn, Bộ luật Hammurabi còn nói đến
vấn đề hợp đồngnh canh ruộng đất, hợp đồng gửi giữ, cả hai bộ Luật đều dung chính
bản thân con người làm vật bảo đảm, tuy nhiên Bộ luật Hammurabi những quy định
cũng như chế tài ràng hơn so với Manu, Bộ luật Manu nh phân biệt ràng đối
với đẳng cấp cao đó là Bà La Môn.
+ Chế định hôn nhân: Bộ luật Manu sự bất bình đẳng rệt giữa vợ chồng, hôn
nhân mang tính chất mua bán, người vợ được người chồng mua về, trong khi đó bên Bộ
luật Hammurabi thủ tục kết hôn, tuy cũng sự bất bình đẳng nhưng Bộ luật vẫn
điều khoản bảo vệ người phụ nữ.
+ Chế độ thừa kế: về bản 2 Bộ luật đều 2 hình thức thừa kế là: theo luật pháp
theo di chúc, đều thừa kế theo tài sản người cha. Bên Bộ luật Hammurabithêm phần
Điều kiện tước quyền thừa kế.
+ Chế độ hình sự: Bộ luật Manu sự phân biệt đẳng cấp ràng: khoan dung cho
người đẳng cấp trên trừng trị thẳng tay đối với kẻ đẳng cấp dưới hành vi xâm
phạm tới đẳng cấp trên, Bộ luật Hammurabi quan niệm hình sự trừng trị tội lỗi,
mang tính chất trả thù ngang nhau tuy nhiên chỉ là tương đối. Các hình thức xử phạt của
hai bộ Luật đều rất dã man.
+ Chế độ tố tụng: Bộ Luật Manu thì coi trọng chứng cứ nhưng chứng cứ lại phụ thuộc
vào giới tính đẳng cấp, chứng cứ của đẳng cấp cao tính quyết định. Bộ luật
Hammurabi cũng coi trọng chứng cứ nhưng không phân biệt đẳng cấp điều quan
trọng là được xét xử công khai rất tiến bộ.
Bộ luật Manu mang tính phân biệt đẳng cấp rất rệt, mọi điều khoản đều ủng hộ đẳng
cấp trên. Bộ Luật Hammurabi tuy cũng sự phân biệt nhưng cùng với đó cũng có tính
dân chủ nhất định, cũng có sự bảo vệ với người dân.
Câu 4. So sánh chỉ ra nét khác biệt bản giữa nhà nước Xpác nhà nước
Aten (Hy Lạp cổ đại).
*Giống nhau:
- Cả Aten và Xpac đều là hai thành bang thuộc Hy Lạp, chính thể nhà nước đặc trưng là
chính thể cộng hòa chủ nô.
- Nhà nước được xây dựng thống trị bởi giai cấp chủ giai cấp nắm các đặc
quyền về kinh tế chính trị; chung mục đích bảo vệ quyền lợi địa vị của giai cấp
chủ nô trong xã hội.
- Cả hai nhà nước trên đều tồn tại trên cơ sở tư hữu và quan hệ bóc lột nô lệ.
*Khác nhau:
- Hình thức nhà nước:
+ Aten là Nhà nước Cộng hòa Dân chủ chủ nô.
+ Xpac là Nhà nước Cộng hòa quý tộc chủ nô.
- Tổ chức xã hội:
+ Aten: mới đầu cũng theo hình thức cộng hòa quý tộc chủ nhưng do kinh tế phát
triển, công thương nghiệp dần chiếm vai trò chủ đạo dần liên kết với nông dân chống lại
giai cấp quý tộc, thông qua ba lần cải cách của: XôLông, Clixten, Periclet, đã dần
chuyển từ hình thức cộng hòa quý tộc chủ nô sang chế độ cộng hòa dân chủ chủ nô.
+ Xpac: sự hình thành nhà nước Xpac trên sở của cuộc chiến tranh xâm lược của
người Đô Riêng đối với người Akeang. Cuộc xâm chiếm làm xã hội hình thành các giai
cấp mới:
Người Xpac: giai cấp thống trị, công việc cai trị đất nước đánh giặc. Nhà
nước sở hữu toàn bộ đất đai và nô lệ. Tầng lớp quý tộc.
Người Periet: người Akeang bị chinh phục, người tự do ruộng tài sản
riêng nhưng không quyền về chính trị, họ phải cống nạp cho người Xpac
không được lấy người Xpac.
Người Ilốt: là nô lệ chung cho cả xã hội Xpac.
Nhà nước Aten đã sự dân chủ hơn so với nhà nước Xpac: Aten người dân tự do
quyền tham gia chính trị đấu tranh với giai cấp quý tộc đòi quyền lợi; trong khi đó nhà
nước Xpac các giai cấp khác phải nghe theo sự thống trị của giai cấp quý tộc Xpac, họ
ko được hưởng quyền lợi gì.
- Tổ chức bộ máy nhà nước:
+ Nhà nước Xpac có 2 vua được tôn kính nhưng không có thực lực; Còn nhà nước Aten
không có vua.
+ Nhà nước Xpac:
Hội đồng nhân dân là hội đồng thảo pháp luật gồm các thành viên là quý tộc.
Đại hội nhân dân thành viên các công dân nam Xpac trên 30 tuổi đây
quan quyền lực về mặt hình thức, quyền lực thực sự tập trung trong hội đồng
trưởng lão.
Về sau do sự mâu thuẫn gay gắt giữa các giai cấp, để bảo vệ quyền lợi của mình
giai cấp quý tộc đã lập ra Hội đồng 5 quan giám sát chức năng quyền hạn
rất lớn, quan lãnh đạo tối cao, nhằm tập trung quyền lực vào tay giai cấp
quý tộc.
+ Nhà nước Aten:
Hội nghị công dân: thành viên bao gồm công dân nam Aten trên 18 tuổi có quyền
tự do bàn bạc thảo luận các vấn đề quan trọng.
Hội đồng 500 người chia làm 10 ủy ban với nhiệm vụ thi hành và giải quyết vấn
đề quan trọng trong hội nghị công dân, giám sát công việc nhà nước, quản lý tài
chính.
Hội đồng 10 thủ lĩnh: được bầu ra trong hội nghị công dân nhiệm vụ thống
lĩnh quân đội, giám sát hội nghị công dân.
Đặc biệt có sự khác biệt so với Xpac là có thêm Tòa bồi thẩm chuyên xét xử giám
sát tư pháp, thẩm phán được công dân Aten bỏ phiếu bầu ra.
quan nhà nước Xpac đều do giai cấp quý tộc nắm giữ điều hành bảo vệ lợi ích
cho giai cấp mình, trong khi đó nhà nước Aten các cơ quan đều do công dân Aten lập ra
có sự dân chủ tiến bộ. Tuy nhiên sự hạn chế dân chủ của cả hai nhà nước cũng được thể
hiện đó chỉ công dân của Nhà nước đó mới quyền tham gia chính trị, sự
phân biệt giai cấp.
Câu 6. Chế độ tự trị của các thành thị quan đại diện đẳng cấp Tây Âu
trong thời kỳ phong kiến.
*Chế độ tự trị của các thành thị ở Tây Âu thời phong kiến
- Nguyên nhân hình thành:
+ Sự xuất hiện của tầng lớp thị dân: Xuất hiện ngay trong lòng quá trình phát triển của
chế độ phong kiến. Khi nghề thủ công nghiệp hình thành, thợ thủ công nông từ
các vùng nông thôn kéo đến thành thị làm ăn, buôn bán.
+ Tất cả các thành thị trước khi giành được quyền tự trị đều nằm trên đất của các lãnh
chúa. Thành thị bị lệ thuộc vào lãnh chúa phong kiến bị sách nhiễu mọi thứ. Trên
lãnh thổ thành thị những mâu thuẫn giữa thị dân với lãnh chúa dần hình thành và trở nên
ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giành quyền tự trị bắt đầu từ thế kỷ XI với hai
con đường:
Hình thành phong trào đấu tranh của các thành thị để giành được chế độ tự trị
(nơi không có tiềm lực kinh tế).
Nộp tiền cho lãnh chúa để được hưởng quyền tự trị (nơi có tiềm lực kinh tế).
- Ở lãnh thổ của các lãnh chúa sau khi thị dân đấu tranh thì hình thành các thành thị theo
sự điều hành của cộng hòa thành thị. Nền cộng hòa thành thị có sự quản lý của hội đồng
thành phố do thị dân bầu ra. Thành thị sau khi đã được tự trị, một mặt đầy đủ quyền
hành như một lãnh chúa phong kiến, mặt khác, cộng hòa thành thịđịa vị và tính chất
như một thần thuộc của lãnh chúa là với, công thị bấy giờ là cộng hoà phong kiến.
*Cơ quan đại diện đẳng cấp ở Tây Âu
- Cơ quan đại diện đẳng cấp ở Pháp
+ Vua Philip IV triệu tập Hội nghị đại biểu của 3 đẳng cấp:
Tăng lữ.
Quý tộc phong kiến.
Tầng lớp thị dân giàu có (giai cấp tư sản sau này).
+ Hội nghị 3 đẳng cấp đứng về phía nhà Vua chống lại Giáo Hoàng La Mã, thông qua
Hội nghị, thị dân được tham gia vào đời sống chính trị.
+ Xu hướng phát triển về sau: khi chính quyền quân chủ chuyên chế được thiết lập sau
này, vai trò của cơ quan đại diện đẳng cấp đã bị thu hẹp lại.
- Nghị viện ở Anh
+ Năm 1215, vua John vào bản “Đại hiến chương tự do” Magna Charta (trong đó
hạn chế quyền lực của nhà Vua).
+ Năm 1263, xảy ra cuộc xung đột giữa 2 phe, một bên Vua Henry III một bên
liên minh giữa các lãnh chúa lớn do Ximông Đơ Môngpho cùng các kị sĩ, thị dân giàu
có.
+ Sau cuộc xung đột, nhà vua thừa nhận Nghị viện là cơ quan đại biểu của lãnh chúa, kị
thị dân. Nghị viện quyền hành lớn, vai trò quan trọng, bảo vệ quyền lợi của
người giàu có trong xã hội.
Thượng nghị viện: Đại biểu của quý tộc và giáo hội.
Hạ nghị viện: Đại biểu của kỵ sĩ và thị dân giàu có.
+ Xu hướng phát triển về sau: ngày càng phát huy vai trò quan trọng.
Câu 5. Nêu giải thích đặc điểm của nhà nước sản trong thời kỳ CNTB tự do
cạnh tranh.
- Từ thế kỷ XV – XVII, chế độ phong kiến ở phương Tây lâm vào thời kỳ khủng hoảng.
Giai cấp tư sản ra đời, lực lượng tiến bộ tiến hành cách mạng sản, lật đổ chế độ
phong kiến, thiết lập nhà nướcsản. Nhà nước sản ra đời hệ quả tất yếu của quá
trình phát triển phương thức sản xuất bản chủ nghĩa, thành quả trực tiếp của cách
mạng tư sản. Chủ nghĩa bản tự do cạnh tranh (XVIIXIX) là giai đoạn các quốc gia
tư sản vừa tiến hành cách mạng tư sản và thiết ra những nhà nước tư sản giai đoạn đầu.
*Đặc điểm của nhà nước tư sản trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh
- Về bộ máy nhà nước: Vềbản vẫn giữ các cơ quan giống các cơ quan trong bộ máy
nhà nước phong kiến. Bộ máy Nhà nước sản chưa lớn, chưa can thiệp sâu vào quá
trình sản xuất trao đổi bản, đơn giản hơn nhiều so với giai đoạn chủ nghĩa tư bản
độc quyền.
- Về hình thức chính thể: Chủ yếu quân chủ lập hiến, chỉ 3 nhà nước
chính thể cộng hoà là Pháp, Hoa Kỳ và Thụy Sỹ.
- Vai trò của nghị viện thời kỳ này rất lớn, thực sự là cơ quan quyền lực.
- Nhà nước chưa can thiệp vào kinh tế, chủ yếu đóng vai trò bảo đảm trật tự cho các nhà
sản cạnh tranh tự do. Chức năng bản của nhà nước sản thời kỳ bản cạnh
tranh tự do:
+ Bảo vệ chế độ tư hữu tư sản.
+ Bảo vệ địa vị thống trị về chính trị.
+ Bảo vệ địa vị thống trị về tư tưởng của giai cấp tư sản.
+ Xâm lược thuộc địa.
+ Phòng thủ chống xâm lược từ các quốc gia bên ngoài.
=> Bản chất nhàớc sản tự do cạnh tranh công cụ để giai cấp sản bảo vệ địa
vị thống trị của mình và duy trì, bảo vệ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
*Giải thích đặc điểm của nhà nước tư sản trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh
- Về bộ máy nhà nước: Thời kỳ này, chủ nghĩa tư bản vừa mới ra đời
Câu 6. Từ góc độ lịch sử luật pháp hãy giải tình trạng “không hiến pháp
thành văn” nhà nước Anh sản phân tích tổ chức bộ máy nhà nước sản
Anh thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh.
*Tình trạng “không có hiến pháp thành văn” ở nhà nước tư sản Anh
- Khái niệm: Hiến pháp không thành văn là Hiến pháp có các quy phạm pháp luật không
được thể hiện dưới hình thức văn bản. Các quy tắc này tồn tại trong tập quán chính trị,
truyền thống, án lệ của quốc gia đó được thừa nhận và áp dụng.
- Hiến pháp không thành văn hiện nay của nhà nước tư sản Anh bao gồm:
+ Một số tập quán chính trị
+ Một số quy định luật của nghị viện
+ Một số án lệ của quốc gia
+ Một số Hiệp ước, Điều ước quốc tế
Hiến pháp bất thành văn của Anh không chỉ bao gồm những tập quán bất thành văn, sau
cách mạng 1688, ở Anh tồn tại một tập quán chính trị về tính tối cao của Nghị viện, nên
những đạo luật do Nghị viện Anh thông qua nguồn pháp luật giá trị pháp cao
nhất.
Nước Anh Hiến pháp nhưng dưới dạng hình thức không thành văn chủ yếu do
một số nguyên nhân sau:
- Nhà nước tư sản Anh là nhà nước tư sản đầu tiên. Cuộc cách mạngsản Anh cũng là
cuộc cách mạng luật pháp lớn lao đầu tiên. nhiều sáng kiến pháp luật nổi tiếng,
nhưng không thể sáng tạo đầy đủ được. Trong đó chưa nghĩ ra được hình thức hiến
pháp.
- Các nguyên tắc và những quy chế mang tính lập hiến tạo nên chính thể tư sản ở Anh là
kết quả của cả một quá trình đấu tranh lâu dài giữa giai cấp tư sản và thế lực quý tộc cũ.
Nên ngay từ đầu không thể có một văn bản mang tính hiến pháp đầy đủ.
- Đều muốn hạn chế quyền lực của mỗi nhân, của Nhà nước. Nghị viện không muốn
tự mình giới hạn quyền lực của mình ở bản hiến pháp thành văn.
- Tuy hiện tại, không phải nước Anh không đủ khả năng xây dựng một bản hiến pháp
thành văn nhưng nước Anh tôn trọng truyền thống, họ người bảo thủ, trải tđời này
qua đời khác việc tồn tại Hiến pháp không thành văn không gây ảnh hưởng gì với sự tồn
tại, phát triển của nhà nước. Hiến pháp không thành văn tiến bộ, phù hợp với quan điểm
“thương lượng, thỏa hiệp, bình đẳng” của giai cấp tư sản Anh, và càng tỏ ra phù hợp với
sự thay đổi nhanh chóng, liên tục của thế giới đương đại.
*Tổ chức bộ máy nhà nước tư sản Anh thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh.
- Hình thức chính thể: Quân chủ lập hiến
Tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ nghị viện Anh: Bộ máy nhà nước quân chủ nghị
viện Anh gồm 3 bộ phận cơ bản.
- Hoàng đế: nguyên thủ quốc gia, giữ vai trò tượng trưng, “một nhà vua trị nhưng
không cai trị”.
+ Hoàng đế người đứng đầu bộ máy nhà nước, vai trò biểu tượng cho sự thống
nhất và bền vững của quốc gia, dân tộc.
+ Quyết định của Hoàng đế chỉ hiệu lực thực thi khi chữ kèm theo của Thủ
tướng hoặc của Bộ trưởng
+ Nguyên tắc Hoàng đế không phải chịu trách nhiệm.
+ Quân vương chỉ định Thủ tướng
+ Vua Anh lãnh tụ tối cao chính thức của Giáo hội Anh. Vai trò ngôi Vua trong Giáo
hội chỉ trên danh nghĩa: “một van an toàn cuối cùng”.
- Nghị viện (chế độ lưỡng viện):
+ Nghị viện quyền lập pháp, quyền quyết định ngân sách thuế, quyền giám sát
hoạt động của nội các, quyền bầu hoặc quyền bãi nhiệm các thành viên của nội các.
+ Thượng nghị viện: xem xét và chỉnh sửa những đạo luật Hạ viện đã thông qua;
thể trì hoãn việc thông qua luật, đề nghị Hạ viện xem xét lại dự luật nhưng không thể
ngăn chặn việc thông qua luật
+ Hạ Nghị viện: có quyền lập pháp, quyền quyết định ngân sách quốc phòng, thuế, giám
sát hoạt động của các quan hành pháp, chất vấn các quan chức cấp cao trong Chính
phủ từ hàm bộ trưởng trở lên. Bên cạnh đó, Hạ nghị viện có quyền thành lập Chính phủ,
luận tội các quan chức cao cấp trong chính phủ cả nguyên thủ quốc gia nếu họ phản
bội tổ quốc
- Chính phủ: Tiền thân là Viện Cơ mật là cơ quan nắm quyền hành pháp từ năm 1714.
+ thực quyền hành pháp, Thủ tướng được Hoàng đế bổ nhiệm với điều kiện Thủ
tướng phải là thủ lĩnh của Đảng chiếm đa số ghế trong Hạ Nghị viện
+ Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Anh:
Bổ nhiệm, bãi miễn các thành viên của Chính phủ (khoảng gần 80 người);
Xác định nhiệm vụ, lịch trình hoạt động của Chính phủ;
Có quyền ban hành các văn bản pháp quy thuộc thâm quyên;
Có quyền ký các điều ước, hiệp ước quốc tế;
Có quyền làm đơn từ chức bất kỳ lúc nào.
Câu 7. Phân tích t chức bộ máy nhà nước sản Mỹ, xác định hình thức chính
thể của Nhà nước tư sản Mỹ.
*Tổ chức bộ máy nhà nước tư sản Mỹ
Hoa Kỳ theo hình thức cộng hòa tổng thống: Tổng thống, Nghị viện, Pháp viện tối cao.
- Tổng thống:
+ Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa đứng đầu hành pháp.
+ Tổng thống quyền hành rất lớn, nhiệm kỳ 4 năm. Tổng thống không chịu trách
nhiệm trước Nghị viện.
+ Điều kiện ứng cử: công dân Hoa Kỳ từ 35 tuổi trở lên, đã trú Hoa Kỳ trên 14
năm, trải qua 2 giai đoạn bầu cử: sơ bộ và chính thức.
- Nghị viện là cơ quan lập pháp, gồm 2 viện:
+ Thượng nghị viện:quan đại diện của các bang. Thượng nghị phải có tuổi đời
từ ít nhất 30 tuổi, ít nhất 9 năm dân Hoa Kỳ, người trú tại bang đã bầu
ra họ. Mỗi tiểu bang 2 Thượng nghịkhông phụ thuộc số dân, diện tích. Nhiệm kỳ
6 năm, hai năm bầu lại 1/3.
+ Hạ nghị viện: quan dân biểu, do dân chúng các tiểu bang bầu lên (số đại biểu tỉ
lệ với số dân của tiểu bang). Hạ nghị phải tuổi đời từ ít nhất 25 tuổi, ít nhất 7
năm là cư dân ở Hoa Kỳ, là người cư trú tại bang đã tiến cử họ vào Quốc hội. Nhiệm kỳ
2 năm.
+ Khi là Nghị sĩ của một viện thì không được bầu là Nghị sĩ của viện kia và không được
làm thành viên của cơ quan hành pháp hay cơ quan tư pháp.
+ Nghị viện quyền lớn: Thông qua đạo luật, quyền tán thành hoặc không tán thành
các quan chức cao cấp do tổng thống bổ nhiệm.
+ Không thể nói viện nào nhiều quyền hơn viện nào (nguyên tắc đối trọng cân bằng
quyền lực). dụ: Hạ nghị viện quyền luận tội các quan chức cao cấp của nhà nước
kể cả tổng thống, nhưng quyền kết tội lại thuộc về thượng viện.
- Pháp viện tối cao:
+ Gồm 9 thẩm phán do Tổng thống bổ nhiệm được sự chấp thuận của thượng nghị
viện. Thẩm phán có nhiệm kỳ suốt đời.
+ Kết luận của Tòa án tối cao Hoa Kỳ cần ít nhất 6 trên 9 thẩm phán thông qua.
+ Thẩm phán quyền hiệu hóa các quyết định của Nghị viện hay Tổng thống nếu
như chúng trái với Hiến pháp.
Ba ngành quyền lực lập pháp, hành pháp, pháp đều sự kìm chế - đối trọng,
giám sát chế ước lẫn nhau theo thuyết tam quyền phân lập, nhà nước Hoa Kỳ
được tổ chức theo 3 nguyên tắc sau: 3 bộ phận của nhà nước nguồn gốc hình
thành khác nhau; 3 bộ phận nhiệm kỳ khác nhau; 3 bộ phận sự độc lập
kiềm chế lẫn nhau, bảo đảm cho chúng không loại trừ hoặc tiệm quyền nhau.
*Hình thức chính thể của nhà nước Tư sản Mỹ là Cộng hòa liên bang.
Câu 8. Phân tích những đặc điểm bản của pháp luật sản trong thời kỳ cận
đại và so sánh với pháp luật phong kiến.
*So sánh pháp luật thời cận đại và pháp luật thời phong kiến
Pháp luật sản ra đời thời cận đại được xem một bước tiến lớn trong lịch sử nhân
loại. Có nhiều điểm tiến bộ hơn so với pháp luật phong kiến.
1. Vấn đề quyền con người
- Pháp luật sản cận đại thiết lập nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước pháp luật
trong khi đó pháp luật phong kiến là pháp luật đặc quyền về đẳng cấp.
- Hiến pháp lần đầu tiên xuất hiện với các quy định về quyền con người nghĩa vụ cơ bản
của nhân dân. Nhiều quyền con người, công dân được đề cập cụ thể.
+ Pháp tư sản bảo vệ quyền tư hữu tư nhân.
+ Pháp luật tư sản quy định quyền bầu cử, phủ định chế độ thế tập.
- Các ngành luật khác cũng có những quy định cụ thể nhằm đảm bảo quyền con người.
2. Những tiến bộ trong việc xây dựng pháp luật
- Pháp luật sản thời cận đại bị chi phối bởi hai hệ thống pháp luật Common Law
Civil Law.
- Trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh, kỹ thuật lập pháp sự tiến bộ với việc phân
chia thành các ngành luật, các chế định, các khái niệm pháp lý…
- Pháp luật sản thời cận đại phát triển về Luật dân sự hơn so với pháp luật phong
kiến.
- Lần đầu tiên Luật lao động ra đời nhằm bảo vệ quyền lợi của công nhân.
- Luật hình sự của pháp luật sản cận đại chống lại xét xử độc đoán chuyên quyền
giảm dần các hình phạt dã man.
- Nguyên tắc suy đoán vô tội và tranh tụng được áp dụng đảm bảo tính công bằng.
3. Pháp luật sản cận đại không chỉ công cụ để quản hội còn là công cụ
giám sát, hạn chế quyền lực nhà nước
- Pháp luật tư sản cận đại đã xuất hiện nguyên tắc phân chia quyền lực.
PHẦN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Câu 10. Sự hình thành, tổ chức bộ máy đặc trưng bản của nhà nước Văn
lang- Âu lạc.
* Sự hình thành nhà nước Văn Lang - Âu Lạc
Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam, “Nước Văn Lang, hiểu theo nghĩa nhà
nước khai, chỉ thể ra đời trong giai đoạn văn hóa Đông Sơn”. Việt Sử lược tác
phẩm sử học xưa nhất còn lại đến nay chép rằng nước Văn Lang do Hùng Vương thành
lập vào khoảng đời Trang Vương nhà Chu (696-682). Trong tác phẩm này nêu rằng:
“Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 TCN), Bộ Gia Ninh người lạ, dùng ảo
thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng Hùng Vương, đóng đô Văn Lang, hiệu
nước Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được
18 đời, đều gọi Hùng Vương”. Niên đại ra đời của nước Văn Lang vào thế kỷ 7 TCN
được chép trong Việt Sử lược là phù hợp với kết quả nghiên cứu khoa học hiện nay.
* Tổ chức bộ máy nhà nước
Tổ chức nhà nước thời kỳ này còn hết sức đơn giản. Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng
Vương, giúp việc cho Hùng Vương Lạc hầu. Nước Văn Lang chia làm 15 Bộ, đứng
đầu mỗi Bộ Lạc tướng, đây cũng chức thế tập cha truyền con nối. Bộ thực chất
bộ lạc, Lạc tướng vốn trưởng bộ lạc rồi chuyển hoá thành người đứng đầu một
“vùng - bộ lạc” của nước Văn Lang dưới quyền Hùng Vương. Dưới bộ các Công
nông thôn (kẻ, chạ, chiềng) kết hợp quan hệ xóm làng với quan hệ họ hàng, quan hệ
láng giềng với quan hệ huyết thống. Mỗi Công gồm một số gia đình sống quây quần
trong một khu vực địa lý nhất định. Đứng đầu công xã là bồ chính mà thực chất chính là
các già làng. Đến thời Âu Lạc, tổ chức bộ máy nhà nước vẫn được giữ nguyên.
* Đặc trưng cơ bản của nhà nước Văn Lang - Âu Lạc
- Thứ nhất, tầng lớp thống trị giai cấp quý tộc, vừa đại diện cho công trên một số
lợi ích chung, vừa được thu một phần sản phẩm thặng của công dưới hình thức
cống nạp hay lao dịch của công xã như những đơn vị bóc lột.
- Thứ hai, công nông thôn tồn tại với hai cách: đơn vị hành chính - lãnh thổ
biểu tượng cho sự tồn tại bền vững của sức mạnh nhân dân.
- Thứ ba, có sự tồn tại lâu dài chế độ công hữu về ruộng đất.
- Thứ tư, Nhà nước ra đời sớm hơn trước khi trong xã hội có sự phân hoá thành giai cấp.
- Thứ năm, quyền lực nhà nước tập trung, thống nhất, nhà nước được tổ chức lên
trước hết là để đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng.
Câu 11. Đặc điểm cơ bản về nhà nước và pháp luật ở Việt nam thời Bắc thuộc.
*Đặc điểm cơ bản về nhà nước ở Việt Nam thời Bắc thuộc
- hai hệ thống chính quyền hoặc đan xen tồn tại hoặc song song tồn tại trong các
mốc thời gian lịch sử khác nhau: hệ thống chính quyền chủ đạo là hệ thống chính quyền
đô hộ của phong kiến Trung Quốc hệ thống chính quyền độc lập tự chủ của người
Việt.
- Hệ thống chính quyền đô hộ phong kiến Trung Quốc chỉ bộ phận của bộ máy nhà
nước phong kiến Trung Quốc, đó các cấp chính quyền địa phương của bộ máy nhà
nước phong kiến Trung Quốc chứ không phải là một hệ thống chính quyền cấu
hoàn chỉnh chặt chẽ từ trung ương xuống địa phương. Mặc chính quyền đô hộ luôn
kiện toàn bộ máy nhưng bộ máy nhưng cao nhất cũng chỉ quản được đến cấp huyện,
còn các xã, làng mạc vẫn luôn luôn chịu sự quản trực tiếp của người Việt. Bởi lẽ, từ
trước tới nay, cấp cơ sở (làng, xã) của người Việt luôn mang tính chất khép kín cao, khi
người Hán thực hiện chính sách đồng hóa, nhân dân càng đoàn kết, củng cố được khối
sức mạnh.
- Những cơ sở lịch sử cho thấy cha ông chúng ta đã tiếp thu kỹ thuật, cách thức tổ chức
chính quyền theo đơn vị hành chính lãnh thổ nhiều cấp của người Trung Quốc để vận
dụng xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước thời kì này.
- Hệ thống chính quyền cấp sở của người Việt mang tính chất khép kín, ưu tiên điều
chỉnh nội bộ bằng các phong tục tập quán bảo lưu, duy trì tính chất làng Việt truyền
thống. Xét theo chiều dọc thời gian, tuy kéo dài hàng ngàn năm, nhưng nền đô hộ do
chính quyền đô hộ thiết lập không liên tục. Xét theo chiều ngang chiều sâu của
không gian, chính quyền đô hộ không thể với tay tới làm thay đổi được cấu làng
cổ truyền của người Việt, nhiều vùng rộng lớn xa xôi vẫn nằm ngoài phạm vi cai trị
của chính quyền đô hộ. Hay nói cách khác, các triều đại phong kiến Trung Hoa chỉ cướp
được nước Âu Lạc chứ không trực trị được các làng Việt.
*Đặc điểm cơ bản về pháp luật ở Việt Nam thời Bắc thuộc
- Thời kỳ này, pháp luật được thi hành pháp luật của Trung Hoa, pháp luật của kẻ đi
cai trị. Để tiến hành việc trấn áp, pháp luật mà người Việt được biết tới là pháp luật của
ngoại bang, pháp luật đôi khi được đồng nhất với hình phạt. Pháp luật của Trung Hoa
phong kiến đã được áp dụng tại Việt Nam, trong đó hai bộ luật chủ yếu Bộ luật
nhà Hán Bộ luật nhà Đường. Hàng loạt các hình phạt như xẻo mũi, cắt tai, thích chữ
vào mặt, đánh gậy, lưu đầy, xử tử v.v... đã bắt đầu được áp dụng.
- Bộ luật nhà Hán được áp dụng tại nước ta từ năm 111 trước Công nguyên (TCN) cho
đến khi Bộ luật nhà Đường được ban hành vào năm 538. Bộ luật nhà Đường một bộ
luật quan trọng trong lịch sử pháp luật Trung Hoa phong kiến ảnh hưởng nhất
định tới pháp luật Việt Nam từ đời nhà Lý đến nhà Lê sau này.
- Bên cạnh nguồn luật của Trung Hoa, thời kỳ Bắc thuộc còn tồn tại một loại nguồn luật
khác, đó các luật tục của người Việt. Luật tục này đã tồn tại từ thời đại Hùng Vương
được truyền từ đời này qua đời khác, điều chỉnh chủ yếu các vấn đề về gia đình, dân sự,
ruộng đất v.v... trong nội bộ làng xã. Luật tục của người Việt chi phối mạnh mẽ nhất
trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình và các lĩnh vực khác.
Câu 11. Phân tích những đặc trưng bản về các hình tổ chức chính quyền
thời kỳ trung đại (Mô hình chính quyền quân sự thời Ngô Đinh Tiền Lê;
hình chính quyền thân dân thời Lý – Trần; Mô hình chính quyền quan liêu thời Lê
sơ; hình lưỡng đầu chế thời Vua chúa Trịnh; hình tập quyền chuyên
chế thời Nguyễn)
* Mô hình tổ chức chính quyền quân sự thời Ngô - Đinh - Tiền Lê
Tính chất của mô hình tổ chức bộ máy nhà nước thời kỳ này là tập quyền quân sự.
- Quyền lực nhà nước tối cao nằm trong tay vua, mọi việc đều phải tuân theo ý vua.
Dưới vua có các quan phụ trách hành pháp, lập pháp, tư pháp giúp việc cho vua.
- Chính quyền trung ương không trực tiếp can thiệp được đến đơn vị cơ sở làng, xã. Mô
phỏng quan chế phương bắc ở trung ương, vua đặt ra quan chức và phong tước.
a. Triều đình nhà Ngô
- Chính quyền trung ương
+ Vua, Hoàng hậu thiết lập chính quyền tập trung, chuyên chế. Đặt các chức quan văn,
thiết lập lễ nghi triều đình quy định trang phục của các quan lại trong triều; tuy
nhiên, giai đoạn này đã xuất hiện xu hướng cát cứ, đó việc tồn tại thế lực của các
hào trưởng địa phương sau này khi Ngô Quyền mất, các thổ hào, lãnh chúa nổi lên
khắp nơi, cát cứ chống lại chính quyền trung ương.
b. Triều đình nhà Đinh
- Về tổ chức nhà nước thời nhà Đinh, vua người nắm giữ quyền lực tối cao nhưng
cũng đúng nghĩa là một vị tướng trong quân đội.
- Theo ghi chép trong Đại việt sử toàn thư cho thấy, giúp việc cho vua trong triều
đình nhà Đinh lúc bấy giờ các chức quan văn võ, bao gồm: Định quốc công, viên
quan đầu triều, đây chức quan tương đương với chức Tể tướng các triều đại sau
này; Đô hộ phủ chức quan được giao nhiệm vụ trông coi việc xét xử Phủ đô
hộ; Tăng thống chức quan do nhà đảm nhiệm, chuyên cai quản về lĩnh vực Phật
giáo; Tăng lục chức quan cũng làm nhiệm vụ cai quản về Phật giáo, nhưng dưới
quyền Tăng thống; Sùng trân uy nghi đạo được triều đình giao cho cai quản lĩnh
vực Đạo giáo.
c. Triều đình nhà Tiền Lê
- Thiết lập chế độ quân chủ tập trung, nhưng thực chất tổ chức bộ máy nhà nước cũng
còn rất sơ sài.
- Vua người nắm giữ mọi quyền hành về cả quân sự dân sự, các vua nhà Tiền
thực chất là những tướng lĩnh xông pha nơi trận mạc, tổng chỉ huy tối cao của quân
đội, vậy cách thức tổ chức bộ máy nhà nước của nhà Tiền đã được thiết lập,
nhưng thực sự còn rất sơ khai, chưa quy củ.
- Nhà Tiền Lê xây dựng bộ máy nhà nước và quy định về triều nghi phẩm phục theo mô
hình nhà Tống, Đường.
- Vua Đại Hành người nắm giữ quyền lực tối cao cả về quân sự dân sự, lập
nhiều Hoàng hậu, các Thái tử đều được cắt cử đi trấn giữ các địa phương nhằm bảo
đảm quyền lực của hoàng tộc một cách tuyệt đối.
- nhà Tiền - thời vua Đại Hành thiết lập hệ thống quan lại giúp việc cho vua,
chủ yếu là các quan võ, bao gồm các chức quan:
+ Đại tổng quản tự quân dân sự là viên quan đầu triều nắm giữ cả về quân sự và dân sự,
đây là chức quan tương đương với chức Tổ tướng của các triều đại sau này.
+ Thái sư là quan văn đầu triều có nhiệm vụ cố vấn cao cấp cho vua trước những vấn đề
quan trọng của đất nước.
+ Thái úy chức quan võ dưới chức tổng quản, đây cũngchức quan đượcphỏng
theo mô hình nhà Đường.
+ Nha nội đô chỉ huy sứ chức quan nhưng không về thứ bậc cao thấp so với
Thái úy, nên tạm hiểu một chức quan dưới quyền của Đại tổng quản tự quân dân
sự.
* Mô hình chính quyền thân dân thời Lý – Trần
- Bộ máy nhà nước dưới triều được thiết lập từ trung ương tới tận địa phương và tập
trung quyền hành vào tay triều đình đứng đầu là vua. Vua là người nắm quyền hành cao
nhất về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo.
- Trong bộ máy chính quyền thời Lý, tầng lớp quí tộc bao gồm những người thân thuộc
của nhà vua và một số công thần... nắm giữ các trọng trách ở trung ương và địa phương.
Các hoàng tử được phong tước vương và cử đi trấn trị các nơi trọng yếu.
- Theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí thì quan chế nhà đại
lược như sau: Phẩm trật các hàng quan văn đều 9 bậc được xác định trong Hội điển.
Những chức quan cao cấp nhất trong triều đình chia ra ngạch văn ngạch võ. Các đại
thần đứng đầu ngạch văn thì tam thái (thái sư, thái phó, thái bảo); tam thiếu (thiếu
sư, thiếu phó, thiếu bảo). Ở ngạch võ có thái uý, thiếu uý và một số chức vụ khác. Ở bên
dưới hàng quan văn thì có các thượng thư mà đứng đầu các bộ các tả và hữu tham tri, và
hữu gián nghị, trung thư thị lang, bộ thị lang... Quan triều đình đô thống,
nguyên suý, tổng quản, xu mật sứ, tả, hữu kim ngô, thượng tướng, đại tướng, đỗ tướng,
tướng quân các vệ... Chức quan nắm quyền binh cao nhất trong triều coi như Tể tướng
được gọi là Tướng công dưới thời Lý Thái Tổ, phụ quốc thái uý dưới thời Lý Thái Tông
và Lý Nhân Tông.
- Nhà Trần vẫn tiếp tục dựa vàonh Nhà nước thân dân, thậm chí đạt đến độ hoàn
thiện. Thời kỳ này nổi lên hình coi già làng người vai trò lớn trong những
quyết sách quan trọng của quốc gia.
- Nhà Trần đã tiến hành chia lại các đơn vị hành chính. Năm 1242, đổi 24 lộ thời ra
làm 12 bộ. Lộ gồm các châu, huyện xã. Trong triều, nhà Trần đặt thêm nhiều chức
quan các quan chuyên trách mới đã đáp ứng yêu cầu của bộ máy hành chính,
trong số đó có những cơ quan tư pháp như Thẩm hình viện, Tam ty viện do các cơ quan
chuyên môn phụ trách, các quan văn hoá giáo dục như Quốc sử viện, Thái y viện...
Nhìn chung, nhiều cơ quan được đặt ra thành hệ thống riêng gọi quán, các, sảnh, cục,
đài, viện.
- Ngoài các chức quan dưới triều Lý, nhà Trần đặt thêm các chức Tư đồ, Tư mã,
không, gọi chung là tam tư; Tướng quốccác chức Đại hành khiển, Tham tri chính sự
đứng đầu bách quan.
* Mô hình chính quyền quan liêu thời Lê sơ
- Về mặt chính quyền, Thái Tổ chấn chỉnh lại bộ máy nhà nước theo mô hình thời Trần.
Dưới vua hai chức Tả, hữu tướng quốc, 3 chức Tư, 3 chức Thái, 3 chức Thiếu, Bộc
xạ v.v.. giúp việc bàn bạc, quyết định những công việc quan trọng của triều đình. Tiếp
đến hai ban Văn Võ. Văn ban do Đại hành khiển đứng đầu, phụ trách chung mọi
việc. Sau đó là hai bộ Lại và Lễ do Thượng thư đứng đầu, các cơ quan chuyên trách như
khu mật viện, Hàn lâm viện, Ngũ hình viện, Ngự sử đài, Quốc tử giám, Quốc sử viện,
Nội thị sảnh, các quán, cục, ti. ban thì các chức Đại Tổng quản, Đại đô đốc, Đô
Tổng quản, Tổng quản, Tổng binh, v.v... đứng đầu 6 quân Điện Tiền, 5 quân
Thiết đột v.v.. địa phương, đứng đầu các đạo chức Hành khiển phụ trách mọi việc
quân dân, sau đó các an phủ sứ, tri phủ, tuyên phủ sứ, chuyển vận sứ đứng đầu các
trấn, lộ, huyện.
- Khi đất nước dần dần hồi phục và bước đầu phát triển, xuất phát từ những yêu cầu mới
của chính trị, trong những năm 1460 - 1471, Thánh Tông tiến hành một cuộc cải
cách hành chính lớn. Các chức vụ trung gian giữa vua các quan hành chính như
Tướng quốc, Bộc xạ, đồ, Đại hành khiển,Trung thư sảnh v.v.. đều bị bãi bỏ. Vua
trực tiếp chỉ đạo 6 bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công (do Thượng thư đứng đầu)
những quan chính phụ trách mọi mặt công tác của triều đình. Giúp việc cụ thể 6
Tự, Viện Hàn lâm, Viện Quốc sử, Quốc tử giám, thư giám v.v.. Bộ phận thanh tra
quan lại được tăng cường: ngoài Ngự sử đài có 6 khoa chịu trách nhiệm theo dõi các bộ.
Về võ, vua cũng người chỉ huy tối cao; bên dưới 5 quân đô đốc phủ, các vệ quân
bảo vệ kinh thành và Thủ đô.
* Mô hình lưỡng đầu thời Vua Lê – chúa Trịnh
- Tình trạng Vua - Chúa Trịnh sản phẩm của chế độ quân chủ Việt Nam thế kỷ
XVI - XVII. Mô hình vua Lê - chúa Trịnh trong lịch sử còn được gọi là “mô hình chính
quyền lưỡng đầu”, hai người cùng đứng đầu nhà nước bản chất thực quyền
nằm trong tay một người chúa Trịnh. Bản chất của chính quyền thời kỳ này sự
thống trị của một tập đoàn quân chủ mới, dựa trên thế lực về quân sự dưới cái vỏ triều
đình cũ.
- trung ương, quan hành chính cao nhất Ngũ phủ (do các chức thự phủ thự
phủ sự họp lại) và Phủ liêu gọi tắt là phủ chúa.
- Phủ liêu chia làm ba phiên, trông coi mọi việc quân sự, thu thuế trong kinh các
trấn; về sau lại đổi thành 6 phiên (lục phiên), nắm quyền chi phối mọi mặt hoạt động
của nhà nước quân chủ. Cụ thể, vào năm 1718, khi Trịnh Cương thiết lập phủ chúa,
các quan tối cao tồn tại song song với các bộ gọi phiên (6 phiên là: Lại, Bộ, Lễ,
Binh, Hình, Công), các phiên nắm toàn bộ quyền hành, lục bộ chỉ là hư danh. Mỗi phiên
có một tri phiên và một phó tri phiên.
- Triều đình vua vẫn giữ nguyên hệ thống quan lại cũ, với các chức Tam thái, Tam
thiếu và các Thượng thư của 6 Bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công). Bên cạnh các Bộ,
Ngự sử đài do các ngự sử phụ trách. Ngự sử đàinhiệm vụ giám sát và thanh tra quan
lại các cấp để tâu phủ chúa, quyết định việc thăng thưởng, đề bạt, kỷ luật, đồng thời
Ngự sử đài là cơ quan cao nhất xét xử các án kiện về tư pháp.
- quan võ, các chức quan đứng đầu 5 phủ, tức 5 quan cai quản kinh thành
(các quận Trung, Đông, Tây, Nam, Bắc) gồm Chưởng phủ sự, Quyền phủ sự, Thự
phủ sự. Các chức này cùng với tham tụng, bồi tụng (còn gọi là quan phủ liêu) hợp thành
Ngũ phủ, Ngũ liêu có quyền hành cao nhất do chúa Trịnh điều khiển.
* Mô hình tập quyền chuyên chế thời Nguyễn
- Đây thời kỳ chính quyền đã thi hành nhiều biện pháp để tập trung quyền lực trong
tay nhà vua. Nhà Nguyễn đã xây dựng được chính quyền quân chủ mạnh mẽ, quy củ,
chặt chẽ trên sở tiếp thu cách thức tổ chức chính quyền của nhà Thanh (1644-1911)
của Trung Hoa.
- Vua không chia sẻ quyền lực với bất cứ thế lực nào: Lập ra Lệ tứ bất (có nghĩa là Bốn
không: không lập tể tướng; không lập hoàng hậu; không lấy Trạng Nguyên không
phong Vương). Mục đích của Lệ này để duy trì quyền lực, tập trung quyền lực. T
chính sách này thể thấy mức độ tập quyền của nhà Nguyễn so với các triều đại khác
trong lịch sử là cao hơn.
- Thời kỳ này đất nước rộng giàu tiềm năng, đứng đầu Vua (hoàng đế) nắm hết
mọi quyền hành trong tay, dưới vua là 6 Bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) do Thượng
thư đứng đầu, có các Tham tri, Thị lang giúp việc.
- Dưới các bộ có các Khoa (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) do cấp sự trung đứng đầu và
sáu tự (thái thường, đại lý, quang lộc, hồng lô, thái bộc, thượng bảo) do tự khanh đứng
đầu chuyên trách từng việc, chịu trách nhiệm trước vua. - Bên cạnh bộ, Khoa nhiệm
vụ quyền hạn kiểm soát công việc của các Bộ các quan nhà nước khác trung
ương.
- Ngoài các Bộ, Khoa, Tự còn các quan chuyên môn gọi các Viện, Giám, Ty,
Phủ. Đó là Hàn Lâm Viện: coi việc biên soạn, thảo văn từ, sắc, mệnh của vua, thảo luận
kinh điển. Quốc Tử Giám: coi việc giảng dạy kinh sách, đào tạo nhân tài... Khâm Thiên
Giám trông coi việc quan sát tinh tú, khí tượng, làm lịch. Thái Y Viện nghiên cứu việc
điều trị bệnh tật, thuốc thang chủ yếu để phục vụ nhà vua và hoàng tộc. Từ tế ty coi việc
giữ gìn các dụng cụ, vật phẩm tế tự.
Câu 12. Quốc triều hình luật thời Lê (Bộ Luật Hồng Đức ): tính chất, phạm vi điều
chỉnh, cơ sở tư tưởng, các nguyên tắc cơ bản.
Tính chất
Quốc triều hình luật (QTHL) dưới triều vua Thánh Tông một bộ luật điển hình,
hoàn thiện nhất trong lịch sử nhà nước pháp luật phong kiến Việt Nam. Đây một
bộ tổng luật, bộ luật gốc, nền tảng của quốc gia Đại Việt thời bấy giờ. Tính chất tổng
luật được thể hiện nhiều phương diện, đặc biệt về nguồn pháp luật, chứa đựng cả
“luật” của nhà nước, cả “luật” của hội - các quy tắc, quan niệm đạo đức, tập quán,
phong tục, tín ngưỡng, tư tưởng chính trị - pháp lý... Tính “tổng luật “ còn được thể hiện
việc nội dung Bộ luật bao gồm cả luật nội dung - luật vật chất, luật thủ tục - luật hình
thức. Chính vì vậy có thể coi QTHL nhà Lê như là một bộ bách khoa toàn thư, phản ánh
bức tranh toàn cảnh của xã hội Đại Việt đương thời.
Phạm vi điều chỉnh của Quốc triều hình luật
Quốc triều hình luật có phạm vi điều chỉnh rộng lớn, bao quát tất cả các lĩnh vực cơ bản
của đời sống hội đương thời. Quốc triều hình luật điều chỉnh các quan hệ hội
trong các lĩnh vực: dân sự, hôn nhân gia đình, quan chế, luật hành chính; giáo dục;
tài chính, thuế khóa; quân sự; hình sự, tố tụng hình sự; bảo vệ quyền lợi của các nhóm
xã hội yếu thế, đất đai, môi trường; bang giao quốc tế vv...
Cơ sở tư tưởng
Quốc triều hình luật đã tiếp thu chọn lọc pháp luật Trung Hoa. Nội dung, hình thức kết
cấu của Quốc triều hình luật đã thể hiện sự kế thừa chọn lọc của các nhà làm luật thời
bấy giờ. Mặc một bộ luật hướng Nho, song tinh thần dân tộc, tính chất văn hóa
truyền thống của dân tộc Việt vẫn được thể hiện sâu sắc trong Quốc triều hình luật.
Theo kết quả thẩm tra, đối chiếu và so sánh của nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài, trong
722 điều của Quốc triều hình luật, đến trên 400 điều luật hoàn toàn không trong
các bộ luật Hán - Đường - Tống - Minh coi đó là những điều luật độc đáo, riêng biệt
của Việt Nam.
Các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Hồng Đức
- Nguyên tắc bảo vệ chế độ quân chủ phong kiến, lợi ích của nhà nước, nhà vua
hoàng tộc. Những hành vi xâm phạm đến lợi ích, sự an toàn, sự bình yên của nhà vua và
hoàng tộc, xâm phạm đến chế độ đương thời bị liệt vào tội “thập ác” với những hình
phạt nghiêm khắc nhất (điều 1, 2). Nguyên tắc này tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn
bộ bộ luật, đặc biệt ở các chương Vệ cấm, Vi chế.
- Nguyên tắc bảo vệ chế độ tư hữu về ruộng đất, quy định sự lệ thuộc của giai cấp nông
dân vào giai cấp địa chủ phong kiến. Pháp luật quy định chế độ sở hữu nhà nước đối với
ruộng đất bao gồm chế độ lộc điền, quân điền ruộng đất quốc khố; quy định chế độ
về ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân (chủ yếu được nêu trong chương Điền sản).
- Nguyên tắc bảo vệ hệ tưởng thống trị đương thời mà hạt nhân Nho giáo. Bộ luật
đã giành một số lượng lớn các điều quy định những chuẩn mực đạo đức Nho giáo, đặc
biệt những điều liên quan đến các chữ “hiếu, trung tiết, hạnh”. Cùng với các tội
chống lại nhà nước, những hành vi trái với tưởng cũng được liệt vào tội “thập ác”
phải chịu “ngũ hình”.
- Nguyên tắc “không tội, không hình phạt”, nếu không được quy định trong bộ
luật. Đây một nguyên tắc cổ điển, nhiều nền pháp luật khác nhau trong lịch sử.
Nguyên tắc này đã được thể hiện nét trong các điều 683, 685, 708, 722. Nội dung
bản của nguyên tắc là: một hành vi chỉ bị coi tội phạm bị trừng phạt khi nào hành
vi đó được quy định trong các điều luật tương ứng.
- Nguyên tắc trách nhiệm hình sự tập thể:
QTHL đã quy định trách nhiệm hình sự tập thể, phổ biến đối với một số trọng tội,
không những phạm nhân mà cả vợ con họ cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 411
quy định: “những kẻ mưu làm phản, mưu làm việc đại nghịch, thì xử tội chém bêu đầu;
kẻ tòng phạm thân đảng biết việc ấy đều phải tội chém; vợ con, điền sản đều bị tịch
thu làm của công.”. Bộ luật cho phép áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tất cả những
người thuộc phạm vi ba họ của người phạm tội (chu di tam tộc) đối với một số trọng tội.
Trách nhiệm hình sự còn được áp dụng đối với những người cùng chung 1 nhà với kẻ
phạm tội (điều 424).
- Nguyên tắc có lỗi - không có tội nếu không có lỗi:
Thực ra trong bộ luật không có điều nào trực tiếp quy định về khái niệm lỗi cũng như về
nội dung của nguyên tắc này, song cũng nhiều điều nêu lên sự phân biệt giữa tội
phạm cố ý và vô ý để áp dụng những chế tài trừng phạt phù hợp.
- Nguyên tắc áp dụng tập quán:
Quốc triều hình luật đã thể hiện rõ nét tính dân tộc, truyền thống văn hóa đạo đức, trong
đó các yếu tố phong tục, tập quán bản địa. Theo đó, nguyên tắc áp dụng tập quán
trong những trường hợp pháp lý nhất định cũng đã được quy định trong nhiều điều luật.
- Nguyên tắc tất cả những gì không được phép làm, đều bị cấm:
Điều 642 quy định: “Việc không được phép làm làm tviệc lớn xử tội đồ hay lưu,
việc nhỏ xử tội biếm hay phạt”. Điều luật này đã quy định dưới dạng khái quát hoá cao
như một nguyên tắc: chỉ được làm những pháp luật cho phép, tất cả những
không cho phép, đều bị cấm, nhưng phải trong khuôn khổ thuần phong mỹ tục, đạo lý,
trật tự công cộng.
Câu 14. Nội dung bản của các chế định hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình,
các quy định tố tụng hình sự, thủ tục pháp lý trong Quốc triều hình luật thời Lê.
Chế định hình sự
- Khi đề cập đến vấn đề “pháp luật hình sự” trong Quốc triều hình luật, sẽ có những câu
hỏi đặt ra cần được lý giải bởi lẽ, QTHL về bản được coi một bộ luật hình sự (thư
tịch cổ thường gọi Hồng Đức Hình luật). Từ tên gọi cho đến chính sách hình sự hóa,
tội phạm hóa được thể hiện nét trong toàn bộ nội dung của QTHL. Nhiệm vụ bản
của Bộ luật bảo vệ trật tự hội phong kiến, những chuẩn mực đạo đức Nho giáo
trong gia đình hội. Những hành vi vi phạm những điều thiêng liêng trên sẽ bị
trừng trị bằng những biện pháp nghiêm khắc, tàn khốc. Do vậy nhà làm luật đã diễn đạt
“ý chí” của mình dưới dạng các quy phạm pháp luật hình sự: tả những dấu hiệu của
hành vi vi phạm pháp luật và các chế tài nghiêm ngặt tương ứng. Pháp luật thời ấy được
nhận thức xây dựng, áp dụng đồng nghĩa với trừng phạt. Đây cũng nét đặc trưng,
phổ biến của pháp luật trong các nhà nước phong kiến.
- Nội dung các quy định về hình sự, tố tụng trong QTHL thể hiện sự kết hợp giữa
tưởng đức trị pháp trị cùng truyền thống đạo lý, phong tục, tập quán bản địa.
tưởng đức trị của Nho giáo, bảo vệ nền tảng đạo đức nho giáo trong gia đình hội
đã được thể hiện trong việc xác định những hành vi phạm tội nghiêm trọng xâm phạm
trật tự, quan niệm, chuẩn mực đạo đức nhà giáo là những loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng, phải chịu các hình phạt nghiêm khắc, tàn khốc “thập ác, ngũ hình”, QTHL có quy
định riêng (điều 2, chương Danh lệ) về mười nhóm tội nghiêm trọng nhất gọi “thập
ác”, bao gồm bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nổi loạn. Cũng xuất phát từ đạo gia đình
theo quan điểm Nho giáo, QTHL nhiều quy định cụ thể về việc con cháu được phép
chịu áp dụng hình phạt thay cho ông bà, sự bất bình đẳng nam nữ trong quy định trách
nhiệm hình sự đối với người vợ người chồng... (điều 38, 481, 482, ...). Chính sách
hình sự của pháp luật nhà trong QTHL đã thể hiện tính nhân đạo sâu sắc về giảm
trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt cho một số đối tượng hội dễ bị tổn thương như
người già, người tàn tật, trẻ em, chính sách hình sự khoan hồng cho người phạm tội do
lầm lỡ... miễn trong chính sách hình sự của nhà Lê (các điều 16, 47...).
- QTHL đã thể hiện sự phân biệt khá rạch ròi về yếu tố lỗi và mức độ trách nhiệm tương
xứng đối với các hình thức lỗi trong hành vi vi phạm của các chủ thể quy định trách
nhiệm hình sự đối với lỗi cố ý nặng hơn so với lỗi ý. dụ: Điều 479 Bộ luật Hồng
Đức quy định: “Đánh chết người thì xử tội giảo, đánh chết không phải bằng mũi nhọn
và không phải cố ý giết người thì xử tội lưu đi châu xa”.
- QTHL quy định trách nhiệm hình sự đối với nhân người phạm tội, trong một số
trường hợp còn quy định trách nhiệm tập thể đối với một số loại tội phạm như mưu
phản, mưu đại nghịch, mưu chống đối (điều 412). Bộ luật cũng quy định cho phép
người trong gia đình được che chở lẫn nhau cấm việc tố cáo hành vi phạm tội (điều
504 ).
Chế định dân sự
- Các quy định về pháp luật dân sự chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong Quốc triều
hình luật. Những điểm tiến bộ, nhân văn và tân kỳ của QTHL được thể hiện trong nhiều
chương, điều của Bộ luật, nhưng chủ yếu tập trung hai chương Hộ hôn Điền sản,
điều mà các bộ luật của Trung Hoa tuy có quy định song không có các quy định rõ ràng,
nhất về cách thức thảo văn tự, chứng thư, chúc thư, không định về chế độ tài sản
của vợ chồng trong lúc sinh thời cũng như trong lúc góa bụa, không ấn định minh bạch
các việc về thừa kế.
- Các quy định về dân sự không tập trung thành chương riêng mà được quy định xen kẽ,
rải rác trong một số chương, tập trung nhất hai chương Hộ hôn Điền, ngoài ra
còn các chương khác như Cấm vệ, Tạp luật... Các chế định bản của pháp luật dân
sự như sở hữu tài sản, khế ước, thừa kế, trách nhiệm được quy định rõ ràng về nội dung
và với một trình độ kỹ thuật pháp lý khá cao.
Chế định hôn nhân và gia đình
- Được xây dựng trên sở tưởng chính trị - đạo đức Nho giáo trong đó đặc biệt coi
trọng nền tảng đạo đức gia đình nhưng với tôn sự trọng, kế thừa sâu sắc truyền thống
văn hóa đạo đức, phong tục, tập quán của dân tộc Việt cùng với quan điểm chính trị -
pháp nhân văn của bản thân các nhà làm luật, các quy định về hôn nhân gia đình
trong Quốc triều hình luật ngoài những hạn chế tất yếu lịch sử đã thể hiện nhiều điểm
tiến bộ, nhân văn, trong đó nhiều quy định không trong các bộ luật của Trung
Hoa.
- Lĩnh vực hôn nhân gia đình lĩnh vực nhiều gắn bó, duyên nợ mặn nồng nhất với
đạo đức, phong tục tập quán cổ truyền dân tộc. Quốc triều hình luật chỉ điều chỉnh
những quan hệ bản mang ý nghĩa quốc gia nhằm củng cố, bảo vệ quyền của người
gia trưởng, nền tảng đạo đức Nho giáo trong gia đình hội. Còn lại các hành vi xử
sự cụ thể trong hôn nhân gia đình nhà làm luật đã nhường chỗ cho phong tục tập quán
đạo đức điều chỉnh. Quốc triều hình luật qui định những vấn đề bản nhất của đời
sống hôn nhân gia đình: kết hôn, ly hôn, bao gồm các điều kiện, “các duyên cớ”, thủ
tục hình thức hậu quả pháp lý; mối quan hệ nhân thân tài sản giữa vợ chồng cha
mẹ con cái, giữa những người thân thuộc trong đại gia đình cổ truyền. Trong cấu
chung của Bộ luật, 53/722 điều luật liên đến các quan hệ về hôn nhân gia đình;
30/722 điều luật về việc hương hỏa, tế lễ, thừa kếsở hữu tài sản. Trong các quy định
này quan cũng đã thể hiện nét việc quan tâm, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ
trong xã hội và trong gia đình.
Các quy định về tố tụng hình sự, thủ tục pháp lý
- Các quy định về thủ tục tố tụng nội dung khá chi tiết, chặt chẽ, được sắp xếp trong
hai chương: chương Bộ vong (truy bắt người phạm tội chạy trốn) và chương Đoán ngục
(về thủ tục xử án điều lệ trong ngục thất). Nội dung các quy định về thủ tục tố tụng
bao gồm: đơn tố giác tội phạm, việc bắt người phạm tội chạy trốn, việc giam giữ
trông coi người phạm tội; các quy định về xét xử: nguyên tắc chung, thẩm quyền xét xử,
thời hạn xét xử, địa điểm xử án; phạm vi xét xử, việc hỏi cung người phạm tội; bản án
và thi hành bản án.
- Thủ tục tố tụng trong QTHL có nhiều điểm tiến bộ, nhân văn, đặc biệt là việc quy định
trách nhiệm tuân thủ pháp luật của các chức quan nhằm hạn chế sự vi phạm luật pháp
của họ bảo vệ quyền lợi con người, đảm bảo sự thật khách quan trong việc truy cứu
áp dụng các biện pháp pháp lý. Tính tiến bộ, nhân văn của Luật Hồng đức được thể
hiện qua các quy định về thủ tục tra khảo phạm nhân, người thực thi phải tuyệt đối tuân
thủ, không được tuỳ tiện.
Câu 14. Những đặc điểm cơ bản của Bộ Hoàng Việt Luật Lệ. (223)
* Về tội phạm
- Bộ luật này không ghi nhận khái niệm tội phạm, chỉ quy định những hành vi nguy
hiểm cho chế độ phong kiến là tội phạm và phải chịu hình phạt.
- Nhà làm luật thời kỳ này đã phân loại tội với lỗi cố ý và các loại tội với lỗi vô ý, trong
đó trách nhiệm hình sự đối với các loại tội với lỗi cố ý được quy định nặng hơn đối với
các loại tội với lỗi vô ý.
- Phần Danh lệ đã nêu 9 nguyên tắc bản: nguyên tắc luật định ( luật bất hình),
nguyên tắc so sánh luật, nguyên tắc xét xử theo luật mới, nguyên tắc chiếu cố, nguyên
tắc thưởng phạt, nguyên tắc người thân thuộc được che giấu tội cho nhau, nguyên tắc
truy cứu trách nhiệm hình sự, nguyên tắc luận tội theo tang vật, nguyên tắc chuộc tội
bằng tiền.
- Về vấn đề đồng phạm, tính đồng phạm mới chỉ được thể hiện nguyên tắc như quy
định tại Điều 29 của Bộ luật.
- Bộ luật cũng quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội, mưu phản đại nghịch,
mưu phản, được quy định thời điểm biểu lộ ý định phạm tội tại Điều 223, 224 Hoàng
Việt luật lệ.
- Một trong những thành tựu về kỹ thuật lập pháp hình sự thời kỳ nhà Nguyễn là đã quy
định trường hợp phạm nhiều tội.
- Ngoài việc quy định trách nhiệm hình sự đối với nhân người phạm tội, Hoàng Việt
luật lệ còn quy định trách nhiệm hình sự tập thể đối với một số loại tội phạm xâm hại
tới sự tồn tại của chế độ phong kiến. Điều khác biệt so với pháp luật hình sự thời kỳ nhà
chế tài hình sự trong những trường hợp này mang tính chất, mức độ tàn ác hơn
nhiều.
- Ngoài ra, Bộ luật còn quy định về hành vi phạm tội của người ngoại quốc trên lãnh thổ
cũng như hiệu lực của Bộ luật theo thời gian.
* Về hệ thống hình phạt
Hệ thống hình phạt thời kỳ nhà Nguyễn bao gồm 5 loại hình phạt:
- Loại hình phạt thứ nhất: đánh roi (dùng roi mây nhỏ đánh, dạy cho biết xấu hổ) 5
bậc: 10 roi, 20 roi, 30 roi, 40 roi, 50 roi.
- Loại hình phạt thứ hai: đánh trượng (trượng nặng hơn roi, dùng mây bậc trung) 5
bậc: 60 trượng, 70 trượng, 80 trượng, 90 trượng, 100 truong.
- Loại hình phạt thứ ba: đồ hình (bắt làm lệ, nhục) năm bậc: 1) Một năm
với 60 trượng; 2) Năm rưỡi với 70 trượng; 3) Hai năm với 80 trượng; 4) Hai năm rưỡi
với 90 trượng; 5) Ba năm với 100 trượng.
- Loại hình phạt thứ tư: lưu đày (không nỡ giết nên lưu đày phương xa) ba bậc: 1)
2.000 dặm với 100 trượng; 2) 2.500 dặm với 100 trượng 3) 3.000 dặm với 100 trượng.
- Loại hình phạt thứ năm: tử hình có hai bậc: 1) Treo cổ, 2) Chém (Người phạm tử tội ở
kinh thành hay tỉnh, trừ trường hợp phải chém ngay không đợi lúc ra, những trường hợp
khác đều giam cấm cố, đợi phiên tòa mùa thu hay triều đình xử để phân biệt tình thật,
hoãn hành quyết và những người có ân huệ, tâu lên cho Vua định đoạt).
* Về quyết định hình phạt
- Ngoài bát nghị (xử phán theo 8 trường hợp đặc biệt), Hoàng Việt luật lệ còn quy định
các trường hợp quan chức phạm tội, quan văn phạm tội công, quan văn phạm tội
tư với những đặc ân so với thường dân phạm tội.
- Việc nộp chuộc tiền cũng được quy định lợi cho giai cấp phong kiến cầm quyền:
“Kẻ không tài sản thì một bề chịu tội, theo luật, ai tài sản chiếu luật, nộp tiền
chuộc”.
- Việc tự thú, thành thật khai báo được quy định những tình tiết giảm nhẹ đặc biệt.
Còn người phạm tội nhẹ bị phát giác, nhân đó tự thú tội nặng, thì miễn phạt tội nặng
ấy.... Kẻ phản (như phản lại nước mình) mà tự thú thì được giảm hai bực tội. Kẻ bỏ trốn
và kẻ phản quốc, dù không tự thú, nhưng trở về nhà thì giảm hai bậc tội.
- Thứ tư, Hoàng Việt luật lệ có nhiều quy định thể hiện sự chú trọng bảo vệ quyền thống
trị của nhà nước phong kiến tập quyền, vậy, đã quy định mười tội ác (thập ác) các
tội phạm xâm hại đến các quan hệ xã hội quan trọng nhất của chế độ phong kiến với chế
tài hình sự nghiêm khắc nhất, không được ân giảm đối với bất cứ tầng lớp nào. Đó
các tội được quy định tại Điều 2 Hoàng Việt luật lệ.
- Thứ năm, Bộ Hoàng Việt luật lệ có nhiều quy định về các tội xâm phạm sở hữu. Trong
Hoàng Việt luật lệ, nhiều quy định về các tội xâm phạm sở hữu như Điều 226 - Ăn
cắp đồ Vua dùng trong đại tế thần, Điều 228 - Ăn cắp ấn tín, Điều 229 - Ăn cắp tài vật
trong nội phủ, Điều 231 - Ăn trộm quân khí, Điều 240 - Ăn trộm lúa thóc ngoài đồng....
- Thứ sáu, Hoàng Việt luật lệ đã quy định về các tội phạm tham nhũng. Để bảo đảm
hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước phong kiến, pháp luật hình sự thời kỳ nhà
Nguyễn đã dành tới 9 điều quy định về nhận của đút lót như Điều 312 - Quan lại nhận
của, tiền, Điều 314 - Nhận của tiền sau khi xong việc, Điều 317 - Đang làm quan mượn
ép hàng hóa của cải của người....
- Thứ bảy, Bộ luật cũng nhiều quy định xác định những chuẩn mực, đề cao giá trị
đạo đức. Chẳng hạn, Điều 2 Hoàng Việt luật lệ xác định hành vi bất hiếu một trong
thập ác tội (mười tội ác nghiêm trọng nhất), gọi tội ác nghịch tội bất hiếu. Điều
307 - Hoàng Việt luật lệ cũng quy định: “Khi ông bà, cha mẹ còn sống, con cái được
quyền nhận sự nuôi dưỡng, dạy bảo của cha mẹ.
- Thứ tám, có nhiều quy định bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong chế định kết hôn,
ly hôn phân chia tài sản. Chẳng hạn, Điều 1 Quyển VII Hộ luật quy định: “Phàm
nam nữ trước khi cưới xin nếu kẻ nào bị tàn phế hay bệnh tật, già lão hay nhỏ dại
hoặc con vợ bé, con nuôi trong họ hay ngoài họ đều phải thông báo ràng giữa hai
nhà để đều thuận theo sở nguyện.”.
Câu 15. Ảnh hưởng của truyền thống pháp luật Pháp đến pháp luật Việt nam thời
kỳ Pháp thuộc.
Nhà vua ban hành pháp luật thì phải được kiểm duyệt qua một vị quan người Pháp
Câu 16. Hiến pháp năm 1946: tính chất, phạm vi điều chỉnh, giá trị kế thừa.
Tính chất
- Hiến pháp 1946 đạo luật hiệu lực pháp cao nhất, đồng thời cũng bản đầu
tiên trong số 7 bản Hiến pháp đã từng được thông quaáp dụng ở Việt Nam kể từ khi
giành được độc lập (1945). Bản Hiến pháp này không chỉ ý nghĩa củng cố nền độc
lập của đất nước vừa giành được, Hiến pháp 1946 còn lần đầu tiên khẳng định vị thế
mới của Nhân dân chủ thể của quyền lực nhà nước, lần đầu tiên quy định cách thức
nhân dân tự tổ chức ra nhà nước của mình cũng như chứng tỏ vị thế pháp của một
quốc gia độc lập, chủ quyền, thể hiện quyết tâm của Đảng trong việc xây dựng một
nhà nước dân chủ, đoạn tuyệt với chế độ phong kiến.
Phạm vi điều chỉnh
Hiến pháp 1946 điều chỉnh những phạm vi sau đây:
- Chính thể
- Nghĩa vụ và quyền lợi công dân
- Nghị viện nhân dân
- Chính phủ
- Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính
- Cơ quan tư pháp
- Sửa đổi Hiến pháp
Giá trị kế thừa của Hiến pháp 1946
https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?
AnPhamItemID=248
Giá trị kế thừa của hiến pháp năm 1946 được thể hiện qua:
Xác lập quyền độc lập, tự do và bình đẳng của dân tộc Việt Nam
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà đã mở ra một kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử phát triển của dân tộc
Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do.
Quyền dân tộc thiêng liêng của nhân dân Việt Nam độc lập, tự do; chính thể dân chủ
cộng hoà; quyền lực của toàn dân nghĩa vụ của công dân Việt Nam đã được quy
thành các điều quan trọng hàng đầu của Hiến pháp 1946.
Căn cứ vào nhiệm vụ của dân tộc trong giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ nguyên tắc đã
được xác định, Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định một cách rõ ràng quyền độc lập, dân
chủ, tự do của đất nước qua Điều 1 và Điều 2. Ở các bản Hiến pháp sau này, yếu tố độc
lập, tự do và bình đẳng cũng được đặt lên ở các điều đầu tiên.
Khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam
Xuyên suốt nội dung của bản Hiến pháp, tính chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đã được ghi nhận như một giá trị điển hình. Dân chủ được thể hiện ở việc
trao quyền quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước cho người dân xác lập mục
tiêu hoạt động của các cơ quan nhà nước là vì nhân dân.
Điều này được thể hiện thông qua các quy định Điều 1, 17, 20, 24, 30. Những quy
định mangnh chất dân chủ này một giá trị rất đặc thù của Hiến pháp 1946 được
thể hiện các chừng mực khác nhau trong các bản hiến pháp về sau những nguyên tắc
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì luôn được duy trì đầy đủ, mặc mỗi một
giai đoạn lịch sử của nước ta một bản hiến pháp khác nhau để thực hiện những sứ
mệnh nhất định.
Về quyền và nghĩa vụ của công dân
Với vai trò bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc, Hiến pháp 1946 lần đầu tiên đã ghi
nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các quyền và nghĩa vụ được quy định
trong bản Hiến pháp này đã bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống hội, từ các
quyền dân sự, chính trị, kinh tế đến hội đặc biệt, lần đầu tiên đàn được khẳng
định “ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện” (Điều 9).
Hiến pháp 1959 tiếp tục kế thừa các quy định về quyền nghĩa vụ của công dân trong
Hiến pháp 1946 với một số quyền được quy định cụ thể hơn. Đến Hiến pháp 1980,
quyền và nghĩa vụbản của công dân có phần mở rộng hơn khi quy định công dân có
một số quyền như “được bảo vệ sức khoẻ” (Điều 61), “có quyền nhà ở” (Điều 62),
“có quyền có việc làm” (Điều 58) v.v...
Đến Hiến pháp 1992, với chủ trương đổi mới toàn diện, nhiều quyền của công dân đã
được ghi nhận lại theo Hiến pháp 1946 sau khi bị gián đoạn hoặc hạn chế ở các bản hiến
pháp 1959 1980 như: quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh. Trong đó, Hiến
pháp 1946 quy định rất ràng, “công dân Việt Nam quyền: Tự do ngôn luận, tự do
xuất bản, tự do tổ chức hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do trú, đi lại trong nước
ra nước ngoài (Điều 10)”. Một số trong các quyền tự do nói trên đã không được ghi
nhận ở Hiến pháp 1959. Tuy nhiên, Hiến pháp 1959 lại bổ sung nhiệm vụ của Nhà nước
“bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền tự do
đó” (Điều 25). Tiếp đó, Hiến pháp 1980 quy định chặt chẽ hơn với việc bổ sung quy
định không được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước
và nhân dân (Điều 67). Hiến pháp 1992 cũng có những quy định tương tự. Hơn nữa, các
quyền nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp 2013 còn được bổ sung một số quyền
mới như quyền sống (Điều 19); Các quyền về khoa học, văn hóa (Điều 40 và 41); quyền
xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42);
quyền sống trong môi trường trong lành (Điều 43),... Cũng như kế thừa Hiến pháp 1946,
khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 đã quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp pháp luật.”. Chính điều
này đã đưa quyền con người về đúng với những giá trị cốt lõi của bản Hiến pháp
năm 1946, khi khẳng định quyền con người điều mặc nhiên được hưởng của mỗi
người, nhà nước chỉ thể thừa nhận (bằng Hiến pháp pháp luật) các quyền đó
những giá trị vốn của mọi nhân Nhà nước nghĩa vụ công nhân, tôn trọng,
bảo vệ và thúc đẩy.
Một số chế định cơ bản khác
- Về sửa đổi Hiến pháp: Theo Hiến pháp 1946, thủ tục sửa đổi Hiến pháp chỉ được khởi
động khi có hai phần ba tổng số thành viên của Nghị viện yêu cầu; sau đó Nghị viện bầu
một Ban dự thảo những điều thay đổi trong Hiến pháp; cuối cùng, những điều thay đổi
sau khi được Nghị viện ưng thuận thì phải được toàn dân phúc quyết. Đây đến giờ vẫn
được đánh giá là các quy định rất ưu việt, vì vậy nên Hiến pháp 2013 đã kế thừa từ Hiến
pháp 1946 về nội dung đề nghị làm, sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất hai phần ba
tổng số ĐBQH biểu quyết tán thành. Nhìn chung về cơ bản, quy trình làm, sửa đổi Hiến
pháp theo Hiến pháp năm 2013 kế thừa các quy định ơng ứng của Hiến pháp năm
1946.
- Về chế định chủ tịch nước: Ngay từ bản Hiến pháp 1946, nước ta đã có sự sáng tạo so
với các quốc gia xã hội chủ nghĩa thời đó khi quy định Chủ tịch nước phải là cá nhân và
được bầu ra từ Nghị viện nhân dân theo nguyên tắc đa số tuyệt đối. Vềbản, điều này
được kế thừa qua các bản Hiến pháp sau đó (trừ Hiến pháp 1980). Nhìn chung, Hiến
pháp hiện hành đã kế thừa và tiếp thu nhiều quy định hợp lý của Hiến pháp 1946 về chế
định Chủ tịch nước. Chủ tịch nước vẫn giữa được mối liên kết với Quốc hội Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, đồng thời thể hiện những điểm mới tích cực trong nguyên tắc
phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước.
- Về tổ chức hoạt động của Quốc hội: Bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta mang hơi
hướng đề cao Nghị viện (hay chính là Quốc hội sau này). Điều này vẫn được duy trì qua
các bản Hiến pháp sau này, quan điểm tập trung quyền lực vào Quốc hội vẫn được duy
trì, tuỳ theo bối cảnh của từng bản Hiến pháp sự tập trung này ít nhiều sự thay
đổi.
Câu 17. Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013
Hiến pháp 1946 Hiến pháp
1959
Hiến pháp
1980
Hiến pháp
1992
Hiến pháp
2013
- Mang tính chất của
Hiến pháp tư sản
- Có 5 cấp hành
chính gồm: Trung
ương, bộ, tỉnh,
huyện, xã.
- Có 3 hệ thống cơ
quan gồm: Cơ quan
quyền lực nhà nước;
cơ quan hành chính;
cơ quan tư pháp
(chưa có viện kiểm
sát)
- Có 4 cấp
hành chính
gồm: trung
ương, tỉnh,
huyện, xã.
- Có 4 hệ thống
cơ quan gồm:
Cơ quan quyền
lực nhà nước;
cơ quan hành
chính; cơ quan
xét xử; cơ quan
kiểm sát.
- Bộ máy nhà
nước thể hiện
rõ nguyên tắc
trách nhiệm
tập thể.
- Có 4 cấp
hành chính
gồm: trung
ương, tỉnh,
huyện, xã.
- Có 4 hệ
thống cơ
quan gồm:
Cơ quan
quyền lực
nhà nước; cơ
quan hành
chính; cơ
quan xét xử;
cơ quan kiểm
sát.
- Có 4 cấp
hành chính
gồm: trung
ương, tỉnh,
huyện, xã.
- Có 4 hệ
thống cơ quan
gồm: Cơ quan
quyền lực nhà
nước; cơ quan
hành chính;
cơ quan xét
xử; cơ quan
kiểm sát.
- Có 4 cấp
hành chính
gồm: trung
ương, tỉnh,
huyện, xã.
- Có 4 hệ
thống cơ quan
gồm: Cơ quan
quyền lực nhà
nước; cơ quan
hành chính;
cơ quan xét
xử; cơ quan
kiểm sát.
Hệ thống cơ quan
quyền lực gồm:
- Nghị viện là cơ
quan quyền lực nhà
nước cao nhất ở
trung ương được
thành lập bằng con
đường bầu cử theo
nguyên tắc tự do,
dân chủ, bỏ phiếu
kín. Nhiệm kỳ 3
năm.
- HĐND: là cơ quan
quyền lực nhà nước
ở địa phương (không
có ở cấp huyện và
bộ) có nhiệm kì 3
năm.
Hệ thống cơ
quan quyền lực
gồm:
- Quốc hội: là
cơ quan quyền
lực nhà nước
cao nhất, là cơ
quan duy nhất
có quyền lập
hiến, lập pháp
được hình
thành bằng con
đường bầu cử.
Nhiệm kỳ 4
năm
- HĐND: là cơ
quan quyền
lực nhà nước ở
địa phương do
nhân dân địa
phương bầu ra
và chịu trách
nhiệm trước
nhân dân địa
phương.
Hệ thống cơ
quan quyền
lực gồm:
- Quốc hội:
là cơ quan
quyền lực
nhà nước cao
nhất, là cơ
quan duy
nhất có
quyền lập
hiến, lập
pháp, thực
hiện giám sát
tối cao
HĐND, do
nhân dân bầu
ra.
- HĐND: là
cơ quan
quyền lực
nhà nước ở
địa phương
do nhân dân
địa phương
bầu ra chịu
trách nhiệm
trước nhân
dân địa
phương và
cấp trên.
Hệ thống cơ
quan quyền
lực gồm:
- Quốc hội là
cơ quan
quyền lực nhà
nước cao
nhất, là cơ
quan duy nhất
có quyền lập
hiến, lập
pháp, thực
hiện giám sát
tối cao
HĐND, do
nhân dân bầu
ra. Nhiệm kỳ
5 năm.
- HĐND: là
cơ quan
quyền lực nhà
nước ở địa
phương do
nhân dân địa
phương bầu
ra chịu trách
nhiệm trước
nhân dân địa
phương và
cấp trên.
Hệ thống cơ
quan quyền
lực gồm:
- Quốc hội; là
cơ quan
quyền lực nhà
nước cao
nhất, là cơ
quan thực
hiện quyền
lập hiến, lập
pháp, thực
hiện giám sát
tối cao
HĐND, do
nhân dân bầu
ra. Nhiệm kỳ
5 năm.
- HĐND: là
cơ quan
quyền lực nhà
nước ở địa
phương do
nhân dân địa
phương bầu
ra chịu trách
nhiệm trước
nhân dân địa
phương và
cấp trên.
Hệ thống cơ quan
hành chính gồm:
- Chủ tịch nước nằm
trong cơ cấu của
Chính phủ.
- Chính phủ là cơ
quan hành chính cao
nhất của nước
VNDCCH, do Nghị
viện thành lập và
chịu trách nhiệm
trước Nghị viện.
Hệ thống cơ
quan hành
chính bao gồm:
- Hội đồng
Chính phủ do
Quốc hội thành
lập.
- Các UBHC
do HĐND
cung cấp thành
lập.
Hệ thống cơ
quan hành
chính bao
gồm:
- Hội đồng
Bộ trưởng.
- UBND các
cấp.
Hệ thống cơ
quan hành
chính bao
gồm:
- Chính phủ.
- UBND các
cấp.
Hệ thống cơ
quan hành
chính bao
gồm:
- Chính phủ.
- UBND các
cấp.
Chính phủ gồm có:
Chủ tịch nước, phó
chủ tịch và nội các.
Nội các có Thủ
tướng, các bộ
trưởng, thứ trưởng
và có thể có phó thủ
tướng.
- Các UBHC ở địa
phương: là các
UBHC cấp bộ, cấp
tỉnh, cấp huyện, cấp
xã. Do cấp bộ không
có HĐND nên
UBHC bộ do HĐND
các tỉnh và thành
phố bầu ra.
Hệ thống cơ quan tư
pháp gồm:
+ TAND tối cao
+ Toà phúc thẩm.
+ Toà đệ nhị cấp.
+ Toà sơ cấp.
- Chánh án TAND
tối cao do Chính phủ
bổ nhiệm.
- Tổ chức hệ thống
tòa án theo nguyên
tắc xét xử, có sự
tham gia của hội
thẩm nhưng không
được ngang với
thẩm phán.
- Toà án thực hiện
chức năng xét xử và
công tố.
Hệ thống cơ
quan tư pháp
gồm:
+ TAND tối
cao.
+ Tòa án nhân
dân các cấp
(trừ cấp xã)
+ Toà án quân
sự.
- Hội thẩm
ngang quyền
với thẩm phán.
- Chịu trách
nhiệm và báo
cáo công tác
trước cơ quan
quyền lực nhà
nước cùng cấp.
Hệ thống cơ
quan tư pháp
gồm:
+ TAND tối
cao.
+ Toà án
nhân dân các
cấp.
+ Toà án
quân sự.
- Chịu trách
nhiệm và báo
cáo công tác
trước cơ
quan quyền
lực nhà nước
cùng cấp.
Hệ thống cơ
quan tư pháp
gồm:
+ TAND tối
cao.
+ Toà án nhân
dân các cấp.
+ Toà án quân
sự.
- Chịu trách
nhiệm và báo
cáo công tác
trước cơ quan
quyền lực nhà
nước cùng
cấp.
Hệ thống cơ
quan tư pháp
gồm:
+ TAND tối
cao.
+ Toà án
nhân dân các
cấp.
+ Toà án
quân sự.
- Chịu trách
nhiệm và báo
cáo công tác
trước cơ quan
quyền lực nhà
nước cùng
cấp.
Hệ thống cơ
quan kiểm sát
gồm:
+ VKSND tối
cao.
+ VKSND địa
Hệ thống cơ
quan kiểm
sát gồm:
+ VKSND
tối cao.
+ VKSND
Hệ thống cơ
quan kiểm sát
gồm:
+ VKSND tối
cao.
+ VKSND địa
Hệ thống cơ
quan kiểm sát
gồm:
+ VKSND tối
cao.
+ VKSND địa
phương.
+ VKS quân
sự.
- VKS chịu
trách nhiệm và
báo cáo công
tác trước cơ
quan quyền lực
nhà nước cùng
cấp.
địa phương.
+ VKS quân
sự.
- VKS chịu
trách nhiệm
và báo cáo
công tác
trước cơ
quan quyền
lực nhà nước
cùng cấp.
phương.
+ VKS quân
sự.
- VKS chịu
trách nhiệm
và báo cáo
công tác trước
cơ quan
quyền lực nhà
nước cùng
cấp.
phương.
+ VKS quân
sự.
- VKS chịu
trách nhiệm
và báo cáo
công tác trước
cơ quan
quyền lực nhà
nước cùng
cấp.
Câu 18. Bình luận về những điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013.
http://thanhvienlhk36pr.blogspot.com/2013/03/on-tap-mon-lich-su-nha-nuoc-va-
phap.html
| 1/24

Preview text:

CÂU HỎI ÔN THI HỌC PHẦN
LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Áp dụng đối với lớp Luật thương mại quốc tế (2 tín chỉ), hình thức thi viết, năm 2022
PHẦN NHẬP MÔN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THẾ GIỚI
Câu 2. Cơ sở kinh tế – xã hội của sự ra đời, tồn tại và phát triển của các nhà nước
Phương Đông cổ đại (Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc)
Nhà nước phương Đông cổ đại ra đời trên sự thúc đẩy của việc trị thủy và nhu cầu tự
vệ. Cơ sở kinh tế vẫn là việc tư hữu về tư liệu sản xuất, cơ sở xã hội là sự phân chia giai
cấp, nhưng mâu thuẫn giữa những giai cấp không thật sự sâu sắc. Tuy vậy, yếu tố chính
làm xuất hiện nhà nước là sự phân hóa giai cấp, còn yếu tố quản lý và vai trò của người
thủ lĩnh trong công cuộc trị thủy và chiến tranh là yếu tố thúc đẩy sự ra đời của nhà nước sớm hơn.
Nhà nước phương Đông cổ đại tồn tại và phát triển trên nền tảng lấy kinh tế nông
nghiệp làm chủ đạo. Do hình thành ở lưu vực các con sông lớn nên nông nghiệp phát triển mạnh.
Câu 3. Nội dung cơ bản của Bộ luật Hammurabi (ở Lưỡng Hà cổ đại), và so sánh
nó với Bộ luật Manu (ở ấn Độ cổ đại)
*Nội dung cơ bản của bộ luật Hammurabi
- Bộ luật Hammurabi là bộ luật tương đối hoàn chỉnh thời kì cổ đại, gồm 282 điều (hiện
chỉ đọc được 247 điều) bao gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luật.
Đây là một bộ luật tổng hợp được xây dựng dưới dạng luật hình, bao gồm các quy phạm
pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có chế tài, chủ yếu là điều chỉnh quan hệ xã
hội liên quan tới lợi ích của giai cấp thống trị.
- Phần mở đầu Vua Hammurabi tuyên bố rằng các vị thần đã trao đất nước cho nhà vua
thống trị để làm cho đất nước giàu có, nhân dân no đủ.
- Phần nội dung là phần chủ yếu của bộ luật. Nội dung của bộ luật bắt nguồn từ sự kế
thừa từ những bộ luật trước đó, cụ thể là những pháp điển của người Xume, ngoài ra
chứa đựng những sắc lệnh của vua Hammurabi và nhiều quyết định của tòa án cao cấp bấy giờ.
+ Trong đó, điều đầu tiên là bộ luật quy định thủ tục kiện cáo, cách xét xử tức tục tố tụng.
+ Tiếp đó là những quy định về hình phạt của tội trộm cắp, bắt cóc nô lệ, về quyền và
nghĩa vụ của binh lính, quyền lợi của người lính canh ruộng đất. Tội sử dụng bừa bãi
nguồn nước, tội để súc vật tàn phá hoa màu.
+ Các hình thức cho vay lãi, nô lệ vì nợ cũng được quy định rất cụ thể.
+ Sau đó bộ luật dành nhiều khoản về việc gả bán con gái, về gia đình, về các hình thức
trị tội khi làm tổn hại tới thân thể người khác, hình phạt đối với tội thủ tiêu dấu trên mặt
nô lệ, trách nhiệm và tiền công của những người làm thuê trong xây dựng, nông nghiệp,
chăn nuôi, thủ công nghiệp.
+ Và cuối cùng, những điều khoản quy định về mua bán nô lệ.
- Phần kết luận của bộ luật: khẳng định lại công đức và uy quyền của Hammurabi. Nhà
vua trừng trị thẳng tay những kẻ nào hủy hoại bộ luật.
*So sánh Bộ Luật Hammurabi và Bộ Luật Manu
- Bộ Luật Hammurabi là bộ luật thành văn sớm nhất được xây dựng trên cơ sở lấy từ
những tiền lệ pháp của người Xume, những quy định của tòa án và các phán quyết của
tòa án lúc bây giờ, và mệnh lệnh chiếu chỉ của nhà vua bởi vậy mà Bộ Luật chú trọng
tập trung điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội lúc bấy giờ. Tuy rằng Bộ Luật Manu
cùng được xây dựng từ những luật lệ, những tập quán của giai cấp thống trị nhưng nó
lại được các giáo sĩ Bà La Môn tập hợp dưới dạng trường ca, được trình bày dưới dạng
câu trường ca, tuy có điều chỉnh quan hệ pháp luật nhưng nó còn bao gồm rất nhiều vấn
đề như chính trị, tôn giáo, quan niệm về thế giới và vũ trụ, bởi vậy Bộ Luật bao gồm
2685 điều trong khi đó Hammurabi chỉ có 282 điều. Tuy nhiên, bộ Luật Hammurabi lại
điều chỉnh các quan hệ xã hội tiến bộ hơn rất nhiều so với Manu. - Nội dung:
+ Chế độ hợp đồng: hai bộ luật điều có phần điều kiện có hiệu lực hợp đồng, Bộ Luật
Manu chủ yếu đề cập tới vấn đề hợp đồng vay mượn, Bộ luật Hammurabi còn nói đến
vấn đề hợp đồng lĩnh canh ruộng đất, hợp đồng gửi giữ, cả hai bộ Luật đều dung chính
bản thân con người làm vật bảo đảm, tuy nhiên Bộ luật Hammurabi có những quy định
cũng như chế tài rõ ràng hơn so với Manu, Bộ luật Manu có tính phân biệt rõ ràng đối
với đẳng cấp cao đó là Bà La Môn.
+ Chế định hôn nhân: Bộ luật Manu có sự bất bình đẳng rõ rệt giữa vợ và chồng, hôn
nhân mang tính chất mua bán, người vợ được người chồng mua về, trong khi đó bên Bộ
luật Hammurabi có thủ tục kết hôn, tuy cũng có sự bất bình đẳng nhưng Bộ luật vẫn có
điều khoản bảo vệ người phụ nữ.
+ Chế độ thừa kế: về cơ bản 2 Bộ luật đều có 2 hình thức thừa kế là: theo luật pháp và
theo di chúc, đều thừa kế theo tài sản người cha. Bên Bộ luật Hammurabi có thêm phần
Điều kiện tước quyền thừa kế.
+ Chế độ hình sự: Bộ luật Manu có sự phân biệt đẳng cấp rõ ràng: khoan dung cho
người đẳng cấp trên và trừng trị thẳng tay đối với kẻ đẳng cấp dưới có hành vi xâm
phạm tới đẳng cấp trên, Bộ luật Hammurabi có quan niệm hình sự là trừng trị tội lỗi,
mang tính chất trả thù ngang nhau tuy nhiên chỉ là tương đối. Các hình thức xử phạt của
hai bộ Luật đều rất dã man.
+ Chế độ tố tụng: Bộ Luật Manu thì coi trọng chứng cứ nhưng chứng cứ lại phụ thuộc
vào giới tính và đẳng cấp, chứng cứ của đẳng cấp cao có tính quyết định. Bộ luật
Hammurabi cũng coi trọng chứng cứ nhưng không phân biệt đẳng cấp và điều quan
trọng là được xét xử công khai rất tiến bộ.
Bộ luật Manu mang tính phân biệt đẳng cấp rất rõ rệt, mọi điều khoản đều ủng hộ đẳng
cấp trên. Bộ Luật Hammurabi tuy cũng có sự phân biệt nhưng cùng với đó cũng có tính
dân chủ nhất định, cũng có sự bảo vệ với người dân.
Câu 4. So sánh và chỉ ra nét khác biệt cơ bản giữa nhà nước Xpác và nhà nước Aten (Hy Lạp cổ đại). *Giống nhau:
- Cả Aten và Xpac đều là hai thành bang thuộc Hy Lạp, chính thể nhà nước đặc trưng là
chính thể cộng hòa chủ nô.
- Nhà nước được xây dựng và thống trị bởi giai cấp chủ nô – giai cấp nắm các đặc
quyền về kinh tế và chính trị; chung mục đích bảo vệ quyền lợi và địa vị của giai cấp chủ nô trong xã hội.
- Cả hai nhà nước trên đều tồn tại trên cơ sở tư hữu và quan hệ bóc lột nô lệ. *Khác nhau: - Hình thức nhà nước:
+ Aten là Nhà nước Cộng hòa Dân chủ chủ nô.
+ Xpac là Nhà nước Cộng hòa quý tộc chủ nô. - Tổ chức xã hội:
+ Aten: mới đầu cũng theo hình thức cộng hòa quý tộc chủ nô nhưng do kinh tế phát
triển, công thương nghiệp dần chiếm vai trò chủ đạo dần liên kết với nông dân chống lại
giai cấp quý tộc, thông qua ba lần cải cách của: XôLông, Clixten, Periclet, đã dần
chuyển từ hình thức cộng hòa quý tộc chủ nô sang chế độ cộng hòa dân chủ chủ nô.
+ Xpac: sự hình thành nhà nước Xpac trên cơ sở của cuộc chiến tranh xâm lược của
người Đô Riêng đối với người Akeang. Cuộc xâm chiếm làm xã hội hình thành các giai cấp mới: 
Người Xpac: là giai cấp thống trị, công việc là cai trị đất nước và đánh giặc. Nhà
nước sở hữu toàn bộ đất đai và nô lệ. Tầng lớp quý tộc. 
Người Periet: Là người Akeang bị chinh phục, là người tự do có ruộng tài sản
riêng nhưng không có quyền về chính trị, họ phải cống nạp cho người Xpac và
không được lấy người Xpac. 
Người Ilốt: là nô lệ chung cho cả xã hội Xpac.
Nhà nước Aten đã có sự dân chủ hơn so với nhà nước Xpac: Aten người dân tự do có
quyền tham gia chính trị đấu tranh với giai cấp quý tộc đòi quyền lợi; trong khi đó nhà
nước Xpac các giai cấp khác phải nghe theo sự thống trị của giai cấp quý tộc Xpac, họ
ko được hưởng quyền lợi gì.
- Tổ chức bộ máy nhà nước:
+ Nhà nước Xpac có 2 vua được tôn kính nhưng không có thực lực; Còn nhà nước Aten không có vua. + Nhà nước Xpac: 
Hội đồng nhân dân là hội đồng thảo pháp luật gồm các thành viên là quý tộc. 
Đại hội nhân dân thành viên là các công dân nam Xpac trên 30 tuổi đây là cơ
quan có quyền lực về mặt hình thức, quyền lực thực sự tập trung trong hội đồng trưởng lão. 
Về sau do sự mâu thuẫn gay gắt giữa các giai cấp, để bảo vệ quyền lợi của mình
giai cấp quý tộc đã lập ra Hội đồng 5 quan giám sát có chức năng và quyền hạn
rất lớn, là cơ quan lãnh đạo tối cao, nhằm tập trung quyền lực vào tay giai cấp quý tộc. + Nhà nước Aten: 
Hội nghị công dân: thành viên bao gồm công dân nam Aten trên 18 tuổi có quyền
tự do bàn bạc thảo luận các vấn đề quan trọng. 
Hội đồng 500 người chia làm 10 ủy ban với nhiệm vụ thi hành và giải quyết vấn
đề quan trọng trong hội nghị công dân, giám sát công việc nhà nước, quản lý tài chính. 
Hội đồng 10 thủ lĩnh: được bầu ra trong hội nghị công dân có nhiệm vụ thống
lĩnh quân đội, giám sát hội nghị công dân. 
Đặc biệt có sự khác biệt so với Xpac là có thêm Tòa bồi thẩm chuyên xét xử giám
sát tư pháp, thẩm phán được công dân Aten bỏ phiếu bầu ra.
Cơ quan nhà nước Xpac đều do giai cấp quý tộc nắm giữ điều hành và bảo vệ lợi ích
cho giai cấp mình, trong khi đó nhà nước Aten các cơ quan đều do công dân Aten lập ra
có sự dân chủ tiến bộ. Tuy nhiên sự hạn chế dân chủ của cả hai nhà nước cũng được thể
hiện đó là chỉ có công dân của Nhà nước đó mới có quyền tham gia chính trị, có sự phân biệt giai cấp.
Câu 6. Chế độ tự trị của các thành thị và cơ quan đại diện đẳng cấp ở Tây Âu
trong thời kỳ phong kiến.
*Chế độ tự trị của các thành thị ở Tây Âu thời phong kiến
- Nguyên nhân hình thành:
+ Sự xuất hiện của tầng lớp thị dân: Xuất hiện ngay trong lòng quá trình phát triển của
chế độ phong kiến. Khi nghề thủ công nghiệp hình thành, thợ thủ công và nông nô từ
các vùng nông thôn kéo đến thành thị làm ăn, buôn bán.
+ Tất cả các thành thị trước khi giành được quyền tự trị đều nằm trên đất của các lãnh
chúa. Thành thị bị lệ thuộc vào lãnh chúa phong kiến và bị sách nhiễu mọi thứ. Trên
lãnh thổ thành thị những mâu thuẫn giữa thị dân với lãnh chúa dần hình thành và trở nên
ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giành quyền tự trị bắt đầu từ thế kỷ XI với hai con đường: 
Hình thành phong trào đấu tranh của các thành thị để giành được chế độ tự trị
(nơi không có tiềm lực kinh tế). 
Nộp tiền cho lãnh chúa để được hưởng quyền tự trị (nơi có tiềm lực kinh tế).
- Ở lãnh thổ của các lãnh chúa sau khi thị dân đấu tranh thì hình thành các thành thị theo
sự điều hành của cộng hòa thành thị. Nền cộng hòa thành thị có sự quản lý của hội đồng
thành phố do thị dân bầu ra. Thành thị sau khi đã được tự trị, một mặt có đầy đủ quyền
hành như một lãnh chúa phong kiến, mặt khác, cộng hòa thành thị có địa vị và tính chất
như một thần thuộc của lãnh chúa là với, công thị bấy giờ là cộng hoà phong kiến.
*Cơ quan đại diện đẳng cấp ở Tây Âu
- Cơ quan đại diện đẳng cấp ở Pháp
+ Vua Philip IV triệu tập Hội nghị đại biểu của 3 đẳng cấp: Tăng lữ. Quý tộc phong kiến.
Tầng lớp thị dân giàu có (giai cấp tư sản sau này).
+ Hội nghị 3 đẳng cấp đứng về phía nhà Vua chống lại Giáo Hoàng La Mã, thông qua
Hội nghị, thị dân được tham gia vào đời sống chính trị.
+ Xu hướng phát triển về sau: khi chính quyền quân chủ chuyên chế được thiết lập sau
này, vai trò của cơ quan đại diện đẳng cấp đã bị thu hẹp lại. - Nghị viện ở Anh
+ Năm 1215, vua John ký vào bản “Đại hiến chương tự do” Magna Charta (trong đó
hạn chế quyền lực của nhà Vua).
+ Năm 1263, xảy ra cuộc xung đột giữa 2 phe, một bên là Vua Henry III và một bên là
liên minh giữa các lãnh chúa lớn do Ximông Đơ Môngpho cùng các kị sĩ, thị dân giàu có.
+ Sau cuộc xung đột, nhà vua thừa nhận Nghị viện là cơ quan đại biểu của lãnh chúa, kị
sĩ và thị dân. Nghị viện có quyền hành lớn, có vai trò quan trọng, bảo vệ quyền lợi của
người giàu có trong xã hội.
Thượng nghị viện: Đại biểu của quý tộc và giáo hội.
Hạ nghị viện: Đại biểu của kỵ sĩ và thị dân giàu có.
+ Xu hướng phát triển về sau: ngày càng phát huy vai trò quan trọng.
Câu 5. Nêu và giải thích đặc điểm của nhà nước tư sản trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh.
- Từ thế kỷ XV – XVII, chế độ phong kiến ở phương Tây lâm vào thời kỳ khủng hoảng.
Giai cấp tư sản ra đời, là lực lượng tiến bộ tiến hành cách mạng tư sản, lật đổ chế độ
phong kiến, thiết lập nhà nước tư sản. Nhà nước tư sản ra đời là hệ quả tất yếu của quá
trình phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là thành quả trực tiếp của cách
mạng tư sản. Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh (XVII – XIX) là giai đoạn các quốc gia
tư sản vừa tiến hành cách mạng tư sản và thiết ra những nhà nước tư sản giai đoạn đầu.
*Đặc điểm của nhà nước tư sản trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh
- Về bộ máy nhà nước: Về cơ bản vẫn giữ các cơ quan giống các cơ quan trong bộ máy
nhà nước phong kiến. Bộ máy Nhà nước tư sản chưa lớn, chưa can thiệp sâu vào quá
trình sản xuất và trao đổi tư bản, đơn giản hơn nhiều so với giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
- Về hình thức chính thể: Chủ yếu là quân chủ lập hiến, chỉ có 3 nhà nước có
chính thể cộng hoà là Pháp, Hoa Kỳ và Thụy Sỹ.
- Vai trò của nghị viện thời kỳ này rất lớn, thực sự là cơ quan quyền lực.
- Nhà nước chưa can thiệp vào kinh tế, chủ yếu đóng vai trò bảo đảm trật tự cho các nhà
tư sản cạnh tranh tự do. Chức năng cơ bản của nhà nước tư sản thời kỳ tư bản cạnh tranh tự do:
+ Bảo vệ chế độ tư hữu tư sản.
+ Bảo vệ địa vị thống trị về chính trị.
+ Bảo vệ địa vị thống trị về tư tưởng của giai cấp tư sản. + Xâm lược thuộc địa.
+ Phòng thủ chống xâm lược từ các quốc gia bên ngoài.
=> Bản chất nhà nước tư sản tự do cạnh tranh là công cụ để giai cấp tư sản bảo vệ địa
vị thống trị của mình và duy trì, bảo vệ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
*Giải thích đặc điểm của nhà nước tư sản trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh
- Về bộ máy nhà nước: Thời kỳ này, chủ nghĩa tư bản vừa mới ra đời
Câu 6. Từ góc độ lịch sử và luật pháp hãy lý giải tình trạng “không có hiến pháp
thành văn” ở nhà nước Anh tư sản và phân tích tổ chức bộ máy nhà nước tư sản
Anh thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh.
*Tình trạng “không có hiến pháp thành văn” ở nhà nước tư sản Anh
- Khái niệm: Hiến pháp không thành văn là Hiến pháp có các quy phạm pháp luật không
được thể hiện dưới hình thức văn bản. Các quy tắc này tồn tại trong tập quán chính trị,
truyền thống, án lệ của quốc gia đó được thừa nhận và áp dụng.
- Hiến pháp không thành văn hiện nay của nhà nước tư sản Anh bao gồm:
+ Một số tập quán chính trị
+ Một số quy định luật của nghị viện
+ Một số án lệ của quốc gia
+ Một số Hiệp ước, Điều ước quốc tế
Hiến pháp bất thành văn của Anh không chỉ bao gồm những tập quán bất thành văn, sau
cách mạng 1688, ở Anh tồn tại một tập quán chính trị về tính tối cao của Nghị viện, nên
những đạo luật do Nghị viện Anh thông qua là nguồn pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất.
Nước Anh có Hiến pháp nhưng dưới dạng hình thức không thành văn chủ yếu do một số nguyên nhân sau:
- Nhà nước tư sản Anh là nhà nước tư sản đầu tiên. Cuộc cách mạng tư sản Anh cũng là
cuộc cách mạng luật pháp lớn lao đầu tiên. Nó có nhiều sáng kiến pháp luật nổi tiếng,
nhưng không thể sáng tạo đầy đủ được. Trong đó nó chưa nghĩ ra được hình thức hiến pháp.
- Các nguyên tắc và những quy chế mang tính lập hiến tạo nên chính thể tư sản ở Anh là
kết quả của cả một quá trình đấu tranh lâu dài giữa giai cấp tư sản và thế lực quý tộc cũ.
Nên ngay từ đầu không thể có một văn bản mang tính hiến pháp đầy đủ.
- Đều muốn hạn chế quyền lực của mỗi cá nhân, của Nhà nước. Nghị viện không muốn
tự mình giới hạn quyền lực của mình ở bản hiến pháp thành văn.
- Tuy hiện tại, không phải nước Anh không đủ khả năng xây dựng một bản hiến pháp
thành văn nhưng nước Anh tôn trọng truyền thống, họ là người bảo thủ, trải từ đời này
qua đời khác việc tồn tại Hiến pháp không thành văn không gây ảnh hưởng gì với sự tồn
tại, phát triển của nhà nước. Hiến pháp không thành văn tiến bộ, phù hợp với quan điểm
“thương lượng, thỏa hiệp, bình đẳng” của giai cấp tư sản Anh, và càng tỏ ra phù hợp với
sự thay đổi nhanh chóng, liên tục của thế giới đương đại.
*Tổ chức bộ máy nhà nước tư sản Anh thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh.
- Hình thức chính thể: Quân chủ lập hiến
Tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ nghị viện Anh: Bộ máy nhà nước quân chủ nghị
viện Anh gồm 3 bộ phận cơ bản.
- Hoàng đế: Là nguyên thủ quốc gia, giữ vai trò tượng trưng, “một nhà vua trị vì nhưng không cai trị”.
+ Hoàng đế là người đứng đầu bộ máy nhà nước, có vai trò biểu tượng cho sự thống
nhất và bền vững của quốc gia, dân tộc.
+ Quyết định của Hoàng đế chỉ có hiệu lực thực thi khi có chữ ký kèm theo của Thủ
tướng hoặc của Bộ trưởng
+ Nguyên tắc Hoàng đế không phải chịu trách nhiệm.
+ Quân vương chỉ định Thủ tướng
+ Vua Anh là lãnh tụ tối cao chính thức của Giáo hội Anh. Vai trò ngôi Vua trong Giáo
hội chỉ trên danh nghĩa: “một van an toàn cuối cùng”.
- Nghị viện (chế độ lưỡng viện):
+ Nghị viện có quyền lập pháp, quyền quyết định ngân sách và thuế, quyền giám sát
hoạt động của nội các, quyền bầu hoặc quyền bãi nhiệm các thành viên của nội các.
+ Thượng nghị viện: xem xét và chỉnh sửa những đạo luật mà Hạ viện đã thông qua; có
thể trì hoãn việc thông qua luật, đề nghị Hạ viện xem xét lại dự luật nhưng không thể
ngăn chặn việc thông qua luật
+ Hạ Nghị viện: có quyền lập pháp, quyền quyết định ngân sách quốc phòng, thuế, giám
sát hoạt động của các cơ quan hành pháp, chất vấn các quan chức cấp cao trong Chính
phủ từ hàm bộ trưởng trở lên. Bên cạnh đó, Hạ nghị viện có quyền thành lập Chính phủ,
luận tội các quan chức cao cấp trong chính phủ và cả nguyên thủ quốc gia nếu họ phản bội tổ quốc
- Chính phủ: Tiền thân là Viện Cơ mật là cơ quan nắm quyền hành pháp từ năm 1714.
+ Có thực quyền hành pháp, Thủ tướng được Hoàng đế bổ nhiệm với điều kiện Thủ
tướng phải là thủ lĩnh của Đảng chiếm đa số ghế trong Hạ Nghị viện
+ Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Anh: 
Bổ nhiệm, bãi miễn các thành viên của Chính phủ (khoảng gần 80 người); 
Xác định nhiệm vụ, lịch trình hoạt động của Chính phủ; 
Có quyền ban hành các văn bản pháp quy thuộc thâm quyên; 
Có quyền ký các điều ước, hiệp ước quốc tế; 
Có quyền làm đơn từ chức bất kỳ lúc nào.
Câu 7. Phân tích tổ chức bộ máy nhà nước tư sản Mỹ, xác định hình thức chính
thể của Nhà nước tư sản Mỹ.
*Tổ chức bộ máy nhà nước tư sản Mỹ
Hoa Kỳ theo hình thức cộng hòa tổng thống: Tổng thống, Nghị viện, Pháp viện tối cao. - Tổng thống:
+ Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa đứng đầu hành pháp.
+ Tổng thống có quyền hành rất lớn, nhiệm kỳ 4 năm. Tổng thống không chịu trách
nhiệm trước Nghị viện.
+ Điều kiện ứng cử: Là công dân Hoa Kỳ từ 35 tuổi trở lên, đã cư trú ở Hoa Kỳ trên 14
năm, trải qua 2 giai đoạn bầu cử: sơ bộ và chính thức.
- Nghị viện là cơ quan lập pháp, gồm 2 viện:
+ Thượng nghị viện: Là cơ quan đại diện của các bang. Thượng nghị sĩ phải có tuổi đời
từ ít nhất 30 tuổi, có ít nhất 9 năm là cư dân ở Hoa Kỳ, là người cư trú tại bang đã bầu
ra họ. Mỗi tiểu bang có 2 Thượng nghị sĩ không phụ thuộc số dân, diện tích. Nhiệm kỳ
6 năm, hai năm bầu lại 1/3.
+ Hạ nghị viện: Là cơ quan dân biểu, do dân chúng các tiểu bang bầu lên (số đại biểu tỉ
lệ với số dân của tiểu bang). Hạ nghị sĩ phải có tuổi đời từ ít nhất 25 tuổi, có ít nhất 7
năm là cư dân ở Hoa Kỳ, là người cư trú tại bang đã tiến cử họ vào Quốc hội. Nhiệm kỳ 2 năm.
+ Khi là Nghị sĩ của một viện thì không được bầu là Nghị sĩ của viện kia và không được
làm thành viên của cơ quan hành pháp hay cơ quan tư pháp.
+ Nghị viện có quyền lớn: Thông qua đạo luật, quyền tán thành hoặc không tán thành
các quan chức cao cấp do tổng thống bổ nhiệm.
+ Không thể nói viện nào nhiều quyền hơn viện nào (nguyên tắc đối trọng và cân bằng
quyền lực). Ví dụ: Hạ nghị viện có quyền luận tội các quan chức cao cấp của nhà nước
kể cả tổng thống, nhưng quyền kết tội lại thuộc về thượng viện. - Pháp viện tối cao:
+ Gồm 9 thẩm phán do Tổng thống bổ nhiệm và được sự chấp thuận của thượng nghị
viện. Thẩm phán có nhiệm kỳ suốt đời.
+ Kết luận của Tòa án tối cao Hoa Kỳ cần ít nhất 6 trên 9 thẩm phán thông qua.
+ Thẩm phán có quyền vô hiệu hóa các quyết định của Nghị viện hay Tổng thống nếu
như chúng trái với Hiến pháp. 
Ba ngành quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp đều có sự kìm chế - đối trọng,
giám sát và chế ước lẫn nhau theo thuyết tam quyền phân lập, nhà nước Hoa Kỳ
được tổ chức theo 3 nguyên tắc sau: 3 bộ phận của nhà nước có nguồn gốc hình
thành khác nhau; 3 bộ phận có nhiệm kỳ khác nhau; 3 bộ phận có sự độc lập và
kiềm chế lẫn nhau, bảo đảm cho chúng không loại trừ hoặc tiệm quyền nhau.
*Hình thức chính thể của nhà nước Tư sản Mỹ là Cộng hòa liên bang.
Câu 8. Phân tích những đặc điểm cơ bản của pháp luật tư sản trong thời kỳ cận
đại và so sánh với pháp luật phong kiến.

*So sánh pháp luật thời cận đại và pháp luật thời phong kiến
Pháp luật tư sản ra đời thời cận đại được xem là một bước tiến lớn trong lịch sử nhân
loại. Có nhiều điểm tiến bộ hơn so với pháp luật phong kiến.
1. Vấn đề quyền con người
- Pháp luật tư sản cận đại thiết lập nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước pháp luật
trong khi đó pháp luật phong kiến là pháp luật đặc quyền về đẳng cấp.
- Hiến pháp lần đầu tiên xuất hiện với các quy định về quyền con người nghĩa vụ cơ bản
của nhân dân. Nhiều quyền con người, công dân được đề cập cụ thể.
+ Pháp tư sản bảo vệ quyền tư hữu tư nhân.
+ Pháp luật tư sản quy định quyền bầu cử, phủ định chế độ thế tập.
- Các ngành luật khác cũng có những quy định cụ thể nhằm đảm bảo quyền con người.
2. Những tiến bộ trong việc xây dựng pháp luật
- Pháp luật tư sản thời cận đại bị chi phối bởi hai hệ thống pháp luật Common Law và Civil Law.
- Trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh, kỹ thuật lập pháp có sự tiến bộ với việc phân
chia thành các ngành luật, các chế định, các khái niệm pháp lý…
- Pháp luật tư sản thời cận đại phát triển về Luật dân sự hơn so với pháp luật phong kiến.
- Lần đầu tiên Luật lao động ra đời nhằm bảo vệ quyền lợi của công nhân.
- Luật hình sự của pháp luật tư sản cận đại chống lại xét xử độc đoán chuyên quyền và
giảm dần các hình phạt dã man.
- Nguyên tắc suy đoán vô tội và tranh tụng được áp dụng đảm bảo tính công bằng.
3. Pháp luật tư sản cận đại không chỉ là công cụ để quản lý xã hội mà còn là công cụ
giám sát, hạn chế quyền lực nhà nước
- Pháp luật tư sản cận đại đã xuất hiện nguyên tắc phân chia quyền lực.
PHẦN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Câu 10. Sự hình thành, tổ chức bộ máy và đặc trưng cơ bản của nhà nước Văn lang- Âu lạc.
* Sự hình thành nhà nước Văn Lang - Âu Lạc
Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam, “Nước Văn Lang, hiểu theo nghĩa là nhà
nước sơ khai, chỉ có thể ra đời trong giai đoạn văn hóa Đông Sơn”. Việt Sử lược là tác
phẩm sử học xưa nhất còn lại đến nay chép rằng nước Văn Lang do Hùng Vương thành
lập vào khoảng đời Trang Vương nhà Chu (696-682). Trong tác phẩm này có nêu rằng:
“Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 TCN), ở Bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo
thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là
nước Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được
18 đời, đều gọi là Hùng Vương”. Niên đại ra đời của nước Văn Lang vào thế kỷ 7 TCN
được chép trong Việt Sử lược là phù hợp với kết quả nghiên cứu khoa học hiện nay.
* Tổ chức bộ máy nhà nước
Tổ chức nhà nước thời kỳ này còn hết sức đơn giản. Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng
Vương, giúp việc cho Hùng Vương có Lạc hầu. Nước Văn Lang chia làm 15 Bộ, đứng
đầu mỗi Bộ là Lạc tướng, đây cũng là chức thế tập cha truyền con nối. Bộ thực chất là
bộ lạc, Lạc tướng vốn là tù trưởng bộ lạc rồi chuyển hoá thành người đứng đầu một
“vùng - bộ lạc” của nước Văn Lang dưới quyền Hùng Vương. Dưới bộ là các Công xã
nông thôn (kẻ, chạ, chiềng) kết hợp quan hệ xóm làng với quan hệ họ hàng, quan hệ
láng giềng với quan hệ huyết thống. Mỗi Công xã gồm một số gia đình sống quây quần
trong một khu vực địa lý nhất định. Đứng đầu công xã là bồ chính mà thực chất chính là
các già làng. Đến thời Âu Lạc, tổ chức bộ máy nhà nước vẫn được giữ nguyên.
* Đặc trưng cơ bản của nhà nước Văn Lang - Âu Lạc
- Thứ nhất, tầng lớp thống trị là giai cấp quý tộc, vừa đại diện cho công xã trên một số
lợi ích chung, vừa được thu một phần sản phẩm thặng dư của công xã dưới hình thức
cống nạp hay lao dịch của công xã như những đơn vị bóc lột.
- Thứ hai, công xã nông thôn tồn tại với hai tư cách: đơn vị hành chính - lãnh thổ và là
biểu tượng cho sự tồn tại bền vững của sức mạnh nhân dân.
- Thứ ba, có sự tồn tại lâu dài chế độ công hữu về ruộng đất.
- Thứ tư, Nhà nước ra đời sớm hơn trước khi trong xã hội có sự phân hoá thành giai cấp.
- Thứ năm, quyền lực nhà nước là tập trung, thống nhất, nhà nước được tổ chức lên
trước hết là để đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng.
Câu 11. Đặc điểm cơ bản về nhà nước và pháp luật ở Việt nam thời Bắc thuộc.
*Đặc điểm cơ bản về nhà nước ở Việt Nam thời Bắc thuộc
- Có hai hệ thống chính quyền hoặc đan xen tồn tại hoặc song song tồn tại trong các
mốc thời gian lịch sử khác nhau: hệ thống chính quyền chủ đạo là hệ thống chính quyền
đô hộ của phong kiến Trung Quốc và hệ thống chính quyền độc lập tự chủ của người Việt.
- Hệ thống chính quyền đô hộ phong kiến Trung Quốc chỉ là bộ phận của bộ máy nhà
nước phong kiến Trung Quốc, đó là các cấp chính quyền địa phương của bộ máy nhà
nước phong kiến Trung Quốc chứ không phải là một hệ thống chính quyền có cơ cấu
hoàn chỉnh chặt chẽ từ trung ương xuống địa phương. Mặc dù chính quyền đô hộ luôn
kiện toàn bộ máy nhưng bộ máy nhưng cao nhất cũng chỉ quản lý được đến cấp huyện,
còn các xã, làng mạc vẫn luôn luôn chịu sự quản lý trực tiếp của người Việt. Bởi lẽ, từ
trước tới nay, cấp cơ sở (làng, xã) của người Việt luôn mang tính chất khép kín cao, khi
người Hán thực hiện chính sách đồng hóa, nhân dân càng đoàn kết, củng cố được khối sức mạnh.
- Những cơ sở lịch sử cho thấy cha ông chúng ta đã tiếp thu kỹ thuật, cách thức tổ chức
chính quyền theo đơn vị hành chính lãnh thổ nhiều cấp của người Trung Quốc để vận
dụng xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước thời kì này.
- Hệ thống chính quyền cấp cơ sở của người Việt mang tính chất khép kín, ưu tiên điều
chỉnh nội bộ bằng các phong tục tập quán và bảo lưu, duy trì tính chất làng Việt truyền
thống. Xét theo chiều dọc thời gian, tuy kéo dài hàng ngàn năm, nhưng nền đô hộ do
chính quyền đô hộ thiết lập là không liên tục. Xét theo chiều ngang và chiều sâu của
không gian, chính quyền đô hộ không thể với tay tới và làm thay đổi được cơ cấu làng
xã cổ truyền của người Việt, nhiều vùng rộng lớn xa xôi vẫn nằm ngoài phạm vi cai trị
của chính quyền đô hộ. Hay nói cách khác, các triều đại phong kiến Trung Hoa chỉ cướp
được nước Âu Lạc chứ không trực trị được các làng Việt.
*Đặc điểm cơ bản về pháp luật ở Việt Nam thời Bắc thuộc
- Thời kỳ này, pháp luật được thi hành là pháp luật của Trung Hoa, pháp luật của kẻ đi
cai trị. Để tiến hành việc trấn áp, pháp luật mà người Việt được biết tới là pháp luật của
ngoại bang, pháp luật đôi khi được đồng nhất với hình phạt. Pháp luật của Trung Hoa
phong kiến đã được áp dụng tại Việt Nam, trong đó có hai bộ luật chủ yếu là Bộ luật
nhà Hán và Bộ luật nhà Đường. Hàng loạt các hình phạt như xẻo mũi, cắt tai, thích chữ
vào mặt, đánh gậy, lưu đầy, xử tử v.v... đã bắt đầu được áp dụng.
- Bộ luật nhà Hán được áp dụng tại nước ta từ năm 111 trước Công nguyên (TCN) cho
đến khi Bộ luật nhà Đường được ban hành vào năm 538. Bộ luật nhà Đường là một bộ
luật quan trọng trong lịch sử pháp luật Trung Hoa phong kiến và có ảnh hưởng nhất
định tới pháp luật Việt Nam từ đời nhà Lý đến nhà Lê sau này.
- Bên cạnh nguồn luật của Trung Hoa, thời kỳ Bắc thuộc còn tồn tại một loại nguồn luật
khác, đó là các luật tục của người Việt. Luật tục này đã tồn tại từ thời đại Hùng Vương
được truyền từ đời này qua đời khác, điều chỉnh chủ yếu các vấn đề về gia đình, dân sự,
ruộng đất v.v... trong nội bộ làng xã. Luật tục của người Việt chi phối mạnh mẽ nhất là
trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình và các lĩnh vực khác.
Câu 11. Phân tích những đặc trưng cơ bản về các mô hình tổ chức chính quyền
thời kỳ trung đại (Mô hình chính quyền quân sự thời Ngô – Đinh – Tiền Lê; Mô
hình chính quyền thân dân thời Lý – Trần; Mô hình chính quyền quan liêu thời Lê
sơ; Mô hình lưỡng đầu chế thời Vua Lê – chúa Trịnh; Mô hình tập quyền chuyên chế thời Nguyễn)
* Mô hình tổ chức chính quyền quân sự thời Ngô - Đinh - Tiền Lê
Tính chất của mô hình tổ chức bộ máy nhà nước thời kỳ này là tập quyền quân sự.
- Quyền lực nhà nước tối cao nằm trong tay vua, mọi việc đều phải tuân theo ý vua.
Dưới vua có các quan phụ trách hành pháp, lập pháp, tư pháp giúp việc cho vua.
- Chính quyền trung ương không trực tiếp can thiệp được đến đơn vị cơ sở làng, xã. Mô
phỏng quan chế phương bắc ở trung ương, vua đặt ra quan chức và phong tước. a. Triều đình nhà Ngô - Chính quyền trung ương
+ Vua, Hoàng hậu thiết lập chính quyền tập trung, chuyên chế. Đặt các chức quan văn,
võ thiết lập lễ nghi triều đình và quy định trang phục của các quan lại trong triều; tuy
nhiên, ở giai đoạn này đã xuất hiện xu hướng cát cứ, đó là việc tồn tại thế lực của các
hào trưởng địa phương và sau này khi Ngô Quyền mất, các thổ hào, lãnh chúa nổi lên
khắp nơi, cát cứ chống lại chính quyền trung ương. b. Triều đình nhà Đinh
- Về tổ chức nhà nước thời nhà Đinh, vua là người nắm giữ quyền lực tối cao nhưng
cũng đúng nghĩa là một vị tướng trong quân đội.
- Theo ghi chép trong Đại việt sử kí toàn thư cho thấy, giúp việc cho vua trong triều
đình nhà Đinh lúc bấy giờ có các chức quan văn võ, bao gồm: Định quốc công, là viên
quan đầu triều, đây là chức quan tương đương với chức Tể tướng ở các triều đại sau
này; Đô hộ phủ sĩ sư là chức quan được giao nhiệm vụ trông coi việc xét xử ở Phủ đô
hộ; Tăng thống là chức quan do nhà sư đảm nhiệm, chuyên cai quản về lĩnh vực Phật
giáo; Tăng lục là chức quan cũng làm nhiệm vụ cai quản về Phật giáo, nhưng dưới
quyền Tăng thống; Sùng trân uy nghi là đạo sĩ được triều đình giao cho cai quản lĩnh vực Đạo giáo.
c. Triều đình nhà Tiền Lê
- Thiết lập chế độ quân chủ tập trung, nhưng thực chất tổ chức bộ máy nhà nước cũng còn rất sơ sài.
- Vua là người nắm giữ mọi quyền hành về cả quân sự và dân sự, các vua nhà Tiền Lê
thực chất là những tướng lĩnh xông pha nơi trận mạc, là tổng chỉ huy tối cao của quân
đội, vì vậy cách thức tổ chức bộ máy nhà nước của nhà Tiền Lê đã được thiết lập,
nhưng thực sự còn rất sơ khai, chưa quy củ.
- Nhà Tiền Lê xây dựng bộ máy nhà nước và quy định về triều nghi phẩm phục theo mô hình nhà Tống, Đường.
- Vua Lê Đại Hành là người nắm giữ quyền lực tối cao cả về quân sự và dân sự, lập
nhiều Hoàng hậu, các Thái tử đều được cắt cử đi trấn giữ ở các địa phương nhằm bảo
đảm quyền lực của hoàng tộc một cách tuyệt đối.
- Ở nhà Tiền Lê - thời vua Lê Đại Hành thiết lập hệ thống quan lại giúp việc cho vua,
chủ yếu là các quan võ, bao gồm các chức quan:
+ Đại tổng quản tự quân dân sự là viên quan đầu triều nắm giữ cả về quân sự và dân sự,
đây là chức quan tương đương với chức Tổ tướng của các triều đại sau này.
+ Thái sư là quan văn đầu triều có nhiệm vụ cố vấn cao cấp cho vua trước những vấn đề
quan trọng của đất nước.
+ Thái úy là chức quan võ dưới chức tổng quản, đây cũng là chức quan được mô phỏng theo mô hình nhà Đường.
+ Nha nội đô chỉ huy sứ là chức quan võ nhưng không rõ về thứ bậc cao thấp so với
Thái úy, nên tạm hiểu là một chức quan võ dưới quyền của Đại tổng quản tự quân dân sự.
* Mô hình chính quyền thân dân thời Lý – Trần
- Bộ máy nhà nước dưới triều Lý được thiết lập từ trung ương tới tận địa phương và tập
trung quyền hành vào tay triều đình đứng đầu là vua. Vua là người nắm quyền hành cao
nhất về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo.
- Trong bộ máy chính quyền thời Lý, tầng lớp quí tộc bao gồm những người thân thuộc
của nhà vua và một số công thần... nắm giữ các trọng trách ở trung ương và địa phương.
Các hoàng tử được phong tước vương và cử đi trấn trị các nơi trọng yếu.
- Theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí thì quan chế nhà Lý đại
lược như sau: Phẩm trật các hàng quan văn võ đều 9 bậc được xác định trong Hội điển.
Những chức quan cao cấp nhất trong triều đình chia ra ngạch văn và ngạch võ. Các đại
thần đứng đầu ở ngạch văn thì có tam thái (thái sư, thái phó, thái bảo); tam thiếu (thiếu
sư, thiếu phó, thiếu bảo). Ở ngạch võ có thái uý, thiếu uý và một số chức vụ khác. Ở bên
dưới hàng quan văn thì có các thượng thư mà đứng đầu các bộ các tả và hữu tham tri, và
hữu gián nghị, trung thư thị lang, bộ thị lang... Quan võ ở triều đình có đô thống,
nguyên suý, tổng quản, xu mật sứ, tả, hữu kim ngô, thượng tướng, đại tướng, đỗ tướng,
tướng quân các vệ... Chức quan nắm quyền binh cao nhất trong triều coi như Tể tướng
được gọi là Tướng công dưới thời Lý Thái Tổ, phụ quốc thái uý dưới thời Lý Thái Tông và Lý Nhân Tông.
- Nhà Trần vẫn tiếp tục dựa vào mô hình Nhà nước thân dân, thậm chí đạt đến độ hoàn
thiện. Thời kỳ này nổi lên mô hình coi già làng là người có vai trò lớn trong những
quyết sách quan trọng của quốc gia.
- Nhà Trần đã tiến hành chia lại các đơn vị hành chính. Năm 1242, đổi 24 lộ thời Lý ra
làm 12 bộ. Lộ gồm các châu, huyện và xã. Trong triều, nhà Trần đặt thêm nhiều chức
quan và các cơ quan chuyên trách mới đã đáp ứng yêu cầu của bộ máy hành chính,
trong số đó có những cơ quan tư pháp như Thẩm hình viện, Tam ty viện do các cơ quan
chuyên môn phụ trách, các cơ quan văn hoá giáo dục như Quốc sử viện, Thái y viện...
Nhìn chung, nhiều cơ quan được đặt ra thành hệ thống riêng gọi là quán, các, sảnh, cục, đài, viện.
- Ngoài các chức quan dưới triều Lý, nhà Trần có đặt thêm các chức Tư đồ, Tư mã, Tư
không, gọi chung là tam tư; Tướng quốc và các chức Đại hành khiển, Tham tri chính sự đứng đầu bách quan.
* Mô hình chính quyền quan liêu thời Lê sơ
- Về mặt chính quyền, Thái Tổ chấn chỉnh lại bộ máy nhà nước theo mô hình thời Trần.
Dưới vua có hai chức Tả, hữu tướng quốc, 3 chức Tư, 3 chức Thái, 3 chức Thiếu, Bộc
xạ v.v.. giúp việc bàn bạc, quyết định những công việc quan trọng của triều đình. Tiếp
đến là hai ban Văn và Võ. Văn ban do Đại hành khiển đứng đầu, phụ trách chung mọi
việc. Sau đó là hai bộ Lại và Lễ do Thượng thư đứng đầu, các cơ quan chuyên trách như
khu mật viện, Hàn lâm viện, Ngũ hình viện, Ngự sử đài, Quốc tử giám, Quốc sử viện,
Nội thị sảnh, các quán, cục, ti. Võ ban thì có các chức Đại Tổng quản, Đại đô đốc, Đô
Tổng quản, Tổng quản, Tổng binh, Tư mã v.v... đứng đầu 6 quân Điện Tiền, 5 quân
Thiết đột v.v.. Ở địa phương, đứng đầu các đạo là chức Hành khiển phụ trách mọi việc
quân dân, sau đó là các an phủ sứ, tri phủ, tuyên phủ sứ, chuyển vận sứ đứng đầu các trấn, lộ, huyện.
- Khi đất nước dần dần hồi phục và bước đầu phát triển, xuất phát từ những yêu cầu mới
của chính trị, trong những năm 1460 - 1471, Lê Thánh Tông tiến hành một cuộc cải
cách hành chính lớn. Các chức vụ trung gian giữa vua và các cơ quan hành chính như
Tướng quốc, Bộc xạ, Tư đồ, Đại hành khiển,Trung thư sảnh v.v.. đều bị bãi bỏ. Vua
trực tiếp chỉ đạo 6 bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công (do Thượng thư đứng đầu) là
những cơ quan chính phụ trách mọi mặt công tác của triều đình. Giúp việc cụ thể có 6
Tự, Viện Hàn lâm, Viện Quốc sử, Quốc tử giám, Bí thư giám v.v.. Bộ phận thanh tra
quan lại được tăng cường: ngoài Ngự sử đài có 6 khoa chịu trách nhiệm theo dõi các bộ.
Về võ, vua cũng là người chỉ huy tối cao; bên dưới có 5 quân đô đốc phủ, các vệ quân
bảo vệ kinh thành và Thủ đô.
* Mô hình lưỡng đầu thời Vua Lê – chúa Trịnh
- Tình trạng Vua Lê - Chúa Trịnh là sản phẩm của chế độ quân chủ Việt Nam ở thế kỷ
XVI - XVII. Mô hình vua Lê - chúa Trịnh trong lịch sử còn được gọi là “mô hình chính
quyền lưỡng đầu”, vì có hai người cùng đứng đầu nhà nước mà bản chất thực quyền là
nằm trong tay một người là chúa Trịnh. Bản chất của chính quyền thời kỳ này là sự
thống trị của một tập đoàn quân chủ mới, dựa trên thế lực về quân sự dưới cái vỏ triều đình cũ.
- Ở trung ương, cơ quan hành chính cao nhất là Ngũ phủ (do các chức thự phủ và thự
phủ sự họp lại) và Phủ liêu gọi tắt là phủ chúa.
- Phủ liêu chia làm ba phiên, trông coi mọi việc quân sự, thu thuế trong kinh và ở các
trấn; về sau lại đổi thành 6 phiên (lục phiên), nắm quyền chi phối mọi mặt hoạt động
của nhà nước quân chủ. Cụ thể, vào năm 1718, khi Trịnh Cương thiết lập ở phủ chúa,
các cơ quan tối cao tồn tại song song với các bộ gọi là phiên (6 phiên là: Lại, Bộ, Lễ,
Binh, Hình, Công), các phiên nắm toàn bộ quyền hành, lục bộ chỉ là hư danh. Mỗi phiên
có một tri phiên và một phó tri phiên.
- Triều đình vua Lê vẫn giữ nguyên hệ thống quan lại cũ, với các chức Tam thái, Tam
thiếu và các Thượng thư của 6 Bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công). Bên cạnh các Bộ, có
Ngự sử đài do các ngự sử phụ trách. Ngự sử đài có nhiệm vụ giám sát và thanh tra quan
lại các cấp để tâu phủ chúa, quyết định việc thăng thưởng, đề bạt, kỷ luật, đồng thời
Ngự sử đài là cơ quan cao nhất xét xử các án kiện về tư pháp.
- Vê quan võ, có các chức quan đứng đầu 5 phủ, tức 5 cơ quan cai quản ở kinh thành
(các quận Trung, Đông, Tây, Nam, Bắc) gồm có Chưởng phủ sự, Quyền phủ sự, Thự
phủ sự. Các chức này cùng với tham tụng, bồi tụng (còn gọi là quan phủ liêu) hợp thành
Ngũ phủ, Ngũ liêu có quyền hành cao nhất do chúa Trịnh điều khiển.
* Mô hình tập quyền chuyên chế thời Nguyễn
- Đây là thời kỳ chính quyền đã thi hành nhiều biện pháp để tập trung quyền lực trong
tay nhà vua. Nhà Nguyễn đã xây dựng được chính quyền quân chủ mạnh mẽ, quy củ,
chặt chẽ trên cơ sở tiếp thu cách thức tổ chức chính quyền của nhà Thanh (1644-1911) của Trung Hoa.
- Vua không chia sẻ quyền lực với bất cứ thế lực nào: Lập ra Lệ tứ bất (có nghĩa là Bốn
không: không lập tể tướng; không lập hoàng hậu; không lấy Trạng Nguyên và không
phong Vương). Mục đích của Lệ này là để duy trì quyền lực, tập trung quyền lực. Từ
chính sách này có thể thấy mức độ tập quyền của nhà Nguyễn so với các triều đại khác
trong lịch sử là cao hơn.
- Thời kỳ này đất nước rộng và giàu tiềm năng, đứng đầu là Vua (hoàng đế) nắm hết
mọi quyền hành trong tay, dưới vua là 6 Bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) do Thượng
thư đứng đầu, có các Tham tri, Thị lang giúp việc.
- Dưới các bộ có các Khoa (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) do cấp sự trung đứng đầu và
sáu tự (thái thường, đại lý, quang lộc, hồng lô, thái bộc, thượng bảo) do tự khanh đứng
đầu chuyên trách từng việc, chịu trách nhiệm trước vua. - Bên cạnh bộ, Khoa có nhiệm
vụ và quyền hạn kiểm soát công việc của các Bộ và các cơ quan nhà nước khác ở trung ương.
- Ngoài các Bộ, Khoa, Tự còn có các cơ quan chuyên môn gọi là các Viện, Giám, Ty,
Phủ. Đó là Hàn Lâm Viện: coi việc biên soạn, thảo văn từ, sắc, mệnh của vua, thảo luận
kinh điển. Quốc Tử Giám: coi việc giảng dạy kinh sách, đào tạo nhân tài... Khâm Thiên
Giám trông coi việc quan sát tinh tú, khí tượng, làm lịch. Thái Y Viện nghiên cứu việc
điều trị bệnh tật, thuốc thang chủ yếu để phục vụ nhà vua và hoàng tộc. Từ tế ty coi việc
giữ gìn các dụng cụ, vật phẩm tế tự.
Câu 12. Quốc triều hình luật thời Lê (Bộ Luật Hồng Đức ): tính chất, phạm vi điều
chỉnh, cơ sở tư tưởng, các nguyên tắc cơ bản. Tính chất
Quốc triều hình luật (QTHL) dưới triều vua Lê Thánh Tông là một bộ luật điển hình,
hoàn thiện nhất trong lịch sử nhà nước và pháp luật phong kiến Việt Nam. Đây là một
bộ tổng luật, bộ luật gốc, nền tảng của quốc gia Đại Việt thời bấy giờ. Tính chất tổng
luật được thể hiện ở nhiều phương diện, đặc biệt là về nguồn pháp luật, chứa đựng cả
“luật” của nhà nước, cả “luật” của xã hội - các quy tắc, quan niệm đạo đức, tập quán,
phong tục, tín ngưỡng, tư tưởng chính trị - pháp lý... Tính “tổng luật “ còn được thể hiện
ở việc nội dung Bộ luật bao gồm cả luật nội dung - luật vật chất, luật thủ tục - luật hình
thức. Chính vì vậy có thể coi QTHL nhà Lê như là một bộ bách khoa toàn thư, phản ánh
bức tranh toàn cảnh của xã hội Đại Việt đương thời.
Phạm vi điều chỉnh của Quốc triều hình luật
Quốc triều hình luật có phạm vi điều chỉnh rộng lớn, bao quát tất cả các lĩnh vực cơ bản
của đời sống xã hội đương thời. Quốc triều hình luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong các lĩnh vực: dân sự, hôn nhân và gia đình, quan chế, luật hành chính; giáo dục;
tài chính, thuế khóa; quân sự; hình sự, tố tụng hình sự; bảo vệ quyền lợi của các nhóm
xã hội yếu thế, đất đai, môi trường; bang giao quốc tế vv... Cơ sở tư tưởng
Quốc triều hình luật đã tiếp thu chọn lọc pháp luật Trung Hoa. Nội dung, hình thức kết
cấu của Quốc triều hình luật đã thể hiện sự kế thừa chọn lọc của các nhà làm luật thời
bấy giờ. Mặc dù là một bộ luật hướng Nho, song tinh thần dân tộc, tính chất văn hóa
truyền thống của dân tộc Việt vẫn được thể hiện sâu sắc trong Quốc triều hình luật.
Theo kết quả thẩm tra, đối chiếu và so sánh của nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài, trong
722 điều của Quốc triều hình luật, có đến trên 400 điều luật hoàn toàn không có trong
các bộ luật Hán - Đường - Tống - Minh và coi đó là những điều luật độc đáo, riêng biệt của Việt Nam.
Các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Hồng Đức
- Nguyên tắc bảo vệ chế độ quân chủ phong kiến, lợi ích của nhà nước, nhà vua và
hoàng tộc. Những hành vi xâm phạm đến lợi ích, sự an toàn, sự bình yên của nhà vua và
hoàng tộc, xâm phạm đến chế độ đương thời bị liệt vào tội “thập ác” với những hình
phạt nghiêm khắc nhất (điều 1, 2). Nguyên tắc này là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn
bộ bộ luật, đặc biệt ở các chương Vệ cấm, Vi chế.
- Nguyên tắc bảo vệ chế độ tư hữu về ruộng đất, quy định sự lệ thuộc của giai cấp nông
dân vào giai cấp địa chủ phong kiến. Pháp luật quy định chế độ sở hữu nhà nước đối với
ruộng đất bao gồm chế độ lộc điền, quân điền và ruộng đất quốc khố; quy định chế độ
về ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân (chủ yếu được nêu trong chương Điền sản).
- Nguyên tắc bảo vệ hệ tư tưởng thống trị đương thời mà hạt nhân là Nho giáo. Bộ luật
đã giành một số lượng lớn các điều quy định những chuẩn mực đạo đức Nho giáo, đặc
biệt là những điều liên quan đến các chữ “hiếu, trung tiết, hạnh”. Cùng với các tội
chống lại nhà nước, những hành vi trái với tư tưởng cũng được liệt vào tội “thập ác” và
phải chịu “ngũ hình”.
- Nguyên tắc “không có tội, không có hình phạt”, nếu không được quy định trong bộ
luật. Đây là một nguyên tắc cổ điển, có ở nhiều nền pháp luật khác nhau trong lịch sử.
Nguyên tắc này đã được thể hiện rõ nét trong các điều 683, 685, 708, 722. Nội dung cơ
bản của nguyên tắc là: một hành vi chỉ bị coi là tội phạm và bị trừng phạt khi nào hành
vi đó được quy định trong các điều luật tương ứng.
- Nguyên tắc trách nhiệm hình sự tập thể:
QTHL đã quy định trách nhiệm hình sự tập thể, phổ biến đối với một số trọng tội,
không những phạm nhân mà cả vợ con họ cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 411
quy định: “những kẻ mưu làm phản, mưu làm việc đại nghịch, thì xử tội chém bêu đầu;
kẻ tòng phạm và thân đảng biết việc ấy đều phải tội chém; vợ con, điền sản đều bị tịch
thu làm của công.”. Bộ luật cho phép áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tất cả những
người thuộc phạm vi ba họ của người phạm tội (chu di tam tộc) đối với một số trọng tội.
Trách nhiệm hình sự còn được áp dụng đối với những người ở cùng chung 1 nhà với kẻ phạm tội (điều 424).
- Nguyên tắc có lỗi - không có tội nếu không có lỗi:
Thực ra trong bộ luật không có điều nào trực tiếp quy định về khái niệm lỗi cũng như về
nội dung của nguyên tắc này, song cũng có nhiều điều nêu lên sự phân biệt giữa tội
phạm cố ý và vô ý để áp dụng những chế tài trừng phạt phù hợp.
- Nguyên tắc áp dụng tập quán:
Quốc triều hình luật đã thể hiện rõ nét tính dân tộc, truyền thống văn hóa đạo đức, trong
đó có các yếu tố phong tục, tập quán bản địa. Theo đó, nguyên tắc áp dụng tập quán
trong những trường hợp pháp lý nhất định cũng đã được quy định trong nhiều điều luật.
- Nguyên tắc tất cả những gì không được phép làm, đều bị cấm:
Điều 642 quy định: “Việc không được phép làm mà làm thì việc lớn xử tội đồ hay lưu,
việc nhỏ xử tội biếm hay phạt”. Điều luật này đã quy định dưới dạng khái quát hoá cao
như là một nguyên tắc: chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép, tất cả những gì
không cho phép, đều bị cấm, nhưng phải trong khuôn khổ thuần phong mỹ tục, đạo lý, trật tự công cộng.
Câu 14. Nội dung cơ bản của các chế định hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình,
các quy định tố tụng hình sự, thủ tục p

háp lý trong Quốc triều hình luật thời Lê. Chế định hình sự
- Khi đề cập đến vấn đề “pháp luật hình sự” trong Quốc triều hình luật, sẽ có những câu
hỏi đặt ra cần được lý giải bởi lẽ, QTHL về cơ bản được coi là một bộ luật hình sự (thư
tịch cổ thường gọi là Hồng Đức Hình luật). Từ tên gọi cho đến chính sách hình sự hóa,
tội phạm hóa được thể hiện rõ nét trong toàn bộ nội dung của QTHL. Nhiệm vụ cơ bản
của Bộ luật là bảo vệ trật tự xã hội phong kiến, những chuẩn mực đạo đức Nho giáo
trong gia đình và xã hội. Những hành vi vi phạm những điều thiêng liêng trên sẽ bị
trừng trị bằng những biện pháp nghiêm khắc, tàn khốc. Do vậy nhà làm luật đã diễn đạt
“ý chí” của mình dưới dạng các quy phạm pháp luật hình sự: mô tả những dấu hiệu của
hành vi vi phạm pháp luật và các chế tài nghiêm ngặt tương ứng. Pháp luật thời ấy được
nhận thức và xây dựng, áp dụng đồng nghĩa với trừng phạt. Đây cũng là nét đặc trưng,
phổ biến của pháp luật trong các nhà nước phong kiến.
- Nội dung các quy định về hình sự, tố tụng trong QTHL thể hiện sự kết hợp giữa tư
tưởng đức trị và pháp trị cùng truyền thống đạo lý, phong tục, tập quán bản địa. Tư
tưởng đức trị của Nho giáo, bảo vệ nền tảng đạo đức nho giáo trong gia đình và xã hội
đã được thể hiện trong việc xác định những hành vi phạm tội nghiêm trọng xâm phạm
trật tự, quan niệm, chuẩn mực đạo đức nhà giáo là những loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng, phải chịu các hình phạt nghiêm khắc, tàn khốc “thập ác, ngũ hình”, QTHL có quy
định riêng (điều 2, chương Danh lệ) về mười nhóm tội nghiêm trọng nhất gọi là “thập
ác”, bao gồm bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nổi loạn. Cũng xuất phát từ đạo lý gia đình
theo quan điểm Nho giáo, QTHL có nhiều quy định cụ thể về việc con cháu được phép
chịu áp dụng hình phạt thay cho ông bà, sự bất bình đẳng nam nữ trong quy định trách
nhiệm hình sự đối với người vợ và người chồng... (điều 38, 481, 482, ...). Chính sách
hình sự của pháp luật nhà Lê trong QTHL đã thể hiện tính nhân đạo sâu sắc về giảm
trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt cho một số đối tượng xã hội dễ bị tổn thương như
người già, người tàn tật, trẻ em, chính sách hình sự khoan hồng cho người phạm tội do
lầm lỡ... miễn trong chính sách hình sự của nhà Lê (các điều 16, 47...).
- QTHL đã thể hiện sự phân biệt khá rạch ròi về yếu tố lỗi và mức độ trách nhiệm tương
xứng đối với các hình thức lỗi trong hành vi vi phạm của các chủ thể quy định trách
nhiệm hình sự đối với lỗi cố ý nặng hơn so với lỗi vô ý. Ví dụ: Điều 479 Bộ luật Hồng
Đức quy định: “Đánh chết người thì xử tội giảo, đánh chết không phải bằng mũi nhọn
và không phải cố ý giết người thì xử tội lưu đi châu xa”.
- QTHL quy định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân người phạm tội, trong một số
trường hợp còn quy định trách nhiệm tập thể đối với một số loại tội phạm như mưu
phản, mưu đại nghịch, mưu chống đối (điều 412). Bộ luật cũng quy định cho phép
người trong gia đình được che chở lẫn nhau và cấm việc tố cáo hành vi phạm tội (điều 504 ). Chế định dân sự
- Các quy định về pháp luật dân sự chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong Quốc triều
hình luật. Những điểm tiến bộ, nhân văn và tân kỳ của QTHL được thể hiện trong nhiều
chương, điều của Bộ luật, nhưng chủ yếu tập trung ở hai chương Hộ hôn và Điền sản,
điều mà các bộ luật của Trung Hoa tuy có quy định song không có các quy định rõ ràng,
nhất là về cách thức thảo văn tự, chứng thư, chúc thư, không định rõ về chế độ tài sản
của vợ chồng trong lúc sinh thời cũng như trong lúc góa bụa, không ấn định minh bạch các việc về thừa kế.
- Các quy định về dân sự không tập trung thành chương riêng mà được quy định xen kẽ,
rải rác trong một số chương, tập trung nhất là ở hai chương Hộ hôn và Điền, ngoài ra
còn ở các chương khác như Cấm vệ, Tạp luật... Các chế định cơ bản của pháp luật dân
sự như sở hữu tài sản, khế ước, thừa kế, trách nhiệm được quy định rõ ràng về nội dung
và với một trình độ kỹ thuật pháp lý khá cao.
Chế định hôn nhân và gia đình
- Được xây dựng trên cơ sở tư tưởng chính trị - đạo đức Nho giáo trong đó đặc biệt coi
trọng nền tảng đạo đức gia đình nhưng với tôn sự trọng, kế thừa sâu sắc truyền thống
văn hóa đạo đức, phong tục, tập quán của dân tộc Việt cùng với quan điểm chính trị -
pháp lý nhân văn của bản thân các nhà làm luật, các quy định về hôn nhân và gia đình
trong Quốc triều hình luật ngoài những hạn chế tất yếu lịch sử đã thể hiện nhiều điểm
tiến bộ, nhân văn, trong đó có nhiều quy định không có trong các bộ luật của Trung Hoa.
- Lĩnh vực hôn nhân gia đình là lĩnh vực có nhiều gắn bó, duyên nợ mặn nồng nhất với
đạo đức, phong tục tập quán cổ truyền dân tộc. Quốc triều hình luật chỉ điều chỉnh
những quan hệ cơ bản mang ý nghĩa quốc gia nhằm củng cố, bảo vệ quyền của người
gia trưởng, nền tảng đạo đức Nho giáo trong gia đình và xã hội. Còn lại các hành vi xử
sự cụ thể trong hôn nhân gia đình nhà làm luật đã nhường chỗ cho phong tục tập quán
và đạo đức điều chỉnh. Quốc triều hình luật qui định những vấn đề cơ bản nhất của đời
sống hôn nhân và gia đình: kết hôn, ly hôn, bao gồm các điều kiện, “các duyên cớ”, thủ
tục hình thức và hậu quả pháp lý; mối quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ chồng cha
mẹ và con cái, giữa những người thân thuộc trong đại gia đình cổ truyền. Trong cơ cấu
chung của Bộ luật, có 53/722 điều luật liên đến các quan hệ về hôn nhân và gia đình;
30/722 điều luật về việc hương hỏa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản. Trong các quy định
này quan cũng đã thể hiện rõ nét việc quan tâm, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ
trong xã hội và trong gia đình.
Các quy định về tố tụng hình sự, thủ tục pháp lý
- Các quy định về thủ tục tố tụng có nội dung khá chi tiết, chặt chẽ, được sắp xếp trong
hai chương: chương Bộ vong (truy bắt người phạm tội chạy trốn) và chương Đoán ngục
(về thủ tục xử án và điều lệ trong ngục thất). Nội dung các quy định về thủ tục tố tụng
bao gồm: đơn tố giác tội phạm, việc bắt người phạm tội chạy trốn, việc giam giữ và
trông coi người phạm tội; các quy định về xét xử: nguyên tắc chung, thẩm quyền xét xử,
thời hạn xét xử, địa điểm xử án; phạm vi xét xử, việc hỏi cung người phạm tội; bản án và thi hành bản án.
- Thủ tục tố tụng trong QTHL có nhiều điểm tiến bộ, nhân văn, đặc biệt là việc quy định
trách nhiệm tuân thủ pháp luật của các chức quan nhằm hạn chế sự vi phạm luật pháp
của họ và bảo vệ quyền lợi con người, đảm bảo sự thật khách quan trong việc truy cứu
và áp dụng các biện pháp pháp lý. Tính tiến bộ, nhân văn của Luật Hồng đức được thể
hiện qua các quy định về thủ tục tra khảo phạm nhân, người thực thi phải tuyệt đối tuân
thủ, không được tuỳ tiện.
Câu 14. Những đặc điểm cơ bản của Bộ Hoàng Việt Luật Lệ. (223) * Về tội phạm
- Bộ luật này không ghi nhận khái niệm tội phạm, mà chỉ quy định những hành vi nguy
hiểm cho chế độ phong kiến là tội phạm và phải chịu hình phạt.
- Nhà làm luật thời kỳ này đã phân loại tội với lỗi cố ý và các loại tội với lỗi vô ý, trong
đó trách nhiệm hình sự đối với các loại tội với lỗi cố ý được quy định nặng hơn đối với
các loại tội với lỗi vô ý.
- Phần Danh lệ đã nêu 9 nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc luật định (vô luật bất hình),
nguyên tắc so sánh luật, nguyên tắc xét xử theo luật mới, nguyên tắc chiếu cố, nguyên
tắc thưởng phạt, nguyên tắc người thân thuộc được che giấu tội cho nhau, nguyên tắc
truy cứu trách nhiệm hình sự, nguyên tắc luận tội theo tang vật, nguyên tắc chuộc tội bằng tiền.
- Về vấn đề đồng phạm, tính đồng phạm mới chỉ được thể hiện ở nguyên tắc như quy
định tại Điều 29 của Bộ luật.
- Bộ luật cũng quy định rõ trách nhiệm hình sự đối với các tội, mưu phản đại nghịch,
mưu phản, được quy định ở thời điểm biểu lộ ý định phạm tội tại Điều 223, 224 Hoàng Việt luật lệ.
- Một trong những thành tựu về kỹ thuật lập pháp hình sự thời kỳ nhà Nguyễn là đã quy
định trường hợp phạm nhiều tội.
- Ngoài việc quy định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân người phạm tội, Hoàng Việt
luật lệ còn quy định trách nhiệm hình sự tập thể đối với một số loại tội phạm xâm hại
tới sự tồn tại của chế độ phong kiến. Điều khác biệt so với pháp luật hình sự thời kỳ nhà
Lê là chế tài hình sự trong những trường hợp này mang tính chất, mức độ tàn ác hơn nhiều.
- Ngoài ra, Bộ luật còn quy định về hành vi phạm tội của người ngoại quốc trên lãnh thổ
cũng như hiệu lực của Bộ luật theo thời gian.
* Về hệ thống hình phạt
Hệ thống hình phạt thời kỳ nhà Nguyễn bao gồm 5 loại hình phạt:
- Loại hình phạt thứ nhất: đánh roi (dùng roi mây nhỏ đánh, dạy cho biết xấu hổ) có 5
bậc: 10 roi, 20 roi, 30 roi, 40 roi, 50 roi.
- Loại hình phạt thứ hai: đánh trượng (trượng nặng hơn roi, dùng mây bậc trung) có 5
bậc: 60 trượng, 70 trượng, 80 trượng, 90 trượng, 100 truong.
- Loại hình phạt thứ ba: đồ hình (bắt làm nô lệ, vì nô là nhục) có năm bậc: 1) Một năm
với 60 trượng; 2) Năm rưỡi với 70 trượng; 3) Hai năm với 80 trượng; 4) Hai năm rưỡi
với 90 trượng; 5) Ba năm với 100 trượng.
- Loại hình phạt thứ tư: lưu đày (không nỡ giết nên lưu đày phương xa) có ba bậc: 1)
2.000 dặm với 100 trượng; 2) 2.500 dặm với 100 trượng 3) 3.000 dặm với 100 trượng.
- Loại hình phạt thứ năm: tử hình có hai bậc: 1) Treo cổ, 2) Chém (Người phạm tử tội ở
kinh thành hay tỉnh, trừ trường hợp phải chém ngay không đợi lúc ra, những trường hợp
khác đều giam cấm cố, đợi phiên tòa mùa thu hay triều đình xử để phân biệt tình thật,
hoãn hành quyết và những người có ân huệ, tâu lên cho Vua định đoạt).
* Về quyết định hình phạt
- Ngoài bát nghị (xử phán theo 8 trường hợp đặc biệt), Hoàng Việt luật lệ còn quy định
các trường hợp quan chức phạm tội, quan văn võ phạm tội công, quan văn võ phạm tội
tư với những đặc ân so với thường dân phạm tội.
- Việc nộp chuộc tiền cũng được quy định có lợi cho giai cấp phong kiến cầm quyền:
“Kẻ không có tài sản thì một bề chịu tội, theo luật, ai có tài sản chiếu luật, nộp tiền chuộc”.
- Việc tự thú, thành thật khai báo được quy định là những tình tiết giảm nhẹ đặc biệt.
Còn người phạm tội nhẹ bị phát giác, nhân đó tự thú tội nặng, thì miễn phạt tội nặng
ấy.... Kẻ phản (như phản lại nước mình) mà tự thú thì được giảm hai bực tội. Kẻ bỏ trốn
và kẻ phản quốc, dù không tự thú, nhưng trở về nhà thì giảm hai bậc tội.
- Thứ tư, Hoàng Việt luật lệ có nhiều quy định thể hiện sự chú trọng bảo vệ quyền thống
trị của nhà nước phong kiến tập quyền, vì vậy, đã quy định mười tội ác (thập ác) là các
tội phạm xâm hại đến các quan hệ xã hội quan trọng nhất của chế độ phong kiến với chế
tài hình sự nghiêm khắc nhất, không được ân giảm đối với bất cứ tầng lớp nào. Đó là
các tội được quy định tại Điều 2 Hoàng Việt luật lệ.
- Thứ năm, Bộ Hoàng Việt luật lệ có nhiều quy định về các tội xâm phạm sở hữu. Trong
Hoàng Việt luật lệ, có nhiều quy định về các tội xâm phạm sở hữu như Điều 226 - Ăn
cắp đồ Vua dùng trong đại tế thần, Điều 228 - Ăn cắp ấn tín, Điều 229 - Ăn cắp tài vật
trong nội phủ, Điều 231 - Ăn trộm quân khí, Điều 240 - Ăn trộm lúa thóc ngoài đồng....
- Thứ sáu, Hoàng Việt luật lệ đã có quy định về các tội phạm tham nhũng. Để bảo đảm
hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước phong kiến, pháp luật hình sự thời kỳ nhà
Nguyễn đã dành tới 9 điều quy định về nhận của đút lót như Điều 312 - Quan lại nhận
của, tiền, Điều 314 - Nhận của tiền sau khi xong việc, Điều 317 - Đang làm quan mượn
ép hàng hóa của cải của người....
- Thứ bảy, Bộ luật cũng có nhiều quy định xác định những chuẩn mực, đề cao giá trị
đạo đức. Chẳng hạn, Điều 2 Hoàng Việt luật lệ xác định hành vi bất hiếu là một trong
thập ác tội (mười tội ác nghiêm trọng nhất), gọi là tội ác nghịch và tội bất hiếu. Điều
307 - Hoàng Việt luật lệ cũng quy định: “Khi ông bà, cha mẹ còn sống, con cái được
quyền nhận sự nuôi dưỡng, dạy bảo của cha mẹ.
- Thứ tám, có nhiều quy định bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong chế định kết hôn,
ly hôn và phân chia tài sản. Chẳng hạn, Điều 1 Quyển VII Hộ luật có quy định: “Phàm
nam nữ trước khi cưới xin nếu có kẻ nào bị tàn phế hay bệnh tật, già lão hay nhỏ dại
hoặc là con vợ bé, con nuôi trong họ hay ngoài họ đều phải thông báo rõ ràng giữa hai
nhà để đều thuận theo sở nguyện.”.
Câu 15. Ảnh hưởng của truyền thống pháp luật Pháp đến pháp luật Việt nam thời kỳ Pháp thuộc.
Nhà vua ban hành pháp luật thì phải được kiểm duyệt qua một vị quan người Pháp
Câu 16. Hiến pháp năm 1946: tính chất, phạm vi điều chỉnh, giá trị kế thừa. Tính chất
- Hiến pháp 1946 là đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, đồng thời cũng là bản đầu
tiên trong số 7 bản Hiến pháp đã từng được thông qua và áp dụng ở Việt Nam kể từ khi
giành được độc lập (1945). Bản Hiến pháp này không chỉ có ý nghĩa củng cố nền độc
lập của đất nước vừa giành được, Hiến pháp 1946 còn lần đầu tiên khẳng định vị thế
mới của Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, lần đầu tiên quy định cách thức
nhân dân tự tổ chức ra nhà nước của mình cũng như chứng tỏ vị thế pháp lý của một
quốc gia độc lập, có chủ quyền, thể hiện quyết tâm của Đảng trong việc xây dựng một
nhà nước dân chủ, đoạn tuyệt với chế độ phong kiến. Phạm vi điều chỉnh
Hiến pháp 1946 điều chỉnh những phạm vi sau đây: - Chính thể
- Nghĩa vụ và quyền lợi công dân - Nghị viện nhân dân - Chính phủ
- Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính - Cơ quan tư pháp - Sửa đổi Hiến pháp
Giá trị kế thừa của Hiến pháp 1946
https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx? AnPhamItemID=248
Giá trị kế thừa của hiến pháp năm 1946 được thể hiện qua:
Xác lập quyền độc lập, tự do và bình đẳng của dân tộc Việt Nam
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà đã mở ra một kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử phát triển của dân tộc
Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do.
Quyền dân tộc thiêng liêng của nhân dân Việt Nam là độc lập, tự do; chính thể dân chủ
cộng hoà; quyền lực của toàn dân và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đã được quy
thành các điều quan trọng hàng đầu của Hiến pháp 1946.
Căn cứ vào nhiệm vụ của dân tộc trong giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ và nguyên tắc đã
được xác định, Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định một cách rõ ràng quyền độc lập, dân
chủ, tự do của đất nước qua Điều 1 và Điều 2. Ở các bản Hiến pháp sau này, yếu tố độc
lập, tự do và bình đẳng cũng được đặt lên ở các điều đầu tiên.
Khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam
Xuyên suốt nội dung của bản Hiến pháp, tính chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đã được ghi nhận như một giá trị điển hình. Dân chủ được thể hiện ở việc
trao quyền quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước cho người dân và xác lập mục
tiêu hoạt động của các cơ quan nhà nước là vì nhân dân.
Điều này được thể hiện thông qua các quy định ở Điều 1, 17, 20, 24, 30. Những quy
định mang tính chất dân chủ này là một giá trị rất đặc thù của Hiến pháp 1946 dù được
thể hiện ở các chừng mực khác nhau trong các bản hiến pháp về sau những nguyên tắc
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì luôn được duy trì đầy đủ, mặc dù mỗi một
giai đoạn lịch sử của nước ta có một bản hiến pháp khác nhau để thực hiện những sứ mệnh nhất định.
Về quyền và nghĩa vụ của công dân
Với vai trò là bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc, Hiến pháp 1946 lần đầu tiên đã ghi
nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các quyền và nghĩa vụ được quy định
trong bản Hiến pháp này đã bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ các
quyền dân sự, chính trị, kinh tế đến xã hội và đặc biệt, lần đầu tiên đàn bà được khẳng
định “ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện” (Điều 9).
Hiến pháp 1959 tiếp tục kế thừa các quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân trong
Hiến pháp 1946 với một số quyền được quy định cụ thể hơn. Đến Hiến pháp 1980,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân có phần mở rộng hơn khi quy định công dân có
một số quyền như “được bảo vệ sức khoẻ” (Điều 61), “có quyền có nhà ở” (Điều 62),
“có quyền có việc làm” (Điều 58) v.v...
Đến Hiến pháp 1992, với chủ trương đổi mới toàn diện, nhiều quyền của công dân đã
được ghi nhận lại theo Hiến pháp 1946 sau khi bị gián đoạn hoặc hạn chế ở các bản hiến
pháp 1959 và 1980 như: quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh. Trong đó, Hiến
pháp 1946 quy định rất rõ ràng, “công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do
xuất bản, tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và
ra nước ngoài (Điều 10)”. Một số trong các quyền tự do nói trên đã không được ghi
nhận ở Hiến pháp 1959. Tuy nhiên, Hiến pháp 1959 lại bổ sung nhiệm vụ của Nhà nước
“bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền tự do
đó” (Điều 25). Tiếp đó, Hiến pháp 1980 quy định chặt chẽ hơn với việc bổ sung quy
định không được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước
và nhân dân (Điều 67). Hiến pháp 1992 cũng có những quy định tương tự. Hơn nữa, các
quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp 2013 còn được bổ sung một số quyền
mới như quyền sống (Điều 19); Các quyền về khoa học, văn hóa (Điều 40 và 41); quyền
xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42);
quyền sống trong môi trường trong lành (Điều 43),... Cũng như kế thừa Hiến pháp 1946,
khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 đã quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”. Chính điều
này đã đưa quyền con người về đúng với những giá trị cốt lõi của nó ở bản Hiến pháp
năm 1946, khi khẳng định quyền con người là điều mặc nhiên được hưởng của mỗi
người, nhà nước chỉ có thể thừa nhận (bằng Hiến pháp và pháp luật) các quyền đó là
những giá trị vốn có của mọi cá nhân mà Nhà nước có nghĩa vụ công nhân, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy.
Một số chế định cơ bản khác
- Về sửa đổi Hiến pháp: Theo Hiến pháp 1946, thủ tục sửa đổi Hiến pháp chỉ được khởi
động khi có hai phần ba tổng số thành viên của Nghị viện yêu cầu; sau đó Nghị viện bầu
một Ban dự thảo những điều thay đổi trong Hiến pháp; cuối cùng, những điều thay đổi
sau khi được Nghị viện ưng thuận thì phải được toàn dân phúc quyết. Đây đến giờ vẫn
được đánh giá là các quy định rất ưu việt, vì vậy nên Hiến pháp 2013 đã kế thừa từ Hiến
pháp 1946 về nội dung đề nghị làm, sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất hai phần ba
tổng số ĐBQH biểu quyết tán thành. Nhìn chung về cơ bản, quy trình làm, sửa đổi Hiến
pháp theo Hiến pháp năm 2013 kế thừa các quy định tương ứng của Hiến pháp năm 1946.
- Về chế định chủ tịch nước: Ngay từ bản Hiến pháp 1946, nước ta đã có sự sáng tạo so
với các quốc gia xã hội chủ nghĩa thời đó khi quy định Chủ tịch nước phải là cá nhân và
được bầu ra từ Nghị viện nhân dân theo nguyên tắc đa số tuyệt đối. Về cơ bản, điều này
được kế thừa qua các bản Hiến pháp sau đó (trừ Hiến pháp 1980). Nhìn chung, Hiến
pháp hiện hành đã kế thừa và tiếp thu nhiều quy định hợp lý của Hiến pháp 1946 về chế
định Chủ tịch nước. Chủ tịch nước vẫn giữa được mối liên kết với Quốc hội và Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, đồng thời thể hiện những điểm mới tích cực trong nguyên tắc
phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước.
- Về tổ chức và hoạt động của Quốc hội: Bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta mang hơi
hướng đề cao Nghị viện (hay chính là Quốc hội sau này). Điều này vẫn được duy trì qua
các bản Hiến pháp sau này, quan điểm tập trung quyền lực vào Quốc hội vẫn được duy
trì, tuỳ theo bối cảnh của từng bản Hiến pháp mà sự tập trung này ít nhiều có sự thay đổi.
Câu 17. Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 Hiến pháp 1946 Hiến pháp Hiến pháp Hiến pháp Hiến pháp 1959 1980 1992 2013
- Mang tính chất của - Có 4 cấp
- Bộ máy nhà - Có 4 cấp - Có 4 cấp Hiến pháp tư sản hành chính
nước thể hiện hành chính hành chính - Có 5 cấp hành gồm: trung
rõ nguyên tắc gồm: trung gồm: trung chính gồm: Trung ương, tỉnh, trách nhiệm ương, tỉnh, ương, tỉnh, ương, bộ, tỉnh, huyện, xã. tập thể. huyện, xã. huyện, xã. huyện, xã.
- Có 4 hệ thống - Có 4 cấp - Có 4 hệ - Có 4 hệ - Có 3 hệ thống cơ cơ quan gồm: hành chính
thống cơ quan thống cơ quan
quan gồm: Cơ quan Cơ quan quyền gồm: trung
gồm: Cơ quan gồm: Cơ quan
quyền lực nhà nước; lực nhà nước; ương, tỉnh,
quyền lực nhà quyền lực nhà
cơ quan hành chính; cơ quan hành huyện, xã.
nước; cơ quan nước; cơ quan cơ quan tư pháp chính; cơ quan - Có 4 hệ hành chính; hành chính; (chưa có viện kiểm
xét xử; cơ quan thống cơ cơ quan xét cơ quan xét sát) kiểm sát. quan gồm: xử; cơ quan xử; cơ quan Cơ quan kiểm sát. kiểm sát. quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính; cơ quan xét xử; cơ quan kiểm sát. Hệ thống cơ quan Hệ thống cơ Hệ thống cơ Hệ thống cơ Hệ thống cơ quyền lực gồm:
quan quyền lực quan quyền quan quyền quan quyền - Nghị viện là cơ gồm: lực gồm: lực gồm: lực gồm:
quan quyền lực nhà - Quốc hội: là - Quốc hội:
- Quốc hội là - Quốc hội; là nước cao nhất ở cơ quan quyền là cơ quan cơ quan cơ quan trung ương được lực nhà nước quyền lực
quyền lực nhà quyền lực nhà thành lập bằng con
cao nhất, là cơ nhà nước cao nước cao nước cao đường bầu cử theo
quan duy nhất nhất, là cơ nhất, là cơ nhất, là cơ nguyên tắc tự do, có quyền lập quan duy quan duy nhất quan thực dân chủ, bỏ phiếu hiến, lập pháp nhất có
có quyền lập hiện quyền kín. Nhiệm kỳ 3 được hình quyền lập hiến, lập lập hiến, lập năm.
thành bằng con hiến, lập pháp, thực pháp, thực
- HĐND: là cơ quan đường bầu cử. pháp, thực
hiện giám sát hiện giám sát
quyền lực nhà nước Nhiệm kỳ 4 hiện giám sát tối cao tối cao
ở địa phương (không năm tối cao HĐND, do HĐND, do có ở cấp huyện và - HĐND: là cơ HĐND, do
nhân dân bầu nhân dân bầu bộ) có nhiệm kì 3 quan quyền
nhân dân bầu ra. Nhiệm kỳ ra. Nhiệm kỳ năm. lực nhà nước ở ra. 5 năm. 5 năm.
địa phương do - HĐND: là - HĐND: là - HĐND: là nhân dân địa cơ quan cơ quan cơ quan
phương bầu ra quyền lực
quyền lực nhà quyền lực nhà và chịu trách nhà nước ở nước ở địa nước ở địa nhiệm trước địa phương phương do phương do nhân dân địa do nhân dân
nhân dân địa nhân dân địa phương. địa phương phương bầu phương bầu bầu ra chịu ra chịu trách ra chịu trách trách nhiệm nhiệm trước nhiệm trước trước nhân
nhân dân địa nhân dân địa dân địa phương và phương và phương và cấp trên. cấp trên. cấp trên. Hệ thống cơ quan Hệ thống cơ Hệ thống cơ Hệ thống cơ Hệ thống cơ hành chính gồm: quan hành quan hành quan hành quan hành
- Chủ tịch nước nằm chính bao gồm: chính bao chính bao chính bao trong cơ cấu của - Hội đồng gồm: gồm: gồm: Chính phủ. Chính phủ do - Hội đồng - Chính phủ. - Chính phủ. - Chính phủ là cơ
Quốc hội thành Bộ trưởng. - UBND các - UBND các quan hành chính cao lập. - UBND các cấp. cấp. nhất của nước - Các UBHC cấp. VNDCCH, do Nghị do HĐND viện thành lập và cung cấp thành chịu trách nhiệm lập. trước Nghị viện. Chính phủ gồm có: Chủ tịch nước, phó chủ tịch và nội các. Nội các có Thủ tướng, các bộ trưởng, thứ trưởng và có thể có phó thủ tướng. - Các UBHC ở địa phương: là các UBHC cấp bộ, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Do cấp bộ không có HĐND nên UBHC bộ do HĐND các tỉnh và thành phố bầu ra.
Hệ thống cơ quan tư Hệ thống cơ Hệ thống cơ Hệ thống cơ Hệ thống cơ pháp gồm: quan tư pháp
quan tư pháp quan tư pháp quan tư pháp + TAND tối cao gồm: gồm: gồm: gồm: + Toà phúc thẩm. + TAND tối + TAND tối + TAND tối + TAND tối + Toà đệ nhị cấp. cao. cao. cao. cao. + Toà sơ cấp. + Tòa án nhân + Toà án + Toà án nhân + Toà án - Chánh án TAND dân các cấp
nhân dân các dân các cấp. nhân dân các
tối cao do Chính phủ (trừ cấp xã) cấp. + Toà án quân cấp. bổ nhiệm. + Toà án quân + Toà án sự. + Toà án - Tổ chức hệ thống sự. quân sự. - Chịu trách quân sự. tòa án theo nguyên - Hội thẩm - Chịu trách
nhiệm và báo - Chịu trách tắc xét xử, có sự ngang quyền
nhiệm và báo cáo công tác nhiệm và báo tham gia của hội
với thẩm phán. cáo công tác trước cơ quan cáo công tác thẩm nhưng không - Chịu trách trước cơ
quyền lực nhà trước cơ quan được ngang với nhiệm và báo quan quyền nước cùng quyền lực nhà thẩm phán. cáo công tác lực nhà nước cấp. nước cùng - Toà án thực hiện trước cơ quan cùng cấp. cấp.
chức năng xét xử và quyền lực nhà công tố. nước cùng cấp. Hệ thống cơ Hệ thống cơ Hệ thống cơ Hệ thống cơ quan kiểm sát quan kiểm
quan kiểm sát quan kiểm sát gồm: sát gồm: gồm: gồm: + VKSND tối + VKSND + VKSND tối + VKSND tối cao. tối cao. cao. cao. + VKSND địa + VKSND + VKSND địa + VKSND địa phương. địa phương. phương. phương. + VKS quân + VKS quân + VKS quân + VKS quân sự. sự. sự. sự. - VKS chịu - VKS chịu - VKS chịu - VKS chịu
trách nhiệm và trách nhiệm trách nhiệm trách nhiệm báo cáo công và báo cáo và báo cáo và báo cáo tác trước cơ công tác
công tác trước công tác trước
quan quyền lực trước cơ cơ quan cơ quan
nhà nước cùng quan quyền
quyền lực nhà quyền lực nhà cấp.
lực nhà nước nước cùng nước cùng cùng cấp. cấp. cấp.
Câu 18. Bình luận về những điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013.
http://thanhvienlhk36pr.blogspot.com/2013/03/on-tap-mon-lich-su-nha-nuoc-va- phap.html