Câu hỏi phản biện - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Câu hỏi phản biện - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

PHẢN BIỆN
I.Nhận xét chung
- Câu trả lời khá đầy đủ nhưng bên cạnh đó có một số câu hỏi có câu
trả lời khá lạc đề và lan man.
II. Đánh giá chi tiết
1. Về nguyên nhân hình thành thế giới thứ 3
- Phản biện:
+ Những nguyên nhân được đưa ra chưa thực sự trọng tâm vào 2 chữ
“ hình thành” của thế giới thứ 3 mà đang nhấn mạnh nhiều hơn vào
yếu tố thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trở nên mạnh mẽ ở thế
giới thứ 3
=> Bổ sung:
- Nguồn gốc của Thế giới thứ ba cần được định vị sâu hơn trong
thế kỷ XIX, thế kỷ của sự bùng nổ ngọn lửa cách mạng, của
tăng trưởng và lan rộng của hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư
bản, và của sự mở rộng của các đế chế phương Tây. Tuy nhiên,
đối với các quốc gia mà thuộc thế giới thứ 3 thì đó là một thế kỷ
của bóc lột kinh tế, áp bức chính trị, và khuất phục văn hóa.
Điều này đã khiến những quốc gia này vùng lên hợp tác cùng
chống lại quyền lực đề quốc tạo tiền đề cho sự ra đời của thế
giới thứ 3
- Một cách chi tiết hơn thì Thế giới thứ ba bắt đầu được hình
thành vào tháng 4 năm 1955 tại hội nghị Á-Phi ở Bandung.
Bandung là nơi tập hợp lớn nhất và có ảnh hưởng nhất của các
nhà lãnh đạo Thế giới thứ ba trong thời kỳ thuộc địa, đã nắm bắt
được thời điểm của hy vọng và kỳ vọng lớn nhất trong cuộc đấu
tranh chống thực dân. Nguyên tắc trong hội nghị này nhấn mạnh
vào quyền tự quyết, hỗ trợ kinh tế lẫn nhau và tính trung lập.
Nội dung chính của cuộc họp ở Belgrade tập trung vào sự đoàn
kết của các quốc gia thành viên, cảnh báo các siêu cường chống
lại việc lan rộng Chiến tranh Lạnh sang Thế giới thứ ba, và kêu
gọi tất cả các quốc gia từ bỏ chiến tranh như một biện pháp giải
quyết tranh chấp quốc tế. Nói tóm lại, kết quả của cuộc hội nghị
này chính là sự ra đời chính thức của Thế giới thứ 3.
2.Về tác động của thế giới thứ 3 đến chiến tranh lạnh
- Phản biện:
+ Việc tranh giành ảnh hưởng thế giới thứ 3 giữa Mĩ và Liên Xô được
nêu ra là đúng chưa thể hiện rõ và đầy đủ cách Liên Xô và Mĩ tranh
giành ảnh hưởng như thế nào
=> Bổ sung:
Trong những năm 1970, vị thế của Liên Xô đã được đẩy mạnh đáng
kể bao gồm sự phát triển của lực lượng hải quân, không quân và vận
tải đường biển của Liên Xô, và khả năng hỗ trợ cho việc triển khai
sức mạnh quân sự ở các khu vực thuộc Thế giới thứ 3 .Ngoài ra Liên
Xô cũng đã mở rộng căn cứ tiền phương của Liên Xô ở Biển Đông
(Vịnh Cam Ranh), ở Caribe và ở Tây Nam Á. Sự mở rộng này một
phần là do sự gia tăng chi tiêu quân sự bên trong Liên Xô.
Các hoạt động tranh giành ảnh hưởng của Liên Xô ở Thế giới thứ
ba được tiến hành thông qua một hệ thống hiệu quả nhằm mở rộng và
bảo vệ cả những nước tiếp giáp ở Đông Âu và Afghanista. Hệ thống
này đã mở rộng vào những năm 1970 và kéo dài từ Cuba đến Việt
Nam, bao gồm cả nhiều quốc gia theo chủ nghĩa Mác-Lênin - đáng
chú ý là Angola, Ethiopia, Nam Yemen, Nicaragua và Afghanistan.
Trong những năm 1980, vai trò của Hoa Kỳ trong cuộc cạnh tranh
Thế giới thứ ba với Liên Xô đã được củng cố nhằm chủ yếu là chống
lại các sáng kiến của Liên Xô, vai trò này đã trở nên rõ ràng phát triển
hơn dưới Học thuyết Reagan.
Kết quả sau học thuyết này chính là sự gia tăng đáng kể trong sự
hỗ trợ của Hoa Kỳ đối với Mujahedeen ở Afghanistan, UNITA
Angola và Contras ở Nicaragua, cũng như tiếp tục hỗ trợ cho các
đồng minh của Hoa Kỳ đang phải đối mặt với các mối đe dọa cộng
sản ở Philippines, El Salvador và Hàn Quốc. Những nỗ lực này đã
thay đổi đáng kể cường độ và kết quả của cuộc cạnh tranh giữa Mỹ và
Liên Xô trong Thế giới thứ ba, mặc dù ở những mức độ khác nhau và
với những kết quả khác nhau. Tại Afghanistan, do Hoa Kỳ tăng cường
hỗ trợ quân sự cho Mujahedeen (hợp tác với Pakistan, Vương quốc
Anh và Trung Quốc), vị thế của Liên Xô ngày càng trở nên và suy
yếu, dẫn đến việc các lực lượng chiến đấu của Liên Xô phải rút lui
vào tháng Hai. 1989. Ở Grenada, một quốc gia cộng sản non trẻ đã bị
Hoa Kỳ đàn áp bằng vũ lực, và ở Ăng-gô-la, cuộc đấu tranh chống lại
chế độ cộng sản của da Costa đã chuyển hướng đáng kể theo hướng
có lợi cho Savimbi, do Hoa Kỳ. sự giúp đỡ.
Mặt khác, phe Sandinista cố thủ ở Nicaragua do sự kết hợp giữa
viện trợ mở rộng của Liên Xô và Cuba, và một số nguyên nhân góp
phần khác đã khiến phe Contra thất bại.
Cùng lúc với sự cạnh tranh này của Hoa Kỳ thì Liên Xô đã bắt đầu
xuất hiện tình trạnh trì trệ nền kinh tế nên đã đặt ra những ràng buộc
kinh tế chặt chẽ hơn đối với quốc gia này, và việc này đã dẫn đến sự
suy yếu của Liên Xô dưới thời Gorbachev do phải duy trì cả các chi
phí của đế chế Xô viết đã gây ra vào những năm 1970. Trong khi việc
mở rộng đế chế Xô Viết đến thế giới thứ 3 vẫn là một yêu sách ưu tiên
của quốc gia thì nguồn tài nguyên phục vụ cho các mục đích này đã
trở nên hạn chế hơn trong những năm 1980.
Tuy nhiên, Liên Xô vẫn duy trì sự hỗ trợ của họ đối với Cuba, Việt
Nam và Sandinistas, và thực sự đã tăng cường hỗ trợ cho Najibullah ở
Afghanistan, bất chấp việc rút quân của Liên Xô vào đầu năm 1980,
đây là một kết quả hoàn toàn trái ngược với hầu hết sự đồng thuận của
các chuyên gia Liên Xô ở Hoa Kỳ và Tây Âu trong thời điểm đó.
Sự cạnh tranh quyết liệt của Liên Xô trong Thế giới thứ ba đã yếu đi
đáng kể do một số yếu tố như: sự rạn nứt và sự xuất hiện của chủ
nghĩa đa nguyên chính trị ở Đông Âu; bất đồng sắc tộc gia tăng và tái
diễn và sự bất mãn ở các nước cộng hòa không thuộc Nga ở quê nhà;
và những ràng buộc bị áp đặt bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế thực tế
thấp, năng suất nhân tố giảm. Vậy nên Liên Xô đã chú trọng hơn vào
việc cải tổ mà không còn đủ sức cạnh tranh với Mĩ tại thế giới thứ 3.
3. Về tác động của thế giới thứ 3 đến chiến tranh lạnh
- Phản biện:
+ Đã có những liên hệ đến với tình hình thế giới hiện nay nhưng nhìn
chung vẫn chỉ nêu được sự tác động của các nước thế giới thứ 3 thời
trước đến thế giới hiện nay mà chưa nêu được tác động của việc xuất
hiện thế giới thứ 3 đến tình hình thế giới hiện nay
=> Bổ sung:
- Sự thành công của phong trào giải phóng dân tộc trong thời kì chiến
tranh lạnh cũng là do đóng góp tích cực của phong trào không liên kết
thuộc thế giới thứ 3. Vì vậy nếu không có những nước thuộc thế giới
thứ 3 này nói chung và phong trào không liên kết nói riêng thì có lẽ
giờ đây chủ nghĩa đế quốc cùng với chủ nghĩa thực dân đã hoành
hành và nhiều nước đang bị xâm chiếm lúc đó như Ả rập, Angeri,
Angola, Palextin và Cuba đã không giành được độc lập như ngày nay.
- Ngoài ra, Phong trào NAM của thế giới thứ 3 đã được phát triển như
một diễn đàn của các quốc gia độc lập để thảo luận về các chính sách
quốc tế chung và thúc đẩy hòa bình, hòa hợp và thịnh vượng trong trật
tự quốc tế:
+ Nó đả kích các chính sách phân biệt chủng tộc và tố cáo chính sách
nô dịch người da đen thường được gọi là chế độ Apartheid. Nó đưa ra
lời kêu gọi rõ ràng nhằm chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc từng
thịnh hành ở Châu Phi bằng nỗ lực chung của tất cả các nước với mục
tiêu khôi phục nhân quyền và tự do cơ bản của người da đen.
+ Nó đã mang đến cho thế giới một hướng đi mới nhằm giữ gìn hòa
bình quốc tế. Nó đã lên tiếng chống lại sự đàn áp trên thế giới, ủng hộ
bình đẳng, không liên minh với bất kỳ khối cường quốc nào từ đó
thúc đẩy trật tự thế giới công bằng.
+ Thế giới thứ 3 nói chung hay NAM nói riêng cũng đóng vai trò là
nền tảng để đàm phán tranh chấp một cách hòa bình giữa các nước
đang phát triển và các nước phát triển. Nó ủng hộ sự toàn vẹn lãnh thổ
và chủ quyền của các quốc gia và bảo vệ các quốc gia thuộc thế giới
thứ ba chống lại bá quyền phương Tây.
- Nói tóm lại, các nước thế giới thứ ba đã làm thay đổi bản chất và
phạm vi quan hệ quốc tế và làm cho chúng toàn cầu theo đúng nghĩa.
Họ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc chấm dứt chủ nghĩa
thực dân, chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa lưỡng cực, liên minh quân
sự, chiến tranh lạnh,..
3. Về việc phong trào không liên kết còn phù hợp với bối cảnh hiện
tại hay không
- Phản biện:
+ Đã nêu được quan điểm nhưng chưa đưa ra được minh chứng cụ thể
tại sao lại phù hợp mà mới chỉ là những lí do mang tính chung chung
=> Bổ sung:
- Phong trào không liên kết tuy thành lập vào năm những thập niên
50s, 60s của thế kỷ trước nhưng vẫn luôn cho thấy giá trị thiết thực
cao trong bối cảnh hiện nay. Vì chủ trương của phong trào gồm những
nguyên tắc mang ý nghĩa tôn trọng nền hòa bình, độc lập cơ bản của
các quốc gia nên dù qua thời gian và bối cảnh tình hình chính trị của
thế giới thay đổi như thế nào thì Phong trào không liên kết vẫn có vai
trò mang tính liên quan nhất định. Các nguyên tắc hoạt động của
Phong trào không liên kết bao gồm:
+ Tôn trọng quyền cơ bản của con người và tôn trọng mục đích và
nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
+ Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia.
+ Công nhận sự bình đẳng của tất cả chủng tộc và sự bình đẳng của
tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ.
+ Tránh can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.
+ Tôn trọng quyền tự vệ một cách đơn độc hoặc tập thể của mỗi quốc
gia, thể theo Hiến chương của Liên Hiệp Quốc.
+ Tránh các hành động hoặc đe dọa tấn công hoặc sử dụng vũ lực
nhằm chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc sự độc lập chính trị của
quốc gia khác.
+ Giải quyết tất cả các tranh chấp quốc tế bằng con đường hòa bình,
phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
+ Tăng cường sự hợp tác và đôi bên cùng có lợi.
+ Tôn trọng công lý và các nghĩa vụ quốc tế.
- Theo thời gian, NAM đã mở rộng tầm nhìn của mình để bao gồm
nhiều vấn đề ảnh hưởng đến các quốc gia thành viên, chẳng hạn như
phát triển kinh tế, quyền con người và bảo vệ môi trường. Tổ chức
này cũng đã đóng vai trò trong việc thúc đẩy giảm vũ khí và ngừng
lan truyền vũ khí hạt nhân và đã bảo vệ quyền lợi cho các nước đang
phát triển trong cộng đồng quốc tế.
- NAM có liên quan đáng kể trong thế giới ngày nay vì:
+ Trước đây NAM là một phong trào chính trị, nhưng bây giờ phong
trào này đang chuyển khái niệm chính trị sang kinh tế. Cũng đúng là
thế giới lưỡng cực đã kết thúc sau chiến tranh lạnh nhưng thế giới vẫn
có khoảng cách kinh tế giữa các quốc gia thuộc thế giới thứ nhất và
thế giới thứ ba. Vì vậy, chừng nào còn tồn tại khoảng cách kinh tế
giữa các quốc gia thì NAM vẫn tiếp tục phù hợp với trật tự thế giới
hiện tại này.
+ NAM tiếp tục giữ vai trò liên quan để duy trì hòa bình thế giới. Nó
đã đóng một vai trò tích cực để giữ vững các nguyên tắc, ý tưởng và
mục đích sáng lập của mình, chủ yếu nhằm mục đích thiết lập một thế
giới hòa bình và thịnh vượng
+ NAM với tư cách là một tổ chức quốc tế có liên quan do các nguyên
tắc của nó. Tư tưởng giữ gìn nền độc lập của mỗi quốc gia để bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền luôn phù hợp với nó.
+ Khoảng 2/3 quốc gia thuộc Liên hợp quốc và chiếm gần 55% dân số
thế giới, do đó NAM có vai trò quan trọng trong việc củng cố và hỗ
trợ cho Liên hợp quốc. Vì vậy, với tư cách là một trong những tổ chức
quốc tế lớn nhất, nó tiếp tục giữ vai trò là một nền tảng phù hợp
+Nhiều nước đang phát triển như Ấn Độ vẫn theo chính sách NAM.
Chính sách tránh thực dân, đế quốc tiếp tục có giá trị đối với tất cả các
nước nhỏ và đang phát triển
=> Phong trào liên kết vẫn còn phù hợp với tình hình hiện nay nhưng
là phù hợp với một số quốc gia cụ thể chứ không hoàn toàn phù hợp
cho tất cả mọi quốc gia.
| 1/7

Preview text:

PHẢN BIỆN I.Nhận xét chung
- Câu trả lời khá đầy đủ nhưng bên cạnh đó có một số câu hỏi có câu
trả lời khá lạc đề và lan man. II. Đánh giá chi tiết
1. Về nguyên nhân hình thành thế giới thứ 3 - Phản biện:
+ Những nguyên nhân được đưa ra chưa thực sự trọng tâm vào 2 chữ
“ hình thành” của thế giới thứ 3 mà đang nhấn mạnh nhiều hơn vào
yếu tố thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trở nên mạnh mẽ ở thế giới thứ 3 => Bổ sung:
- Nguồn gốc của Thế giới thứ ba cần được định vị sâu hơn trong
thế kỷ XIX, thế kỷ của sự bùng nổ ngọn lửa cách mạng, của
tăng trưởng và lan rộng của hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư
bản, và của sự mở rộng của các đế chế phương Tây. Tuy nhiên,
đối với các quốc gia mà thuộc thế giới thứ 3 thì đó là một thế kỷ
của bóc lột kinh tế, áp bức chính trị, và khuất phục văn hóa.
Điều này đã khiến những quốc gia này vùng lên hợp tác cùng
chống lại quyền lực đề quốc tạo tiền đề cho sự ra đời của thế giới thứ 3
- Một cách chi tiết hơn thì Thế giới thứ ba bắt đầu được hình
thành vào tháng 4 năm 1955 tại hội nghị Á-Phi ở Bandung.
Bandung là nơi tập hợp lớn nhất và có ảnh hưởng nhất của các
nhà lãnh đạo Thế giới thứ ba trong thời kỳ thuộc địa, đã nắm bắt
được thời điểm của hy vọng và kỳ vọng lớn nhất trong cuộc đấu
tranh chống thực dân. Nguyên tắc trong hội nghị này nhấn mạnh
vào quyền tự quyết, hỗ trợ kinh tế lẫn nhau và tính trung lập.
Nội dung chính của cuộc họp ở Belgrade tập trung vào sự đoàn
kết của các quốc gia thành viên, cảnh báo các siêu cường chống
lại việc lan rộng Chiến tranh Lạnh sang Thế giới thứ ba, và kêu
gọi tất cả các quốc gia từ bỏ chiến tranh như một biện pháp giải
quyết tranh chấp quốc tế. Nói tóm lại, kết quả của cuộc hội nghị
này chính là sự ra đời chính thức của Thế giới thứ 3.
2.Về tác động của thế giới thứ 3 đến chiến tranh lạnh - Phản biện:
+ Việc tranh giành ảnh hưởng thế giới thứ 3 giữa Mĩ và Liên Xô được
nêu ra là đúng chưa thể hiện rõ và đầy đủ cách Liên Xô và Mĩ tranh
giành ảnh hưởng như thế nào => Bổ sung:
Trong những năm 1970, vị thế của Liên Xô đã được đẩy mạnh đáng
kể bao gồm sự phát triển của lực lượng hải quân, không quân và vận
tải đường biển của Liên Xô, và khả năng hỗ trợ cho việc triển khai
sức mạnh quân sự ở các khu vực thuộc Thế giới thứ 3 .Ngoài ra Liên
Xô cũng đã mở rộng căn cứ tiền phương của Liên Xô ở Biển Đông
(Vịnh Cam Ranh), ở Caribe và ở Tây Nam Á. Sự mở rộng này một
phần là do sự gia tăng chi tiêu quân sự bên trong Liên Xô.
Các hoạt động tranh giành ảnh hưởng của Liên Xô ở Thế giới thứ
ba được tiến hành thông qua một hệ thống hiệu quả nhằm mở rộng và
bảo vệ cả những nước tiếp giáp ở Đông Âu và Afghanista. Hệ thống
này đã mở rộng vào những năm 1970 và kéo dài từ Cuba đến Việt
Nam, bao gồm cả nhiều quốc gia theo chủ nghĩa Mác-Lênin - đáng
chú ý là Angola, Ethiopia, Nam Yemen, Nicaragua và Afghanistan.
Trong những năm 1980, vai trò của Hoa Kỳ trong cuộc cạnh tranh
Thế giới thứ ba với Liên Xô đã được củng cố nhằm chủ yếu là chống
lại các sáng kiến của Liên Xô, vai trò này đã trở nên rõ ràng phát triển
hơn dưới Học thuyết Reagan.
Kết quả sau học thuyết này chính là sự gia tăng đáng kể trong sự
hỗ trợ của Hoa Kỳ đối với Mujahedeen ở Afghanistan, UNITA ở
Angola và Contras ở Nicaragua, cũng như tiếp tục hỗ trợ cho các
đồng minh của Hoa Kỳ đang phải đối mặt với các mối đe dọa cộng
sản ở Philippines, El Salvador và Hàn Quốc. Những nỗ lực này đã
thay đổi đáng kể cường độ và kết quả của cuộc cạnh tranh giữa Mỹ và
Liên Xô trong Thế giới thứ ba, mặc dù ở những mức độ khác nhau và
với những kết quả khác nhau. Tại Afghanistan, do Hoa Kỳ tăng cường
hỗ trợ quân sự cho Mujahedeen (hợp tác với Pakistan, Vương quốc
Anh và Trung Quốc), vị thế của Liên Xô ngày càng trở nên và suy
yếu, dẫn đến việc các lực lượng chiến đấu của Liên Xô phải rút lui
vào tháng Hai. 1989. Ở Grenada, một quốc gia cộng sản non trẻ đã bị
Hoa Kỳ đàn áp bằng vũ lực, và ở Ăng-gô-la, cuộc đấu tranh chống lại
chế độ cộng sản của da Costa đã chuyển hướng đáng kể theo hướng
có lợi cho Savimbi, do Hoa Kỳ. sự giúp đỡ.
Mặt khác, phe Sandinista cố thủ ở Nicaragua do sự kết hợp giữa
viện trợ mở rộng của Liên Xô và Cuba, và một số nguyên nhân góp
phần khác đã khiến phe Contra thất bại.
Cùng lúc với sự cạnh tranh này của Hoa Kỳ thì Liên Xô đã bắt đầu
xuất hiện tình trạnh trì trệ nền kinh tế nên đã đặt ra những ràng buộc
kinh tế chặt chẽ hơn đối với quốc gia này, và việc này đã dẫn đến sự
suy yếu của Liên Xô dưới thời Gorbachev do phải duy trì cả các chi
phí của đế chế Xô viết đã gây ra vào những năm 1970. Trong khi việc
mở rộng đế chế Xô Viết đến thế giới thứ 3 vẫn là một yêu sách ưu tiên
của quốc gia thì nguồn tài nguyên phục vụ cho các mục đích này đã
trở nên hạn chế hơn trong những năm 1980.
Tuy nhiên, Liên Xô vẫn duy trì sự hỗ trợ của họ đối với Cuba, Việt
Nam và Sandinistas, và thực sự đã tăng cường hỗ trợ cho Najibullah ở
Afghanistan, bất chấp việc rút quân của Liên Xô vào đầu năm 1980,
đây là một kết quả hoàn toàn trái ngược với hầu hết sự đồng thuận của
các chuyên gia Liên Xô ở Hoa Kỳ và Tây Âu trong thời điểm đó.
Sự cạnh tranh quyết liệt của Liên Xô trong Thế giới thứ ba đã yếu đi
đáng kể do một số yếu tố như: sự rạn nứt và sự xuất hiện của chủ
nghĩa đa nguyên chính trị ở Đông Âu; bất đồng sắc tộc gia tăng và tái
diễn và sự bất mãn ở các nước cộng hòa không thuộc Nga ở quê nhà;
và những ràng buộc bị áp đặt bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế thực tế
thấp, năng suất nhân tố giảm. Vậy nên Liên Xô đã chú trọng hơn vào
việc cải tổ mà không còn đủ sức cạnh tranh với Mĩ tại thế giới thứ 3.
3. Về tác động của thế giới thứ 3 đến chiến tranh lạnh - Phản biện:
+ Đã có những liên hệ đến với tình hình thế giới hiện nay nhưng nhìn
chung vẫn chỉ nêu được sự tác động của các nước thế giới thứ 3 thời
trước đến thế giới hiện nay mà chưa nêu được tác động của việc xuất
hiện thế giới thứ 3 đến tình hình thế giới hiện nay => Bổ sung:
- Sự thành công của phong trào giải phóng dân tộc trong thời kì chiến
tranh lạnh cũng là do đóng góp tích cực của phong trào không liên kết
thuộc thế giới thứ 3. Vì vậy nếu không có những nước thuộc thế giới
thứ 3 này nói chung và phong trào không liên kết nói riêng thì có lẽ
giờ đây chủ nghĩa đế quốc cùng với chủ nghĩa thực dân đã hoành
hành và nhiều nước đang bị xâm chiếm lúc đó như Ả rập, Angeri,
Angola, Palextin và Cuba đã không giành được độc lập như ngày nay.
- Ngoài ra, Phong trào NAM của thế giới thứ 3 đã được phát triển như
một diễn đàn của các quốc gia độc lập để thảo luận về các chính sách
quốc tế chung và thúc đẩy hòa bình, hòa hợp và thịnh vượng trong trật tự quốc tế:
+ Nó đả kích các chính sách phân biệt chủng tộc và tố cáo chính sách
nô dịch người da đen thường được gọi là chế độ Apartheid. Nó đưa ra
lời kêu gọi rõ ràng nhằm chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc từng
thịnh hành ở Châu Phi bằng nỗ lực chung của tất cả các nước với mục
tiêu khôi phục nhân quyền và tự do cơ bản của người da đen.
+ Nó đã mang đến cho thế giới một hướng đi mới nhằm giữ gìn hòa
bình quốc tế. Nó đã lên tiếng chống lại sự đàn áp trên thế giới, ủng hộ
bình đẳng, không liên minh với bất kỳ khối cường quốc nào từ đó
thúc đẩy trật tự thế giới công bằng.
+ Thế giới thứ 3 nói chung hay NAM nói riêng cũng đóng vai trò là
nền tảng để đàm phán tranh chấp một cách hòa bình giữa các nước
đang phát triển và các nước phát triển. Nó ủng hộ sự toàn vẹn lãnh thổ
và chủ quyền của các quốc gia và bảo vệ các quốc gia thuộc thế giới
thứ ba chống lại bá quyền phương Tây.
- Nói tóm lại, các nước thế giới thứ ba đã làm thay đổi bản chất và
phạm vi quan hệ quốc tế và làm cho chúng toàn cầu theo đúng nghĩa.
Họ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc chấm dứt chủ nghĩa
thực dân, chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa lưỡng cực, liên minh quân sự, chiến tranh lạnh,..
3. Về việc phong trào không liên kết còn phù hợp với bối cảnh hiện tại hay không - Phản biện:
+ Đã nêu được quan điểm nhưng chưa đưa ra được minh chứng cụ thể
tại sao lại phù hợp mà mới chỉ là những lí do mang tính chung chung => Bổ sung:
- Phong trào không liên kết tuy thành lập vào năm những thập niên
50s, 60s của thế kỷ trước nhưng vẫn luôn cho thấy giá trị thiết thực
cao trong bối cảnh hiện nay. Vì chủ trương của phong trào gồm những
nguyên tắc mang ý nghĩa tôn trọng nền hòa bình, độc lập cơ bản của
các quốc gia nên dù qua thời gian và bối cảnh tình hình chính trị của
thế giới thay đổi như thế nào thì Phong trào không liên kết vẫn có vai
trò mang tính liên quan nhất định. Các nguyên tắc hoạt động của
Phong trào không liên kết bao gồm:
+ Tôn trọng quyền cơ bản của con người và tôn trọng mục đích và
nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
+ Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia.
+ Công nhận sự bình đẳng của tất cả chủng tộc và sự bình đẳng của
tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ.
+ Tránh can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.
+ Tôn trọng quyền tự vệ một cách đơn độc hoặc tập thể của mỗi quốc
gia, thể theo Hiến chương của Liên Hiệp Quốc.
+ Tránh các hành động hoặc đe dọa tấn công hoặc sử dụng vũ lực
nhằm chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc sự độc lập chính trị của quốc gia khác.
+ Giải quyết tất cả các tranh chấp quốc tế bằng con đường hòa bình,
phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
+ Tăng cường sự hợp tác và đôi bên cùng có lợi.
+ Tôn trọng công lý và các nghĩa vụ quốc tế.
- Theo thời gian, NAM đã mở rộng tầm nhìn của mình để bao gồm
nhiều vấn đề ảnh hưởng đến các quốc gia thành viên, chẳng hạn như
phát triển kinh tế, quyền con người và bảo vệ môi trường. Tổ chức
này cũng đã đóng vai trò trong việc thúc đẩy giảm vũ khí và ngừng
lan truyền vũ khí hạt nhân và đã bảo vệ quyền lợi cho các nước đang
phát triển trong cộng đồng quốc tế.
- NAM có liên quan đáng kể trong thế giới ngày nay vì:
+ Trước đây NAM là một phong trào chính trị, nhưng bây giờ phong
trào này đang chuyển khái niệm chính trị sang kinh tế. Cũng đúng là
thế giới lưỡng cực đã kết thúc sau chiến tranh lạnh nhưng thế giới vẫn
có khoảng cách kinh tế giữa các quốc gia thuộc thế giới thứ nhất và
thế giới thứ ba. Vì vậy, chừng nào còn tồn tại khoảng cách kinh tế
giữa các quốc gia thì NAM vẫn tiếp tục phù hợp với trật tự thế giới hiện tại này.
+ NAM tiếp tục giữ vai trò liên quan để duy trì hòa bình thế giới. Nó
đã đóng một vai trò tích cực để giữ vững các nguyên tắc, ý tưởng và
mục đích sáng lập của mình, chủ yếu nhằm mục đích thiết lập một thế
giới hòa bình và thịnh vượng
+ NAM với tư cách là một tổ chức quốc tế có liên quan do các nguyên
tắc của nó. Tư tưởng giữ gìn nền độc lập của mỗi quốc gia để bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền luôn phù hợp với nó.
+ Khoảng 2/3 quốc gia thuộc Liên hợp quốc và chiếm gần 55% dân số
thế giới, do đó NAM có vai trò quan trọng trong việc củng cố và hỗ
trợ cho Liên hợp quốc. Vì vậy, với tư cách là một trong những tổ chức
quốc tế lớn nhất, nó tiếp tục giữ vai trò là một nền tảng phù hợp
+Nhiều nước đang phát triển như Ấn Độ vẫn theo chính sách NAM.
Chính sách tránh thực dân, đế quốc tiếp tục có giá trị đối với tất cả các
nước nhỏ và đang phát triển
=> Phong trào liên kết vẫn còn phù hợp với tình hình hiện nay nhưng
là phù hợp với một số quốc gia cụ thể chứ không hoàn toàn phù hợp
cho tất cả mọi quốc gia.