Câu hỏi tự luận chương 1 - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
11 trang 11 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Câu hỏi tự luận chương 1 - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

142 71 lượt tải Tải xuống
CÂU HỎI TỰ LUẬN CHƯƠNG 1
Câu 1. Triết học là gì ? Vấn đề cơ bản của triết học. Phương pháp nhận thức của thế giới triết
học.
1.Khái niệm triết học
- Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, xét cho cùng, đều bị các quan hệ kinh
tế của xã hội quy định. Dù ở xã hội nào, triết học bao giờ cũng gồm hai yếu tố:
+ Yếu tố nhận thức – sự hiểu biết về thế giới xung quanh, trong đó có con người
+ Yếu tố nhận định – đánh giá về mặt đạo lý
2.Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ănghen, vấn đề bản của triết học vấn đề về mối quan hệ của duy với tồn tại,
của ý thức đối với vật chất. Việc giải quyết vấn đề bàn của triết học sở điểm xuất
phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt:
Mặt thứ nhất trlời câu hỏi: giữa vật chất ý thức cái nào trước cái nào sau cái nào
quyết định cái nào? Nói cách khác, giữa vật chất ý thức cái nào tính thứ nhất, cái nào
tính thứ hai.
Có hai cách trả lời khác nhau dẫn đến hình thành hai khuynh hướng triết học đối lập nhau.
+ Những quan điểm triết học cho vật chất tính thứ nhất, ý thức tính thứ hai hợp thành
chủ nghĩa duy vật. Trong lịch sử tưởng triết học ba hình thức bản của chủ nghĩa duy
vật:
1) Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ thời cổ đại.
2) Chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thế kỷ XVII- XVII.
3) Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Ngược lại, những quan điểm triết học cho ý thức tính thứ nhất, vật chất tính thứ
hai, hợp thành chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm lại được thể hiện qua hai trào lưu chính:
Chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan .
- Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
+ Các nhà triết học duy vật cho rằng, con người khả năng nhận thức thế giới. Song, do
mặt thứ nhất quy định, nên sự nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người.
+ Một số nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận con người khả năng nhận thức thế giới
nhưng sự nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư duy.
+ Một số nhà triết học duy tâm khác như Hium, Canto lại phủ nhận khả năng nhận thức thế
giới của con người. Đây những người theo “bất khả tri luận" ( thuyết không thể biết).
Khuynh hướng này không thừa nhận vai trò của nhận thức khoa học trong đời sống xã hội.
3. Phương pháp nhận thức của thế giới triết học
Triết học nghiên cứu những quy luật chung nhất của tồn tại duy, giúp cho việc nhận
thức và hoạt động cải tạo thế giới. Triết học Mác dựa vào những thành quả của các khoa học cụ
thể, nhưng không lấy phương pháp của các ngành khoa học cụ thể để làm phương pháp của
mình. Phương pháp nhận thức chung nhất, đúng đắn nhất của triết học phương pháp biện
chứng duy vật. Phương pháp biện chứng duy vật đối lập với phương pháp siêu hình.
Phương pháp biện chứng và siêu hình xuất hiện từ rất sớm, từ thời cổ đại. Phương pháp biện
chứng phương pháp nhận thức sự vật hiện tượng trong sự liên hệ, tác động qua lại, vận
động phát triển. Ngược lại phương pháp siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng trong sự tách
rời, không vận động không phát triển. Cuộc đầu tranh giữa phương pháp biện chứng
phương pháp siêu hình cũng là một nội dung cơ bàn của lịch sử triết học.
Phương pháp biện chứng duy vật xuất phát từ thời cổ đại ( biện chứng duy vật thô sơ,
mộc mạc, tự phát). Chỉ đến khi triết học Mác ra đời, phương pháp này thực sự trở thành phương
pháp triết học khoa học. Phương pháp này giúp con người khả năng nhận thức một cách đúng
đắn, khách quan về giới tự nhiên, hội duy giúp con người đạt được hiệu quả trong
hoạt động thực tiễn.
Câu 2. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác?
1. Điều kiện kinh tế-xã hội
Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện và lan
rộng ra các nước tây Âu tiên tiến không những làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
trở thành hệ thống kinh tế thống trị, tính hơn hằn của chế độ bản so với chế độ phong kiến
thể hiện nét, còn làm thay đổi sâu sắc cục diện hội trước hết sự hình thành
phát triển của giai cấp vô sản.
Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa ngày càng thể hiện sâu sắc và gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữasản vớisản,
vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư sản không còn đóng
vai trò là giai cấp cách mạng trong xã hội.
Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, giai cấp vô sản đã xuất hiện với tư cách là một lực lượng
chính trị-xã hội độc lập và đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình để tiến hành đấu tranh
tự giác chống giai cấp tư sản.
2. Tiền để lý luận:
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng duy tâm
và tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học để xây dựng nên phép biện chứng duy
vật và mở rộng nhận thức sang cả xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị
và triệt để.
Kinh tế chính trị học Anh mà đặc biệt làluận về kinh tế hàng hóa; học thuyết giá trị thặng
dư là cơ sở của hệ thống kinh tế tư bàn chủ nghĩa. Đó còn là việc thừa nhận các quy luật khách
quan của đời sống kinh tế xã hội, đặt quy luật giá trị làmsở cho toàn bộ hệ thống kinh tế
rằng, do đó chủ nghĩa tư bàn là vĩnh cửu.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những dự đoán thiên tài trước hết lịch sử loài
người là một quá trình tiến hóa không ngừng, chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước; rằng sự xuất
hiện các giai cấp đối kháng trong hội kết quả của sự chiếm đoạt; đồng thời phê phán chủ
nghĩa tư bảnđó con người bị bóc lột lừa bịp, chính phủ không quan tâm tới dân nghèo.
Khăng định hội hội chủ nghĩa hội công nghiệp mà trong đó, công nông nghiệp đều
được khuyến khích, đa số người lao động được bảo đảm những điều kiện vật chất cho cuộc
sống v.v là cơ sở để chủ nghĩa Mác phát triển thành lý luận cải tạo xã hội.
3. Tiền đề khoa học tự nhiên.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh
quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học đề tư duy biện chứng trở thành khoa học.
- Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát triển
của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động của chúng.
Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc hình thức giữa động vật thực
vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; đặt sở cho sự phát triển của toàn bộ nền sinh
học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa thực vật với động vật.
- Thuyết tiến hoá đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật không có
sự liên hệ; bất biến; do Thượng Đế tạo ra đem lại cho sinh học sở khoa học, xác định
tính biến dị di truyền giữa các loài. Chủ nghĩa Mác ra đời một tất yếu lịch sử. Sự ra đời
của nó không những do nhu cầu nhu cầu khách quan của thực tiến xã hội lúc bầy giờ, do sự kế
thừa những thành tựu trong luận được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học,
còn do bản thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền để khách quan cho sự ra đời của
nó. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác “cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân, những
công cụ nhận thức đại" Đảng Cộng sản Việt Nam “kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin,
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng".
Câu 3. Chủ nghĩa Mác nin là gì? Chủ nghĩa Mác Lê nin được cấu thành từ những bộ
phận luận bản nào? Chức năng mối quan hệ bản của mỗi bộ phân đó trong chủ
nghĩa Mác – Lê nin?
1.Khái niệm “Chủ nghĩa Mác – Lênin"
Chủ nghĩa Mác - Lênin là:
+ Hệ thống quan điểm học thuyết khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp sàn, giải
phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột, tiến tới thực hiện sự nghiệp giải phóng
con người (xét
từ góc độ đối tượng của nó).
+ Hệ thống quan điểm học thuyết đó được sáng lập bởi c. Mác, Ph. Ăngghen sự phát
triển của V.I. Lênin (xét từ góc độ chủ thể sáng tạo và phát triển nó).
+ Hệ thống quan điểm học thuyết đó được hình thành phát triến trên sở kế thừa
những giá trị tưởng tiến bộ của nhân loại tổng kết thực tiễn thời đại (xét từ góc độ mối
quan hệ giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại và với thực tiễn).
+ Hệ thống quan điểmhọc thuyết đó đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận phổ
biến cho sự sáng tạo trong nhận thức khoa học (nghiên cứu phát hiện và sáng tạo ra cái mới)
thực tiễn cách mạng (thực tiễn cải biến cái cũ, sáng tạo cái mới).
(Xét từ góc độ mối quan hệ của chủ nghĩa Mác - Lênin với hoạt động nhận thức khoa học
thực tiễn cách mạng nói chung: muốn thực hiện sự sáng tạo trong hoạt động nhận thức thực
tiễn thì nhất định cần phải vận dụng thế giới quan, phương pháp luận đó).
2.Chủ nghĩa Mác - Lênin có ba bộ phận lý luận cơ bản hợp thành, đó là:
+ Triết học
+ Kinh tế chính trị học
+ Chủ nghĩa xã hội khoa học.
3.Chức năng và môi quan hệ cơ bản của môi bộ phận lý luận trong chủ nghĩa Mác - Lênin:
- Triết học là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của
tự nhiên, hội duy; xây dựng thế giới quan phương pháp luận chung nhất của nhận
thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
- Trên sở thế giới quan phương pháp luận triết học, Kinh tế chính trị Mác- Lênin
nghiên cứu những quy luật kinh tế của hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình
ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của
phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp
luận triết họckinh tế chính trị Mác - Lênin vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật
khách quan của quá trình cách mạng hội chủ nghĩa - bước chuyền biến lịch sử từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Ba bộ phận luận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin đối tượng nghiên cứu cụ thể khác
nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống luận khoa học thống nhất - đó khoa học về sự
nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột
tiến tới giải phóng con người.
Câu 4. Tại sao chúng ta gọi chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa Mác-Lênin?
Sau khi C.Mác Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin là người bảo vệ, bổ sung, phát triển
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Lênin hình thành phát triển trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm, xét lại và giáo điều; là sự tiếp tục và là giai đoạn mới trong lịch
sử chủ nghĩa Mác để giải quyết những vấn đề cách mạng sản trong giai đoạn chủ nghĩa để
quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1. Nhu cầu bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác.
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa bản đã bước sang giai đoạn chủ
nghĩa để quốc. Bản chất bóc lột thống trị của chủ nghĩa bản ngày càng tinh vi, tàn bạo
hơn; mâu thuẫn đặc thù vốn của chủ nghĩa bàn ngày càng bộc lộ sâu sắc điển hình
mẫu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Những năm cuối thế kỷ XIX, bước sang thể kỷ XX, những phát minh vật mang tính
vạch thời đại, làm đảo lộn căn bản quan niệm ngàn đời về vật chất. Đây cơ hội để chủ nghĩa
duy tâm tấn công chủ nghĩa Mác; một số nhà khoa học tự nhiên rơi vào tình trạng khủng hoàng
về thế giới quan, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức hành động của phong trào cách
mạng.
Chủ nghĩa Mác đă được truyền vào nước Nga; nhưng những trào lưu như chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại v.v đã nhân danh đổi mới chủ nghĩa
Mác để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa đó.
Trong bối cảnh như vậy, nhu cầu khách quan về việc khái quát những thành tựu khoa học tự
nhiên để rút ra những kết luận về thế giới quan và phương pháp luận triết học cho các khoa học
chuyên ngành; đấu tranh chống lại những trào lưu tưởng phản động phát triển chủ nghĩa
Mác đã được thực tiễn nước Nga đặt ra. Hoạt động lý luận của V.I.Lênin nhằm đáp ứng nhu cầu
lịch sử đó.
2.Quá trình V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác được chia thành ba thời kỳ, tương
ứng với ba nhu cầu khách quan của thực tiễn nước Nga.
Trong thời kỳ 1893-1907, V.I.Lênin tập trung phê phán tính duy tâm của phái “dân túy" về
những vấn đề lịch sử-xã hội chỉ ra rằng, qua việc xóa nhòa ranh giới giữa phép biện chứng
duy vật với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, phái dân túy đã xuyên tạc chủ nghĩa Mác.
V.I.Lênin cũng phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp của
giai cấp sản trước khi giành được chính quyền; trong đó các vấn đề về đấu tranh kinh tế,
chính trị, tư tưởng được đề cập rõ nét; ông cũng phát triển chủ nghĩa Mác về những vấn đề như
phương pháp cách mạng; nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan; vai trò của quần chúng nhân
dân; của các đảng chính trị trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Trong thời kỳ 1907-1917, V.I.Lênin viết tác phầm Chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán (1909)- tác phẩm khái quát từ góc độ triết học những thành tựu mới nhất của
khoa học tự nhiên để bảo vệ tiếp tục phát triền chủ nghĩa Mác; phê phán triết học duy tâm
chủ quan đang chống lại chủ nghĩa duy vật nói chung chủ nghĩa duy vật biện chứng nói
riêng. Trong tác phẩm, vấn đề cơ bàn của triết học và phạm trù vật chất có ý nghĩa hệ tư tưởng
phương pháp luận hết sức to lớn. Bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác về nhận thức,
V.I.Lênin cũng chi ra sự thống nhất bên trong, không tách rời của chủ nghĩa duy vật biện chứng
với chủ nghĩa duy vật lịch sử; sự thống nhất của những luận giải duy vật về tự nhiên, về xã hội,
về con người và tư duy của nó. Trong tác phẩm Bút ký triết học (1914-1916), V.I.Lênin tiếp tục
khai thác hạt nhân hợp của triết học Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng duy
vật, đặc biệt luận về sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Năm 1917, V.I.Lênin viết tác
phẩm Nhà nước và cách mạng bàn về vấn đề nhà nước chuyên chính vô sản, bạo lực cách mạng
và vai trò của đàng công nhân và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; đưa ra tư tưởng về nhà
nước Xôviết, coi đó là hình thức của chuyên chính vô sản; vạch ra những nhiệm vụ chính trị và
kinh tế mà nhà nước đó phải thực hiện và chỉ ra những nguồn gốc vật chất của chủ nghĩa xã hội
được tạo ra do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Thời kỳ 1917-1924. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười (Nga) năm 1917
mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiện này làm nẩy sinh những
nhu cầu mới về luận sinh thời C.Mác Ph.Ăngghen chưa thế hiện; V.I.Lênin tiếp tục
tổng kết thực tiễn đề đáp ứng nhu cầu đó bằng các tác phẩm các nội dung chính của chúng
cho rằng việc thực hiện kiểm tra, kiểm soát toàn dân; tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa là những
điều kiện cần thiết để chuyển sang xây dựng "chủ nghĩa xã hội kế hoạch". V.I.Lênin cũng chi ra
rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở của công cuộc xây dựng kinh tế; xây dựng nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Ông nhấn mạnh tính lâu dài của thời kỳ quá độ, không tránh khỏi phải đi qua
những nấc thang trên con đường đi lên chủ nghĩa hội. V.I.Lênin khẳng định vai trò kinh tế
hàng hóa trong điều kiện nền sản xuất hàng hoá nhỏ đang chiếm ưu thể trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa hội. Nhận thấy sự quan liêu đã bắt đầu xuất hiện trong nhà nước công nông
non trẻ, ông đề nghị những người cộng sàn cần thường xuyên chống ba kẻ thù chính là sự kiêu
ngạo, ít học tham nhũng. V.I.Lênin cũng chú ý đến việc chống chủ nghĩa giáo điều khi vận
dụng chủ nghĩa Mác nếu không muốn lạc hậu so với cuộc sống.
Di sản kinh điển của V.I.Lênin trở thành sở cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận
thực tiễncủa các đảng cộng sản. Thiên tài về luận thực tiễn của V.I. Lênin trong việc kế
thừa, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác được những người cộng sản đánh giá cao. Họ
đặt tên cho chủ nghĩa của mình là chủ nghĩa Mác-Lênin
Câu 5. Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện và ý nghĩa
của nó đối với việc phát triển triết học Mác - Lênin ở thời đại ngày nay là gì?
1. Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa nhận một
cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng này đã đưa triết học nhân loại từ thời
kỳ chủ yếu “giải thích thế giới" sang thời kỳ không chỉ “giải thích thế giới", mà còn “cải tạo
thế giới". ràng là, với sự ra đời của triết học Mác, lịch sử triết học của nhân loại đã chuyển
sang một thời kỳ mới về chất. Thực chất của cuộc cách mạng này được thể hiện những điểm
cơ bản sau:
Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trong
lịch sử triết học trước đó, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu không thể tách rời giữa chủ
nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng - đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trong triết học của C.Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu với phương pháp
biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu bằng phương pháp biện chứng, còn
phương pháp biện chứng được ông đặt trên nền chủ nghĩa duy vật. Đồng thời, cả chủ nghĩa duy
vật lẫn phương pháp biện chứng đều được C.Mác phát triển lên một trình độ mới về chất. Do
vậy, sự thống nhất hữu giữa chủ nghĩa duy vật phương pháp biện chứng trong triết học
Mác hơn hắn về chất so với sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật phương pháp biện chứng
trong triểt học Hy Lạp cổ đại. Vì vậy, đây chính là bước phát triển cách mạng trong triết học do
C.Mác thực hiện.
Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử biểu hiện đại nhất của cuộc cách mạng
trong triết học do C.Mác thực hiện.
Về bản chất, chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác - quan niệm duy vật về lịch sử - cũng
chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng thể hiện được tính đặc thù của lĩnh vực lịch sửlĩnh vực
hoạt động của con người. Chính chủ nghĩa duy vật lịch sử chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
trở thành sở thế giới quan và phương pháp luận cho C.Mác nghiên cứu kinh tế, phát hiện ra
học thuyết giá trị thặng dư, hiểu được sự phát sinh, phát triển, diệt vong tất yếu của hình thái
kinh tế - hội bản chủ nghĩa. Do vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử biểu hiện
đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác
đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người. Trên cơ sở
đó, triết học của ông đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết học thường tập trung chủ yếu vào giải thích thế
giới, ít chú ý tới cải tạo thế giới. Cũng đã một số nhà triết học muốn cải tạo thế giới
nhưng lại bằng con đường không tưởng - dựa vào các lực lượng siêu nhiên, bằng “khai sáng",
mở mang dân trí, bằng con đường giáo dục đạo đức,v.v. Có thể nói, không một nhà triết học nào
trước C.Mác hiểu được thực tiễn và vai trò của nó đối với cải tạo thế giới.
Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới,quan trọng hơn là cải
tạo thế giới. Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác đã chỉ ra rằng, chỉthể cải tạo được
thế giới thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào
luận nhận thức nói riêng, vào triết học nói chung, C.Mác đã làm cho triết học của ông hơn hằn
về chất so với toàn bộ triết học trước đó. Trong triết học Mác, hoạt động thực tiễn của giai cấp
sản được soi đường, dẫndắt, chỉ đạo, định hướng bởi chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Ngược lại, hoạt động thực tiễn của giai cấp sản lại sở, động lực
cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứngchủ nghĩa duy vật lịch sử. Giữa triết học
Mác với hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản có sự thống nhất hữu cơ với nhau. Do vậy, triết
học Mác đã trở thành công cụ nhận thức cải tạo thế giới của giai cấp sản của toàn thể
nhân loại tiến bộ.
Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa duy vật lịch sử,
C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu đằng sau các khoa học khác,
hoặc đối lập với chúng. Quan hệ giữa triết họcc với các khoa học cụ thể quan hệ biện
chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các liệu,
dữ kiện, thông số khoa học để triết học Mác khái quát. Ngay sự ra đời của triết học Mác cũng
không thể thiếu những tiền đề khoa học tự nhiên. Chính những thành tựu của khoa học tự nhiên
nửa đầu thế kỷ XIX đã làm bộc lộ những hạn chế, sự bất lực của phương pháp siêu hình trong
nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp sở khoa học cho sự ra đời của phương pháp biện
chứng. Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương
pháp luận chung nhất. Thực tiễn phát triển mạnh mẽ của các khoa học cụ thể càng làm tăng vai
trò thể giới quan, phương pháp luận của triết học Mác. Như vậy, sự ra đời của triết học Mác đã
chấm dứt mâu thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện ý nghĩa luận thực tiễn vô cùng
to lớn đối với thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm cho chủ nghĩa xã hội không tưởng
cơ sở để trở thành khoa học. Cuộc cách mạng này cũng làm cho triết học thay đổi cả về vai trò,
chức năng nhiệm vụ. Triết học Mác đã trở thành công cụ nhận thức cải tạo thế giới của
nhân loại tiến bộ.
2. Kể từ khi triết học Mác ra đời cho đến nay, thực tiễn đã có nhiều đổi thay, nhưng triết học
Mác vẫn giữ nguyên ý nghĩa luận cũng như giá trị thực tiễn trong thời đại ngày nay. thể
nói, cuộc cách mạng trong triểt học do C.Mác thực hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX vẫn
giữ nguyên ý nghĩa to lớn trong việc phát triển triết học Mác - Lênin thời đại ngày nay. Điều
này thể hiện ở chỗ:
Một là, triết học Mác - Lênin một hệ thống mở chứ không phải hệ thống khép kín;
đòi hỏi luôn phải được bổ sung, hoàn thiện, phát triển. Đối với phương pháp biện chứng duy
vật, không gìlà bất biến. Tinh thần duy vật biện chứng đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ
điều kiện thực tiễn khách quan để bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin, nhưng
phải biết tổng kết thực tiễn một cách khách quan, biện chứng, chắt lọc, luận. Đồng
thời, phải tránh siêu hình, roơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, thô thiền, chi biết căn cứ từ
thực tiễn vụn vặt, cục bộ để bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin. Không chỉ
thế, còn phải luôn bảo đảm sự thống nhất hữu giữa chủ nghĩa duy vật phương pháp biện
chứng, tránh mắc phải sai lẩm của các nhà triết học trước Mác. Trên tinh thần duy vật biện
chứng, để bồ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin hiệu quả, cần tiếp tục tinh
thần duy vật triệt để. Nghĩaphải giải quyết tốt những vấn đề của xã hội, của lịch sử trên tinh
thần duy vật và biện chứng.
Hai là, sự ra đời của triết học Mác gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phong trào công nhân những
năm 30 - 40 của thế kỷ XIX. Bản thân triết học Mác cũng gắn hữu với thực tiễn cách
mạng của quần chúng nhân dân. Chính C.Mác, trong quá trình sáng tạo triết học, đã khắc phục
sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người. Bởi vậy, bồ sung, hoàn thiện,
phát triển triết học Mác - Lênin phải theo hướng gắn với thực tiễn, bảo đảm sự thống nhất
giữa triết học với thực tiễn. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi phát triển, do vậy, nhận thức
của con người cũng luôn cần được bổ sung, hoàn thiện phát triển cho phủ hợp với thực tiễn
đó. Triết học Mác - Lênin cũng không nằm ngoài quy luật này. Sự thống nhất giữa triết học
Mác - Lênin với thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải tìm lời giải đáp cho những vấn đề của ngày
hôm nay từ chính thực tiễn ngày hôm nay chứ không thể chi tìm trong lịch sử. Tuy nhiên, trong
quá trình bổ sung, hoàn thiện và phát triển triết học Mác - Lênin cần tránh hai thái cực sai lầm:
hoặc là không thấy được những đổi thay của thực tiễn, bảo thủ không muốn bổ sung, hoàn thiện
và phát triển những nguyêncủa triết học Mác - Lênin; hoặc là quá nhấn mạnh, tuyệt đối hóa
sự đổi thay của thực tiễn dẫn đến đòi xét lại triết học Mác - Lênin.
Ba là, ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác đã gắn hữu cợ với các khoa học cụ thể. Do
vậy, ngày nay, với sự phát triễn mạnh mẽ của khoa học công nghệ, triết học Mác - Lênin
không thể không được bổ sung, hoàn thiện, phát triển luận của mình. Nếu triết học Mác -
Lênin không được bổ sung, hoàn thiện phát triễn trên sở khái quát những thành tựu mới
của các khoa học cụ thể thì sẽ trở nên lạc hậu, nghèo nàn, khô cứng, không thể đáp ứng được
vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất cho các khoa học cụ thể, cũng như cho quần
chúng nhân dân trong hoạt động cải tạo thế giới. Đương nhiên, nếu không đứng vững trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng phương pháp biện chứng duy vật thì trước những
phát minh mới của khoa học, người ta dễ mất phương hướng, dễ mắc phải sai lầm trong nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chỉ cần nắm được triết
học Mác - Lênin thì con người sẽ giải quyết được mọi vấn để cụ thể do thực tiễn đặt ra. Triết
học Mác - Lênin không phải bảo bối chứa sẵn mọi cách giải quyết những vấn đề do cuộc sống
cũng như nhận thức đặt ra. Để tìm được lời giải đáp cho những vấn đề này sinh, bên cạnh
những tri thức triết học Mác - Lênin, còn phải cần đến những tri thức của các khoa học cụ thể,
kinh nghiệm sống hoạt động thực tiễn của mỗi người. Thiếu những điều đó, chúng ta không
thể hiểu vận dụng đúng những nguyên của triết học Mác - Lênin. Do vậy, trong việc bổ
sung, hoàn thiện phát triển triết học Mác - Lênin, cần phải chống cả hai thái cực sai lầm:
hoặc coi thường triết học Mác - Lênin, tuyệt đổi hóa các khoa học cụ thể; hoặc chỉ thấy có triết
học Mác - Lênin, không thấy vai trò của các khoa học cụ thể. Đồng thời, cũng cần phải nhận
thức đúng rằng, bản thân triết học Mác - Lênin cũng cần được đổi mới, bổ sung, hoàn thiện
phát triển.
Như vậy, có thể khẳng định lại rằng, hơn một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, kể từ khi cuộc cách
mạng trong triết học được C.Mác thực hiện, ý nghĩa của cuộc cách mạng này vẫn giữ nguyên
tính thời sự và tính thực tiễn cho việc phát triển triết học Mác - Lênin trong thời đại hiện nay.
Câu 6. Triết học – hạt nhân lí luận của thế giới quan có nghĩa là gì?
Thế giới quan toàn bộ những quan niệm về thế giới, về vai trò của con người trong thế
giới đó, về chính bản thân cuộc sống của con người loài người. được hình thành ở một
con người và ở một cộng đồng người.
• Triết học là hạt nhân của thế giới quan nghĩa là triết học cung cấp cho con người những tri
thức về bản chất chung nhất của thế giới, về vai trò của con người trong thế giới đó nên triết
học là sở luận chung cho thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển một cách tự giác
trên một lập trường triết học nhất định.
Ví dụ: trên cơ sở lập trường triết học duy tâm về bản chất con người, những quan niệm về lẽ
sống, về nghĩa vụ, hạnh phúc cũng đối lập với quan niệm về những vấn đề này trên lập trường
của chủ nghĩa duy vật.
Câu 7. Hãy nếu đối tượng nghiên cứu của triết học qua các thời kì trong lịch sử?
Thời cổ đại: Với nguồn gốc nhận thức của triết học, triết học được quan niệm một hình
thái cao nhất của tri thức, biện luận về những vấn đề bản chất chung nhất của vạn vật, do vậy
triết học được coi “khoa học của mọi khoa học" bao gồm toàn bộ tri thức luận của nhân
loại. Nó thể hiện dưới hình thức “nền triết học tự nhiên" thời cổ đại.
Thời Trung cổ: Triết học chi được xem một bộ phận của thần học nhằm biện minh,
giải cho sự tồn tại của thần quyền và chính quyền phong kiến thế tục.
Thời phục hưng đến nay: Nhận thức của con người ngày càng phát triển, song song với
những kiến thức về bản chất của thế giới nói chung, con người cần đi sâu khám phá thế giới
các lĩnh vực khác nhau. Nhu cầu này thúc đẩy quá trình phát triển của các khoa học chuyên
nghành, chúng dần dần tách khỏi triết học, trở thành các môn khoa học độc lập. Trước tình hình
đó, đối tượng của triết học cũng dần thu hẹp lại và xác định lĩnh vực nghiên cứu của mình.
Ngày nay, triết học là một khoa học, nhưng triết học khác với các khoa học khác ở chỗ: Triết
học nghiên cứu thế giới trong một chỉnh thể và vạch ra những quy luật chung nhất của thế giới,
còn các khoa học khác nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của thế giới.
Câu 8. Phân tích nguồn gốc của triết học theo hai khía cạnh nguồn gốc nhận thức nguồn
gốc xã hội?
Triết học một hình thái ý thức hội nguồn gốc từ tồn tại hội sự phát triển của
văn hoá, khoa học. Có thể nói triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
. Nguồn gốc nhận thức: Nhu cầu nhận thức thế giới một nhu cầu khách quan của con
người. Trong quá trình sống và cài biên thế giới, từng bước con người có kinh nghiệm và biết lý
giải về tự nhiên, hội với những kiến thức cụ thể,riêng lẻ về những lĩnh vực khác nhau, dần
dần những triết lý - tức là những quan niệm chung về thế giới và nhân sinh cũng xuất hiện. Khi
nhận thức của con người phát triển đến trình độ cao, nghĩa là khi con người có khả năng tư duy
trừu tượng, khái quát các tri thức riêng lẻ thành hệ thống các quan điểm, quan niệm chung nhất
về thế giới và về vai trò của con người trong thế giới thì lúc đó triết học xuất hiện với tư cách là
một khoa học. Trong lịch sử, triết học ra đời từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 6 trước công
nguyên.
Nguồn gốchội: Triết học ra đời khi kinh tế - hội đã sự phân công lao động đã
xuất hiện giai cấp. Khi con người chế tạo được công cụ bằng đồng, bằng sắt thì nền sản xuất xã
hội đạt năng suất cao hơn. Dần dần,sự phân công giữa lao động trí óclao động chân tay.
Nền kinh tế tương đối phát triển với trình độ chuyên môn hoá trong lao động đã tạo điều kiện
cho những tiến bộ về văn hoá, khoa học. Đồng thời trong lịch sử, nền kinh tế dựa trên công cụ
lao động bằng sắt cũng dẫn tới sự phân hoá giai cấp, hội chiếm hữu lệ ra đời. Mỗi giai
cấp, mỗi tầng lớp với vai trò lợi ích khác nhau đã phản ánh về bản chất thế giới luận về
vai trò của con người trong thế giới một cách khác nhau dẫn đến sự ra đời của nhiều trường
phái triết học. Từ nguồn gốc trên cho thấy triết học xuất hiện từ bản thân lịch sử của con người,
từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống. Như vậy, triết học một hình thái ý thức hội, phản
ánh các quan hệ kinh tế - xã hội và biến đổi cùng với sự biến đổi của kinh tế - xã hội.
Câu 9. Tại sao triết học Mác - Lê nincơ sởluận khoa học của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đối mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam tất yếu phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học, trong
đó hạt nhân phép biện chứng duy vật. Công cuộc đổi mới toàn diện hội theo định hướng
XHCN được mở đường bằng đổi mới tư duy lý luận, trong đó có vai trò của triết học Mác –
nin.
Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác nin thể hiện đặc biệt đối
với sự nghiệp đổi mới Việt Nam đó đổi mới duy. Một trong những điểm nhấn của thế
giới quan, phương pháp luận triết học Mác nin chính vấn đề thực tiễn, đó phương
pháp biện chứng, đó là sự vận động biến đổi không ngừng của thế giới. Đó chínhnhững yếu
tố đã góp phần xây dựng luận về đổi mới, về con đường đi lên hội chủ nghĩa, về thời
quá độ, về xây dựng kinh tế thị trường, định hướng XHCN, về mô hình chủ nghĩa xã hội, về các
bước, cách thức đi lên CNXH,... đó chính thế giới quan mới của sự nghiệp đổi mới Việt
Nam.
Bên cạnh đó thế giới quan triết học Mác nin đã giúp chúng ta nhìn nhận đánh giá bối
cảnh mới, đánh giá cục diện thế giới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời đại, thực trạng
tình hình đất nước và con đường phát triển trong tương lai.
Nếu như thế giới quan triết học MácLê nin giúp chúng ta xác định con đường, bước đi thì
phương pháp luận giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng
CNXH, thực tiễn đổi mới hơn 30 năm qua. Dựa trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác – Lê
Nin, chúng ta đã giải quyết tốt các mối quan hệ bản của quá trình đổi mới như mối quan hệ
kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế đổi mới chính trị,
đây là mối quan hệ cốt lõi, mang tính nền tảng cho việc giải quyết các mối quan hệ khác.
Như vậy, bước vào thế ki XXI, những điều kiện lịch sử mới đã quy định vai trò của triết học
Mác – Lê nin ngày càng tăng. Điều đó đòi hỏi phải bảo vệ, phát triển triết học Mác – Lê nin để
phát huy tác dụng và sức sống của nó đối với thời đại và đất nước.
Câu 10. Mục đích và yêu cầu của việc học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin?
Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải
theo phương pháp gắn những quan điểm bàn của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn đất
nước và thời đại;
Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải
hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; tránh bệnh kinh viên, giáo điều trong học tập, nghiên cứu
và vận dụng các nguyên lý đó trong thực tiễn;
Học tập, nghiên cứu môn học mỗi nguyên bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong mối
quan hệ với các nguyên khác; mỗi bộ phận luận cấu thành này phải gắn kết với các bộ
phận lý luận cấu thành còn lại để thấy sự thống nhất của các bộ phận đó trong chủ nghĩa Mác-
Lênin; đồng thời cũng nên nhận thức các nguyên đó trong tiến trình phát triển của lịch sử
tưởng nhân loại.
| 1/11

Preview text:

CÂU HỎI TỰ LUẬN CHƯƠNG 1
Câu 1. Triết học là gì ? Vấn đề cơ bản của triết học. Phương pháp nhận thức của thế giới triết học.
1.Khái niệm triết học
- Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, xét cho cùng, đều bị các quan hệ kinh
tế của xã hội quy định. Dù ở xã hội nào, triết học bao giờ cũng gồm hai yếu tố:
+ Yếu tố nhận thức – sự hiểu biết về thế giới xung quanh, trong đó có con người
+ Yếu tố nhận định – đánh giá về mặt đạo lý
2.Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ănghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ của tư duy với tồn tại,
của ý thức đối với vật chất. Việc giải quyết vấn đề cơ bàn của triết học là cơ sở và điểm xuất
phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt:
Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: giữa vật chất và ý thức cái nào có trước cái nào có sau cái nào
quyết định cái nào? Nói cách khác, giữa vật chất và ý thức cái nào là tính thứ nhất, cái nào là tính thứ hai.
Có hai cách trả lời khác nhau dẫn đến hình thành hai khuynh hướng triết học đối lập nhau.
+ Những quan điểm triết học cho vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai hợp thành
chủ nghĩa duy vật. Trong lịch sử tư tưởng triết học có ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật:
1) Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ thời cổ đại.
2) Chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thế kỷ XVII- XVII.
3) Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Ngược lại, những quan điểm triết học cho ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ
hai, hợp thành chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm lại được thể hiện qua hai trào lưu chính:
Chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan .
- Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
+ Các nhà triết học duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế giới. Song, do
mặt thứ nhất quy định, nên sự nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người.
+ Một số nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới
nhưng sự nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư duy.
+ Một số nhà triết học duy tâm khác như Hium, Canto lại phủ nhận khả năng nhận thức thế
giới của con người. Đây là những người theo “bất khả tri luận" ( thuyết không thể biết).
Khuynh hướng này không thừa nhận vai trò của nhận thức khoa học trong đời sống xã hội.
3. Phương pháp nhận thức của thế giới triết học
Triết học nghiên cứu những quy luật chung nhất của tồn tại và tư duy, giúp cho việc nhận
thức và hoạt động cải tạo thế giới. Triết học Mác dựa vào những thành quả của các khoa học cụ
thể, nhưng nó không lấy phương pháp của các ngành khoa học cụ thể để làm phương pháp của
mình. Phương pháp nhận thức chung nhất, đúng đắn nhất của triết học là phương pháp biện
chứng duy vật. Phương pháp biện chứng duy vật đối lập với phương pháp siêu hình.
Phương pháp biện chứng và siêu hình xuất hiện từ rất sớm, từ thời cổ đại. Phương pháp biện
chứng là phương pháp nhận thức sự vật và hiện tượng trong sự liên hệ, tác động qua lại, vận
động và phát triển. Ngược lại phương pháp siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng trong sự tách
rời, không vận động và không phát triển. Cuộc đầu tranh giữa phương pháp biện chứng và
phương pháp siêu hình cũng là một nội dung cơ bàn của lịch sử triết học.
Phương pháp biện chứng duy vật xuất phát từ thời kì cổ đại ( biện chứng duy vật thô sơ,
mộc mạc, tự phát). Chỉ đến khi triết học Mác ra đời, phương pháp này thực sự trở thành phương
pháp triết học khoa học. Phương pháp này giúp con người khả năng nhận thức một cách đúng
đắn, khách quan về giới tự nhiên, xã hội và tư duy và giúp con người đạt được hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Câu 2. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác?
1. Điều kiện kinh tế-xã hội
Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện và lan
rộng ra các nước tây Âu tiên tiến không những làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
trở thành hệ thống kinh tế thống trị, tính hơn hằn của chế độ tư bản so với chế độ phong kiến
thể hiện rõ nét, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội mà trước hết là sự hình thành và
phát triển của giai cấp vô sản.
Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa ngày càng thể hiện sâu sắc và gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản,
vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư sản không còn đóng
vai trò là giai cấp cách mạng trong xã hội.
Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, giai cấp vô sản đã xuất hiện với tư cách là một lực lượng
chính trị-xã hội độc lập và đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình để tiến hành đấu tranh
tự giác chống giai cấp tư sản.
2. Tiền để lý luận:
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng duy tâm
và tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học để xây dựng nên phép biện chứng duy
vật và mở rộng nhận thức sang cả xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để.
Kinh tế chính trị học Anh mà đặc biệt là lý luận về kinh tế hàng hóa; học thuyết giá trị thặng
dư là cơ sở của hệ thống kinh tế tư bàn chủ nghĩa. Đó còn là việc thừa nhận các quy luật khách
quan của đời sống kinh tế xã hội, đặt quy luật giá trị làm cơ sở cho toàn bộ hệ thống kinh tế và
rằng, do đó chủ nghĩa tư bàn là vĩnh cửu.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những dự đoán thiên tài mà trước hết là lịch sử loài
người là một quá trình tiến hóa không ngừng, chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước; rằng sự xuất
hiện các giai cấp đối kháng trong xã hội là kết quả của sự chiếm đoạt; đồng thời phê phán chủ
nghĩa tư bản là ở đó con người bị bóc lột và lừa bịp, chính phủ không quan tâm tới dân nghèo.
Khăng định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội công nghiệp mà trong đó, công nông nghiệp đều
được khuyến khích, đa số người lao động được bảo đảm những điều kiện vật chất cho cuộc
sống v.v là cơ sở để chủ nghĩa Mác phát triển thành lý luận cải tạo xã hội.
3. Tiền đề khoa học tự nhiên.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh
quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học đề tư duy biện chứng trở thành khoa học.
- Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát triển
của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động của chúng.
Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực
vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; đặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền sinh
học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa thực vật với động vật.
- Thuyết tiến hoá đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật không có
sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở khoa học, xác định
tính biến dị và di truyền giữa các loài. Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời
của nó không những do nhu cầu nhu cầu khách quan của thực tiến xã hội lúc bầy giờ, do sự kế
thừa những thành tựu trong lý luận và được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học, mà
còn do bản thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền để khách quan cho sự ra đời của
nó. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác “cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân, những
công cụ nhận thức vĩ đại" và Đảng Cộng sản Việt Nam “kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng".
Câu 3. Chủ nghĩa Mác – Lê nin là gì? Chủ nghĩa Mác – Lê nin được cấu thành từ những bộ
phận lý luận cơ bản nào? Chức năng và mối quan hệ cơ bản của mỗi bộ phân đó trong chủ nghĩa Mác – Lê nin?
1.Khái niệm “Chủ nghĩa Mác – Lênin"
Chủ nghĩa Mác - Lênin là:
+ Hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sàn, giải
phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột, tiến tới thực hiện sự nghiệp giải phóng con người (xét
từ góc độ đối tượng của nó).
+ Hệ thống quan điểm và học thuyết đó được sáng lập bởi c. Mác, Ph. Ăngghen và sự phát
triển của V.I. Lênin (xét từ góc độ chủ thể sáng tạo và phát triển nó).
+ Hệ thống quan điểm và học thuyết đó được hình thành và phát triến trên cơ sở kế thừa
những giá trị tư tưởng tiến bộ của nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại (xét từ góc độ mối
quan hệ giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại và với thực tiễn).
+ Hệ thống quan điểm và học thuyết đó đóng vai trò là thế giới quan, phương pháp luận phổ
biến cho sự sáng tạo trong nhận thức khoa học (nghiên cứu phát hiện và sáng tạo ra cái mới) và
thực tiễn cách mạng (thực tiễn cải biến cái cũ, sáng tạo cái mới).
(Xét từ góc độ mối quan hệ của chủ nghĩa Mác - Lênin với hoạt động nhận thức khoa học và
thực tiễn cách mạng nói chung: muốn thực hiện sự sáng tạo trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn thì nhất định cần phải vận dụng thế giới quan, phương pháp luận đó).
2.Chủ nghĩa Mác - Lênin có ba bộ phận lý luận cơ bản hợp thành, đó là: + Triết học + Kinh tế chính trị học
+ Chủ nghĩa xã hội khoa học.
3.Chức năng và môi quan hệ cơ bản của môi bộ phận lý luận trong chủ nghĩa Mác - Lênin:
- Triết học là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận
thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
- Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận triết học, Kinh tế chính trị Mác- Lênin
nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình
ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của
phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp
luận triết học và kinh tế chính trị Mác - Lênin vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật
khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa - bước chuyền biến lịch sử từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin có đối tượng nghiên cứu cụ thể khác
nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống lý luận khoa học thống nhất - đó là khoa học về sự
nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và
tiến tới giải phóng con người.
Câu 4. Tại sao chúng ta gọi chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa Mác-Lênin?
Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin là người bảo vệ, bổ sung, phát triển và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Lênin hình thành và phát triển trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm, xét lại và giáo điều; là sự tiếp tục và là giai đoạn mới trong lịch
sử chủ nghĩa Mác để giải quyết những vấn đề cách mạng vô sản trong giai đoạn chủ nghĩa để
quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1. Nhu cầu bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác.
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn chủ
nghĩa để quốc. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản ngày càng tinh vi, tàn bạo
hơn; mâu thuẫn đặc thù vốn có của chủ nghĩa tư bàn ngày càng bộc lộ sâu sắc mà điển hình là
mẫu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Những năm cuối thế kỷ XIX, bước sang thể kỷ XX, có những phát minh vật lý mang tính
vạch thời đại, làm đảo lộn căn bản quan niệm ngàn đời về vật chất. Đây là cơ hội để chủ nghĩa
duy tâm tấn công chủ nghĩa Mác; một số nhà khoa học tự nhiên rơi vào tình trạng khủng hoàng
về thế giới quan, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hành động của phong trào cách mạng.
Chủ nghĩa Mác đă được truyền bá vào nước Nga; nhưng những trào lưu như chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại v.v đã nhân danh đổi mới chủ nghĩa
Mác để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa đó.
Trong bối cảnh như vậy, nhu cầu khách quan về việc khái quát những thành tựu khoa học tự
nhiên để rút ra những kết luận về thế giới quan và phương pháp luận triết học cho các khoa học
chuyên ngành; đấu tranh chống lại những trào lưu tư tưởng phản động và phát triển chủ nghĩa
Mác đã được thực tiễn nước Nga đặt ra. Hoạt động lý luận của V.I.Lênin nhằm đáp ứng nhu cầu lịch sử đó.
2.Quá trình V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác được chia thành ba thời kỳ, tương
ứng với ba nhu cầu khách quan của thực tiễn nước Nga.
Trong thời kỳ 1893-1907, V.I.Lênin tập trung phê phán tính duy tâm của phái “dân túy" về
những vấn đề lịch sử-xã hội và chỉ ra rằng, qua việc xóa nhòa ranh giới giữa phép biện chứng
duy vật với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, phái dân túy đã xuyên tạc chủ nghĩa Mác.
V.I.Lênin cũng phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp của
giai cấp vô sản trước khi giành được chính quyền; trong đó các vấn đề về đấu tranh kinh tế,
chính trị, tư tưởng được đề cập rõ nét; ông cũng phát triển chủ nghĩa Mác về những vấn đề như
phương pháp cách mạng; nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan; vai trò của quần chúng nhân
dân; của các đảng chính trị trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Trong thời kỳ 1907-1917, V.I.Lênin viết tác phầm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán (1909)- tác phẩm khái quát từ góc độ triết học những thành tựu mới nhất của
khoa học tự nhiên để bảo vệ và tiếp tục phát triền chủ nghĩa Mác; phê phán triết học duy tâm
chủ quan đang chống lại chủ nghĩa duy vật nói chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói
riêng. Trong tác phẩm, vấn đề cơ bàn của triết học và phạm trù vật chất có ý nghĩa hệ tư tưởng
và phương pháp luận hết sức to lớn. Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác về nhận thức,
V.I.Lênin cũng chi ra sự thống nhất bên trong, không tách rời của chủ nghĩa duy vật biện chứng
với chủ nghĩa duy vật lịch sử; sự thống nhất của những luận giải duy vật về tự nhiên, về xã hội,
về con người và tư duy của nó. Trong tác phẩm Bút ký triết học (1914-1916), V.I.Lênin tiếp tục
khai thác hạt nhân hợp lý của triết học Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng duy
vật, đặc biệt là lý luận về sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Năm 1917, V.I.Lênin viết tác
phẩm Nhà nước và cách mạng bàn về vấn đề nhà nước chuyên chính vô sản, bạo lực cách mạng
và vai trò của đàng công nhân và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; đưa ra tư tưởng về nhà
nước Xôviết, coi đó là hình thức của chuyên chính vô sản; vạch ra những nhiệm vụ chính trị và
kinh tế mà nhà nước đó phải thực hiện và chỉ ra những nguồn gốc vật chất của chủ nghĩa xã hội
được tạo ra do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Thời kỳ 1917-1924. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười (Nga) năm 1917
mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiện này làm nẩy sinh những
nhu cầu mới về lý luận mà sinh thời C.Mác và Ph.Ăngghen chưa thế hiện; V.I.Lênin tiếp tục
tổng kết thực tiễn đề đáp ứng nhu cầu đó bằng các tác phẩm mà các nội dung chính của chúng
cho rằng việc thực hiện kiểm tra, kiểm soát toàn dân; tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa là những
điều kiện cần thiết để chuyển sang xây dựng "chủ nghĩa xã hội kế hoạch". V.I.Lênin cũng chi ra
rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở của công cuộc xây dựng kinh tế; xây dựng nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Ông nhấn mạnh tính lâu dài của thời kỳ quá độ, không tránh khỏi phải đi qua
những nấc thang trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin khẳng định vai trò kinh tế
hàng hóa trong điều kiện nền sản xuất hàng hoá nhỏ đang chiếm ưu thể trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nhận thấy sự quan liêu đã bắt đầu xuất hiện trong nhà nước công nông
non trẻ, ông đề nghị những người cộng sàn cần thường xuyên chống ba kẻ thù chính là sự kiêu
ngạo, ít học và tham nhũng. V.I.Lênin cũng chú ý đến việc chống chủ nghĩa giáo điều khi vận
dụng chủ nghĩa Mác nếu không muốn lạc hậu so với cuộc sống.
Di sản kinh điển của V.I.Lênin trở thành cơ sở cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễncủa các đảng cộng sản. Thiên tài về lý luận và thực tiễn của V.I. Lênin trong việc kế
thừa, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác được những người cộng sản đánh giá cao. Họ
đặt tên cho chủ nghĩa của mình là chủ nghĩa Mác-Lênin
Câu 5. Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện và ý nghĩa
của nó đối với việc phát triển triết học Mác - Lênin ở thời đại ngày nay là gì?
1. Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa nhận là một
cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng này đã đưa triết học nhân loại từ thời
kỳ chủ yếu là “giải thích thế giới" sang thời kỳ không chỉ “giải thích thế giới", mà còn “cải tạo
thế giới". Rõ ràng là, với sự ra đời của triết học Mác, lịch sử triết học của nhân loại đã chuyển
sang một thời kỳ mới về chất. Thực chất của cuộc cách mạng này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trong
lịch sử triết học trước đó, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ không thể tách rời giữa chủ
nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng - đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trong triết học của C.Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ với phương pháp
biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu bằng phương pháp biện chứng, còn
phương pháp biện chứng được ông đặt trên nền chủ nghĩa duy vật. Đồng thời, cả chủ nghĩa duy
vật lẫn phương pháp biện chứng đều được C.Mác phát triển lên một trình độ mới về chất. Do
vậy, sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học
Mác hơn hắn về chất so với sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng
trong triểt học Hy Lạp cổ đại. Vì vậy, đây chính là bước phát triển cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng
trong triết học do C.Mác thực hiện.
Về bản chất, chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác - quan niệm duy vật về lịch sử - cũng là
chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng thể hiện được tính đặc thù của lĩnh vực lịch sử – lĩnh vực
hoạt động của con người. Chính chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho C.Mác nghiên cứu kinh tế, phát hiện ra
học thuyết giá trị thặng dư, hiểu được sự phát sinh, phát triển, diệt vong tất yếu của hình thái
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ
đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác
đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người. Trên cơ sở
đó, triết học của ông đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết học thường tập trung chủ yếu vào giải thích thế
giới, mà ít chú ý tới cải tạo thế giới. Cũng đã có một số nhà triết học muốn cải tạo thế giới
nhưng lại bằng con đường không tưởng - dựa vào các lực lượng siêu nhiên, bằng “khai sáng",
mở mang dân trí, bằng con đường giáo dục đạo đức,v.v. Có thể nói, không một nhà triết học nào
trước C.Mác hiểu được thực tiễn và vai trò của nó đối với cải tạo thế giới.
Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới, mà quan trọng hơn là cải
tạo thế giới. Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác đã chỉ ra rằng, chỉ có thể cải tạo được
thế giới thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý
luận nhận thức nói riêng, vào triết học nói chung, C.Mác đã làm cho triết học của ông hơn hằn
về chất so với toàn bộ triết học trước đó. Trong triết học Mác, hoạt động thực tiễn của giai cấp
vô sản được soi đường, dẫndắt, chỉ đạo, định hướng bởi chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Ngược lại, hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản lại là cơ sở, động lực
cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Giữa triết học
Mác với hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản có sự thống nhất hữu cơ với nhau. Do vậy, triết
học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô sản và của toàn thể nhân loại tiến bộ.
Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu đằng sau các khoa học khác,
hoặc đối lập với chúng. Quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện
chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các tư liệu,
dữ kiện, thông số khoa học để triết học Mác khái quát. Ngay sự ra đời của triết học Mác cũng
không thể thiếu những tiền đề khoa học tự nhiên. Chính những thành tựu của khoa học tự nhiên
nửa đầu thế kỷ XIX đã làm bộc lộ những hạn chế, sự bất lực của phương pháp siêu hình trong
nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở khoa học cho sự ra đời của phương pháp biện
chứng. Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương
pháp luận chung nhất. Thực tiễn phát triển mạnh mẽ của các khoa học cụ thể càng làm tăng vai
trò thể giới quan, phương pháp luận của triết học Mác. Như vậy, sự ra đời của triết học Mác đã
chấm dứt mâu thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng
to lớn đối với thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có
cơ sở để trở thành khoa học. Cuộc cách mạng này cũng làm cho triết học thay đổi cả về vai trò,
chức năng và nhiệm vụ. Triết học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
2. Kể từ khi triết học Mác ra đời cho đến nay, thực tiễn đã có nhiều đổi thay, nhưng triết học
Mác vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý luận cũng như giá trị thực tiễn trong thời đại ngày nay. Có thể
nói, cuộc cách mạng trong triểt học do C.Mác thực hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX vẫn
giữ nguyên ý nghĩa to lớn trong việc phát triển triết học Mác - Lênin ở thời đại ngày nay. Điều này thể hiện ở chỗ:
Một là, triết học Mác - Lênin là một hệ thống mở chứ không phải là hệ thống khép kín; nó
đòi hỏi luôn phải được bổ sung, hoàn thiện, phát triển. Đối với phương pháp biện chứng duy
vật, không có gìlà bất biến. Tinh thần duy vật biện chứng đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ
điều kiện thực tiễn khách quan để bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin, nhưng
phải biết tổng kết thực tiễn một cách khách quan, biện chứng, có chắt lọc, có lý luận. Đồng
thời, phải tránh siêu hình, roơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, thô thiền, chi biết căn cứ từ
thực tiễn vụn vặt, cục bộ để bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin. Không chỉ
thế, còn phải luôn bảo đảm sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện
chứng, tránh mắc phải sai lẩm của các nhà triết học trước Mác. Trên tinh thần duy vật biện
chứng, để bồ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin có hiệu quả, cần tiếp tục tinh
thần duy vật triệt để. Nghĩa là phải giải quyết tốt những vấn đề của xã hội, của lịch sử trên tinh
thần duy vật và biện chứng.
Hai là, sự ra đời của triết học Mác gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phong trào công nhân những
năm 30 - 40 của thế kỷ XIX. Bản thân triết học Mác cũng gắn bó hữu cơ với thực tiễn cách
mạng của quần chúng nhân dân. Chính C.Mác, trong quá trình sáng tạo triết học, đã khắc phục
sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người. Bởi vậy, bồ sung, hoàn thiện,
phát triển triết học Mác - Lênin phải theo hướng gắn bó với thực tiễn, bảo đảm sự thống nhất
giữa triết học với thực tiễn. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi và phát triển, do vậy, nhận thức
của con người cũng luôn cần được bổ sung, hoàn thiện và phát triển cho phủ hợp với thực tiễn
đó. Triết học Mác - Lênin cũng không nằm ngoài quy luật này. Sự thống nhất giữa triết học
Mác - Lênin với thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải tìm lời giải đáp cho những vấn đề của ngày
hôm nay từ chính thực tiễn ngày hôm nay chứ không thể chi tìm trong lịch sử. Tuy nhiên, trong
quá trình bổ sung, hoàn thiện và phát triển triết học Mác - Lênin cần tránh hai thái cực sai lầm:
hoặc là không thấy được những đổi thay của thực tiễn, bảo thủ không muốn bổ sung, hoàn thiện
và phát triển những nguyên lý của triết học Mác - Lênin; hoặc là quá nhấn mạnh, tuyệt đối hóa
sự đổi thay của thực tiễn dẫn đến đòi xét lại triết học Mác - Lênin.
Ba là, ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác đã gắn bó hữu cợ với các khoa học cụ thể. Do
vậy, ngày nay, với sự phát triễn mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, triết học Mác - Lênin
không thể không được bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận của mình. Nếu triết học Mác -
Lênin không được bổ sung, hoàn thiện và phát triễn trên cơ sở khái quát những thành tựu mới
của các khoa học cụ thể thì sẽ trở nên lạc hậu, nghèo nàn, khô cứng, không thể đáp ứng được
vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất cho các khoa học cụ thể, cũng như cho quần
chúng nhân dân trong hoạt động cải tạo thế giới. Đương nhiên, nếu không đứng vững trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật thì trước những
phát minh mới của khoa học, người ta dễ mất phương hướng, dễ mắc phải sai lầm trong nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chỉ cần nắm được triết
học Mác - Lênin thì con người sẽ giải quyết được mọi vấn để cụ thể do thực tiễn đặt ra. Triết
học Mác - Lênin không phải bảo bối chứa sẵn mọi cách giải quyết những vấn đề do cuộc sống
cũng như nhận thức đặt ra. Để tìm được lời giải đáp cho những vấn đề này sinh, bên cạnh
những tri thức triết học Mác - Lênin, còn phải cần đến những tri thức của các khoa học cụ thể,
kinh nghiệm sống và hoạt động thực tiễn của mỗi người. Thiếu những điều đó, chúng ta không
thể hiểu và vận dụng đúng những nguyên lý của triết học Mác - Lênin. Do vậy, trong việc bổ
sung, hoàn thiện và phát triển triết học Mác - Lênin, cần phải chống cả hai thái cực sai lầm:
hoặc coi thường triết học Mác - Lênin, tuyệt đổi hóa các khoa học cụ thể; hoặc chỉ thấy có triết
học Mác - Lênin, không thấy vai trò của các khoa học cụ thể. Đồng thời, cũng cần phải nhận
thức đúng rằng, bản thân triết học Mác - Lênin cũng cần được đổi mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển.
Như vậy, có thể khẳng định lại rằng, hơn một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, kể từ khi cuộc cách
mạng trong triết học được C.Mác thực hiện, ý nghĩa của cuộc cách mạng này vẫn giữ nguyên
tính thời sự và tính thực tiễn cho việc phát triển triết học Mác - Lênin trong thời đại hiện nay.
Câu 6. Triết học – hạt nhân lí luận của thế giới quan có nghĩa là gì?
• Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm về thế giới, về vai trò của con người trong thế
giới đó, về chính bản thân cuộc sống của con người và loài người. Nó được hình thành ở một
con người và ở một cộng đồng người.
• Triết học là hạt nhân của thế giới quan nghĩa là triết học cung cấp cho con người những tri
thức về bản chất chung nhất của thế giới, về vai trò của con người trong thế giới đó nên triết
học là cơ sở lí luận chung cho thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển một cách tự giác
trên một lập trường triết học nhất định.
Ví dụ: trên cơ sở lập trường triết học duy tâm về bản chất con người, những quan niệm về lẽ
sống, về nghĩa vụ, hạnh phúc cũng đối lập với quan niệm về những vấn đề này trên lập trường của chủ nghĩa duy vật.
Câu 7. Hãy nếu đối tượng nghiên cứu của triết học qua các thời kì trong lịch sử?
• Thời cổ đại: Với nguồn gốc nhận thức của triết học, triết học được quan niệm là một hình
thái cao nhất của tri thức, biện luận về những vấn đề bản chất chung nhất của vạn vật, do vậy
triết học được coi là “khoa học của mọi khoa học" bao gồm toàn bộ tri thức lí luận của nhân
loại. Nó thể hiện dưới hình thức “nền triết học tự nhiên" thời cổ đại.
• Thời Trung cổ: Triết học chi được xem là một bộ phận của thần học nhằm biện minh, lý
giải cho sự tồn tại của thần quyền và chính quyền phong kiến thế tục.
• Thời phục hưng đến nay: Nhận thức của con người ngày càng phát triển, song song với
những kiến thức về bản chất của thế giới nói chung, con người cần đi sâu khám phá thế giới ở
các lĩnh vực khác nhau. Nhu cầu này thúc đẩy quá trình phát triển của các khoa học chuyên
nghành, chúng dần dần tách khỏi triết học, trở thành các môn khoa học độc lập. Trước tình hình
đó, đối tượng của triết học cũng dần thu hẹp lại và xác định lĩnh vực nghiên cứu của mình.
Ngày nay, triết học là một khoa học, nhưng triết học khác với các khoa học khác ở chỗ: Triết
học nghiên cứu thế giới trong một chỉnh thể và vạch ra những quy luật chung nhất của thế giới,
còn các khoa học khác nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của thế giới.
Câu 8. Phân tích nguồn gốc của triết học theo hai khía cạnh nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội?
Triết học là một hình thái ý thức xã hội có nguồn gốc từ tồn tại xã hội và sự phát triển của
văn hoá, khoa học. Có thể nói triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
. Nguồn gốc nhận thức: Nhu cầu nhận thức thế giới là một nhu cầu khách quan của con
người. Trong quá trình sống và cài biên thế giới, từng bước con người có kinh nghiệm và biết lý
giải về tự nhiên, xã hội với những kiến thức cụ thể,riêng lẻ về những lĩnh vực khác nhau, dần
dần những triết lý - tức là những quan niệm chung về thế giới và nhân sinh cũng xuất hiện. Khi
nhận thức của con người phát triển đến trình độ cao, nghĩa là khi con người có khả năng tư duy
trừu tượng, khái quát các tri thức riêng lẻ thành hệ thống các quan điểm, quan niệm chung nhất
về thế giới và về vai trò của con người trong thế giới thì lúc đó triết học xuất hiện với tư cách là
một khoa học. Trong lịch sử, triết học ra đời từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
• Nguồn gốc xã hội: Triết học ra đời khi kinh tế - xã hội đã có sự phân công lao động và đã
xuất hiện giai cấp. Khi con người chế tạo được công cụ bằng đồng, bằng sắt thì nền sản xuất xã
hội đạt năng suất cao hơn. Dần dần, có sự phân công giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
Nền kinh tế tương đối phát triển với trình độ chuyên môn hoá trong lao động đã tạo điều kiện
cho những tiến bộ về văn hoá, khoa học. Đồng thời trong lịch sử, nền kinh tế dựa trên công cụ
lao động bằng sắt cũng dẫn tới sự phân hoá giai cấp, xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời. Mỗi giai
cấp, mỗi tầng lớp với vai trò và lợi ích khác nhau đã phản ánh về bản chất thế giới và luận về
vai trò của con người trong thế giới một cách khác nhau dẫn đến sự ra đời của nhiều trường
phái triết học. Từ nguồn gốc trên cho thấy triết học xuất hiện từ bản thân lịch sử của con người,
từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống. Như vậy, triết học là một hình thái ý thức xã hội, nó phản
ánh các quan hệ kinh tế - xã hội và biến đổi cùng với sự biến đổi của kinh tế - xã hội.
Câu 9. Tại sao triết học Mác - Lê nin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đối mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam tất yếu phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học, trong
đó hạt nhân là phép biện chứng duy vật. Công cuộc đổi mới toàn diện xã hội theo định hướng
XHCN được mở đường bằng đổi mới tư duy lý luận, trong đó có vai trò của triết học Mác – Lê nin.
Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác – Lê nin thể hiện đặc biệt rõ đối
với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đó là đổi mới tư duy. Một trong những điểm nhấn của thế
giới quan, phương pháp luận triết học Mác – Lê nin chính là vấn đề thực tiễn, đó là phương
pháp biện chứng, đó là sự vận động biến đổi không ngừng của thế giới. Đó chính là những yếu
tố đã góp phần xây dựng lý luận về đổi mới, về con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, về thời kì
quá độ, về xây dựng kinh tế thị trường, định hướng XHCN, về mô hình chủ nghĩa xã hội, về các
bước, cách thức đi lên CNXH,... đó chính là thế giới quan mới của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Bên cạnh đó thế giới quan triết học Mác – Lê nin đã giúp chúng ta nhìn nhận đánh giá bối
cảnh mới, đánh giá cục diện thế giới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời đại, thực trạng
tình hình đất nước và con đường phát triển trong tương lai.
Nếu như thế giới quan triết học Mác – Lê nin giúp chúng ta xác định con đường, bước đi thì
phương pháp luận giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng
CNXH, thực tiễn đổi mới hơn 30 năm qua. Dựa trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác – Lê
Nin, chúng ta đã giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản của quá trình đổi mới như mối quan hệ
kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị,
đây là mối quan hệ cốt lõi, mang tính nền tảng cho việc giải quyết các mối quan hệ khác.
Như vậy, bước vào thế ki XXI, những điều kiện lịch sử mới đã quy định vai trò của triết học
Mác – Lê nin ngày càng tăng. Điều đó đòi hỏi phải bảo vệ, phát triển triết học Mác – Lê nin để
phát huy tác dụng và sức sống của nó đối với thời đại và đất nước.
Câu 10. Mục đích và yêu cầu của việc học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin?
Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải
theo phương pháp gắn những quan điểm cơ bàn của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn đất nước và thời đại;
Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải
hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; tránh bệnh kinh viên, giáo điều trong học tập, nghiên cứu
và vận dụng các nguyên lý đó trong thực tiễn;
Học tập, nghiên cứu môn học mỗi nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong mối
quan hệ với các nguyên lý khác; mỗi bộ phận lý luận cấu thành này phải gắn kết với các bộ
phận lý luận cấu thành còn lại để thấy sự thống nhất của các bộ phận đó trong chủ nghĩa Mác-
Lênin; đồng thời cũng nên nhận thức các nguyên lý đó trong tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại.