Câu hỏi tự luận ôn tập thi giữa kỳ môn Triết học Mác - Lênin
Tài liệu học tập môn Triết học Mác - Lênin tại trường Đại học Cần Thơ giúp bạn học tập, ôn luyện và đạt điểm cao!
Môn: Triết học Mác - Lênin (ML014)
Trường: Đại học Cần Thơ
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
1/Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Tại sao nói đó là vấn đề cơ
bản của triết học? Tác phẩm nào Lênin đưa ra định nghĩa kinh
điển về vật chất? Bài làm
*Vấn đề cơ bản của triết học là gì?
Triết học, khác với một số loại hình nhận thức khác, trước khi giải quyết các vấn đề cụ
thể của mình, nó buộc phải giải quyết một số vấn đề có ý nghĩa nền tảng và là điểm xuất
phát để giải quyết tất cả những vấn đề còn lại – vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất với ý
thức. Đây chính là vấn đề cơ bản của triết học. Ph.Ăngghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn của
mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại” .
Vấn đề này được gọi là vấn đề cơ bản của triết học bởi: Thứ nhất, nó nảy sinh cùng với
sự ra đời của triết học và tồn tại trong tất cả các trường phái triết học cho đến tận ngày
nay. Thứ hai, giải quyết vấn đề này là cơ sở để giải quyết tất cả các vấn đề triết học khác
còn lại và là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các nhà triết học cũng
như các học thuyết của họ.
Về nội dung, vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào? Nói cách khác, khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng,
sự vật, hay sự vận động đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất hay nguyên
nhân tinh thần đóng vai trò là cái quyết định. Hay, giữa vật chất và ý thức cái nào là tính
thứ nhất, cái nào là tính thứ hai.
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Nói cách
khác, khi khám phá sự vật và hiện tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ nhận thức
được sự vật và hiện tượng hay không. Ý thức có thể phản ánh được vật chất hay không,
tư duy có thể phản ánh được tồn tại hay không? Mặt này còn được gọi là mặt nhận thức.
*Tại sao nói đó là vấn đề cơ bản của triết học?
Theo Ăngghen, ngay từ thời cổ xưa con người đã gặp phải vấn đề về mối quan hệ giữa
linh hồn và thể xác của nó.Và từ quan niệm về sự tách rời giữa linh hồn và thể xác đã
nảy sinh vài vấn đề về quan hệ giữa linh hồn con người và thế giới bên ngoài. Chính vì
vậy khi triết học không thể giải đáp vấn đề này, lúc này với tầm khái quát cao hơn vấn đề
được đặt ra là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tâm và vật, giữa vật và ý thức. Do
đó vấn đề cơ bản của triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy
và tồn tại. Vậy vật chất ( tồn tại) và ý thức (tinh thần, tư duy) có quan hệ như thế nào?
Các học thuyết triết học rất đa dạng, song bên cạnh đó cũng đều phải trả lời câu hỏi đó và
xem đó là điểm xuất phát lý luận. Câu trả lời này có ảnh hưởng trực tiếp đến những vấn
đề khác của triết học. Do đó vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất hay giữa tư duy và
tồn tại (linh hồn con người và thế giới bên ngoài ) được coi là vấn đề cơ bản của triết học. 1
*Tác phẩm nào Lênin đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất?
Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất ở tác phẩm: “ Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”.Bàn về phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện
chứng được V.I.Lênin đưa ra trong “ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”. Lêninđã đưa ra và luận giải về ba nội dung:
Thứ nhất, bối cảnh lịch sử của quan niệm Lênin về vật chất.
Thứ hai, những định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất.
Thứ ba, những đặc tính (thuộc tính) của vật chất theo quan điểm duy vật biện chứng.
2/Tại sao nói siêu hình và biện chứng là hai mặt đối lập của phương pháp tư duy?
Tại sao thời đại ngày nay càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy
vật? Cho ví dụ? Bài làm
Siêu hình và biện chứng là hai mặt đối lập của phương pháp tư duy:
★Siêu hình:là dùng để chỉ triết học,với tính cách là khoa học siêu cảm tính,phi thực
nghiệm,đặc thù của siêu hình là tính một chiều,tuyệt đối hóa mặt này hay mặt kia,phương
pháp tư duy này nhìn nhận sự vật một cách khô khan máy móc.Phương pháp siêu hình
xem xét các sự vật và các mặt trong sự vật tách rời nhau,xem xét sự vật trong trạng thái
tĩnh hoặc biến đổi thì chỉ biến đổi về lượng không thay đổi về chất,hoặc là này hoặc là
khác chứ không vừa như thế này vừa như thế khác.Chỉ có tác dụng trong phạm vi nhất định.
★Biện chứng : là nghệ thuật tranh luận để tìm chân lí bằng cách phát hiện mâu
thuẩn trong cách lập luận của đối phương và nghệ thuật bảo vệ những lập luận của
mình.Phương pháp biện chứng duy vật mềm dẻo,linh hoạt.Xem xét sự vật trong trạng
thái vận động biến đổi liên tục.Là phương pháp khoa học vừa khắc phục được những
hạn chế của phép biện chứng cổ đại,đẩy lùi phương pháp siêu hình vừa cải tạo phép biện
chứng duy tâm để trở thành phương pháp chung nhất của nhận thức và thực tiển.Phạm vi
xét rộng lớn bao trùm.
Tại sao thời đại ngày nay cần chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật?
Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức đòi hỏi
con người ta phải có chuyên môn, có khả năng vận dụng tri thức khoa học vào giải quyết
những vấn đề thực tiễn một cách hiệu quả nhất. Để nâng cao chất lượng của lực lượng
tri thức trình độ cao, cụ thể là không chỉ trang bị cho họ tri thức khoa học, mà cả năng
lực kết hợp lý luận với thực tiễn, gắn học với hành, cần phải có nhiều biện pháp tích cực
và đồng bộ, đặc biệt là việc bồi dưỡng cho họ năng lực tư duy biện chứng duy vật. Đây
là một yêu cầu quang trọng cần giải quyết tốt vấn đề này sẽ góp phần nâng cao chất 2
lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tư
duy biện chứng duy vật đòi hỏi chủ thể không chỉ phản ánh đúng những mối liên hệ, sự
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, mà còn phải nắm
vững và vận dụng nhuần nhuyễn những phương pháp, nguyên tắc của phép biện chứng
duy vật vào nhận thức và hoạt động thực tiễn.Do vậy khắc phục được lối tư duy phiến
diện một chiều để xem xét sự vật hiện tượng một cách đúng đắn và chính xác nhất. Tư
duy biện chứng duy vật có vai trò to lớn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người Ví dụ: ★★ Sinh viên:
1/Tư duy biện chứng duy vật giúp sinh viên, một mặt, khắc phục được lối tư duy siêu
hình, phiến diện, chiết trung, nguỵ biện; mặt khác, xem xét đánh giá vấn đề một cách toàn diện, đúng đắn.
2/Tư duy biện chứng duy vật giúp cho sinh viên khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ
và thái độ định kiến với cái mới.
3/Tư duy biện chứng giúp sinh viên tránh những sự sai lầm, mò mẫm, phỏng đoán thiếu
cơ sở khoa học và nguy cơ rơi vào ảo tưởng.
4/Tư duy biện chứng duy vật giúp cho sinh viên nhìn nhận sự vật, hiện tượng một cách
khách quan và khoa học, khắc phục sai lầm chủ quan.
5/Phương pháp tư duy biện chứng duy vật giúp sinh viên có điều kiện học tập và nghiên
cứu các môn khoa học khác một cách hiệu quả hơn.
6/Tư duy biện chứng duy vật giúp cho sinh viên có khả năng gắn kết lý luận với thực
tiễn, gắn học với hành.
3/Phân tích những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác. Đâu là văn kiện có
tính chất cương lĩnh chính trị đầu tiên củachủ nghĩa Mác? Bài làm
Phân tích điều kiện lịch sử ra đời của triết học Mác?
Triết học Mác-Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến nay. Từ khi ra
đời, triết học Mác-Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học và trở thành
thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn
của con người. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác nhìn chung có hai
nguồn gốc ra đời của triết học là nguồn tri thức và nguồn gốc xã hội. Đối với triết học thì
nuồng gốc ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau:
• Điều kiện kinh tế-xã hội
-Thứ nhất: Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
điều kiện cách mạng công nghiệp. 3
+Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong công nghiệp
làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
+Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được cũng cố vững chắc và trở thành xu thế
phát triển của nền sản xuất xã hội.
+Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công nghiệp.
+Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng cố tạo
ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triên kèm theo đó mâu thuẫn xã hội ngày càng
gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng.
+Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát triển thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
-Thứ Hai: Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử.
+Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.Khi chế độ tư bản chủ nghĩa xác lập, giai cấp
tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở thành giai cấp bị trị thì mâu
thuẫn giữa vô sản và tư sản vốn mang tình chất đối kháng phát triển trở thành những cuộc
đấu tranh giai cấp điển hình là cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở thành phố Lyon(Pháp) năm 1831, ở Anh có phong trào
Hiến chương vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX, nước Đức nổi lên phong trào đấu
tranh của thợ dệt ở Xilêdi đã mang tính chất giai cấp.Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp
tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng. Giai cấp tư sản tuy nắm quyền
thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí
tiên phong trong quá trình cải tạo dân chủ như trước.Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên
vũ đài lịch sử với sứ mệnh xía bỏ xã hội tư bản và trở thành lực lượng tiên phong trong
cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.
+Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của họ đã
tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để Các Mác và Ph. Ăngghen khai thác
xây dựng những quan điểm triết học.
Như vậy, từ thực tiễn xã hội (Đấu tranh của giai cấp vô sản chỉ là đấu tranh 1 cách tự
phát không làm thay đổi được địa vị xã hội của họ) đòi hỏi phải được soi sáng bằng
một hệ thống lý luận, một học thuyết triết học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để
định hướng phong trào đấu tranh chuyển từ tự phát sang tự giác để nhanh chóng đạt
được thắng lợi toàn diện.
• Điều kiện về mặt lý luận
-Sự kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học.
-Sự ra đời của triết học Mác phù hợp với quy luật của lịch sử tư tưởng của nhân loại, là
kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học nhân loại.
-Xây dựng học thuyết mới trong chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
-Triết học Mác ra đời là sự tác động qua lại với quá trình các ông kế thừa và cải tạo học
thuyết kinh tế chính trị của Anh và lý luận chủ nghĩa của xã hội. 4
-Các ông vừa phê phán chủ nghĩa duy tâm , vừa đánh giá cao tư tưởng biện chứng của
heghen, của phơbach, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với
nhau một cách hữu cơ; đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét giới tự
nhiên, xã hội và tư duy con người.
Từ những điều kiện trên, chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời
-Đến đầu thế kỷ XIX nền khoa học của nhân loại được phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh
vực của khoa học tự nhiên và xã hội.
+Trong khoa khoa học tự nhiên: có 3 phát minh vĩ đại
.Học thuyết tế bào: sự sống là sản phẩm của giới tự nhiên và là quá trình phát triển
đấu tranh chọn lọc của giới tự nhiên chứ không phải do thượng đế sáng tạo.
.Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: không có sự phát sinh ra và mất đi của
năng lượng mà chỉ có sự chuyển biến từ dạng này sang dạng khác.
.Thuyết tiến hóa của Đắc Uyn: các loài đang tồn tại hiện nay là sinh ra từ các loài
khác bằng con đường tự nhiên và sự biến đổi động vật và thực vật là do chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. -Trong khoa học xã hội:
+Triết học cổ điển Đức( Hêghen, Phơ Bách).
+Kinh tế chính trị học cổ điển Anh( A.Smith và Đ.Ricardo).
+Chủ nghĩa không tưởng phê phán.
-Những giá trị khoa học mà các nhà khoa học trên để lại đã tạo tiền đề cho các nhà tư
tưởng, các nhà khoa học kế thừa.
-Tất cả những tiền đề kinh tế-xã hội và tiền đề khoa học ở trên đều góp phần cho các nhà
tư tưởng, các nhà khoa học nhận thức được những mâu thuẫn trong xã hội tư bản từ đó đề
ra các giải pháp khắc phục các mâu thuẫn đó để xây dựng một xã hội thay thế.
Ý nghĩa: triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử,
không những vì nó là sự phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn cách mạng của giai
cấp vô sản mà còn là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại.
Đâu là văn kiện có tính chất cương lĩnh chính trị đầu tiên của chủ nghĩa Mác?
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” là văn kiện mang tính chất cương lĩnh, có giá trị lịch
sử và sứ sống thực tiễn của chủ nghĩa Mác.
4/Làm rõ và cho ví dụ về vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học
Mác – Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay? Bài làm
- vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội:
+Triết học nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng đặt ra và giải quyết rất
nhều vấn đề của đời sống xã hội như: tổng kết, đánh giá tri thức của con người; phê 5
phán, xác định các giá trị, truy tìm chân lý;phát trieenrtuw duy lý luận; xác định vị trí
vai trò của con người trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài; xác định mục tiêu
phương hướng hoạt động của con người….Trong số những vấn đề trên đây, trước hết
phải kể đến vấn đề có tính đặc trưng của triết học đó là vấn đề thế giới quan và
phương pháp luận chung nhất.
+Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế
giới, về bản thân con người, về mối quan hệ giữa con người và thế giới xung quanh
nhằm giải đáp những vấn đề về mục đích, ý nghĩa cuộc sống của con người. Thế giới
quan được hình thành trong quá trình con người sống, cải tạo thế giới và phát triển
nhận thức. Mặt khác hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người cần thiết phải
được định hướng một cách tự giác. Thế giới quan ra đời đáp ứng chính yêu cầu đó.
Tuy nhiên có nhiều loại hình thế giới quan và mỗi loại hình thế giới quan có tác động
đến hoạt động của con người với mức độ khác nhau. Thế giới quan khoa học phản
ánh đúng quy luật vận động phát triển của hiện thực khách quan, phán ánh đúng mối
quan hệ giữa con người và thế giới, vị trí của con người trong thế giới, giúp con
người xác định đúng mục tiêu, phương hướng hoạt động, từ đó con người điều chỉnh
hoạt động của mình phù hợp với quy luật khách quan, nhờ vậy hoạt động của con
người đạt được hiệu quả cao. Nhưng thế giới quan khoa học không hình thành một
cách tự phát.Muốn hình thành thế giới quan khoa học ơhari có một cơ sở lý luận khoa
học, mà lý luận đó tổng hợp những tri thức khoa học, tổng kết được kinh nghiệm lịch
sử của con người. Lý luận đó chỉ có thể là một hệ thống triết học khoa học. Triết học
khoa học là một hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học.
+Trong lịch sử phát triển của triết học đã tồn tại nhiều hệ thống triết học khác
nhau.Căn cứ vào cách giải quyết vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại mà người ta
phân chia các lý thuyết triết học thành các trường phái khác nhau như: triết học duy
tâm, triết học duy vật, triết học nhị nguyên, triết học bất khả tri,…. Triết học Mác -
Lênin là hình thức phát triển cao nhất và hợp lý nhất của triết học duy vật. Những đặc
điểmcủa triết học Mác -Lênin, như đã trình bày trong mục trên phản ánh bản chất
khoa học và nhân vân của triết học Mác - Lênin. Với những điều trình bày trên đây,
chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng: Trong thời đại ngày nay, triết học Mác - Lênin
thực sự đóng vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học. Thông qua việc
hình thành thế giới quan khoa học cho con người, triết học Mác - Lênintác động đến
mọi mặt của đời sống xã hội.
+Ngoài vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học, triết học Mác -
Lênin còn đóng vai trò phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và hoạt
động thực tiễn. Phương pháp luận là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc xuất
phát được rút ra từ một hệ thống lý luận để chỉ đạo con người xây dựng, lựa chọn và
vận dụng các phương pháp thích hợp nhất trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Phương pháp luận quyết định việc xác định phương pháp cụ thể thích hợp, từ đó ảnh
hưởng đến kết quả hoạt động của con người. Trên thực tế, chúng ta thấy có thể mục
tiêu phương hướng xác định đúng nhưng nếu phương pháp hoạt động không đúng 6
vẫn không đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy phải có phương pháp luận khoa
học, tức là phải có hệ thống các nguyên tắc xuất phát phản ánh đúng quy luật vận
động của các sự vật và hoạt động của con người. Nhưng nguyên tắc không thể được
đặt ra một cách tùy tiện theo ý muốn thuần túy chủ quan của con người, mà được rút
ra từ hệ thống lý luận. Nếu hệ thống lý luận không phản ánh đúng hiện thực khách
quan, chẳng hạn hệ thống triết học duy tâm, thì nguyên tắc phương pháp luận rút ra
từ đó cũng không phải là những nguyên tắc phù hợp. Như vậy, sự đúng đắn của hệ
thống lý luận là một trong những yếu tố đảm bảo cho sự đúng đắn của nguyên tắc
phương pháp luận. Triết học Mác - Lênin, trong đó có phép biện chứng duy vật là hệ
thống lý luận khoa học phản ánh đúng quy luật khách quan của sự vận động, phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Tính khoa học đó là yếu tố quyết định
đảm bảo cho việc xác lập những nguyên tắc phương pháp luận khoa học. Thông qua
việc cung cấp phương pháp luận khoa học làm cơ sở để xác định các phương pháp cụ
thể, triết học Mác - Lênin thể hiện vai trò của mình đối với đời sống xã hội. Tuy
nhiên không nên quan niệm rằng, triết học Mác - Lênin có thể giải quyết được mọi
vấn đề, là nhân tố quyết định hoàn toàn đến sự hình thành các nguyên tắc phương pháp luận khoa học.
+Triết học Mác - Lênin có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng. Mỗi quan điểm, nhận định của triết học Mác - Lênin đều có sự thống nhất
giữa quan điểm duy vật và quan điểm biện chứng. Do vậy triết học mác - Lênin vừa
có vai trò thế giới quan, vừa có vai trò phương pháp luận khoa học.
-Vai trò của thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác - Lênin trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay:
+Qua hai thật kỷ đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng
sản Việt Nam, nhân dân việt Nam đã giành được những thành tựu rất quan trọng. Các
thành tựu của Đảng và dân tộc đã giành được trong lĩnh vực vật chất và văn hóa tinh
thần là kết quả của trí tuệ, sức sáng tạo, tinh thần lao động cần cù, thông minh và
lòng dũng cảm của con người, của dân tộc Viêt Nam.
+Vào cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, sau khi đã
hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đất nước nằm trong thế bị bao vây, cấm vận
của các thế lực thù địch; sản xuất xã hội chậm phát triển, đời sống nhân dân rất khó
khăn, đâu đó đã manh nha xuất hiện dấu hiệu của cuộc khủng hoảng toàn diện. Lúc
đó tình hình chính trị thế giới có biến động dữ dội - sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu, sự thoái trào của phong trào cách mạng thế giới đã tạo nên một
cơn “động đất chính trị”. Dư chấn của nó, nếu không được ngăn chặn, có thể làm cho
mọi thành quả của cách mạng Việt Nam tiêu tan, giống như ở phần đông các nước
trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Trong bối cảnh vận mệnh của dân tộc đứng
trước tình thế hiểm nghèo, thành quả của cách mạng bị đe dọa, Đảng ta đã thực hiện
trách nhiệm to lớn của mình trước lịch sử, trung thành với lý tưởng cách mạng, nêu
cao khí phách độc lập sáng tạo, tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác - Lênin và tư 7
tưởng Hồ Chí Minh vào sức mạnh vĩ đại của nhân dân, chủ động tiến hành đổi mới
nhận thức tư duy, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế.
+Đến nay công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua 20 năm. Trong quá trình
đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng định hướng chính trị, toàn dân là đội ngũ
chủ lực của sự nghiệp đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, giáo
dục,….Kết quả của công cuộc đổi mới đã đưa cho dân tộc ta một xu thế mới, một lực
mới để cùng cộng đồng quốc tế bước vào thế kỷ XXI, thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong hàng loạt các nhân tố tạo
nên sự thành công của đổi mới tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò
đặc biệt quan trọng của triết học Mác - Lênin.
+Nguyên tắc bất di, bất dịch trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung
và đổi mới tư duy lý luận nói riêng ở nước ta là giữ vững độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định là nền
tảng tư tưởng của Đảng, của dân tộc, là nguyên tắc và phương pháp luận của sự
nghiệp đổi mới. Các nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận trong học thuyết
mácxít, trong hệ thống quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được các
lãnh tụ của Đảng, các nhà khoa học, các nhà lý luận nhận thức lại và lựa chọn để vận
dụng sáng tạo vào điều kiện mới.
5/Tại sao Lênin lại phải bảo vệ và phát triển sáng tạo triết học Mác? Phân tích các
thời kỳ Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác. Tác phẩm nào Lênin đưa ra định
nghĩa kinh điển về vật chất? Bài làm
*Tại sao Lênin lại phải bảo vệ và phát triển sáng tạo triết học Mác?
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang
một giai đoạn mới là giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ
nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ rõ nét; mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản ngày càng sâu
sắc mà điển hình là mâu thuẫn giai cấp giưa tư sản và vô sản. Tại các nước thuộc địa,
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc tạo nên sự thống nhất giữa cách mạng giải
phóng dân tộc với cách mạng vô sản, giữa nhân dân các nước thuộc địa với giai cấp công
nhân ở chính quốc. Trung tâm của các cuộc đấu tranh cách mạng này là nước Nga. Giai
cấp vô sản và nhân dân lao động Nga dưới sự lãnh đạo của đảng Bônsêvich đã trở thành
ngọn cờ đầu của cách mạng thế giới.
Trong giai đoạn này, cùng sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa là sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, đặc biệt trong lĩnh vực vật lý học, do bấp bênh
về phương pháp luận triết học duy vật nên rơi vào tình trạng khủng hoảng về thế giới
quan. Sự khủng hoảng này bị chủ nghĩa duy tâm lợi dụng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến
nhận thức và hành động của các phong trào cách mạng.
Đây cũng là thời kỳ chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi vào nước Nga. Để bảo vệ
địa vị và lợi ích của giai cấp tư sản, những trào lưu tư tưởng như chủ nghĩa kinh nghiệm 8
phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại…đã mang danh đổi mới chủ nghĩa Mác
để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa Mác.
Nhu cầu phải khái quát những thành tựu khoa học tự nhiên để rút ra những
kết luận về thế giới quan và phương pháp luận, phải thực hiện cuộc đấu tranh chống trào
lưu tư tưởng phản động và phát triển chủ nghĩa Mác đã được thực tiễn nước Nga đặt ra.
Trong bối cảnh đó để đáp ứng được nhu cầu lịch sử trên Lênin đã thực hiện bảo vệ và
phát triển sáng tạo triết học Mác.
*Phân tích các thời kỳ Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác?
Quá trình Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác có thể chia thành ba thời kỳ, tương
ứng với ba yêu cầu cơ bản khác nhau của thực tiễn, đó là:
- Thời kỳ từ 1893 đến 1907.
- Thời kỳ từ 1907 đến 1917.
- Thời kỳ từ sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công (1917) đến khi Lênin từ trần (1924).
+Những năm 1893 đến 1907: là những năm Lênin tập trung chống phái dân túy. Ông viết
tác phẩm Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ -
xã hội ra sao? (1894) tác phẩm vừa phê phán tính chất duy tâm và những sai lầm nghiêm
trọng của phái này khi nhận thức những vấn đề về lịch sử - xã hội, vừa vạch ra ý đồ của
họ khi muốn xuyên tạc chủ nghĩa Mác bằng cách xóa nhòa ranh giới giữa phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác với phép biện chứng duy tâm của Hêghen.Trong tác
phẩm này, Lênin cũng đưa ra nhiều tư tưởng về tầm quan trọng của lý luận, của thực tiễn
và mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Cũng trong những năm này, trong tác phẩm Làm gì? (1902) ông đã phát triển quan
điểm của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trước khi
giành chính quyền. Lênin đã đề cập nhiều đến đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu
tranh tư tưởng; đặc biệt, ông còn nhấn mạnh đến quá trình hình thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản.
Cuộc cách mạng Nga 1905 – 1907 thất bại. Thực tiễn cuộc cách mạng này đã được
Lênin tổng kết trong tác phẩm kinh điển mẫu mực Hai sách lược của Đảng
dân chủ- xã hội trong cách mạng dân chủ (1905). Ở đây, chủ nghĩa Mác đã được phát
triển sâu sắc những vấn đề về phương pháp cách mạng, nhân tố chủ quan và nhân tố
khách quan, vai trò của quần chúng nhân dân, vai trò của các đảng chính trị…trong cách
mạng tư sản giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
+Những năm 1907 đến 1917: là những năm vật lý học có cuộc khủng hoảng về thế giới
quan. Điều này tác động không nhỏ đến việc xuất hiện nhiều tư tưởng duy tâm theo quan
điểm của chủ nghĩa Makhơ phủ nhận chủ nghĩa Mác. Lênin đã tổng kết toàn bộ thành tựu 9
khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; tổng kết những sự kiện lịch sử giai
đoạn này để viết tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909).
Bằng việc đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức,
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, những nguyên tắc của nhận thức…Lênin đã không
những chỉ bảo vệ rất thành công mà còn phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới.
Sự bảo vệ và phát triển này còn thể hiện rõ nét ở tư tưởng của Lênin về nguồn gốc lịch
sử, bản chất và kết cấu của chủ nghĩa Mác trong tác phẩm Ba nguồn gốc và ba bộ phận
cấu thành chủ nghĩa Mác (1913 ), về Phép biện chứng trong Bút ký triết học (1914 –
1916), về nhà nước chuyên chính vô sản, bạo lực cách mạng, vai trò của Đảng cộng sản
và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trong Nhà nước và cách mạng (1917)…
+Những năm 1917 đến 1924:Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười (Nga) năm 1917 đã mở ra một thời đại mới thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sự kiện này làm nảy sinh những
nhu cầu mới về lý luận mà thời Mác-Ăngghen chưa đặt ra. Lênin đã tổng kết thực tiễn
cách mạng của quần chúng nhân dân, tiếp tục bảo vệ phép biện chứng duy vật, đấu tranh
không khoan nhượng chống chủ nghĩa chiết trung và thuyết ngụy biện đồng thời phát
triển chủ nghĩa Mác về nhân tố quyết định thắng lợi của một chế độ xã hội, về giai cấp,
về hai nhiệm vụ cơ bản của giai cấp vô sản, về chiến lược và sách lược của các đảng vô
sản trong điều kiện lịch sử mới, về thời kỳ quá độ, về kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã
hội theo chính sách kinh tế mới (NEP),…qua một loạt các tác phẩm nổi tiếng như: Bệnh
ấu trĩ” tả khuynh” trong phong trào cộng sản (1920), Lại bàn về công đoàn, về tình hình
trước mắt và về những sai lầm của đồng chí …(1921), Về chính sách kinh tế mới (1921),
Bàn về thuế lương thực(1921),…
Với những cống hiến to lớn ở cả ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác, tên tuổi
của Lênin đã gắn liền với chủ nghĩa này, di sản kinh điển của V.I.Lênin đã trở thành cơ sở
cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của đảng cộng sản, đánh dấu bước
phát triển toàn diện của chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác-Lênin.
*Tác phẩm nào Lênin đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất?
Trong tác phẩm “ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”
xuất bản năm 1909 Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất.
6/Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể trong phép biện
chứng duy vật trong quá trình đổi mới ở nước ta,Đảng ta đã vận dụng quan điểm
như thế nào? Bài làm
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổbiến - một trong
hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng. Đây là một phạm trù của phép biện
chứng duy vật dùng để chỉ sự quy định, tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các
sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. 10
Triết học Mác khẳng định: Cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là thuộc tính
thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện tượng dù đa dạng và khác nhau đến mấy
thì chúng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là vật chất mà
thôi. Ngay bản thân ý thức vốn không phải là vật chất nhưng cũng chỉ là sự phát triển đến
đỉnh cao của một thuộc tính, của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con
người, nội dung của ý thức có mối liên hệ chặt chẽ với thế giới bên ngoài.Theo triết học
Mác, mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là khách quan vốn có của bản thân chúng,
đồng thời mối liên hệ còn mang tính phổ biến và tính phổ biến ấy được thể hiện ở những
vấn đề sau đây:Xét về mặt không gian, mỗi sự vật hiện tượng là một chỉnh thể riêng biệt,
song chúng tồn tại không phải trong trạng biệt lập tách rời tuyệt đối với các sự vật hiện
tượng khác. Ngược lại, trong sự tồn tại của mình thì chúng tácđộng lẫn nhau và nhận sự
tác động của các sự vật hiện tượng khác. Chúng vừa phụ thuộc nhau, chế ước nhau, làm
tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển.Đó chính là hai mặt của quá trình tồn tại và phát
triển của sự vật, hiện tượng.Ănghen đã khẳng định: "Tất cả thế giới mà chúng ta có thể
nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể liên hệ khăng khít với
nhau và việc các vật thể ấy có mối liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này
tác động qua lại lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động".
Trong đời sống xã hội ngày nay không có một quốc gia, dân tộc nào mà không có mối
quan hệ, liên hệ với quốc gia, dân tộc khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Đây chính là
sự tồn tại, phát triển cho mỗi quốc gia, dân tộc.Trên thế giới đã và đang xuất hiện xu
hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của đời sống xã hội. Các quốc gia dân tộc ngày
càng phụ thuộc lẫn nhau,tác động lẫn nhau trên con đường phát triển của mình.Xét về
mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của sự vật hiện tượng thì mỗi sự vật hiện tượng đều được
tạo thành bởi nhiều nhân tố, nhiều bộ phận khác nhau và các nhân tố, bộ phận đó không
tồn tại riêng lẻ mà chúng được tổ chức sắp xếp theo một lôgíc nhất định, trật tự nhất định
để tạo thành chỉnh thể. Mỗi biện pháp, yếu tố trong đó mà có vai trò vị trí riêng của mình,
lại vừa tạo điều kiện cho các bộ phận, yếu tố khác. Nghĩa là giữa chúng có sự ảnh hưởng,
ràng buộc tác động lẫn nhau, sự biến đổi bộ phận nào đó trong cấu trúc của sự vật hiện
tượng sẽ ảnh hưởng đến bộ phận khác và đối với cả chỉnh thể sự vật,hiện tượng.Xét về
mặt thời gian, mỗi một sự vật hiện tượng nói riêng và cả thế giới nói chung trong sự tồn
tại, phát triển của mình đều phải trải qua các giai đoạn,các thời kỳ khác nhau và các giai
đoạn đó không tách rời nhau, có liên hệ làm tiền đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn
này làm mở đầu cho giai đoạn khác tiếp theo. Điều này thể hiện rõ trong mối liên hệ giữa
quá khứ - hiện tại -tương lai (hiện tại chẳng qua là bước tiếp theo của quá khứ và là bàn đạp cho tương lai).
Qua điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan,tính phổ biến vốn
có của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình mà nó còn nêu rõ tính phong
phú, đa dạng và phức tạp của mối liên hệ qua lại đó. Khi nghiên cứu hiện thực khách
quan có thể phân chia mối liên hệ thành từng loại khác nhau tuỳ tính chất phức tạp hay
đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông hay sâu, vai trò trực tiếp hay gián tiếp…
khái quát lại có những mối liên hệ sau đây: mối liên hệ bên trong - bên ngoài, chủ yếu - 11
thứyếu, chung - riêng, trực tiếp - gián tiếp, bản chất - không bản chất, ngẫu nhiên- tất
nhiên. Trong đó có những mối liên hệ bên trong, trực tiếp, chủ yếu,bản chất và tất nhiên
bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng, quyết định cho sự tồn tại và phát triển của sự vật,
hiện tượng. Triết học Mác xít đồng thời cũng thừa nhận rằng các mối liên hệ khác nhau
có khả năng chuyển hoá cho nhau,thay đổi vị trí của nhau và điều đó diễn ra có thể là sự
thay đổi phạm vi bao quát sự vật, hiện tượng hoặc có thể do kết quả vận động khách quan
của sự vật hiện tượng đó.
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng chúng ta rút ra
quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự vật hiện tượng cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Về mặt nhận thức, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong mối liên hệ tác
động qua lại với những sự vật, hiện tượng khác và cần phải phát hiện ra những mối liên
hệ giữa các bộ phận, yếu tố, các thuộc tính, các giai đoạn khác nhau của bản thân sự vật.
Lênin đã khẳng định: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt của mối liên hệ và quan hệ của sự vật đó". Để nhận thức đúng được sự
vật, hiện tượng cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn, ứng với mỗi
thời kỳ, giai đoạn, thế hệ thì con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được số lượng hữu hạn
các mối liên hệ. Vì vậy tri thức về các sự vật, hiện tượng chỉ là tương đối, không đầy đủ
và cần phải được hỏi chúng ta phải phát hiện ra không chỉ là mối liên hệ của nó mà còn
phải biết xác định phân loại tính chất, vai trò, vị trí của mỗi loại liên hệ đối với sự phát
triển của sự vật. Cần chống cả lại khuynh hướng sai lầm phiến diện một chiều, cũng như
đánh giá ngang bằng vị trí của các loại quan hệ.
Về mặt thực tiễn, quan điểm toàn diện đòi hỏi để cải tạo sự vật, hiện tượng cần làm thay
đổi mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng cũng như mối liên hệ giữa sự vật, hiện
tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Muốn vậy,cần phải xác định, sử dụng đồng bộ các
phương pháp, các biện pháp, phương tiện để giải quyết sự vật. Mặt khác, quan điểm toàn
diện đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn cần phải kết hợp chính sách dàn đều và chính sách
có trọng tâm, trọng điểm. Vừa chú ý giải quyết về mặt tổng thể vừa biết lựa chọn những
vấn đề trọng tâm để tập trung giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc giải quyết những vấn đề khác.
Quan điểm lịch sử - cụ thể
Khi xem xét và giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải chú ý đúng
mức tới hoàn cảnh lịch sử - cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra đời và phát triển
của nó, tới bối cảnh hiện thực - cả khách quan lẫn chủ quan. Khi quan sát một quan điểm,
một luận thuyết cũng phải đặt nó trong những mối quan hệ như vậy. Chân lý sẽ trở thành
sai lầm, nếu nó bị đẩy ra ngoài giới hạn tồn tại của nó. Chẳng hạn, khi đánh giá vị trí lịch
sử của mô hình hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc vào những năm 1960 - 1970, nếu
chúng ta không đặt nó vào trong hoàn cảnh miền Bắc, đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược, đặc biệt từ giữa những năm 1965 - khi đế quốc Mỹ đã đưa cuộc chiến tranh
xâm lược bằng không quân ra miền Bắc, không đặt nó trong điều kiện chúng ta còn thiếu
kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn bị ảnh hưởng rất lớn quan niệm về mô 12
hình chủ nghĩa xã hội đã được xác lập ở một loạt nước xã hội chủ nghĩa đi trước thì
chúng ta, một là, sẽ không thấy được một số giá trị tích cực của mô hình hợp tác xã trong
điều kiện lịch sử đó, hai là, sẽ không thấy hết những nguyên nhân bên trong và bên ngoài
dẫn đến việc duy trì quá lâu cách làm ăn như vậy, khi hoàn cảnh đất nước đã thay đổi.
Khái quát ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển, tức là phương pháp biện chứng trong việc nhận thức và hoạt
động thực tiễn, Ph.Ăngghen viết: “Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là
nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ
qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong
của chúng”. Trong cùng một cách xem xét vấn đề tương tự như vậy, V.I.Lênin cho rằng,
để có tri thức đúng về sự vật, “bản thân sự vật phải được xem xét trong những quan hệ
của nó và trong sự phát triển của nó”.
Đảng ta vận dụng quan điểm đó như thế nào
Quan điểm toàn diện còn được Đảng ta nhận thức và quán triệt ngay trong chính sách
phát triển kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đó là việc Đảng và Nhà nước vẫn thừa nhận vai trò tích cực của các thành
phần kinh tế khác cũng như thừa nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân. Tuy nhiên,
trong đó Đảng ta vẫn đặc biệt nhấn mạnh và coi trọng hình thức sở hữu công cộng với vai
trò chủ đạo là thành phần kinh tế quốc doanh trong cơ chế thị trường hiện nay, đặc biệt là
trong điều kiện nước ta đã trở thành thành viên chính thức của WTO,đây là một thách
thức rất lớn đối với một nước có thể nói là chậm phát triển,lạc hậu như Việt Nam chúng
ta. Và như thế, việc nhận thức và quán triệt tốt nguyên tắc toàn diện của Đảng có ý nghĩa
rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta trong thời gian tới. Việt Nam sẽ là nơi thu
hút rất lớn vốn đầu tư của nước ngoài cũng như chúng ta sẽ trở thành đối tác của rất nhiều
quốc gia kể từ khi gia nhập WTO, điều đó có nghĩa việc phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà
nước phải có chính sách, đường lối phù hợp để thành phần kinh tế quốc dân vẫn giữ được
vai trò chủ đạo, tạo đà cho sự phát triển của đất nước,đồng thời,bên cạnh đó với việc đầu
tư của tập đoàn tư bản nước ngoài vào Việt Nam thì việc đưa ra những chính sách điều
chỉnhnhằm ổn định,phát triển kinh tếđất nước là một nhiệm vụ quan trọng đặt ra trước
mắt chúng ta.Việc kết hợp chặt chẽ “Chính sách dàn đểu” và “Chính sách trọng điểm” có
ý nghĩa quan trọng trong việc lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng ta trong thời gian tới.
Quá trình hình thành quan điểm toàn diện đúng đắn với tư cách là nguyên tắc phương
pháp luận để nhận thức sự vật và sự vận dụng, quán triệt nguyên tắc trên của Đảng trong
sự nghiệp đổi mới đất nước đã đem lại rất nhiều thành công, đưa đất nước phát triển đi
lên với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội côngbằng, dân chủ, văn minh".
7/Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm phát triển trong phép biện chứng duy vật
trong quá trình đổi mới ở nước ta,Đảng ta vận dụng quan điểm phát triển như thế nào? Bài làm
I. Khái niệm về sự phát triển 13
– Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái
quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn.
II. Tính chất của sự phát triển
1. Tính khách quan của sự phát triển
– Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát triển một cách
khách quan, độc lập với ý thức của con người. Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của
con người có nhận thức được hay không, có mong muốn hay không.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện tượng. Đó là
sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi sự vật, hiện tượng.
Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện tượng.
– Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính khách quan của sự phát triển đã
phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình về sự phát triển.
Quan điểm duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu nhiên, phi
vật chất (thần linh, thượng đế), hay ở ý thức con người. Tức là đều nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.
Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng về cơ bản là “đứng im”, không phát
triển. Hoặc phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về mặt lượng (số lượng, kích thước…)
mà không có sự biến đổi về chất.
2. Tính phổ biến của sự phát triển
Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ hiện thực
khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy.
Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn luôn duy trì một trạng
thái cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó.
3. Tính kế thừa của sự phát triển
Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa, giữ lại, cải tạo ít nhiều
những bộ phận, đặc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng thời cũng đào thải,
loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu, không tích hợp của cái cũ. Đến lượt nó, cái mới này lại
phát triển thành cái mới khác trên cơ sở kế thừa như vậy.
Đó là quá trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
Quá trình này diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy trôn ốc.
4. Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển
Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại hình khác nhau.
Sự phong phú của các dạng vật chất và phương thức tồn tại của chúng quy định sự phong
phú của phát triển. Môi trường, không gian, thời gian và những điều kiện, hoàn cảnh khác
nhau tác động vào các sự vật, hiện tượng cũng làm cho sự phát triển của chúng khác nhau.
Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến
đổi của môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn…
Sự phát triển trong xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội ngày
càng lớn của con người. 14
Đối với tư duy, sự phát triển là năng lực nhận thức ngày càng sâu sắc, toàn diện, đúng đắn hơn.
-Đảng ta vận dụng nó như thế nào?
Trong công cuộc đổi mới, Ðảng ta, nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ðộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Ðảng và dân tộc
ta. Ðảng rất quan tâm tới khoa học công nghệ, tăng trưởng kinh tế, sự giàu có, nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, năng suất lao động, v.v.
Nhưng tất cả những điều đó chỉ là phương tiện và nấc thang cho chất lượng dân sinh và
hạnh phúc của con người - mục tiêu cao nhất của sự phát triển trong đường lối chính sách của Ðảng.
8/Phân tích con đường biện chứng của nhận thức theo quan niệm triết học Mác-
Lênin? Trong quá trình nhận thức bản thân anh/chị vận dụng quan điểm đó như thế nào? Bài làm
Nhận Thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan gắn liền với hoạt động thực tiễn.
V.I.Lênin đã khái quát quá trình đó như sau :” Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn –đó là con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
I. Khâu thứ nhất: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
1. Trực quan sinh động còn gọi là nhận thức cảm tính, đây là giai đoạn đầu tiên của quá
trình nhận thức.
Nó được thể hiện dưới 3 hình thức là cảm giác, tri giức và biểu tượng.
* Cảm giác:
– Đây là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của mọi hiểu biết của con người.
Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật vào các giác
quan của con người. Các giác quan đó là thị giác (mắt), thính giác (tai), vị giác (lưỡi),
khứu giác (mũi), xúc giác (tay, chân tiếp xúc với sự vật…).
– Sự vật hoặc hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác quan con người thì gây nên cảm
giác, như cảm giác về màu đỏ, tiếng nhạc, vị chát, mùi thơm, nước nóng…
Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật vào các giác quan con người, là
sự chuyển hóa năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Cảm giác là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ta có thể công thức hóa về cảm giác như sau:
+ Cảm giác A = Hình ảnh A mắt nhìn thấy.
+ Cảm giác B = Âm thanh B tai nghe thấy.
+ Cảm giác C = Vị giác C lưỡi nhận thấy.
+ Cảm giác D = Mùi hương D mũi nhận thấy.
+ Cảm giác E = Nhiệt độ hoặc mức độ thô ráp E của đồ vật khi tay sờ vào cảm thấy. * Tri giác:
Đây là hình thức tổng hợp nhiều cảm giác để đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự vật. 15
Tri giác nảy sinh trên cơ sở cảm giác, là sự kết hợp các cảm giác. So với cảm
giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận thức cảm tính; nó đem lại cho chúng
ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Ta có thể công thức hóa về tri giác như sau:
+ Tri giác 1 = Cảm giác A + Cảm giác B + Cảm giác C + Cảm giác D + …
+ Tri giác 2 = Cảm giác A’ + Cảm giác B’ + Cảm giác C’ + Cảm giác D’ + …
* Biểu tượng:
– Đây là hình ảnh của sự vật được con người giữ lại trong trí nhớ.
Sự tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại trong chúng ta những ấn tượng, những
hình ảnh về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu sắc đến mức có thể
hiện lên trong ký ức của chúng ta ngay cả khi sự vật không còn ở trước mắt. Đó chính là biểu tượng.
– Trong biểu tượng chỉ giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do cảm
giác, tri giác đem lại trước đó. Biểu tượng thường hiện ra khi có những tác nhân tác động,
kích thích đến trí nhớ con người.
Ta có thể công thức hóa về biểu tượng như sau:
Biểu tượng = Tri giác 1 + Tri giác 2 + Cảm giác X + Cảm giác Y +…
Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng.
Ở sự tưởng tượng đã mang tính chủ động, sáng tạo của con người. Tưởng tượng có vai
trò rất to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật.
– Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm
tính, song đã bắt đầu mang tính khái quát và gián tiếp. Có thể xem biểu tượng như là hình
thức trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính.
Trên cơ sở những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp, nhận thức sẽ phát triển lên một
giai đoạn cao hơn, đó là nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính còn gọi là tư duy trừu tượng.
2. Tư duy trừu tượng là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức,
nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính.
a. Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người sẽ rất hạn chế. Bởi vì con
người không thể chỉ với cảm giác, tri giác mà hiểu được những cái như độc lập, tự do,
hạnh phúc, tốc độ ánh sáng, hình thái kinh tế – xã hội… Muốn hiểu được những cái phức
tạp như vậy cần phải có sức mạnh của tư duy trừu tượng.
Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan.
b. Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, được biểu đạt thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy.
Tư duy có tính năng động, sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối liên hệ bản chất,
tất nhiên, bên trong của sự vật, do đó phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Muốn
tư duy, con người phải sử dụng các phương pháp như so sánh, phân tích và tổng hợp, khái
quát hóa và trừu tượng hóa…
c. Tư duy trừu tượng, hay nhận thức lý tính, được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy lý:
* Khái niệm: 16
+ Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên hệ và
thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, hiện tượng nào đó , chẳng hạn
cá khái niệm “xe máy”, “nhà hát”, “thể thao”, “giai cấp”…
+ Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa học.
Khái niệm là những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng. Khái niệm là những phương tiện
để con người tích lũy thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau.
+ Khái niệm có tính chất khách quan bởi chũng phản ánh những mối liên hệ, những thuộc
tính khách quan của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vì vậy, khi vận dụng khái
niệm, ta phải chú ý đến tính khách quan của nó. Nếu áp dụng khái niệm một cách chủ
quan, tùy tiện sẽ rơi vào chiết trung và ngụy biện.
+ Nội hàm của khái niệm không phải là bất biến mà luôn vận động, phát triển. Bởi vì hiện
thực khách quan luôn vận động và phát triển nên khái niệm phản ánh hiện thực đó cũng
phải vận động, phát triển theo, liên hệ chuyển hóa lẫn nhau, linh hoạt, năng động.
Do đó, ta phải chú ý đến tính biện chứng, sự mềm dẻo của các khái niệm khi vận dụng
chúng. Phải mài sắc, gọt giũa các khái niệm, phải bổ sung những nội dung mới cho các
khái niệm đã có, thay thế các khái niệm cũ bằng khái niệm mới để phản ánh hiện thực
mới, phù hợp với thực tiễn mới.
* Phán đoán:
+ Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng vận dụng các khái niệm để khẳng định
hoặc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan.
+ Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự
vật, hiện tượng trong ý thức của con người. Tuy nhiên, phán đoán không phải là tổng số
đơn giản những khái niệm tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái niệm
có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
+ Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo những quy tắc văn phạm nhất định. * Suy lý:
+ Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một hoặc nhiều
phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận.
Ví dụ: Ta có 2 phán đoán làm tiền đề: “Giấy rất dễ cháy” và “Sách làm từ dấy”. Từ 2
phán đoán này, ta đi đến phán đoán mới: “Sách rất dễ cháy”.
+ Nếu như phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm, thì suy lý là sự liên hệ giữa các
phán đoán. Suy lý là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng, thể hiện quá trình vận
động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận thức những cái chưa biết một cách gián tiếp.
Có thể nói, toàn bộ các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy lý. Nhờ có suy lý, con
người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về hiện thực khách quan.
+ Tuy nhiên, để phản ánh đúng hiện thực khách quan, quá trình suy lý phải xuất phát từ
những tiền đề đúng và phải tuân theo những quy tắc lô-gic. Do đó, nếu ta có những tiền
đề đúng và ta vận dụng một cách chính xác những quy luật của tư duy đối với những tiền
đề ấy thì kết quả phù hợp với hiện thực.
3. Sự thống nhất biện chứng giữa trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) và tư duy
trừu tượng (nhận thức lý tính). 17
a. Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn khác nhau về chất, có đặc
điểm và vai trò khác nhau trong việc nhận thức sự vật khách quan.
Trực quan sinh động là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động sự vật. Còn tư duy trừu
tượng là phản ánh gián tiếp, mang tính trừu tượng khái quát.
Trực quan sinh động mang lại những hình ảnh bề ngoài, chưa sâu sắc về sự vật. Còn tư
duy trừu tượng phản ánh được những mối liên hệ bên trong, bản chất, phổ biến, tất yếu
của sự vật. Do đó, tư duy trừu tượng phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn.
b. Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ, tác
động lẫn nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, không tách rời nhau.
Chúng cùng phản ánh thế giới vật chất, có cùng một cơ sở sinh lý duy nhất là hệ thần
kinh của con người và điều cùng chịu sự chi phối của thực tiễn lịch sử – xã hội.
c. Trực quan sinh động là cơ sở của tư duy trừu tượng. Không có trực quan sinh động thì
không có tư duy trừu tượng. Trái lại, trực quan sinh động mà không có tư duy trừu tượng
thì không thể nắm bắt được bản chất và quy luật của sự vật.
Vì vậy, cần phải phát triển trực quan sinh động lên tư duy trừu tượng; tư duy trừu tượng
sẽ giúp trực quan sinh động trở nên chính xác. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan
xen vào nhau trong quá trình nhận thức.
d.Một hình thức đặc biệt của nhận thức là trực giác.
Trực giác là năng lực nắm bắt trực tiếp chân lý không cần lập luận lô-gic trước.
Trực giác có những tính chất như bỗng nhiên, bất ngờ, tính trực tiếp và tính không ý thức
được. Tuy nhiên, tính bỗng nhiên, bất ngờ của trực giác không có nghĩa nó không dựa gì
trên tri thức trước đó mà nó dựa trên những kinh nghiệm, những hiểu biết được tích lũy từ trước.
Trực giác là tri thức trực tiếp song có liên hệ với tri thức gián tiếp. Trực giác được môi
giới bởi toàn bộ thực tiễn và nhận thức có trước của con người, bởi kinh nghiệm của quá khứ.
Tính không ý thức được của trực giác không có nghĩa nó đối lập với ý thức, với những
quy luật hoạt động của lô-gic. Trực giác là kết quả hoạt động trước đó của ý thức. Trực
giác là kết quả của sự dồn nén trí tuệ và tri thức dẫn đến sự “bùng nổ” bằng nhiều thao
tác tư duy phát triển ở trình độ khác nhau.
Trực giác là sản phẩm của tài năng và sự say mê, sự kiên trì lao động khoa học một cách nghiêm túc.
II. Khâu thứ hai: Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
a. Nhận thức đến trình độ tư duy trừu tượng rồi thi ta phải quay trở về thực tiễn để
kiểm tra. Chỉ có qua thực tiễn ta mới có thể xác định được nhận thức đó là đúng đắn hay sai lầm.
Mục đích của nhận thức là để định hướng cho hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động cải
tạo thế giới. Đến lượt mình, hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
b. Quay trở về thực tiễn, nhận thức hoàn thành một quy trình biện chứng của nó. Trên cơ
sở hoạt động thực tiễn, một quy trình nhận thức mới lại bắt đầu và cứ thế mãi mãi. Vận dụng quan điểm? 18
Thứ nhất, luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa học, sáng tạo. Tư duy biện chứng sẽ giúp
sinh viên cái nhìn toàn diện, phân biệt tri thức đúng, sai; chỉ ra nguyên nhân cái sai, và
khẳng định, phát triển tri thức đúng đắn. Sinh viên tự học, tự nghiên cứu, giải thích thực
tiễn biến đổi, đưa ra những giải pháp mà thực tiễn đặt ra…
Thứ hai, có phương pháp học tập, làm việc đúng đắn; sinh viên không còn phải học vẹt,
học tủ; mà học hiểu, biết vận dụng, biết đánh giá và sáng tạo ra tri thức mới.
Thứ ba, loại bỏ tư duy siêu hình, cứng nhắc, bảo thủ, trì trệ...
9/Phân tích hoàn cảnh ra đời và nội dung định nghĩa vật chất Lênin. Ý nghĩa của
định nghĩa đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học? Bài làm
*Hoàn cảnh ra đời:
-Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX với những phát minh mới trong khoa học tự nhiên, con
người có những hiểu biết sâu sắc hơn về nguyên tử: + 1895: Roentgen phát hiện ra tia X
+ 1896: Becquerel phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.
+ 1897: Thomson phát hiện ra điện tử và cấu tạo của nguyên tử
+ 1901: Kaufman chứng minh khối lượng của nguyên tử không ổn định.
-> Cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực nghiên cứu Vật Lý học.
-> Chủ nghĩa duy tâm xuyên tạc rằng vật chất bị tiêu tan chỉ còn ý thức, duy vật mất đi chỉ còn duy tâm.
-> Triết học duy vật lúc này cần phải đưa ra được một quan niệm đúng đắn, khoa học về phạm trù vật chất.
*Nội dung định nghĩa:
-Định nghĩa: Trong tác phẩm “ chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy vật phê phán”
Lênin đã đưa ra định nghĩa về “vật chất” như sau:”vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chụp lại,chép lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác”. -Phân tích:
Cách định nghĩa: Phạm trù vật chất là phạm trù rộng, mà cho đến nay,thực ra nhận thức
luận chưa qua được. Khi định nghĩa phạm trù này khôn thể quy nó về vật thể hoặc thuộc
tính cụ thể nào đó, cũng không thế quy về phạm trù rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy
chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ ý thức của phạm trù đối lập với nó
và trong mối quan hệ ấy, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai.
Trong định nghĩa này, Lênin phân biệt hai vấn đề:
+Thứ nhất: cần phân biết vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan điểm về
khoa học tự nhiên về cấu tạo và các thuộc tính cụ thể của các đối tượng, các dạng vật chất
khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung , vô hạn,
vô tận, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn.
Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất về vật chất nói
chung với các dạng vật chất cụ thể như các nhà triết học duy vật trong lịch sử Cổ đại và Cận đại.
+Thứ hai: là trong nhận thức luận,khi vật chất đối lập ý thức, cái quan trọng để nhận biết
vật chất là thuộc tính khách quan. Khách quan theo Lênin là “cái đang tồn tại độc lập với
con người và với cảm giác của con người”. Trong đời sống xã hội,” vật chất là cái tồn tại 19
xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người”. Về mặt nhận thức luận thì khái
niệm vật chất chính là “thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người và
được con người phản ánh”
Như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
+Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất
kể sự tồn tại ấy con người nhận thức được hay chưa nhận thức được.
+Vật chất là cái gây ra cảm giác cho con người khi trực tiếp hay gián tiếp tác động lên
giác quan của con người.
+Cảm giác, tư duy, ý thức là phản ánh của vật chất.
Với những nội dung cơ bản trên, phạm trù vật chất trong quan niệm của Lênin có ý nghĩa vô cùng to lớn.
*Ý nghĩa định nghĩa vật chất:
+Khắc phục được hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ, hạn chế
duy tâm trong quan niệm về xã hội.
+ Khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức. Khẳng định khả năng
con người nhận thức được thực tại khách quan
*Nhận thức khoa học:
Khẳng thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, không bao giờ biến mất, luôn luôn
vận động, định nghĩa đã cổ vũ các nhà khoa học (nhà vật lý học, nhà hóa học, nhà sinh
học…) kiên trì, đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất để tìm ra những kết cấu mới, những
dạng thứcthuộc tính, quy luật vận động mới của vật chất, từ đó làm phong phú, sâu sắc
hơn kho tàng tri thức của nhân loại.
Ví dụ tiêu biểu là vào tháng 9/1995, tại Trung tâm Nghiên cứu hạt nhân châu Âu
(CERN), theo lý thuyết về phản hạt, các nhà khoa học đã tiến hành thực nghiệm tạo ra
được 9 phản nguyên tử, tức là 9 phản vật thể đầu tiên.
10/Ý thức là gì? Tại sao bộ não con người – một tổ chức sống vật chất cao lại có thể
sinh ra ý thức? Vai trò của ý thức đối với vật chất và ý nghĩa phương pháp luận? Bài làm
-Ý thức: Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lenin là một phạm trù song song với
phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ
óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất
sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến
hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế
bào thần kinh. Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền
và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài thông
qua các phản xạ có điều kiện và không điều kiện. - Nguồn gốc tự nhiên:
Ý thức là kết quả của quá trình tiến hoá của thuộc tính phản ánh ở mọi dạng vật chất.
Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi vật chất. Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm
của của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua
lại giữa chúng.Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật (vật tác động và vật
nhận tác động). Trong quá trình ấy vật nhận tác động bao h cũng mang thông tin của vật 20
tác động. Trong quá trình tiến hoá của thế giới vật chất, các vật thể càng ở bậc thang cao
bao nhiêu thì hình thức phản ánh của nó càng phức tạp bấy nhiêu. Hình thức phản ánh
đơn giản nhất, đặc trưng cho giới vô sinh là những phản ánh vật lý, hoá học, nó là những
hình thức phản ánh có tính chất thủ động, chưa có định hướng sự lựa chọn. Hình thức
phản ánh sinh học phản ánh đặc trưng cho giới tự nhiên sống là bước phát triển mới về
chất trong sự tiến hóa của các hình thức phản ánh. Phản ứng sinh học thể hiện ở nhiều
cấp độ khác nhau như: tính kích thích, tính cảm ứng, tính tâm lý. Nhưng những mức độ
đó chưa phải là ý thức mà nó chỉ là sự phả ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp
sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối. Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản
ánh thế giới hiện thực, ý thức là hình thức phản ánh chỉ có ở con người.
Như chúng ta biết ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con
người. Bộ óc người là cơ quan phản ánh, song chỉ có bộ óc thôi thì chưa có ý thức.
Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì
hoạt động ý thức không thể xảy ra. Như vậy bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác
động lên bộ óc đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. - Nguồn gốc xã hội:
Để cho ý thức ra đời những tiền đề nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng không thể thiếu
được nhưng lại chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề
nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con người nhờ lao
động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những sản phẩm
phục vụ cho nhu cầu của mình, trong đó con người đóng vai trò môi giới, điều tiết và
giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao động là hoạt động đặc thù
của con người, lao động luôn mang tính tập thể xã hội. Lao động có vai trò:
+ Lao động đã sang tạo ra bản thân con người nhờ có con ngườimà con người có thể
tách ra khỏi thế giới động vật.
+ Lao động làm hoàn thiện cơ thể con người đặc biệt là bộ óc và các giác quan.
+ Thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận
động của mình trong quá trình lao động.
+ Trong lao động đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý
thức không thể tồn tại và thể hiện được. Vai trò của ngôn ngữ:
+ Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, trao đổi kinh nghiệm, trao đổi tri
thức từ thế hệ này sang thế hệ khác
+ Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn đồng thời là công cụ của tư duy
nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực.
Vậy nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là
lao động là thực tiễn xã hội.
*Vai trò của ý thức đối với vật chất:
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. 21
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con
người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay
đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động
của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra
hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách
quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương huớng, xây dựng kế
hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu
của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt
động thực tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu
cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có
nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con
người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của
mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích cực cúa ý thức. Còn nếu ý thức của
con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì
ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan,
hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết định
hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công
hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý
thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng
tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở
lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn
(hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc
vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành
động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất,
trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ con người hiện thực, con người thực tiễn để
xem xét mối quan hệ này. Từ đó khảng định, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của con người
* Vật chất quyết định ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết định nguồn
gốc, bản chất, nội dung sự biến đổi của ý thức. *Ý nghĩa pp luận:
1/ Vì vật chất quyết định ý thức, sinh ra ý thức cho nên mọi chủ trương CS hoạt động
nhận thức, hoạt động con người đều phải xuất phát từ hiện thực khách quan và hoạt động
tuân theo quy luật khách quan, nghĩa là chúng ta phải có quan điểm khách quan trong
nhận thức hoạt động thực tiễn.
2/ Xuất phát từ hiện thực khách quan, không phải từ những cái lẻ tẻ của hiện thực khách
quan, phải xuất phát từ cái chung là quy luật khách quan. 22
Nghị quyết 6 của Đảng là bài học kinh nghiệm là phải nắm vững hiện thực khách quan.
+ Hoạt động tuân theo quy luật (quan điểm khách quan) là nhận thức sự vật phải tôn
trọng chính nó có, phải phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của sự vật và chống
chủ nghĩa khách quan, đồng thời chống chủ quan duy ý chí.
3/Vì ý thức có tính độc lập tương đối, có tính năng động sáng tạo có thể tác động trở lại
vật chất thông qua hoạt động con người, cho nên cùng với xuất phát từ cái hiện thực
khách quan thì phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy mặt tích cực ý
thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.
Ví dụ: Trước một trận đánh làm quyết tâm thư, tự phê bình và phê bình, rút ra những
nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực.
Giáo dục nhận thức thông qua phong trào, thực tiễn tư tưởng cục bộ đ phong, đạo đức giả
4/ Giữa vật chất và ý thức chỉ có đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức luận. Ngoài
lĩnh vực đó ra, sự phân biệt chỉ là tương đối (Câu của LêNin)
Vì thế một chính sách đúng đắn là cơ sở liên kết hợp hai yếu tố này.
Ví dụ: giáo dục chính trị, tư tưởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật chất như đạt
danh hiệu thi đua, được phần thưởng.
+ Công tác tư tưởng phải gắn liền với công tác tổ chức nếu tuyệt đối hóa yếu tố vật chất,
yếu tố kinh tế mà coi nhẹ ý thức của con người, coi nhẹ tính năng động, sáng tạo của con
người sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, ngược lại nếu tuyệt đối hóa yếu tố ý thức
và coi nhẹ điều kiện vật chất nhất định thì sẽ rơi vào chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
Ví dụ: một thời kỳ đề ra vấn đề công hữu, xây dựng quan hệ sản xuất không dựa trên lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này,
vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song
ý thức không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người.
11/Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa pp luận và sự
vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới Đất nước Bài làm
*Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.
Vật chất là cái có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức: Nguồn gốc của ý thức chính là
vật chất: bộ não ngưòi – cơ quan phản ánh thế giơí xung quanh, sự tác động của thế giới
vật chất vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên
Lao động và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc
tự nhiên quyết định sự hình thành,tồn tại và phát triển của ý thức . Mặt khác,ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Vật chất là đối tượng,khách thể của ý thức,nó
quy định nội dung,hình thức,khả năng và quá trình vận động của ý thức . -Tác động trở
lại của ý thức Ý thức do vật chất sinh ra và quy định, nhưng ý thức lại có tính độc lập
tương đối của nó.Hơn nữa, sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh
thần, phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động, máy móc, nguyên si thế giới
vật chất, vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của 23
con người. Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu,
phương hướng, xác định phương pháp, dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy. Vì vậy, ý
thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu: Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều
kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của
đối tượng vật chất. Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt
động của con người không ph ù hợp với quy luật khách quan, do đó sẽ kìm hãm sự phát
triển của vật chất. Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức
độ nhất định chứ nó không thể sinh ra hoăc ̣ tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất
được. Và suy cho cùng, dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới
vật chất. Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng
thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội . Ngoài ra,
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu, xem xét các mối quan hệ
khác như: lý luận và thực tiễn, khách thể và chủ thể,vấn đề chân lý … *Ý nghĩa pp luận:
Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức cái
đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội_
để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ những
nguyên nhân tinh thần nào.“ tính khách quan của sự xem xét” chính là ở chỗ đó . Mặt
khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho nên trong
nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố tinh thần. Trong
hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và giải quyết những
nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng thời cũng phải nâng cao
nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố tinh thần, tạo thành sức
mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao. Không chỉ có vậy,
việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi,
bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời và thổi từng vai trò của từng
yếu tố vật chất hoặc ý thức.
*Sự vận dụng của Đảng:
Trong quá trình đổi mới mọi chủ trương chính sách của đảng đều phải xuất phất từ đời
sống vậy chất, từ thực tế khách quan thì mới sát hợp với cuộc sống và mới có tác dụng.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Đảng chủ
trương: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực trong cả nước và ngoài nứơc, đặc biệt là
nguồn lực toàn dân vào công cuộc đổi mới”. Như vậy phải phát huy năng lực sáng tạo và
sức chiến đấu của Đảng và phát huy sức mạnh toàn dân, đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới, sớm đưa nứoc tar a khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng văn minh
12/Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng quy luật đó như thế nào ở
nước ta giai đoạn hiện nay? Bài làm
*Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: 24
2. Lực lượng sản xuất:
a. Định nghĩa: là sự biểu hiện giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất
tạo ra của cải vật chất, biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người.
-Lực lượng sản xuất là thước đo quan trọng cho sự tiến bộ của xã hội
b. Kết cấu của lực lượng sản xuất:
-LLSX là sự thống nhất giữa hai yếu tố là con người và tư liệu sản xuất
+Người lao động (Sức lao động): toàn bộ năng lực và trí tuệ của con người thông qua tư
liệu lao động được kết tinh vào sản phẩm phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng,
kỹ xảo, thói quen, kết hợp các yếu tố đạo đức, tâm lý, khoa học,… biết sử dụng TLSX để
tạo ra của cải vật chất.
Lênin nói “LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”
+TLSX là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành sản xuất. Nó bao gồm đối
tượng lao động và tư liệu lao động
. Đối tượng lao động: không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ là một bộ phận của giới
tự nhiên được con người sử dụng để tạo ra của cái vật chất. Đối tượng lao động gồm hai
dạng: dạng tự nhiên sẵn có và dạng nhân tạo.
. Tư liệu lao động: là vật thế hay phức hợp vật thể mà con người đặt dưới mình với đối
tượng lao động. Tư liệu lao động gồm 2 bộ phận: công cụ lao động và tư liệu lao động.
< Công cụ lao động là vật nối trung gian giữa con người với tư liệu lao động. Theo
Ănghen “ Công cụ lao động là khí quan của bộ óc con người, là tri thức được vật thể hóa
có tác dụng nối dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ con người.
< Phương tiện lao động (xe, nhà kho,… ) Tóm lại:
Trong các yếu tố này không thể thiếu người lao động, người lao động là nhân tố chủ quan
hàng đầu của LLSX. Hơn thế nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động
có trí tuệ và lao động trí tuệ.
Khi con người tiến hành lao động SX thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất,
động nhất và cách mạng nhất. Tóm lại, trình độ của công cụ lao động là thước đo trình độ
chinh phục tự nhiên của con người
*Khoa học công nghệ (chỉ ngày nay mới có)
Vài trò của Khoa học công nghệ theo quan điểm của Mác-Lênin:
+Khoa học có vai trò nâng cao trình độ con người
+Khoa học có vai trò nâng cao công cụ lao động
+Khoa học có vai trò kết hợp người lao động với công cụ lao động, tạo nên năng suất lao
động cao và đây là cái đích cuối cùng của Khoa học 3. Quan hệ sản xuất:
a. Khái niệm: là biệu hiện sự quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
-Quan hệ sản xuất về lĩnh vực đời sống vật chất xã hội do đó mang tính khách quan
- Mội loại QHSX đặc trưng cho 1 hình thái kinh tế-xã hội
b. Kết cấu quan hệ sản xuất:
-Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu tư liệu sản xuất
- Quan hệ giữa người với người đối với việc tố chức quản lý
- Quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm lao động 25
=> 3 mặt của QHSX có quan hệ biện chứng thống nhất với nhau, trong đó quan hệ sở hữu
đối với TLSX là quan trọng nhất. Nó quyết định và chi phối tới tất cả các quan hệ khác.
Mác nói “ Trong mối quan hệ này thì QHSX là quan trọng nhất nhưng quan hệ sở hữu
này không đơn giản mà có được”
4. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX:
*Tính chất của LLSX: là tính chất của LLSX và của người lao động. Nền sản xuất đó
thủ công cá thể hoặc bằng máy móc tập thể, thể hiện là sự đòi hỏi phân công lao động trong nền sản xuất
*Trình độ của LLSX: được biểu hiện ở trình độ công cụ lao động cộng với trình độ tổ
chức lao động xã hội + trình độ ứng dụng khoa học và công nghệ + kinh nghiệm, kỹ năng
lao động của con người + trình độ phân công lao động
a. QHSX được hình thành và biến đổi dưới ảnh hưởng quyết định của LLSX:
-LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức sản xuất nhưng trong đó LLSX là mặt động
thường xuyên biến đổi, còn QHSX mang tình bảo thủ, trì trệ hơn, thê hiện con người luôn
cải tiến công cụ để giảm nhẹ lao động, thời gian lao động, tạo nên năng suất lao động
hiệu quả cao. Vì vậy công cụ lao động là yếu tố động nhất trong LLSX cho nên công cụ
lao động thay đổi dẫn hến QHSX thay đổi theo và thể hiện SX ngày càng mang tình chất xã hội cao.
-Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX giống như mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
Nội dung là cái quy định hình thức. Nội dung thay đổi thì hình thức cũng thay đổi theo.
-Tính chất và trình độ của LLSX là quyết định đối với sự phát triển của QHSX. Trong lực
lượng SX có nhiều yếu tố khác nhưng quyết định nhất đối với việc hình thành và phát
triển mối quan hệ sản xuất là do tính chất và trình độ của LLSX quyết định quan hệ chặt
chẽ như thế nào giữa người lao động với người lao động chứ không phải do phương pháp
của đối tượng lao động hoặc tư liệu lao động. Điều này được Mác chứng minh, Mác nói “
Trong phương thức sản xuất kiếm sống của mình mà con người làm thay đổi các quan hệ
xã hội của mình, các cối xay quay bằng tay đem lại xã hội có lãnh chúa phong kiến, cái
cối xay chạy bằng hơi nước đem lại xã hội có nhà TBCN”.
-Trong các hình thức kinh tế không phải lúc nào LLSX cũng quyết định được quan hệ sản
xuất. Cho nên mâu thuẫn được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp.
b. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX:
-LLSX phát triển được là nhờ nhiều yếu tố quyết định như dân số, hoàn cảnh địa lý, trình
độ phát triển của khoa học, còn QHSX chỉ giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của LLSX.
-QHSX là sự phản ánh LLSX như chính nó lại quy định mục đích của SX, khuynh hướng
phát triển của các nhu cầu về lợi ích vật chất và tinh thần, quyết định hệ thống quản lý
sản xuất và quản lý xã hội. Bởi vậy nói QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX thì nó sẽ thúc đẩy, tạo điều kiện cho LLSX phát triển. Còn nếu QHSX không phù
hợp với tính chất và trình độ lao động thì nó sẽ cản trở LLSX.
-Sự tác động của QHSX đối với LLSX: chỉ khi xem xét QHSX trong một tình huống đầy
đủ với 3 mặt của nó, đồng thời chịu sự chi phối của các yếu tố chung :
+ Các quy luật kinh tế cơ bản
+ Phụ thuộc vào trình độ của người lao động 26
+ Tùy thuộc vào sự phát triển của khoa học, công nghệ
-Trong xã hội các đối kháng giai cấp thì khi LLSX phát triển tới mức QHSX cản trở sự
phát triển của nó thì CMXH là bước cuối cùng để thay đổi QHSX hiện có
Như vậy, ta có thể khẳng định:
-Quy luật về sự phù hợp của QHSX và tính chất, trình đồ của LLSX là quy luật chung
cho toàn xã hội loài người, chính sự tác động của quy luật này làm cho xã hội loài người
phát triển từ hình thái kinh tế XH này sang hình thái kinh tế XH khác cao hơn
-Quy luật này là cơ sở để chống lại các quan điểm duy tâm tôn giáo về sự phát triển của lịch sử
-Quy luật này là cơ sở lý luận cho việc hoạch định các đượng lối của Đảng, phê phán các
chủ trương sai lầm trong việc xây dựng phương pháp sản xuất mới.
-Đây là quy luật khách quan, tất yếu đối với 5 hình thái kinh tế, xã hội và lịch sử của nhân loại **Vận dụng quan điểm:
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng chủ trương giải phóng mạnh mẽ hơn nữa LLSX, phát
huy nguồn lực toàn XH, mọi công dân, mọi vùng, mọi ngành kinh tế,phát triển, phát triển
khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo, phát triển con người, nâng cao chất lương
nguồn lực, phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp
hóa – hiện đại hóa, phát triển và ứng dụng kinh tế tri thức, định hướng tạo điều kiện cho
các thành phần kinh tế khác phát triển. 27 28