Câu hỏi tự luận - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Câu hỏi tự luận - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VỚI CTTGT2 1929
Cuộc Đại suy thoái là một sự kiện trên toàn thế giới bắt đầu ở Hoa Kỳ vào năm
1929 và kéo dài đến năm 1939. Các nhà sử học tin rằng cuộc Đại suy thoái chắc
chắn là một trong những lý do gây ra Thế chiến II.
Tháng 10/1929, thị trường chứng khoán Mỹ sụp đổ. Trước khi sụp đổ, tình hình tài
chính của mọi người có lẽ đã tốt hơn bao giờ hết. Thật dễ dàng để có được tín
dụng, điều đó có nghĩa là có rất nhiều chi tiêu cho những thứ là mặt hàng xa xỉ.
Khi mọi người chi tiêu nhiều hơn, giá cả tăng lên. Ngành công nghiệp nổi lên để
xây dựng những thứ cần thiết cho Thế chiến I vẫn đang sản xuất sắt thép. Có sự gia
tăng trong việc chế tạo ô tô vì nhiều người có thể mua được chúng và các nhà sản
xuất xe hơi cần thuê công nhân. Nông dân đã sản xuất nhiều thực phẩm hơn mức
họ có thể bán, vì vậy tại một thời điểm, họ đã vứt bỏ rau, trứng, sữa, lúa mì và gạo
thay vì bán nó với giá rẻ. Nền kinh tế Mỹ không thể duy trì chi tiêu quá mức. Khi
thị trường chứng khoán sụp đổ, đất nước rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế
lớn.
Sự sụp đổ đồng nghĩa với việc giá trị của các cổ phiếu lớn giảm xuống mức thấp
nhất từ trước đến nay. Khi điều này xảy ra, các công ty không thể duy trì hoạt động
vì họ không có tiền để trả lương. Khi các công ty đóng cửa, mọi người mất việc
làm. Các ngân hàng đột nhiên đóng cửa, và mọi người mất bất kỳ khoản tiền nào
họ có trong cổ phiếu hoặc tài khoản tiết kiệm. Hàng triệu người Mỹ đã mất tất cả
tiền của họ. Người dân đột ngột ngừng chi tiêu, khiến các doanh nghiệp cung cấp
hàng hóa, dịch vụ phải đóng cửa. có thức ăn để đặt lên bàn là một khó khăn đối với
nhiều người Mỹ. Không có thu nhập, nhiều gia đình phải phụ thuộc vào bếp canh
và hàng bánh mì hoặc vườn rau và săn bắn. Có những cuộc bạo loạn lương thực
nằm rải rác trên khắp đất nước, và một số thành phố lớn báo cáo rằng một số gia
đình đã chết vì đói hoặc các bệnh liên quan đến suy dinh dưỡng. Cả đất nước rơi
vào hoảng loạn. Các quốc gia trên toàn thế giới cũng có những trải nghiệm tương
tự.
Trong 5 năm đầu tiên của cuộc Đại suy thoái, nền kinh tế Mỹ đã suy giảm hơn
50% với 650 ngân hàng phá sản. Đến năm 1933, khi cuộc Đại suy thoái đạt đến
mức thấp nhất, khoảng 15 triệu người Mỹ thất nghiệp. Vào thời điểm này, các nền
kinh tế trên toàn thế giới đang ở mức thấp và những hoàn cảnh này đã tạo ra một
điều kiện hoàn hảo cho các cuộc xung đột. Thương mại thế giới đã sụp đổ. Các nền
dân chủ phải vật lộn để tồn tại vì mọi người nghĩ rằng dân chủ và các nhà lãnh đạo
dân chủ đã làm thất bại công dân trên toàn thế giới. Mọi người đói và vô gia cư
trên khắp thế giới. Các quốc gia ở châu Âu đang phải vật lộn để phục hồi sau
những thiệt hại to lớn đã xảy ra với đất nước của họ trong chiến tranh.
Người dân đã tức giận và thất vọng. Nhật Bản, một đồng minh trong Thế chiến I,
cũng phải chịu đựng tương tự. Hầu hết thực phẩm và nguyên liệu thô của họ được
nhập khẩu từ các nước khác. Khi thương mại sụp đổ, nguồn cung cấp chính của họ
biến mất. Đến giữa những năm 1930, điều kiện kinh tế bắt đầu cải thiện chậm,
nhưng sự phục hồi hoàn toàn đã không được thực hiện cho đến cuối thập kỷ. Mười
năm là một khoảng thời gian dài để mọi người phải chịu đựng một môi trường kinh
tế khắc nghiệt.
Gần cuối cuộc Đại suy thoái ở châu Âu, một số lượng lớn các chính trị gia đã nắm
lấy cơ hội để vươn lên nắm quyền. Ngoài những người đang gặp khó khăn ở Mỹ,
người dân ở Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Vương quốc Anh và Liên Xô đã mệt mỏi
vì nghèo và đói. Họ muốn thay đổi sẽ làm cho cuộc sống của họ tốt hơn. Họ sẵn
sàng đi theo và hỗ trợ các nhà lãnh đạo, những người hứa sẽ đưa đất nước của họ
đến sự thịnh vượng và vĩ đại. Adolf Hitler ở Đức, Joseph Stalin ở Liên Xô,
Francisco Franco ở Tây Ban Nha và Benito Mussolini ở Ý đều hứa hẹn một cuộc
sống tốt đẹp hơn với một tương lai tươi sáng.
Tuy nhiên, một khi họ nắm quyền, những người này trở thành những nhà độc tài
cai trị đất nước của họ bằng vũ lực. Họ đã không giữ lời hứa để làm cho cuộc sống
tốt đẹp hơn. Trên thực tế, họ kiểm soát hoàn toàn cách mọi người sống và đưa ra
quyết định về cách họ có thể sống cuộc sống của họ. Công dân mất quyền tự do
ngôn luận và tôn giáo. Những người không đồng ý với các nhà độc tài đã bị gửi
đến các trại tập trung hoặc các trại lao động cưỡng bức. Trong thời gian căng thẳng
kinh tế nghiêm trọng này, các quốc gia này bắt đầu xây dựng sức mạnh quân sự và
tạo ra các kế hoạch kiểm soát các nước láng giềng. Các nhà lãnh đạo thúc đẩy sức
mạnh quân sự, niềm tự hào dân tộc và tầm quan trọng của uy tín quốc gia. Họ lập
luận rằng những phẩm chất này sẽ tạo ra việc làm đầy đủ và tạo ra sự thịnh vượng
kinh tế
Từ năm 1920 đến năm 1930, các chính phủ độc tài châu Âu đã áp dụng hai loại hệ
thống chính trị khác nhau: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít. Các nhà độc
tài lập luận rằng mọi người khá giả hơn trước đây để họ có thể duy trì quyền lực
của mình.
Mặc dù cuộc suy thoái không phải là lý do duy nhất khiến Thế chiến II nổ ra,
nhưng nó chắc chắn ảnh hưởng đến những gì đã xảy ra ở các quốc gia trên toàn thế
giới. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các quốc gia châu Âu bị thiệt hại
nặng nề bởi chiến tranh đã làm những gì họ có thể để sống trong hòa bình. Một
điều quan trọng mà tất cả họ đều đồng ý là điều quan trọng là phải giữ cho Đức
hạnh phúc và trong tầm kiểm soát. Điều này được gọi là "xoa dịu".
Thật không may, Hiệp ước Versailles, được cho là làm cho mọi người hạnh phúc,
đã thất bại nặng nề. Ý không hài lòng vì họ đã bị thiệt hại trong chiến tranh, nhưng
họ không được cung cấp tiền hoặc lãnh thổ để bù đắp cho những gì họ đã mất.
Pháp không hài lòng vì họ muốn Đức trừng phạt khắc nghiệt và cảm thấy rằng hình
phạt chưa đủ nghiêm khắc. Chính phủ mới của Liên Xô, đã rút khỏi cuộc chiến
trước khi nó kết thúc, thậm chí còn không được mời tham dự Hội nghị Hòa bình.
Tây Ban Nha vẫn trung lập trong suốt cuộc chiến, và mặc dù người dân Tây Ban
Nha bị chia rẽ trong sự ủng hộ của họ, Tây Ban Nha không chính thức ủng hộ cả
hai bên.
Các chính sách nhân nhượng mà Đức được cho là tuân theo thực sự đã khiến Hitler
táo bạo hơn và cho ông ta thêm thời gian để xây dựng một đội quân khổng lồ.
Người dân Đức bị xúc phạm rằng Đức phải chịu trách nhiệm bắt đầu cuộc chiến
ghét hoàn cảnh họ đang sống. Đất nước này có những khoản tiền phạt khổng lồ mà
họ biết rằng họ không bao giờ có thể trả. Rất nhiều lãnh thổ trên toàn thế giới đã bị
tịch thu và phân chia giữa các quốc gia khác. Cuộc Đại suy thoái đã làm cho mọi
thứ tồi tệ hơn.
Tóm lại, rõ ràng là trong khi cuộc Đại suy thoái không phải là lý do duy nhất khiến
Thế chiến II bắt đầu, nó đã góp phần rất lớn vào sự khởi đầu của nó. Các cuộc
khủng hoảng kinh tế trên toàn thế giới có nghĩa là các nền kinh tế và công dân ở
khắp mọi nơi đang ở điểm thấp nhất. Mất việc làm, mất tiền bạc và những khó
khăn do chiến tranh tạo ra đều khiến họ dễ bị tổn thương trước những người sẵn
sàng nói dối họ để giành quyền kiểm soát. Nhiều nhà độc tài đã nắm bắt cơ hội để
vươn lên nắm quyền và trở thành những nhà lãnh đạo cuối cùng sẽ kiểm soát cuộc
sống của nhiều công dân.
NHẬN THỨC CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÃ THAY ĐỔI THẾ NÀO (THAM
CHIẾN VÀ THUỘC ĐỊA)
Khác với vụ đánh bom Trân Châu Cảng năm 1941, vị trí địa lý của Hoa Kỳ đã cứu
mặt trận quê nhà khỏi sự tàn phá tàn khốc đã trải qua ở châu Âu. Nhật Bản tin rằng
vụ đánh bom Trân Châu Cảng sẽ giữ Mỹ đứng ngoài cuộc chiến, nhưng Nhật Bản
đã sai. Những ảnh hưởng của Thế chiến 2 đối với nước Mỹ đã mang lại một sự
thay đổi công nghiệp. Mỹ bắt đầu sản xuất đồ tiếp tế thời chiến với tốc độ đáng
kinh ngạc. Mỹ đã biến các nhà máy trong nước thành các nhà máy sản xuất chiến
tranh sản xuất ô tô, như xe jeep và xe tăng. Máy bay, tàu, súng trường và đạn dược
nhanh chóng được sản xuất, dẫn đến việc Mỹ trở thành một cường quốc công
nghiệp.
Chỉ có 14 quốc gia không tham gia chính thức trong toàn bộ cuộc chiến, bao gồm
Thụy Điển, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ireland, Thổ Nhĩ Kỳ, Yemen, Ả
Rập và Afghanistan cũng như các tiểu bang Andorra, Monaco, Liechtenstein, San
Marino và Thành phố Vatican. Nhưng ngay cả những quốc gia tìm cách đứng
ngoài cuộc chiến, chẳng hạn như Thụy Điển và Thụy Sĩ, nhận thấy khả năng duy
trì tính trung lập nghiêm ngặt của họ bị cản trở bởi cường độ của cuộc xung đột,
Woolner nói. Kết luận, ông nói thêm, là "họ đã đóng một vai trò hơi mơ hồ - và
vẫn còn gây tranh cãi - trong cuộc chiến." Một báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
năm 1998 đã giúp xua tan lời đồn rằng có bất kỳ hình thức trung lập đúng đắn nào,
trích dẫn rằng các quốc gia trung lập tiếp tục giao dịch với các lực lượng Đồng
minh và Trục, gửi quân đội để cung cấp hỗ trợ quân sự và cho phép bên này hay
bên kia tiếp cận lãnh thổ của mình.
TÁC ĐỘNG (SỰ THGIA LIÊN XÔ) > TÁC ĐỘNG LỚN ĐẾN MỨC NÀO MÀ
PHE ĐỒNG MINH LẠI TRỞ THÀNH PHE CHIẾN THẮNG?
Đầu tiên ta phải nhìn một cách toàn diện giữa phe bại trận và phe thắng trận. Yếu
tố tham gia vào chỉ đóng một vai trò trong số nhiều vai trò đóng góp thành công
của phe chiến thắng. Chúng ta không nên nhìn vào yếu tố chiến thắng theo như ý
hiểu của bạn ( cụ thể là sự tham gia của Liên Xô ) mà bỏ qua việc họ đã tận dụng
điểm yếu của phe bại trận như thế nào. Hơn nữa cũng không thể nhận định ngay là
sự tham gia Liên Xô chính là “ tác động lớn “ khiến phe Đồng Minh chiến thắng,
nếu thế không khác nào nhận định là phe nào càng đông càng chiến thắng. Nếu vậy
Phe Đồng Minh đã chiến thắng ngay từ đầu do phe Đồng Minh trước đó đã có
Pháp tham gia mà không cần Liên Xô tham gia
Ta đi vào phân tích phe bại trận, Đức lúc ấy có tương quan lực lượng mạnh nhất
( chi tiết cụ thể ở bảng số liệu nhóm 16 đã phân tích ). Thế nhưng Hitler quá ngạo
mạn, nghĩ rằng không ai có thể chịu nổi được sức mạnh vượt trội của quân đội
Đức. Đó cũng là một phần cuộc “ chiến tranh chớp nhoáng “ nhằm ý định đánh
nhanh thắng nhanh, kết thúc cuộc chiến một cách sớm nhất có thể. Thế nhưng ông
ta không ngờ rằng sức chịu đụng của các nước quá lâu. Ví dụ cụ thể là Phổ, chịu
đựng 6 tiếng tấn công không ngừng nghỉ. Đủ thời gian để Vương quốc Anh và Mỹ
nghĩ ra kế hoạch và chuẩn bị lực lượng một cách hoàn chỉnh hơn. Đây là một trong
nhiều hành động khiến Phe Đồng Minh có lợi thế hơn
Liên Xô ngay từ đầu không chọn phe, quốc gia này phe trung lập. Về sau Liên Xô
mới tham gia vào Phe Đồng Minh chống lại Phe Trục do họ cảm thấy tức giận với
những gì Đức đã gây ra trong cuộc chiến. Phe Đồng Minh phối hợp cùng nhau để
tạo nên thành tích, cùng nhau tận dụng điểm yếu và khai thác triệt để điểm mạnh
của quân mình. Theo ý kiến của nhóm 16 chúng mình, chúng tớ không thể phủ
nhận rằng Liên Xô đóng vai trò quan trọng nhưng nó không phải “ tác động lớn “.
Chiến thắng không chỉ phụ thuộc vào “ yếu tố thứ 3 tham gia “ mà nó là một quá
trình dài với nhiều yếu tố, có những yếu tố tưởng rằng nhỏ nhưng lại góp phần tạo
nên thay đổi lớn.
TRƯỚC - TRONG TẬP TRUNG VÀO KHÔNG QUÂN, NHƯNG TRƯỚC ĐÓ
LẠI TẬP TRUNG VÀO HẢI QUÂN => TẠI SAO LẠI CÓ SỰ THAY ĐỔI NÀY?
Trước tiên ta phải nói đến sức mạnh của hải quân trong thế chiến thứ 2, thứ hai là
tầm quan trọng của nó và lí do một số nước không khai thác hết được tiềm năng
thật sự của hải quân.
Trong các hạm đội hải quân của phe đồng minh và phe trục. Hải quân Hoàng gia
đóng một vai trò quan trọng trong Thế chiến 2. Các lực lượng hải quân Anh, do
Hải quân Hoàng gia chỉ huy, chịu trách nhiệm bảo vệ các đoàn tàu vận tải tiếp tế và
quân đội, cũng như tham gia vào các trận hải chiến lớn như Trận chiến Đại Tây
Dương và Trận chiến nước Anh. Ngoài ra, Hải quân Hoàng gia Anh còn tham gia
vào nhiều cuộc đổ bộ, bao gồm cả cuộc đổ bộ mang tên D-Day nổi tiếng lên
Normandy.
Nó giữ cho các tuyến đường biển được mở rộng, đánh bại các chiến hạm và tàu
ngầm của hải quân Đức và Ý. trong các trận chiến Đại Tây Dương và Địa Trung
Hải đã vô hiệu hóa hạm đội Pháp Viche không rơi vào tay kẻ thù, gây thiệt hại cho
người Nhật, bảo vệ tàu buôn của phe đồng minh đến và đi từ Vương quốc Anh,
đóng một vai trò không thể thiếu trong các cuộc xâm lược Bắc Phi, Sicilia, bán
đảo Ý, Pháp và cộng sự và tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển quân đội và
vật liệu để duy trì cuộc chiến chống lại Đế quốc Nhật Bản ở Đông Nam Á và phát
triển / sáng tạo ra vũ khí và quy trình mới thiết cho chiến thắng cuối cùng.
Tuy rằng Đế Quốc Nhật Bản có nhiều kinh nghiệm trong việc trang bị tàu ngầm và
phát triển hải quân thế nhưng họ không thể sản xuất và sửa sang hải quân nhanh
như Vương Quốc Anh, mặt khác bên trong nội bộ Nhật xảy ra cãi vã do nhiều
người thấy được tiềm năng của hải quân trong khi còn lại thì không, và tập trung
quá nhiều vào không quân. Đức tuy là một quốc gia khá toàn diện về tương quan
lực lượng, họ có đủ hải quân, không quân cũng như các lực lượng cốt lõi cần thiết.
Nhưng mặt trái đó là hải quân không phải chuyên môn của họ. Mỹ và Anh đã nhận
thấy điểm yếu này và tận dụng hài quân của họ một cách triệt để dành được chiến
thắng cuối cùng
% MÁY BAY LÀ SO VỚI CÁI GÌ?
2 cái bảng số liệu nhóm 16 chúng mình đưa cho các bạn là phần trăm máy bay
trên 100% theo các năm. Số phần trăm càng to thì chứng tỏ năm đó không quân
được nhà nước chú trọng nhất. Số phần trăm càng nhỏ chứng tỏ không quân năm
đó không được trọng dụng hoặc được sử dụng nhiều đến
PHE LIÊN MINH, HIỆP ƯỚC, ĐÃ HÌNH THÀNH NTN => ẢNH HƯỞNG NTN
ĐẾN TƯƠNG QUAN?
Đồng minh được hình thành như một thỏa thuận giữa Ba Lan, Vương quốc Anh và
Pháp rằng hai nước sau sẽ đến giúp đỡ Ba Lan nếu bị Đức xâm lược. Khi Đức tấn
công vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, Anh và Pháp đã thực hiện lời hứa của họ,
tuyên chiến với Đức vào ngày 3 tháng 9. Các lãnh thổ tự trị độc lập của Anh gồm
Úc, Canada, New Zealand và Nam Phi theo sau sự dẫn dắt của Vương quốc Anh,
tuyên chiến cùng ngày hôm đó hoặc vài ngày sau đó.
Hiệp ước ba bên được ký kết vào ngày 17 tháng 9 năm 1940, giữa Đức Quốc xã,
phát xít Ý và Nhật Bản. Còn được gọi là Hiệp ước Berlin hoặc, phổ biến nhất là
các cường quốc phe Trục, Hiệp ước dự định thay đổi trật tự thế giới đã được thiết
lập bằng cách cam kết cung cấp hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp bất kỳ bên ký kết
nào bị tấn công bởi một quốc gia nước ngoài không liên quan đến Thế chiến II.
Điềunày làm sáng tỏ mục đích thực sự của liên minh: ngăn chặn sự tham gia của
Hoa Kỳ trung lập trong Thế chiến II. Hiệp ước cũng quy phạm vi ảnh hưởng cho
các cường quốc tham gia. Trong khi Đức Quốc xã và phát xít Ý bắt tay vào thống
trị lục địa châu Âu, "Đại Đông Á" vẫn nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Nhật
Bản. Chỉ một năm sau, vào năm 1941, Hiệp ước được viện dẫn sau cuộc tấn công
của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng. Hoa Kỳ bước vào cuộc xung đột bằng cách
tuyên chiến với Nhật Bản, chứng tỏ Hiệp ước không hiệu quả.
Tương quan lực lượng chúng mình đã trình bày trong bài. Các nước đều hỗ trợ
nhau về mặt tài chính và hải quân, không quân cũng như các thiết bị cần thiết khác
để tham chiến
| 1/6

Preview text:

TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VỚI CTTGT2 1929
Cuộc Đại suy thoái là một sự kiện trên toàn thế giới bắt đầu ở Hoa Kỳ vào năm
1929 và kéo dài đến năm 1939. Các nhà sử học tin rằng cuộc Đại suy thoái chắc
chắn là một trong những lý do gây ra Thế chiến II.
Tháng 10/1929, thị trường chứng khoán Mỹ sụp đổ. Trước khi sụp đổ, tình hình tài
chính của mọi người có lẽ đã tốt hơn bao giờ hết. Thật dễ dàng để có được tín
dụng, điều đó có nghĩa là có rất nhiều chi tiêu cho những thứ là mặt hàng xa xỉ.
Khi mọi người chi tiêu nhiều hơn, giá cả tăng lên. Ngành công nghiệp nổi lên để
xây dựng những thứ cần thiết cho Thế chiến I vẫn đang sản xuất sắt thép. Có sự gia
tăng trong việc chế tạo ô tô vì nhiều người có thể mua được chúng và các nhà sản
xuất xe hơi cần thuê công nhân. Nông dân đã sản xuất nhiều thực phẩm hơn mức
họ có thể bán, vì vậy tại một thời điểm, họ đã vứt bỏ rau, trứng, sữa, lúa mì và gạo
thay vì bán nó với giá rẻ. Nền kinh tế Mỹ không thể duy trì chi tiêu quá mức. Khi
thị trường chứng khoán sụp đổ, đất nước rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế lớn.
Sự sụp đổ đồng nghĩa với việc giá trị của các cổ phiếu lớn giảm xuống mức thấp
nhất từ trước đến nay. Khi điều này xảy ra, các công ty không thể duy trì hoạt động
vì họ không có tiền để trả lương. Khi các công ty đóng cửa, mọi người mất việc
làm. Các ngân hàng đột nhiên đóng cửa, và mọi người mất bất kỳ khoản tiền nào
họ có trong cổ phiếu hoặc tài khoản tiết kiệm. Hàng triệu người Mỹ đã mất tất cả
tiền của họ. Người dân đột ngột ngừng chi tiêu, khiến các doanh nghiệp cung cấp
hàng hóa, dịch vụ phải đóng cửa. có thức ăn để đặt lên bàn là một khó khăn đối với
nhiều người Mỹ. Không có thu nhập, nhiều gia đình phải phụ thuộc vào bếp canh
và hàng bánh mì hoặc vườn rau và săn bắn. Có những cuộc bạo loạn lương thực
nằm rải rác trên khắp đất nước, và một số thành phố lớn báo cáo rằng một số gia
đình đã chết vì đói hoặc các bệnh liên quan đến suy dinh dưỡng. Cả đất nước rơi
vào hoảng loạn. Các quốc gia trên toàn thế giới cũng có những trải nghiệm tương tự.
Trong 5 năm đầu tiên của cuộc Đại suy thoái, nền kinh tế Mỹ đã suy giảm hơn
50% với 650 ngân hàng phá sản. Đến năm 1933, khi cuộc Đại suy thoái đạt đến
mức thấp nhất, khoảng 15 triệu người Mỹ thất nghiệp. Vào thời điểm này, các nền
kinh tế trên toàn thế giới đang ở mức thấp và những hoàn cảnh này đã tạo ra một
điều kiện hoàn hảo cho các cuộc xung đột. Thương mại thế giới đã sụp đổ. Các nền
dân chủ phải vật lộn để tồn tại vì mọi người nghĩ rằng dân chủ và các nhà lãnh đạo
dân chủ đã làm thất bại công dân trên toàn thế giới. Mọi người đói và vô gia cư
trên khắp thế giới. Các quốc gia ở châu Âu đang phải vật lộn để phục hồi sau
những thiệt hại to lớn đã xảy ra với đất nước của họ trong chiến tranh.
Người dân đã tức giận và thất vọng. Nhật Bản, một đồng minh trong Thế chiến I,
cũng phải chịu đựng tương tự. Hầu hết thực phẩm và nguyên liệu thô của họ được
nhập khẩu từ các nước khác. Khi thương mại sụp đổ, nguồn cung cấp chính của họ
biến mất. Đến giữa những năm 1930, điều kiện kinh tế bắt đầu cải thiện chậm,
nhưng sự phục hồi hoàn toàn đã không được thực hiện cho đến cuối thập kỷ. Mười
năm là một khoảng thời gian dài để mọi người phải chịu đựng một môi trường kinh tế khắc nghiệt.
Gần cuối cuộc Đại suy thoái ở châu Âu, một số lượng lớn các chính trị gia đã nắm
lấy cơ hội để vươn lên nắm quyền. Ngoài những người đang gặp khó khăn ở Mỹ,
người dân ở Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Vương quốc Anh và Liên Xô đã mệt mỏi
vì nghèo và đói. Họ muốn thay đổi sẽ làm cho cuộc sống của họ tốt hơn. Họ sẵn
sàng đi theo và hỗ trợ các nhà lãnh đạo, những người hứa sẽ đưa đất nước của họ
đến sự thịnh vượng và vĩ đại. Adolf Hitler ở Đức, Joseph Stalin ở Liên Xô,
Francisco Franco ở Tây Ban Nha và Benito Mussolini ở Ý đều hứa hẹn một cuộc
sống tốt đẹp hơn với một tương lai tươi sáng.
Tuy nhiên, một khi họ nắm quyền, những người này trở thành những nhà độc tài
cai trị đất nước của họ bằng vũ lực. Họ đã không giữ lời hứa để làm cho cuộc sống
tốt đẹp hơn. Trên thực tế, họ kiểm soát hoàn toàn cách mọi người sống và đưa ra
quyết định về cách họ có thể sống cuộc sống của họ. Công dân mất quyền tự do
ngôn luận và tôn giáo. Những người không đồng ý với các nhà độc tài đã bị gửi
đến các trại tập trung hoặc các trại lao động cưỡng bức. Trong thời gian căng thẳng
kinh tế nghiêm trọng này, các quốc gia này bắt đầu xây dựng sức mạnh quân sự và
tạo ra các kế hoạch kiểm soát các nước láng giềng. Các nhà lãnh đạo thúc đẩy sức
mạnh quân sự, niềm tự hào dân tộc và tầm quan trọng của uy tín quốc gia. Họ lập
luận rằng những phẩm chất này sẽ tạo ra việc làm đầy đủ và tạo ra sự thịnh vượng kinh tế
Từ năm 1920 đến năm 1930, các chính phủ độc tài châu Âu đã áp dụng hai loại hệ
thống chính trị khác nhau: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít. Các nhà độc
tài lập luận rằng mọi người khá giả hơn trước đây để họ có thể duy trì quyền lực của mình.
Mặc dù cuộc suy thoái không phải là lý do duy nhất khiến Thế chiến II nổ ra,
nhưng nó chắc chắn ảnh hưởng đến những gì đã xảy ra ở các quốc gia trên toàn thế
giới. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các quốc gia châu Âu bị thiệt hại
nặng nề bởi chiến tranh đã làm những gì họ có thể để sống trong hòa bình. Một
điều quan trọng mà tất cả họ đều đồng ý là điều quan trọng là phải giữ cho Đức
hạnh phúc và trong tầm kiểm soát. Điều này được gọi là "xoa dịu".
Thật không may, Hiệp ước Versailles, được cho là làm cho mọi người hạnh phúc,
đã thất bại nặng nề. Ý không hài lòng vì họ đã bị thiệt hại trong chiến tranh, nhưng
họ không được cung cấp tiền hoặc lãnh thổ để bù đắp cho những gì họ đã mất.
Pháp không hài lòng vì họ muốn Đức trừng phạt khắc nghiệt và cảm thấy rằng hình
phạt chưa đủ nghiêm khắc. Chính phủ mới của Liên Xô, đã rút khỏi cuộc chiến
trước khi nó kết thúc, thậm chí còn không được mời tham dự Hội nghị Hòa bình.
Tây Ban Nha vẫn trung lập trong suốt cuộc chiến, và mặc dù người dân Tây Ban
Nha bị chia rẽ trong sự ủng hộ của họ, Tây Ban Nha không chính thức ủng hộ cả hai bên.
Các chính sách nhân nhượng mà Đức được cho là tuân theo thực sự đã khiến Hitler
táo bạo hơn và cho ông ta thêm thời gian để xây dựng một đội quân khổng lồ.
Người dân Đức bị xúc phạm rằng Đức phải chịu trách nhiệm bắt đầu cuộc chiến
ghét hoàn cảnh họ đang sống. Đất nước này có những khoản tiền phạt khổng lồ mà
họ biết rằng họ không bao giờ có thể trả. Rất nhiều lãnh thổ trên toàn thế giới đã bị
tịch thu và phân chia giữa các quốc gia khác. Cuộc Đại suy thoái đã làm cho mọi thứ tồi tệ hơn.
Tóm lại, rõ ràng là trong khi cuộc Đại suy thoái không phải là lý do duy nhất khiến
Thế chiến II bắt đầu, nó đã góp phần rất lớn vào sự khởi đầu của nó. Các cuộc
khủng hoảng kinh tế trên toàn thế giới có nghĩa là các nền kinh tế và công dân ở
khắp mọi nơi đang ở điểm thấp nhất. Mất việc làm, mất tiền bạc và những khó
khăn do chiến tranh tạo ra đều khiến họ dễ bị tổn thương trước những người sẵn
sàng nói dối họ để giành quyền kiểm soát. Nhiều nhà độc tài đã nắm bắt cơ hội để
vươn lên nắm quyền và trở thành những nhà lãnh đạo cuối cùng sẽ kiểm soát cuộc
sống của nhiều công dân.
NHẬN THỨC CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÃ THAY ĐỔI THẾ NÀO (THAM CHIẾN VÀ THUỘC ĐỊA)
Khác với vụ đánh bom Trân Châu Cảng năm 1941, vị trí địa lý của Hoa Kỳ đã cứu
mặt trận quê nhà khỏi sự tàn phá tàn khốc đã trải qua ở châu Âu. Nhật Bản tin rằng
vụ đánh bom Trân Châu Cảng sẽ giữ Mỹ đứng ngoài cuộc chiến, nhưng Nhật Bản
đã sai. Những ảnh hưởng của Thế chiến 2 đối với nước Mỹ đã mang lại một sự
thay đổi công nghiệp. Mỹ bắt đầu sản xuất đồ tiếp tế thời chiến với tốc độ đáng
kinh ngạc. Mỹ đã biến các nhà máy trong nước thành các nhà máy sản xuất chiến
tranh sản xuất ô tô, như xe jeep và xe tăng. Máy bay, tàu, súng trường và đạn dược
nhanh chóng được sản xuất, dẫn đến việc Mỹ trở thành một cường quốc công nghiệp.
Chỉ có 14 quốc gia không tham gia chính thức trong toàn bộ cuộc chiến, bao gồm
Thụy Điển, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ireland, Thổ Nhĩ Kỳ, Yemen, Ả
Rập và Afghanistan cũng như các tiểu bang Andorra, Monaco, Liechtenstein, San
Marino và Thành phố Vatican. Nhưng ngay cả những quốc gia tìm cách đứng
ngoài cuộc chiến, chẳng hạn như Thụy Điển và Thụy Sĩ, nhận thấy khả năng duy
trì tính trung lập nghiêm ngặt của họ bị cản trở bởi cường độ của cuộc xung đột,
Woolner nói. Kết luận, ông nói thêm, là "họ đã đóng một vai trò hơi mơ hồ - và
vẫn còn gây tranh cãi - trong cuộc chiến." Một báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
năm 1998 đã giúp xua tan lời đồn rằng có bất kỳ hình thức trung lập đúng đắn nào,
trích dẫn rằng các quốc gia trung lập tiếp tục giao dịch với các lực lượng Đồng
minh và Trục, gửi quân đội để cung cấp hỗ trợ quân sự và cho phép bên này hay
bên kia tiếp cận lãnh thổ của mình.
TÁC ĐỘNG (SỰ THGIA LIÊN XÔ) > TÁC ĐỘNG LỚN ĐẾN MỨC NÀO MÀ
PHE ĐỒNG MINH LẠI TRỞ THÀNH PHE CHIẾN THẮNG?
Đầu tiên ta phải nhìn một cách toàn diện giữa phe bại trận và phe thắng trận. Yếu
tố tham gia vào chỉ đóng một vai trò trong số nhiều vai trò đóng góp thành công
của phe chiến thắng. Chúng ta không nên nhìn vào yếu tố chiến thắng theo như ý
hiểu của bạn ( cụ thể là sự tham gia của Liên Xô ) mà bỏ qua việc họ đã tận dụng
điểm yếu của phe bại trận như thế nào. Hơn nữa cũng không thể nhận định ngay là
sự tham gia Liên Xô chính là “ tác động lớn “ khiến phe Đồng Minh chiến thắng,
nếu thế không khác nào nhận định là phe nào càng đông càng chiến thắng. Nếu vậy
Phe Đồng Minh đã chiến thắng ngay từ đầu do phe Đồng Minh trước đó đã có
Pháp tham gia mà không cần Liên Xô tham gia
Ta đi vào phân tích phe bại trận, Đức lúc ấy có tương quan lực lượng mạnh nhất
( chi tiết cụ thể ở bảng số liệu nhóm 16 đã phân tích ). Thế nhưng Hitler quá ngạo
mạn, nghĩ rằng không ai có thể chịu nổi được sức mạnh vượt trội của quân đội
Đức. Đó cũng là một phần cuộc “ chiến tranh chớp nhoáng “ nhằm ý định đánh
nhanh thắng nhanh, kết thúc cuộc chiến một cách sớm nhất có thể. Thế nhưng ông
ta không ngờ rằng sức chịu đụng của các nước quá lâu. Ví dụ cụ thể là Phổ, chịu
đựng 6 tiếng tấn công không ngừng nghỉ. Đủ thời gian để Vương quốc Anh và Mỹ
nghĩ ra kế hoạch và chuẩn bị lực lượng một cách hoàn chỉnh hơn. Đây là một trong
nhiều hành động khiến Phe Đồng Minh có lợi thế hơn
Liên Xô ngay từ đầu không chọn phe, quốc gia này phe trung lập. Về sau Liên Xô
mới tham gia vào Phe Đồng Minh chống lại Phe Trục do họ cảm thấy tức giận với
những gì Đức đã gây ra trong cuộc chiến. Phe Đồng Minh phối hợp cùng nhau để
tạo nên thành tích, cùng nhau tận dụng điểm yếu và khai thác triệt để điểm mạnh
của quân mình. Theo ý kiến của nhóm 16 chúng mình, chúng tớ không thể phủ
nhận rằng Liên Xô đóng vai trò quan trọng nhưng nó không phải “ tác động lớn “.
Chiến thắng không chỉ phụ thuộc vào “ yếu tố thứ 3 tham gia “ mà nó là một quá
trình dài với nhiều yếu tố, có những yếu tố tưởng rằng nhỏ nhưng lại góp phần tạo nên thay đổi lớn.
TRƯỚC - TRONG TẬP TRUNG VÀO KHÔNG QUÂN, NHƯNG TRƯỚC ĐÓ
LẠI TẬP TRUNG VÀO HẢI QUÂN => TẠI SAO LẠI CÓ SỰ THAY ĐỔI NÀY?
Trước tiên ta phải nói đến sức mạnh của hải quân trong thế chiến thứ 2, thứ hai là
tầm quan trọng của nó và lí do một số nước không khai thác hết được tiềm năng
thật sự của hải quân.
Trong các hạm đội hải quân của phe đồng minh và phe trục. Hải quân Hoàng gia
đóng một vai trò quan trọng trong Thế chiến 2. Các lực lượng hải quân Anh, do
Hải quân Hoàng gia chỉ huy, chịu trách nhiệm bảo vệ các đoàn tàu vận tải tiếp tế và
quân đội, cũng như tham gia vào các trận hải chiến lớn như Trận chiến Đại Tây
Dương và Trận chiến nước Anh. Ngoài ra, Hải quân Hoàng gia Anh còn tham gia
vào nhiều cuộc đổ bộ, bao gồm cả cuộc đổ bộ mang tên D-Day nổi tiếng lên Normandy.
Nó giữ cho các tuyến đường biển được mở rộng, đánh bại các chiến hạm và tàu
ngầm của hải quân Đức và Ý. trong các trận chiến Đại Tây Dương và Địa Trung
Hải đã vô hiệu hóa hạm đội Pháp Viche không rơi vào tay kẻ thù, gây thiệt hại cho
người Nhật, bảo vệ tàu buôn của phe đồng minh đến và đi từ Vương quốc Anh,
đóng một vai trò không thể thiếu trong các cuộc xâm lược Bắc Phi, Sicilia, bán
đảo Ý, Pháp và cộng sự và tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển quân đội và
vật liệu để duy trì cuộc chiến chống lại Đế quốc Nhật Bản ở Đông Nam Á và phát
triển / sáng tạo ra vũ khí và quy trình mới thiết cho chiến thắng cuối cùng.
Tuy rằng Đế Quốc Nhật Bản có nhiều kinh nghiệm trong việc trang bị tàu ngầm và
phát triển hải quân thế nhưng họ không thể sản xuất và sửa sang hải quân nhanh
như Vương Quốc Anh, mặt khác bên trong nội bộ Nhật xảy ra cãi vã do nhiều
người thấy được tiềm năng của hải quân trong khi còn lại thì không, và tập trung
quá nhiều vào không quân. Đức tuy là một quốc gia khá toàn diện về tương quan
lực lượng, họ có đủ hải quân, không quân cũng như các lực lượng cốt lõi cần thiết.
Nhưng mặt trái đó là hải quân không phải chuyên môn của họ. Mỹ và Anh đã nhận
thấy điểm yếu này và tận dụng hài quân của họ một cách triệt để dành được chiến thắng cuối cùng
% MÁY BAY LÀ SO VỚI CÁI GÌ?
2 cái bảng số liệu nhóm 16 chúng mình đưa cho các bạn là phần trăm máy bay
trên 100% theo các năm. Số phần trăm càng to thì chứng tỏ năm đó không quân
được nhà nước chú trọng nhất. Số phần trăm càng nhỏ chứng tỏ không quân năm
đó không được trọng dụng hoặc được sử dụng nhiều đến
PHE LIÊN MINH, HIỆP ƯỚC, ĐÃ HÌNH THÀNH NTN => ẢNH HƯỞNG NTN ĐẾN TƯƠNG QUAN?
Đồng minh được hình thành như một thỏa thuận giữa Ba Lan, Vương quốc Anh và
Pháp rằng hai nước sau sẽ đến giúp đỡ Ba Lan nếu bị Đức xâm lược. Khi Đức tấn
công vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, Anh và Pháp đã thực hiện lời hứa của họ,
tuyên chiến với Đức vào ngày 3 tháng 9. Các lãnh thổ tự trị độc lập của Anh gồm
Úc, Canada, New Zealand và Nam Phi theo sau sự dẫn dắt của Vương quốc Anh,
tuyên chiến cùng ngày hôm đó hoặc vài ngày sau đó.
Hiệp ước ba bên được ký kết vào ngày 17 tháng 9 năm 1940, giữa Đức Quốc xã,
phát xít Ý và Nhật Bản. Còn được gọi là Hiệp ước Berlin hoặc, phổ biến nhất là
các cường quốc phe Trục, Hiệp ước dự định thay đổi trật tự thế giới đã được thiết
lập bằng cách cam kết cung cấp hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp bất kỳ bên ký kết
nào bị tấn công bởi một quốc gia nước ngoài không liên quan đến Thế chiến II.
Điềunày làm sáng tỏ mục đích thực sự của liên minh: ngăn chặn sự tham gia của
Hoa Kỳ trung lập trong Thế chiến II. Hiệp ước cũng quy phạm vi ảnh hưởng cho
các cường quốc tham gia. Trong khi Đức Quốc xã và phát xít Ý bắt tay vào thống
trị lục địa châu Âu, "Đại Đông Á" vẫn nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Nhật
Bản. Chỉ một năm sau, vào năm 1941, Hiệp ước được viện dẫn sau cuộc tấn công
của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng. Hoa Kỳ bước vào cuộc xung đột bằng cách
tuyên chiến với Nhật Bản, chứng tỏ Hiệp ước không hiệu quả.
Tương quan lực lượng chúng mình đã trình bày trong bài. Các nước đều hỗ trợ
nhau về mặt tài chính và hải quân, không quân cũng như các thiết bị cần thiết khác để tham chiến