CÂU HỎI TỰ LUẬN VỀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC DƯỚI TRIỀU VUA LÊ THÁNH TÔNG
Giai đoạn trị vì của vua Lê Thánh Tông được coi là thịnh trị nhất không chỉcủa thời Lê mà còn trong lịch sử các vương triều phong kiến Việt Nam. Thời LêThánh Tông, xã hội Đại Việt đã có nhiều thay đổi, đất nước trải qua một thời gian dàithái bình, dân chúng yên tâm lao động, sản xuất,cơ cấu xã hội nhiều thay đổi. Vì vậy,để phù hợp cho tình hình mới ông đã thực hiện cuộc cải cách mạnh mẽ, toàn diện ở cảtrungươngvàđịaphương. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45470709
Câu 1: Sơ đồ hóa về tổ chức bộ máy nhà nước dưới triều vua Lê Thánh Tông.
Giai đoạn trị vì của vua Lê Thánh Tông được coi là thịnh trị nhất không chỉ
của thời Lê mà còn trong lịch sử các vương triều phong kiến Việt Nam. Thời Lê
Thánh Tông, xã hội Đại Việt đã có nhiều thay đổi, đất nước trải qua một thời gian dài
thái bình, dân chúng yên tâm lao động, sản xuất,cơ cấu xã hội nhiều thay đổi. Vì vậy,
để phù hợp cho tình hình mới ông đã thực hiện cuộc cải cách mạnh mẽ, toàn diện ở cả
trung ương và địa phương.
* Bộ máy trung ương:
Lê Thánh Tông đã lập ra đầy đủ các thiết chế như: các Bộ, Tự, Khoa và Viện.
* Bộ máy địa phương:
Cuộc cải cách đã mang lại sự thay đổi lớn lao trong tổ chức bộ máy chính
quyền ở địa phương, đặc biệt ảnh hưởng đến việc quản lý làng xã thời kỳ này. Mục
đích của cuộc cải cách là thực hiện việc chuyển từ hình thức cai quản địa phương do
một cá nhân đảm nhiệm sang hình thức cai quản bằng một cơ quan có sự phân công
chức trách giữa các bộ phận trong cơ quan đó. lOMoAR cPSD| 45470709
Có thể nói rằng, bộ máy nhà nước dưới thời vua Lê Thánh Tông đã đạt đến
đỉnh cao và là bộ máy nhà nước hoàn chỉnh, chi tiết nhất trong số các triều đại phong
kiến Việt Nam. Triều đình có đầy đủ các bộ, các tự, các khoa và các cơ quan chuyên
môn. Đặc biệt, hệ thống thanh tra, giám sát được tăng cường từ triều đình đến các địa
phương. Ở các đơn vị hành chính, tổ chức chặt chẽ hơn (nhất là các cấp đạo thừa
tuyên), có 3 cơ quan phụ trách mà không tập trung quyền lực vào một An phủ sứ như
trước và có phân công trách nhiệm rõ ràng. Bộ máy chính quyền cấp xã được tổ chức chặt chẽ hơn.
Câu 2: Sơ đồ hóa và trình bày về Quan chế (phương thức tuyển dụng, chế độ
giám sát, kiểm tra, khảo khóa, hồi tỵ, chế độ trách nhiệm, đãi ngộ thưởng, phạt…)
* Phương thức tuyển dụng:
Quan lại có thể được hình thành từ một trong bốn con đường: Khoa cử (Chủ
yếu): Tiến cử (Quan lại giới thiệu và chịu trách nhiệm); Nhiệm từ (Tập ấm); Mua bán
(Chức quan nhỏ, khi đất nước khó khăn về tài chính).
Khoa cử: Hình thức thi tuyển bằng khoa cử được áp dụng lần đầu tiên vào năm 1075
dưới thời nhà Lý, tuy nhiên khoa cử dưới thời Lý chưa được coi trọng chỉ khi nào cần
nhà nước mới mở khoa thi. Từ thời nhà Trần, khoa cử đi vào nề nếp hơn. Nhưng phải
từ thời Lê sơ, chế độ khoa cử mới được hoàn thiện và việc tuyển lựa quan lại dựa trên
kết quả khoa cử. Tuyển chọn quan lại bằng con đường khoa cử có 3 vu điểm nổi bật cụ thể là:
● Những người tham gia thi cử tương đối bình đẳng;
● Tiêu chuẩn xét tuyển thống nhất;
● Tạo ra sự kết hợp giữa học tập sách vở, thì cử và tham chính.
Ba mặt này kết hợp với nhau thúc đẩy xã hội trong giáo dục trong thị sự rèn luyện tài năng cá nhân.
Tập ẩm: Tập ẩm (còn gọi là nhiệm tử) là hình thức tuyển chọn quan lại xuất hiện sớm
nhất ở nước ta và trở thành một tập quán chính trị. Tập ẩm là phương thức tuyển dụng
con cháu của quý tộc công thân và quan chức dựa trên ân trạch của ông cha. Tập ẩm
là phương thức tuyển dụng quan chức chủ yếu thời Lý - Trấn. Tuy nhiên thủ tục và
đối tượng tuyển dụng không được ghi chép rõ rằng trong chính sử. Lệ tập ẩm thời
Hậu Lê và thời Nguyễn được quy định chặt chẽ về đối tượng, thể lệ và phạm vi tuyển
dụng được gọi là lệ Ấm sung. Mặt tích cực của chế độ Tập ẩm là sử dụng được một số lOMoAR cPSD| 45470709
người có năng lực, buộc họ phải cố gắng cho xứng đáng với "con ông cháu cha", song
một hạn chế là hầu hết số người này không qua thi cử, chưa hán có tài, một số thường
cây mình là “con ông cháu cha", không cố gắng trên đường quan trưởng, thậm chí làm liều, làm cản.
Tiến cử: Chế độ tiến cử cho phép một vị quan được đề nghị đưa một người có tài -
đức được giữ một chức quan phù hợp. Người tiến cử phải lấy tước vị, danh dự của
mình để đảm bảo rằng người được tiến cử xứng đảng với chức vị được giao. Chế độ
bảo cử cho phép một vị quan được đề nghị đưa một người có tài năng, kinh nghiệm
thực tiễn vào một chức vụ nào đó đang bị khuyết người và cũng lấy phẩm hàm, chức
vụ của mình ra để bảo đảm rằng người được bảo cử là xứng đáng *Đào tạo:
Nhà nước Việt Nam thời trung đại thực hiện chính sách khuyến học cho phép
mở trường tự biên soạn lại Tử thư. Ngũ kinh: Tứ thư (Đại học Trung Dung Luận ngữ,
Mạnh Tử); Ngũ kinh (Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu).
Đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông lập Quốc Tử Giám, là nhà quốc học đầu
tiên của nước ta. Việc học tập tại trường Quốc Tử Giám dưới thời Lý - Trần - Hồ chủ
yếu dành làm nơi học tập cho thái tử, các hoàng từ và con cháu các quan đại thần văn,
và trong triều. Đến thời Lê sơ (1428-1527), do thực hiện chính sách mở rộng con
đường cầu hiển, đảo tạo nhân tài cho đất nước nên nhà Lê đã nhiều lần xuống chiếu
tuyến lựa học trò ưu tú vào học tại Quốc Tử Giám, nhờ đó mà đối tượng học ở trường
đã được mở rộng. Năm 1997, thời vua Trấn Thuận Tông triều đình cho đặt học quan ở
các lộ, phủ lớn (đơn vị hành chính tương đương với cấp tinh ngày nay) để lo việc giáo
dục. Đến thế kỷ XV - XVI các phủ, lộ đều có trường công.
Nội dung và phương pháp đào tạo các giai đoạn không có nhiều sự khác biệt
vì nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo quan lại phục vụ bộ máy quản lý NN nên Nho giáo
dân được coi trọng. Mà Nho giáo là học thuyết giải quyết được các mối quan hệ cơ
bản (vua - tôi, cha - con vợ - chồng …), làm ngọn cờ cho sự ổn định xã hội, để thống
nhất và quản lý xã hội nên sách và chủ yếu trong hệ thống đào tạo là Tứ thư, sách của
Bách gia chư tử, đồng thời trang bị kiến thức các lĩnh vực Hán học, sử học, dân tộc học. *Sử dụng:
Nhìn lại lịch sử phong kiến Việt Nam, có thể nhận thấy pháp luật rất chú
trọng, quan tâm tới những người làm việc trong bộ máy nhà nước, trước hết là chế độ
tuyển dụng, trọng dụng nhân tài, đề cao đạo đức người làm quan. Người làm quan
phải là người quân tử: chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ; đạo làm quan
cốt ở hai điều "trên thì yêu vua, dưới thì yêu dân".
Về sử dụng quan lại, nhà nước có chính sách trọng hiền tài, bố trí theo sở
trường năng lực. Nho học thời đó chú trọng đến việc tự tu, tự tình để rèn luyện liêm
sỉ, biết xấu hổ và tiết độ dục vọng. Trong đó, Nho giáo chú trọng đến phép dạy con
người biết “nội tỉnh", biết học suốt đời để vươn tới đức thanh cao mà từ đó có được sự
nể trọng của xã hội. Một nho sĩ cần phải rèn luyện dũng khí, mà trước hết là ở sự
trung thực và liêm sỉ, dám nói tháng nói thật những gì là đúng đắn.
* Chế độ giám sát:
Để kiểm soát được quan lại, nhà nước phong kiến áp dụng chế độ “giảm sát
ngự sử". Đời nhà Trần bắt đầu đặt Ngự sử đài là cơ quan làm nhiệm vụ đan hặc các
quan, nơi ban về chính sự hiện thời. Phàm các quan làm trái phép, chính sự hiện thời lOMoAR cPSD| 45470709
còn thiếu sót đều được xét hoặc trình bày, cùng là xét bản thành tích của các nhà môn,
để lĩnh, phủ đoàn, thửa ty và xét hỏi các vụ kiện về người quyền quý ở kinh ức hiếp
người dân, về người cai quan hà làm... có các chức như Thị Ngự sử Giám sát Ngự sử,
Ngự sử trung tân. Chế độ giám sát giúp triều đình phát hiện được các vụ việc tiêu cực
của quan lại các ngành, các cấp để kịp thời xử lý; đồng thời răn đe quan lại, để họ biết
sợ pháp luật, phấn đấu thành vị quan tài giỏi, đức hạnh. * Hồi tỵ:
Chế độ Hồi tỵ là một nét đặc sắc trong cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, sử
dụng và quản lý quan lại. Hồi tỵ là một từ Hán Việt có nghĩa là "tránh đi". Bản chất
của quy định này là cấm quan lại không làm quan nơi mình sinh ra, Anh em họ hàng,
bè bạn không được làm quan cùng một nơi Người đầu tiên áp dụng là vua Lê Thánh
Tông năm 1486. Ông chỉ dụ cấm quan lại nhậm chức tại địa phương được lấy đàn bà,
con gái trong hạt đó, nhằm ngăn chặn tình trạng các bà vợ chỉ huy chống thao túng
quyền hành. Ưu điểm nổi bật nhất của quy định Hồi tỵ là ngăn chặn, hạn chế nạn
tham nhũng quan liêu, cát cứ, kéo bè cánh, chủ động phòng ngừa tiêu cực trong bộ
máy quan lại ngay từ khâu bổ nhiệm. *Khảo khóa:
Bản chất của việc khảo khóa là kiểm tra lại năng lực của đội ngũ quan lại bằng
cách cứ 3 năm một lần. Kết quả của việc khảo khóa bao gồm các loại: thượng khảo,
trung khảo, hạ khảo và hạng kém. Đây là căn cứ thưởng phạt, thăng giáng chức vị.
Sách sử không có ghi chép nào về quy định để xếp kết quả khảo khóa vào các bậc
thương trung - hạ. Mặt khác, quy định 3 năm thực hiện phép khác khỏa một lần không
thể đánh giá chính xác năng lực quan lại khi thời gian giữa các lần khác khoa qua dài,
không tạo sức ép để quan lại rèn luyện nâng lực, nâng cao học vấn.
Mục đích để nhằm đánh giá ưu khuyết điểm, khuyết điểm, sai phạm của quan
lại qua đó xác định tài năng và đức độ của quan lại, vừa để làm căn cứ thưởng, phạt
quan lại, điều chuyển quan lại; nhắc nhở quan lại phải tận tâm hơn với trách nhiệm
của mình trong hoạt động quan trường.
* Chế độ trách nhiệm:
Người làm quan phải chịu trách nhiệm không chỉ về phương diện pháp lý khi
có hành vi vi phạm trực tiếp các quy định pháp luật mà còn về phương diện đạo đức,
chính trị trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ của mình. Đối với các quan thực thi
pháp luật, Luật Hồng Đức đã quy định trách nhiệm về “tội bê trễ, thiếu trách nhiệm
trong công việc”, ví dụ điều 671: những quan xét án, dùng dằng để quá kỳ hạn đến 1
tháng thì xử tội biếm, quá ba tháng thì xử tội bãi chức, quá 5 tháng thì xử tội đồ.
Song song với nghĩa vụ tận trung với vua, quan lại còn phải đảm bảo thực hiện
trách nhiệm của mình đối với dân. Nghĩa vụ trung thành với nhà vua là yêu cầu hàng
đầu đối với quan lại. Bộ luật Hồng Đức Điều 103 qui định quan lại có nghĩa vụ tuyệt
đối trung thành với nhà vua ở cương vị bề tôi như: nghĩa vụ tôn kính nhà vua (Điều
102, 125 126), nghĩa vụ thực hiện mệnh lệnh của nhà vua một cách nhanh chóng, cần
trọng (Điều 119, 122, 123). Quốc triều Hình luật qui định nghiêm ngặt các nghi thức
tế lễ trong triều ở Điều 104, 105, 106, 108, 109 và trừng phạt những hành vi bất kinh
với nhà vua ở Điều 118, 125, 126, 136 nhằm bảo vệ và đề cao lễ vua tôi.
Ngoài ra, các quan còn có trách nhiệm trong các hoạt động tố tụng liên quan
đến quyền lợi của người dân phạm tội. Luật Hồng Đức có nhiều quy định về thủ tục,
quy trình tố tụng rất chặt chẽ, xác định rõ trách nhiệm của các quan coi ngục đối với
sức khỏe, quyền lợi của người phạm tội. Theo điều 663, nếu tù nhân phạm tội nặng, bị lOMoAR cPSD| 45470709
thương cần xét nghiệm, bị bệnh cần thuốc men, thức ăn mà không trình lên để xin
cấp…bị phạt 80 trượng, nếu vì cớ ấy mà chết thì xử biếm hai tư.
* Đãi ngộ thưởng, phạt:
Đài ngộ quan lại là một trong những yếu tố quan trọng để xây dụng đội ngũ
quan lại quan liêu trung thành với vương triều trên cơ sở có quyền lợi gần chặt với
chế độ phong kiến. Thời Lý - Trần đãi ngộ vật chất cho quan lại chưa được quy định
rõ ràng, thường tra công và ban thưởng cho quan lại chủ yếu thông qua việc ban cấp
ruộng đất hoặc trả bảng hiện vật (mô hình điển trang - thái ấp cuối đời Trần). Từ thời
vua Lê Thánh Tông trở đi, bổng lộc của quan lại được quy định theo chức tước, phẩm
hàm và tuỳ theo khối lượng công việc, thực chất là áp dụng nguyên tắc trả lương theo
việc làm và công trạng. Bên cạnh chế độ tiền lương, các triều đình phong kiến còn áp
dụng chế độ tiền "dưỡng liêm" (theo nghĩa đen là nuôi dưỡng liêm khiết) cấp cho
những viên quan cai trị gần dân như tri phủ, tri huyện nhằm khuyến khích "đức thanh
liêm", nhưng không phát đồng đều cho các tất cả các tri phủ, tri huyện mà tùy thuộc
vào nhiều hay ít công việc của từng phủ, từng huyện.
Câu 3: Trình bày những giá trị tiến bộ, nhân văn, đương đại của Quốc triều hình
luật (Bộ luật Hồng Đức) triều vua Lê Thánh Tông.
Quốc triều hình luật dưới triều vua Lê Thánh Tông là một bộ luật điển hình,
hoàn thiện nhất trong lịch sử nhà nước và pháp luật phong kiến Việt Nam. Bộ Luật
được xây dựng trên cơ sở tư tưởng chính trị - đạo đức Nho giáo, tư tưởng chính trị -
pháp lý - đạo đức nhân nghĩa của dân tộc Việt, văn hóa truyền thống dân tộc, đặc biệt
thể hiện đậm nét tư tưởng chính trị - pháp lý của vua Lê Thánh Tông. Quốc triều hình
luật xét về quá trình hình thành tư tưởng, triết lý đến nội dung cụ thể là thành tựu lập
pháp của nhiều triều đại thời Lê sơ, được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện ở các triều
đại tiếp theo, đặc biệt trong đó có công lao đóng góp to lớn của vua Lê Thánh Tông.
Do được vua Lê Thánh Tông ban hành dưới niên hiệu Hồng Đức nên trong dân gian
và trong sử sách vẫn thường gọi là Luật Hồng Đức.
Bộ Luật Hồng Đức còn lại hiện nay (đã được các triều vua thời Lê Trung
Hưng bổ sung thêm) gồm 13 chương, 722 điều, chia làm 6 quyển:
+ Quyển 1: gồm 2 chương: Danh lệ và Cấm vệ.
+ Quyển 2: gồm 2 chương: Vi chế và Quân lính.
+ Quyển 3: gồm 6 chương: Hộ hôn; Điền sản; Thủy tăng điền sản; Tăng bổ hương
hỏa; Hựu tăng bổ hương hỏa và Gian thông.
+ Quyển 4: gồm 2 chương: Đạo tặc và Đấu tụng.
+ Quyển 5: gồm 2 chương: Trá ngụy và Tạp luật.
+ Quyển 6: gồm 2 chương: Bổ vong và Đoán ngục.
Quốc triều hình luật là một bộ luật có tính chất tổng hợp, phạm vi điều chỉnh
rất rộng và được xây dựng dưới dạng hình sự, áp dụng chế tài hình luật. Các nhà
nghiên cứu thường chia nội dung của nó thành: luật Hình, luật Dân sự, luật Hôn nhân
gia đình và luật Tố tụng. Bộ luật Hồng Đucws chứa nhiều điểm tiến bộ, nhân văn sâu
sắc so với các bộ luật cùng thời và đặc biệt là giá trị đương đại của nó.
*Thứ nhất, Bộ luật Hồng Đức mang nhiều tư tưởng tiến bộ, đi trước thời đại.
Mặc dù ra đời vào giữa thế kỷ XV, nhưng Bộ luật Hồng Đức đã đạt được giá
trị và thành tựu nổi bật, có những đặc điểm tiến bộ và ưu thế hơn hẳn các bộ luật
trước và cả sau nó. Thậm chí, nhiều yếu tố còn có ý nghĩa lớn trong việc xây dựng và
hoàn chỉnh hệ thống luật của nước ta hiện nay. Điều tiến bộ nổi bật nhất chính là sự
quan tâm nhiều đến địa vị, quyền lợi của người phụ nữ và sự bình đẳng tương đối lOMoAR cPSD| 45470709
giữa phụ nữ với đàn ông trong xã hội và người chồng trong gia đình. Đó chính là yếu
tố góp phần làm nên sự đặc biệt và tiến bộ đi trước thời đại của bộ luật này.
Trong các bộ luật phong kiến, ta ít thấy những điều luật liên quan đến đại vị
pháp lý của phụ nữ. Nhiều ý kiến cho rằng, tư tưởng của vua Lê Thánh Tông có sự kết
hợp nhuần nhuyễn hệ tư tưởng Nho giáo với phong tục tập quán và truyền thống dân
tộc, cuộc đời của vị vua này còn chịu ơn rất nhiều người phụ nữ như bà thứ phi Ngô
Thị Ngọc Dao, bà Nguyễn Thị Lộ. Chính điều này đã giải thích cho sự coi trọng phụ
nữ trong bộ luật. Ông muốn bảo vệ người phụ nữ thoát khỏi sự khinh rẻ bị chà đạp
thường xuyên trong xã hội phong kiến. Mặc dù bị hạn chế bởi quan niệm giai cấp hẹp
hòi, nhưng bộ luật này cũng đã đưa ra những quyền cơ bản của con người, trong đó có
cả việc bảo vệ những những ở tầng lớp dưới trong xã hội, như bảo vệ quyền dân chủ
tự do của dân đinh, có nhiều điều quy định các hình phạt cụ thể chống lại sự nô tỳ hoá
đối với dân đinh, đặc biệt là trong đó không có sự phân biệt về địa vị xã hội và bảo vệ
danh dự, nhân phẩm con người.
Trong lĩnh vực pháp luật, Bộ luật hồng Đức cũng có những tiến bộ vượt trội so
với thời đại, đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo và sử dụng quan lại, những điều luật
liên quan đến quan tướng các cấp chiếm trên 50% tổng số điều luật về quy định về tội
phạm, quy định về tội phạm rất tỉ mỉ, chi tiết làm tăng tính hiệu lực của bộ luật, các
loại tội phạm được quy định khác nhau, tuy tội phạm này không cùng xâm hại một
khách thể nhưng lại có liên hệ với nhau và được phân theo nhóm, nên rất thuận tiện
cho việc xét xử. Tuy ra đời cách đây hơn 500 năm, nhưng Bộ luật Hồng Đức đã quy
định được gần như tất cả các tội danh cơ bản theo luật hình sự hiện đại. Có thể lúc đó,
do đã nhận rõ vai trò của gia đình là hạt nhân của xã hội vì vậy Lê triều hình luật quan
tâm nhiều đến việc bảo vệ các quan hệ gia đình. Đồng thời, nó cũng cho thấy sự chi
phối rất mạnh của hệ tư tưởng Nho giáo đến chính trị, xã hội Đại Việt thời kỳ đó. Có
thể nói, Bộ luật hồng Đức đã đạt được rất nhiều thành tựu nổi bật, có tính chất tiến bộ
vượt thời đại. Sự phát triển cao của chế độ phong kiến trung ương tập quyền thời Lê
Sơ đã được khẳng định thêm ở độ bền vững với sự ra đời của Quốc triều hình luật
năm 1483 thời kỳ Hậu Lê trong thời thịnh trị.
*Thứ hai, tính nhân đạo của Bộ luật Hồng Đức.
Nhiều quy định của Bộ luật tập trung bảo vệ người dân chống lại sự ức hiếp,
sách nhiễu của cường hào, quan lại. Đặc biệt, Bộ luật này còn có một số quy định bảo
vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, điều đó phản ánh truyền
thống nhân đạo, truyền thống tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy dân làm gốc”, lấy làng
xã làm nền tảng của quốc gia.
Tính nhân đạo đối với người phạm tội.
Điều luật đầu tiên đề cập đến vấn đề này là Điều 16, mà theo đó, những người
phạm tội từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những kẻ phế tật (tức những kẻ si,
câm, cơ thể què quặt, gẫy tay chân) phạm tội lưu, đồ trở xuống được chuộc bằng tiền;
80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và những kẻ bệnh nặng (là những ác tật như điên
cuồng, tay chân bại liệt, mù hai mắt) phạm tội phản nghịch, giết người, đáng lẽ phải
xử tử thì trong trường hợp này phải tâu lên để vua quyết định. Những người này phạm
tội trộm, đánh người bị thương thì cũng cho chuộc tội; 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở
xuống, dù phạm tử tội cũng không áp dụng hình phạt.
Xử lý tội phạm, Điều 17 Bộ luật Hồng Đức còn lưu ý đến thời điểm phạm tội
sao cho có lợi cho tội nhân khi áp dụng luật, theo đó “khi phạm tội chưa già, tàn tật.
Khi già, tàn tật mới phát giác tội thì xử tội theo luật già, tàn tật…Khi còn nhỏ mà
phạm tội, khi lớn mới phát giác tội thì xử tội theo luật tuổi nhỏ”. Nghiêm cấm áp dụng
hình thức tra khảo với một số đối tượng và vấn đề liên quan đến người làm chứng, tại lOMoAR cPSD| 45470709
Điều 665, quy định: “Những người đáng được nghị xét giảm tội như 70 tuổi trở lên,
15 tuổi trở xuống, người bị phế tật thì không được tra khảo họ, chỉ cần căn cứ lời khai
của nhân chứng mà định tội.Nếu trái luật này thì coi như cố ý buộc tội cho người.
Luật có ghi điều được phép ẩn giấu cho nhau như người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở
xuống và người bệnh nặng đều không được buộc họ làm chứng”.
Với những trường hợp nhất định, pháp luật nghiêm cấm việc đối xử bạo ngược
với tù nhân, như trường hợp người tù bị mắc bệnh thì không được tiến hành tra khảo,
cụ thể, Điều 669, quy định: “…Nếu tù có bệnh ung nhọt, không chờ lành lại tra khảo
thì người ra lệnh bị xử biếm. Nếu tù bệnh ấy mà đánh roi, trượng thì phạt 30 quan
tiền, nhân đó tù chết thì bị biếm 2 tư…”. Theo Điều 697, trường hợp phải nộp tiền
ứng với tang vật bị tịch thu nhưng với hoàn cảnh của tội nhân nghèo khổ cùng cực
không nộp nổi thì thuộc lại được phép trình bản ty, để nơi đây tâu lên vua định đoạt.
Tính nhân đạo đối với người gặp khó khăn đặc biệt
Điều 294 quy định: “Ở những phường hẻm hay trong kinh thành hoặc ở hương
thôn, xã có người bệnh tật không ai nuôi nấng, nằm ở dọc đường sá, cầu, điếm, chùa,
quán thì cho phép quan bản phường xã đó dựng lều cho họ ở, chăm sóc che chở, cấp
cơm cháo, thuốc men cứu sống họ, không được bỏ mặc họ rên rỉ, khốn khổ. Không
may kẻ ấy chết thì trình quan trên, liệu bề chôn cất, không được để hài cốt phơi bày ra
đó. Nếu trái lệnh này thì quan phường xã bị biếm hay bị bãi chức...”.
Một số đối tượng cũng cần được giúp đỡ khác là “những người góa vợ, góa
chồng cô độc và người tàn phế nặng, nghèo khổ không người thân nương tựa, không
khả năng tự kiếm sống thì quan sở tại phải nuôi dưỡng họ, nếu bỏ rơi họ thì bị đánh
50 roi biếm một tư. Nếu họ được cấp cơm áo mà thuộc lại ăn bớt thì xử theo luật
người giữ kho ăn trộm của công”.
Quy định nhân đạo, tiến bộ đối với phụ nữ và trẻ em.
Đối với phụ nữ, quyền lợi của đối tượng này được đề cập chủ yếu trong hai
chương “Hộ hôn” và “Điền sản” với những quy định thể hiện sự coi trọng cá nhân và
vai trò của người phụ nữ cũng như bảo vệ quyền lợi của họ trong việc hương hỏa, tế
lễ, thừa kế và sở hữu tài sản.
Người vợ, theo phong tục phải lệ thuộc vào chồng, nhưng trong Bộ luật Hồng
Đức địa vị của người vợ có những độc lập nhất định. Bộ luật quy định cho người phụ
nữ có quyển ly hôn và quyết kết hôn hậu ly hôn, hai trường hợp người vợ được phép
xin ly hôn chồng: khi chồng bỏ lửng vợ 5 tháng, khi con rể mắng nhiếc bổ mẹ vợ.
Quy định này mang tính tiến bộ, không thấy có ở các bộ luật phong kiến khác.
Trong trường hợp cưỡng ép phụ nữ kết hôn cũng bị tội, theo Điều 320: “Mãn
tang chồng nhưng người vợ thủ tiết, nếu ngoài ông bà, cha mẹ, kẻ nào khác gả ép
người phụ nữ đó thì bị biếm ba tư và buộc phải ly dị. Trả người đàn bà về chồng
cũ…” hoặc quy định tại Điều 338: “những nhà quyền thế mà ức hiếp để cưới con gái
lương dân thì xử phạt, biếm hay đồ”. Khi xảy ra tình trạng ly hôn, luật xác định tài
sản của vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn: i) Tài sản của chồng thừa kế từ gia
đình nhà chồng; ii) Tài sản của người vợ thừa kế từ gia đình nhà vợ; iii) Tài sản chung
do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhân tồn tại. Khi gia đình tồn tại, tất cả
tài sản được coi là của chung; khi ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng và
chia đôi tài sản chung của hai người.
Điều 403 và Điều 404 Bộ luật Hồng Đức quy định xử rất nặng đối với những
trường hợp xâm phạm thân thể, tiết hạnh của người phụ nữ, kẻ nào “hiếp dâm thì xử
lưu hay chết. Phải nộp tiền tạ tội hơn một bậc đối với tiền tạ tội gian dâm thường.
Trong trường hợp người phụ nữ có việc liên quan đến kiện tụng hoặc bị tội thì
họ vẫn được bảo vệ ở mức độ nhất định, Điều 409: “Quan coi ngục, lại ngục, ngục tốt
gian dâm với đàn bà, con gái có chuyện thưa kiện thì tội nặng hơn một bậc so với tội lOMoAR cPSD| 45470709
gian dâm thông thường. Nếu có thuận tình thì giảm 3 bậc tội cho các gian phụ ấy. Nếu
họ bị hiếp thì không xử tội họ”. Đặc biệt tại Điều 680: “Đàn bà phạm tội tử hình trở
xuống, nếu đang mang thai thì phải đợi sau khi sinh đẻ 100 ngày mới đem hành hình.
Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục quan bị biếm hai tư, ngục lại bị tội đồ làm
bản cục đinh. Dù đã sinh nhưng chưa hết hạn 100 ngày mà hành hình thì ngục quan và
ngục lại bị xử biếm hay bị phạt. Nếu khi chưa sinh mà thi hành tội đánh roi thì ngục
quan bị phạt 20 quan tiền, ngục lại bị đánh 80 trượng. Nếu do đánh roi đưa đến trọng
thương hay chết thì xử vào tội “quá tất sát thương” (lỡ tay giết người, làm bị thương người)…”.
Luật cũng quy định một số vấn đề khác liên quan đến phụ nữ, như cấm “lấy
thuốc sảy thai làm người sảy thai, hay là người xin thuốc sảy thai cũng đều xử đồ.
Vì sthai mà chết thì người cho thuốc bị xử theo tội giết người” (Điều 424). Với một số
tội, mức xử phạt đối với phụ nữ còn nhẹ hơn đàn ông, chẳng hạn, Điều 450 quy
định: “…Kẻ lạ vào vườn người ta thì xử biếm, đàn bà được giảm một bậc”.
Tinh tiến bộ, nhân văn của Bộ luật còn được thể hiện ở trong các chế định về
giao dịch dân sự mà người phụ nữ tham gia, khi bán tài sản phải có đủ chữ kí của cả
vợ và chồng. Vợ có quyền có tài sản riêng. QTHL đã ghi nhận sự bình đẳng tương đối
về tài sản giữa người vợ và chồng trong khối tài sản chung, trong việc hưởng tài sản
thừa kế. Đây là những chế định dân sự tinh vi, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo luật
hướng Nho và phong tục, tập quán dân tộc bản địa. Phụ nữ có quyền có tài sản riêng
được thể hiện qua điều 376 về việc chia tài sản khi người vợ chết trước. Quy định này
có thể xem như một một bước đột phá trong truyền thống pháp luật phong kiến nơi
phụ nữ vốn “vô sản” thậm chí bản thân còn bị coi là “tài sản” của chồng. Quyền của
người vợ được thừa kế tài sản của chống chỉ được thừa nhận ở QTHL theo Bộ luật
Gia Long, người vợ không có quyền này, trừ một số trường hợp hãn hữu
Bên cạnh bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, Bộ luật Hồng Đức còn chú ý
đến đối tượng trẻ em, tại Điều 313 quy định: “Trẻ nhỏ mồ côi và phụ nữ tự bán mình
không người bảo lãnh thì kẻ mua và kẻ viết văn khế, kẻ làm chứng đều bị xử roi,
trượng theo luật (nữ bị đánh 50 roi, nam bị đánh 80 trượng) đòi lại tiền trả cho kẻ
mua, hủy bỏ văn khế. Kẻ cô độc, khốn cùng từ 15 tuổi trở lên tự nguyện bán mình thì
cho phép”. Theo Điều 605: “Nếu ai bắt được trẻ con đi lạc thì phải báo quan làm bằng
chứng thật, có ai đến nhận thì được lấy tiền nuôi dưỡng (mỗi tháng 5 tiền), trái luật
không cho người ta nhận con thì xử tội nhẹ hơn tội quyến rũ một bậc” (điều 604).
Trường hợp kẻ nào “làm chuyện ngược ngạo (lượm trẻ lạc về, không nuôi còn hành
hạ) để đến nỗi con người ta chết thì đánh 80 trượng, đền 5 quan tiền nhân mạng cho
cha mẹ đứa trẻ chết”.
Tính nhân đạo đối với một số đối tượng khác.
Những đối tượng này gồm có người thiểu số, nô tỳ, người làm thuê, ở đợ,
người mất khả năng nhận thức…Điều 435 quy định hình thức xử lý với hành vi “trấn
lột quần áo, đồ đạc của trẻ em, của kẻ khùng điên, của người say rượu thì bị xử tội đồ
và phải đền gấp đôi”.
Điều 363 có quy định: “Mua nô tỳ mà không đem văn tự trình quan xét hỏi
mà lại tự ý xâm chữ vào mặt nô tỳ thì phạt 10 quan tiền”, trường hợp xâm chữ vào kẻ
ở đợ bắt làm nô tỳ cho mình thì bị xử lưu, phạt 50 quan tiền, ngoài ra còn phải trả tiền
xóa chữ theo luật định (Điều 365). Nếu “Những nô tỳ được cho về làm lương dân, cấp
giấy rồi mà còn bắt chúng ở lại làm tôi tớ với mình thì bị phạt 50 roi, biếm một tư.
Người nô tỳ vẫn được trở về theo giấy cấp” (Điều 291).
Điều 490, quy định trong trường hợp nô tỳ có tội, chủ không thưa quan mà
đánh chết thì xử biếm 3 tư. Các nô tỳ ấy không có tội mà đánh chết thì xử đồ. Giết nô
tỳ coi từ đường, mồ mả thì xử nặng hơn tội trên một bậc. Nô tỳ sai phạm, dạy bảo lOMoAR cPSD| 45470709
đánh bằng roi vô tình làm nó chết, hay ngộ sát thì xử tùy nặng nhẹ…Đối với người
dân tộc thiểu số, Bộ luật Hồng Đức cũng có một số điều đề cập đến, đặc biệt là nhằm
bảo vệ họ trước sự sách nhiễu của quan lại, như việc cấm quan quân giữ cửa ải khi
thấy “khách buôn bán và dân Man Liêu qua cửa ải mà đòi tiền của họ thì bị biếm hai
tư. Đền trả lại cho gấp hai số tiền” (Điều 71) hoặc theo Điều 163 quy định khi chiêu
dụ dân Man Liêu mà tự tiện phá nhà cửa lấy súc vật tài sản của dân thì bị tội biếm hay
bị đồ, lại phải bồi thường gấp đôi số tiền trả cho dân.
Việc xử lý đối với người dân tộc phạm tội cũng có những cân nhắc nhẹ nhàng
hơn, áp dụng cả tục lệ của họ, tại Điều 40 có quy định: “Những người miền thượng
du (miền núi) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những
người thượng du phạm tội với người trung châu (vùng đồng bằng) thì theo luật mà
định tội”. Trong trường hợp “người Man Liêu cướp, giết lẫn nhau thì xử nhẹ hơn tội
cướp, giết người thường một bậc.
* Những giá trị đương đại của Quốc triều hình luật.
Trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệ hình sự.
Có sự phân loại giữa việc xác định tội danh và mức hình phạt cho người phạm
tội. Tương ứng với các tội danh được mô tả là các hình phạt cụ thể và thường là cố
định. Hệ thống hình phạt gồm có hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
Quá trình định tội danh và ADHP đối với chủ thể, BLHĐ đã xét tới lỗi cố ý
hay vô ý trong việc thực hiện hành vi phạm tội (điều 47). Từ nguyên tắc chung này,
ADHP đối với từng trường hợp phạm tội cũng có sự phân biệt (điều 497) và trừng
phạt nghiêm khắc tội cố ý. Tiêu chí xử lý đồng phạm được xác định rõ để ADHP với
kẻ chủ mưu và người tòng phạm, trong đó kẻ chủ mưu chịu hình phạt nặng hơn so với
người chỉ làm theo (điều 469). Xử lý một người phạm nhiều tội (điều 37); phạm tội
lần đầu, tái phạm (điều 429); Quá trình này đã tính đến việc xem xét nhân thân người
phạm tội, cũng như đề cập sâu vào yếu tố lỗi cố ý hay vô ý của người phạm tội để làm
căn cứ ADHP. Đây là yếu tố tiến bộ vượt bậc của PL hình sự nhà Lê sơ được PL đương đại tiếp thu.
Vấn đề tự thú được giảm nhẹ tội không chỉ đặt ra khi người tự thú đến cửa
quan mà còn được đặt ra khi người phạm tội tự nhận lỗi với người bị thiệt hại (điều
19). Trong áp dụng giải thích hình luật, tính khoan dung độ lượng còn thể hiện ở việc
nếu điều luật có thể giải thích theo các chiều hướng khác nhau thì cho phép áp dụng
sự giải thích có lợi cho phạm nhân và ADHP có lợi nhất (Điều 708).
BLHĐ còn ghi nhận việc ân xá cho người phạm tội (điều 15): “Những người
bị tội đồ, lưu còn đương đi giữa đường mà gặp dịp ân xá, thì cũng được ân xá theo
luật...”. Đạo hiếu hay tinh thần tương thân tương ái trong gia đình được khuyến khích
(điều 38): “Con cháu thay thế cha mẹ hay ông bà chịu tội đánh roi hoặc tội đánh
trượng, đều được giảm một bậc” để nêu cao tính thiện của con người.
Trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệ tố tụng.
Tố tụng được coi là những công cụ hỗ trợ đắc lực cho NN để thực hiện các
chủ trương, chính sách đã đề ra. Xuất phát từ việc vận dụng hệ tư tưởng Nho giáo vào
thực tiễn, với chủ trương từng bước củng cố NN tập quyền cao độ, thực hiện việc chia
ruộng đất để ổn định đời sống nhân dân, bảo vệ nhân dân khỏi nạn cường hào ác bá,
quan lại tham nhũng và độc đoán chuyên quyền khiến cho việc kiện cáo ngày càng
phát sinh nhiều, nhà Lê sơ đã đưa ra những quy định tố tụng nhằm hoàn thành mục
tiêu xây dựng xã hội, ổn định NN.
Trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệ sở hữu, hợp đồng và thừa kế.
Về sở hữu: Chế định về sở hữu có vai trò hết sức quan trọng trong BLHĐ. Nó
khẳng định địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền trong xã hội. Trên thực tế, giai cấp lOMoAR cPSD| 45470709
nào nắm trong tay nguồn tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp đó sẽ nắm
quyền thống trị đối với các giai tầng khác. Để bảo vệ và duy trì địa vị của giai cấp
mình, giai cấp địa chủ phong kiến thời Lê sơ đã tập trung vào việc ban hành các
QPPL về sở hữu nhằm thể hiện ý chí giai cấp trong quá trình tổ chức sản xuất, chiếm
hữu, phân phối của cải vật chất.
Về hợp đồng: Điểm tiến bộ trong BLHĐ so với các công trình pháp điển hoá
đương thời là việc quy định tương đối cụ thể về các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng. Một là, hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được ký kết trên cơ sở tự do ý chí, tự thoả
thuận của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng. Hai là, hợp đồng phải được ký kết
trên cơ sở trung thực, không có sự lừa dối, ép buộc. Ba là, hợp đồng phải được ký kết
giữa những người có năng lực hành vi (điều kiện về chủ thể). Nếu hợp đồng không
thoả mãn về điều kiện chủ thể thì sẽ bị vô hiệu. BLHĐ quy định rõ trường hợp nào thì
phải bồi thường, trường hợp nào thì tịch thu toàn bộ hoặc một phần tài sản là đối
tượng của hợp đồng và lợi ích mà các bên thu được từ hợp đồng bất hợp pháp. Theo
BLHĐ, đối tượng của hợp đồng là những tài sản được phép chuyển dịch. Năm là, hợp
đồng phải thoả mãn điều kiện về mặt hình thức. Khi tham gia vào quan hệ hợp đồng,
các bên phải giao kết dưới hình thức nhất định. Nếu mua bán ruộng đất, cho vay thì
hợp đồng phải được lập thành văn bản (khế ước).
Về thừa kế: Vấn đề thừa kế trong BLHĐ được quy định theo hai hình thức sau:
- Thừa kế theo pháp luật: Thừa kế theo PL nhà Lê xảy ra khi người để lại di
sản không lập di chúc hoặc có di chúc nhưng bị vô hiệu.
- Thừa kế theo di chúc: PL nhà Lê tôn trọng quyền tự do định đoạt tài sản
bằng chúc thư của người có tài sản để lại.
Trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệ hôn nhân gia đình.
Về kết hôn: BLHĐ đã đề ra các quy định về điều kiện và hình thức kết hôn.
Để hôn nhân hợp pháp và hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc, không cho phép
hôn nhân giữa những người cận huyết thống hay có quan hệ gia đình thân thiết (điều
319). Pháp luật cũng cấm việc cậy quyền thế cưỡng ép kết hôn ( điều 338). Hôn nhân
thời Lê muốn được NN và xã hội công nhận phải đáp ứng đầy đủ các thủ tục kết hôn.
Nhà lập pháp triều Lê rất tôn trọng và đã thừa nhận những phong tục tập quán tốt đẹp
của dân tộc trong việc quy định thủ tục kết hôn.
Về ly hôn: Nhà lập pháp đã đề cập vấn đề quyền và nghĩa vụ của các bên khi
ly hôn với các quy định cụ thể. Trong đó chú trọng đến quyền yêu cầu ly hôn của
người phụ nữ, điều này chưa từng có trong các BL phong kiến tồn tại trước đó.
Trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệ liên quan đến quan chế và hoạt động công vụ.
Nhà Lê sơ đã chuẩn hoá đội ngũ quan lại bằng việc đào tạo Nho học, lấy trình
độ học vấn làm tiêu chí để bổ dụng chức vụ và công việc. Trong giáo dục đào tạo, thể
lệ về thi cử cũng được định rõ. Với nền giáo dục và thi cử thời Hồng Đức đã tạo ra
một đội ngũ quan lại khoa bảng có trình độ rất cao. Các giá trị về kỹ thuật lập pháp.
BLHĐ là văn bản QPPL chứa đựng những giá trị quý báu về kỹ thuật lập
pháp. Kỹ thuật lập pháp triều Lê được thể hiện qua BLHĐ có nhiều yếu tố tiến bộ
mang tính đương đại có ý nghĩa lớn đối với hoạt động xây dựng PL của NN Việt Nam hiện nay.
Cấu trúc điều luật trong BLHĐ được xây dựng theo ba bộ phận là giả định,
quy định và chế tài. Trong đó có những điều luật chỉ có hai bộ phận là quy định và
chế tài và cũng có khi là giả định và quy định mà không có chế tài. Cấu trúc các điều lOMoAR cPSD| 45470709
luật trong BLHĐ được xây dựng với những bộ phận trên đây đi từ đơn giản đến phức
tạp nhưng đều thể hiện tính phù hợp với thực tiễn rất cao.
Nhu cầu kế thừa các giá trị của Quốc triều hình luật.
Về mặt lý luận: Trong hệ thống PL của bất kỳ quốc gia nào, tại thời điểm nào cũng
bao hàm trong nó tính kế thừa. Nói cách khác - tính kế thừa là thuộc tính tự thân của pháp luật.
Tìm hiểu tính kế thừa trong PL tại thời điểm được ban hành cho thấy nó đã hội
tụ được những giá trị chung của xã hội mang tính chất phổ biến rộng rãi cũng như tiếp
nhận các kinh nghiệm lập pháp từ trước đó để lại. Đây là một đặc trưng mang tính đặc
thù của PL diễn ra trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng. PL được xây dựng ra là để
bảo vệ đặc quyền đặc lợi của giai cấp thống trị và duy trì trật tự xã hội có lợi cho các
đặc quyền đặc lợi đó của giai cấp thống trị tại thời điểm nó được ban hành, nói như
C.Mác thì: “pháp quyền… chỉ là ý chí của giai cấp…được đề lên thành luật, cái ý chí
mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp… quyết định”.
Về mặt thực tiễn: Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và tiến trình hội nhập quốc
tế, gần đây nhiều VBPL điều chỉnh các quan hệ xã hội liên tục được NN sửa đổi, bổ
sung, ban hành mới để đáp ứng nhu cầu, mục tiêu hội nhập quốc tế và công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, nhiều văn bản luật đã được ban
hành, điều chỉnh các lĩnh vực đầu tư, ngân hàng, tín dụng, thương mại, chứng khoán...
Tuy nhiên, PL hiện hành đang có khá nhiều bất cập chính trong những vấn đề mà
BLHĐ đã giải quyết rất hợp lý và hiệu quả. Có thể nêu một vài ví dụ sau đây:
Khoản 2, điều 20 bộ luật dân sự 2005 quy định: “…người từ đủ mười lăm tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự
mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người
đại diện theo PL, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Quy định này hết sức
chung chung và mơ hồ mà đến nay vẫn chưa có VBPL nào hướng dẫn cụ thể nên việc
áp dụng PL để giải quyết các tranh chấp về giao dịch HĐ dân sự vô hiệu còn gặp
nhiều khó khăn. Có thể nói về mặt này thì PL đương đại chưa theo kịp với PL nhà Lê.
Trong tiến trình hoàn thiện hệ pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói
riêng, cần tiếp thu, vận dụng, kế thừa những tư tưởng tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức
vào thực tiễn công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật hiện nay. Quá trình đổi mới
đất nước việc bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống, trong đó có truyền thống
thượng tôn pháp luật, lấy dân làm gốc, xuất phát từ ngàn năm dựng nước và giữ nước
của cha ông, luôn luôn là điều cần thiết và bổ ích. Xét từ quy luật kế thừa tư tưởng
nhà nước pháp quyền của chúng ta, trong quá trình hình thành, có mối liên hệ lịch sử
với những yếu tố pháp trị trong tư tưởng phương Đông cổ đại, những bài học trị nước
bằng pháp luật kết hợp với văn hóa khoan dung, tinh thần nhân văn của người Việt
Nam, trong đó, không thể không nói đến Bộ luật Hồng Đức; những tư tưởng pháp
quyền phương Tây cận đại, nhất là tư tưởng của các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII,
quan điểm chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin như tư tưởng định hướng cho chúng ta hôm nay.