












Preview text:
2.1.1 Định nghĩa:
Trong cuộc sống, thuật ngữ hoạt động được sử dụng một cách khá phổ biến. Nó còn được
dùng tương đương với thuật ngữ làm việc...Khái niệm hoạt động cũng là vấn đề được nhiều
khoa học khác nhau quan tâm. Từ Triết học đến Sinh lý học và Tâm lý học có những cái
nhìn khác nhau về khái niệm này. Theo Triết học thì hoạt động là sự biện chứng của chủ thể
và khách thể bao gồm quá trình khách thể hóa chủ thể chuyển những đặc điểm của chủ thể
vào sản phẩm của hoạt động và ngược lại. Nói khác đi, hoạt động là quá trình qua đó con
người tái sản xuất và cải tạo một cách sáng tạo thế giới, làm cho con người trở thành chủ
thể của hoạt động về hiện tượng của thế giới mà con người nắm được trở thành khách thể của hoạt động.
Tâm lý học cũng nhìn nhận về hoạt động của con người ở nhiều góc nhìn khác nhau và
cũng vì vậy, có khá nhiều khái niệm khác nhau về hoạt động. Nhiều nhà Tâm lý học cho
rằng hoạt động là phương thức tồn tại của con người trong thế giới vì muốn tồn tại thì con
người phải hoạt động và thông qua hoạt động thì con người thỏa mãn những nhu cầu của
mình cũng như gián tiếp được phát triển. Ngoài ra, cũng chính nhờ vào hoạt động con
người cảm thấy mình đang thực sự tồn tại đúng nghĩa cũng như tiếp tục phát triển. Không
những là thế, hoạt động còn là tác động liên tục của con người đối với thế giới xuống con
người cũng như thông qua đó con người nhận thấy sự phát triển của chính mình.
Ở một góc độ khác, khi đề cập đến sự tác động qua lại mang tính tích cực của con
người thì hoạt động được xem là hệ thống năng động các mối tác động qua lại giữa chủ thể
và môi trường, là nơi nảy sinh hình ảnh tâm lý về khách thể qua đó các quan hệ của chủ thể
trong thế giới đối tượng được trung gian hóa
Những phân tích về hoạt động dưới góc nhìn Tâm lý học có thể đưa ra khái niệm sau về hoạt động:
→ Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và thế giới(khách thể) để tạo
ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả về phía con người (khách thể).Khi nhìn nhận về khái
niệm hoạt động trên dưới góc độ Tâm lý học, rõ ràng có hai quá trình diễn ra đồng thời, bổ
sung cho nhau, thống nhất với nhau:- Quá trình thứ nhất là quá trình khách thể hóa (còn gọi
là quá trình xuất tâm). Đó là quá trình con người chuyển hóa những năng lượng của mình
thành sản phẩm của hoạt động. Trong quá trình này,tâm lý của chủ thể được bộc lộ, được
khách quan hóa vào sản phẩm của hoạt động trong suốt một quá trình cũng như ở kết quả.
Trên cơ sở này, có thể nghiên cứu tâm lý con người thông qua hoạt động của họ và cần
đáp ứng yêu cầu hay nguyên tắc này.
- Quá trình thứ hai là quá trình chủ thể hóa (còn gọi là quá trình nhập tâm). Đó là quá trình
con người chuyển nội dung của khách thể vào bản thân mình tạo nên tâm lý của cá nhân:
nhận thức,tình cảm... Đây cũng chính là quá trình phản ánh thế giới tạo ra nội dung tâm lý
của con người.Tóm lại, hoạt động của con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế giới, vừa
tạo ra tâm lý của bản thân. Hoạt động là nguồn gốc, là động lực của sự hình thành, phát
triển tâm lý và đồng thời là nơi bộc lộ tâm lý.
2.1.2. Đặc điểm của hoạt động:
Có thể nói khi xem xét đặc điểm của hoạt động thì có các đặc điểm cơ bản sau: tính đối
tượng, tính chủ thể, tính mục đích và vận hành theo nguyên tắc gián tiếp. Chính các đặc
điểm này trả lời câu hỏi: hoạt động ấy nhắm vào đối tượng nào, tạo ra sản phẩm gì, sản
phẩm ấy là tinh thần hay vật chất. ●Tính đối tượng:
Đối tượng của hoạt động có thể là sự vật, hiện tượng, khái niệm, quan hệ, con người, nhóm
người... Đối tượng là cái chung ta tác động vào, nhắm vào, hướng vào để chiếm lĩnh hay
thay đổi.Đối tượng là những cái có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, thúc đẩy
con người hoạt động. Đối tượng chính là cái hiện thực tâm lý mà hoạt động hướng tới. Mỗi
vật thể chỉ có tính đối tượng ở dạng tiềm tàng và nó được khơi gợi, thức tỉnh và dần định
hình rõ ràng trong sự tác động qua lại tích cực giữa con người với vật thể đó. Chính vì thế,
đối tượng của hoạt động là hiện thân của động cơ hoạt động.
Đối tượng của hoạt động luôn thôi thúc hoạt động được tiến hành và tính đối tượng chỉ
thực sự đặc trưng cho hoạt động của con người. Khi tiến hành hoạt động vì những động cơ,
con người có sự tham gia của các yếu tố tâm lý của chủ thể trong sự tác động với thế giới
bên ngoài nhằm chiếm lĩnh nó. Từ đây, tạo nên động cơ của hoạt động. Động cơ của hoạt
động là yếu tố thúc đẩy con người tác động vào đối tượng hay thế giới đối tượng để thay
đổi nó, biến nó thành sản phẩm hoặc tiếp nhận nó tạo nên một năng lực mới, một nét tâm lý
mới hay một sản phẩm hữu hình nào đó.Chính vì vậy, đối tượng của hoạt động có thể rất cụ
thể nhưng có khi không phải là một cái gì đó có sẵn mà là cái đang xuất hiện ngay trong quá trình ●Tính chủ thể:
Bất cứ hoạt động nào cũng do chủ thể tiến hành. Chủ thể là con người có ý thức tác động
vào khách thể - đối tượng của hoạt động. Đặc điểm nổi bật nhất là tính tự giác và tích cực
của chủ thể khi tác động vào đối tượng vì chủ thể sẽ gửi trao trong quá trình hoạt động nhu
cầu tâm thế, cảm xúc, mục đích, kinh nghiệm của chính mình...Chủ thể hoạt động có thể là
cá nhân, nhóm hay tập thể. Nói khác đi, có thể là một người hay nhiều người. Tuy nhiên,
ngay cả khi chủ thể là nhóm, tập thể thì mọi người cũng thực hiện với cùng một đối tượng,
một động cơ chung và cũng thể hiện rõ tính chủ thể là thế.Chủ thể của hoạt động thể hiện
trong quá trình hoạt động và trong sản phẩm của hoạt động.Qua sản phẩm của hoạt động
và quá trình tiến hành hoạt động sẽ giúp ta hiểu được chủ thể là ai và năng lực của họ như
thế nào. Khi chủ thể của hoạt động khác nhau và cách thức tiến hành khác nhau sẽ tạo ra
những sản phẩm với chất lượng khác nhau.Ở đây cần phân tích thêm mối quan hệ giữa chủ
thể và đối tượng trong hoạt động. Quan hệ giữa chủ thể và đối tượng là quan hệ hai chiều,
tích cực. Đối tượng bao giờ cũng là đối tượng của một chủ thể nhất định. Ngược lại, chủ thể
luôn thể hiện mình trong đối tượng, trở thành chủ thể của hoạt động có đối tượng. Kết thúc
hoạt động, đối tượng được chủ thể hóa còn chủ thể được khách thể hóa trong sản phẩm.
Đến lượt nó, sản phẩm lại trở thành khách thể, thành đối tượng của hoạt động khác.
* Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp. Trong hoạt động, chủ thể tác động vào đối
tượng tạo ra sản phẩm bao giờ cũng phải sử dụng những công cụ nhất định như: tiếng nói,
chữ viết máy móc, kinh nghiệm... Nói khác đi, trong hoạt động, con người “gián tiếp” tác
động đến khách thể qua hình ảnh tâm lý trong đầu, gián tiếp qua việc sử dụng các công cụ
lao động và sử dụng phương tiện ngôn ngữ.Những công cụ đó giữ chức năng trung gian
giữa chủ thể và đối tượng tạo ra tính gián tiếp của hoạt động. Đây cũng chính là một cơ sở
quan trọng tạo ra sự khác biệt giữa hoạt động của con người và hành vi bản năng của con vật.
Tâm lý được bộc lộ gián tiếp thông qua sản phẩm của hoạt động cũng là yếu tố minh
chứng cho tính gián tiếp của hoạt động. Đơn cử như thông qua những sản phẩm có được
sau hoạt động của người thợ dệt, thợ rèn, sẽ có thể hiểu được trình độ, bản lĩnh nghề
nghiệp cũng như sự đầu tư đích thực của người ấy. Mặt khác, tâm lý con người không hình
thành bằng con đường di truyền sinh học mà nó gián tiếp hình thành thông qua hoạt động
học tập, rèn luyện, qua kinh nghiệm của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau cũng minh
chứng thêm cho tính gián tiếp này. Như vậy, chính những công cụ tâm lý, ngôn ngữ và công
cụ lao động giữ chức năng trung gian giữa chủ thể và khách thể,tạo ra tính gián tiếp của
hoạt động một cách rõ nét
2.1.3. Phân loại hoạt động:
Có thể thấy rằng hoạt động là một phạm trù phức tạp cho nên cũng có nhiều cách phân loại
khác nhau. Mỗi cách phân loại đều có thể dựa trên tiêu chí khác nhau nhưng hướng đến
việc chỉ rõ hoạt động được nhìn nhận một cách cụ thể ra sao. Có thể thấy các cách phân loại hoạt động sau:
* Xét theo tiêu chí phát triển cá thể:Xét theo tiêu chí này có thể nhận thấy con người có bốn
loại hoạt động cơ bản: vui chơi, học tập, lao động và hoạt động xã hội.Cách phân chia này
tuy đơn giản nhưng có thể bao trùm tất cả những gì diễn ra trong hoạt động của con người.
Lẽ đương nhiên, cách phân chia này cũng bộc lộ hạn chế là ranh giới giữa chúng không rõ
ràng vì các hoạt động có thể chứa trong nhau, giao thoa nhau. Tuy vậy, cách phân loại này
đem lại ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống và nó khá gần gũi với đời sống thực tế của con người
* Xét theo tiêu chí sản phẩm (vật chất hay tinh thần)Xét theo tiêu chí này, có thể chia hoạt
động thành hai loại: hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận. Hoạt động thực tiễn là hoạt
động hướng vào các vật thể hay quan hệ tạo ra sản phẩm vật chất là chủ yếu. Hoạt động lý
luận được diễn ra với hình ảnh, biểu tượng, khái niệm tạo ra sản phẩm tinh thần.Cách phân
chia này dựa trên đặc điểm của sản phẩm nhưng một số sản phẩm lại hàm chứa cả yếu tố
vật chất và tinh thần. Vì vậy, cách phân loại này cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối mà thôi.*
Xét theo tiêu chí đối tượng hoạt động
Theo tiêu chí này, người ta chia ra các loại sau: hoạt động biến đổi, hoạt động nhận
thức,hoạt động định hướng giá trị và hoạt động giao lưu.Hoạt động biến đổi là những hoạt
động hướng đến thay đổi hiện thực (tự nhiên, xã hội, con người) như hoạt động lao động,
hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động giáo dục.Hoạt động nhận thức là hoạt động tinh thần,
phản ánh thế giới khách quan. Tuy vậy, hoạt động này chỉ dừng ở mức tìm hiểu, nhận biết
thế giới hiện thực mà không phải là biến đổi hiện thực.Hoạt động định hướng giá trị là hoạt
động tinh thần nhằm xác định ý nghĩa thực tại với bản thân chủ thể tạo ra phương hướng
của hoạt động.Hoạt động giao lưu là hoạt động thiết lập mối quan hệ giữa người với người trong cuộc sống
2.1.4. Cấu trúc của hoạt động:
Trên cơ sở nghiên cứu thực nghiệm nhiều năm, A.N.Leonchiev đã nêu lên cấu trúc vĩ mô
của hoạt động bao gồm các thành tố và mối liên hệ giữa các thành tố này. Xin được mô tả
sơ đồ cấu trúc vĩ mô của hoạt động như sau:
Trước hết, hoạt động bao giờ cũng nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Nhu
cầu là cái mà con người được được thỏa mãn. Nhu cầu cũng có thể là cái đòi hỏi, cái khát
khao được chiếm lĩnh. Khi nhu cầu của con người bắt gặp đối tượng thỏa mãn thì sẽ trở
thành động cơ. Động Cơ là yếu tố thôi thúc con người hành động. Động cơ được xem là
mục đích chung, mục đích cuối cùng của hoạt động. Bất kỳ hoạt động nào cũng có động cơ
tương ứng. Động cơ có thể tồn tại ở dạng tinh thần của chủ thể nhưng cũng có thể vật chất
hóa ra bên ngoài. Tuy vậy, dù ở hình thức nào thì động cơ vẫn là yếu tố thúc đẩy việc chiếm
lĩnh đối tượng tương ứng với nhu cầu của chủ thể khi gặp gỡ được đối tượng có liên quan đến sự thỏa mãn.
Nếu như động cơ là mục đích cuối cùng, thì mục đích ấy sẽ được cụ thể hóa ra những
mục đích bộ phận. Nói cách khác, động cơ sẽ cụ thể hóa thành những mục đích khác nhau
và mục đích bộ phận chính là hình thức cụ thể hóa động cơ. Mục đích là bộ phận cấu thành
động cơ trong sơ đồ cấu trúc vĩ mô của hoạt động. Quá trình thực hiện các mục đích này là
quá trình thực hiện các hành động. Sơ đồ cấu trúc vĩ mô của các mục đích này là quá trình
thực hiện các hành động. Hành động là quá trình bị chi phối bởi biểu tượng về kết quả phải
đạt được, là quá trình nhằm vào mục đích để dần tiến đến hiện thực hóa động cơ. Cũng
chính vì vậy, hành động lại trở thành thành phần cấu tạo nên hoạt động của con người hay
hoạt động được tồn tại và thực thi bởi một chuỗi những hành động.
Như vậy khi tiến hành hoạt động, về phía chủ thể bao gồm ba thành tố: hoạt động, hành
động và thao tác. Nó mô tả mặt kỹ thuật của hoạt động. Về phía khách thể thì bao gồm:
động cơ,mục đích, phương tiện nó tạo nên “nội dung đối tượng” của hoạt động. Chính trong
cấu trúc này,tính độc lập tương đối và sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các hành tố được thực
hiện mà đặc biệt làgiữa hành động và mục đích.Thứ nhất, một động cơ có thể được cụ thể
hóa trong nhiều mục đích. Ngược lại, một mục đích có thể được thể hiện ở nhiều động cơ
khác nhau. Chính thế, một hoạt động được thực hiện bởi nhiều hành động khác nhau và
một hành động có thể tham gia ở nhiều hoạt động khác nhau.Thứ hai, một hoạt động sau
khi đã thực hiện được động cơ thì có thể trở thành một hành động cho hoạt động khác. Sự
chuyển hướng này là hết sức tự nhiên trong đời sống của con người.
Thứ ba, để đạt được mục đích cần phải thực hiện hành động và mục đích có thể phát triển theo hai hướng khác nhau
:+ Hướng trở thành động cơ vì mục đích không chỉ hướng đến chức năng hướng dẫn mà
còn cả chức năng kích thích và thúc đẩy.
+ Hướng trở thành phương tiện khi mục đích đã được thực hiện và hành động kết thúc vào
lúc này hành động trở thành thao tác và có thể tham gia vào nhiều hành động khác.
Tóm lại, hoạt động được hợp thành bởi nhiều hành động và các hành động diễn ra bởi
các thao tác. Hoạt động luôn hướng vào động cơ - đó là mục đích cuối cùng. Mục đích cuối
cùng hay động cơ được cụ thể hóa thành nhiều mục đích thành phần - mục đích bộ phận.
Để đạt được mục đích - con người phải sử dụng các phương tiện - điều kiện. Tùy theo điều
kiện, phương tiện con người thực hiện các thao tác để tiến hành hành động nhằm đạt được
mục đích. Sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, giữa đơn vị thao tác (kỹ thuật của
hoạt động) và nội dung của đối tượng hoạt động tạo ra sản phẩm của hoạt động. Sản phẩm
này là sản phẩm kép vì nó tồn tại ở cả về phía khách thể và phía chủ thể.Việc tìm ra sơ đồ
cấu trúc vĩ mô của hoạt động có ý nghĩa hết sức đặc biệt. Xét trên phương diện lý luận, sơ
đồ này giúp các nhà Tâm lý học khẳng định thêm về sự thống nhất giữa cái khách quan và
cái chủ quan trong tâm lý, giữa đối tượng và chủ thể đồng thời cũng khẳng định luận
điểm:trong hoạt động bao giờ cũng chứa đựng nội dung tâm lý và tâm lý vận hành và phát triển trong hoạt động.
Về mặt thực tiễn thì việc vận dụng sơ đồ cấu trúc vĩ mô của hoạt động sẽ giúp việc tổ chức
hoạt động cho con người cũng như việc điều chỉnh hoạt động của con người có thể được
thực thi một cách hiệu quả.
Ví dụ: Thực nghiệm của Piaget nghiên cứu về khả năng tư duy của trẻ nhỏ. Piaget đã
thực hiện nghiên cứu thông qua các hoạt động nhận xét, lý giải vấn đề của các trẻ
nhỏ. * Ví dụ: Khi nghiên cứu về động cơ học tập của sinh viên thì dựa vào việc quan
sát, điều tra về hoạt động học tập của sinh viên để tìm ra khía cạnh nội dung và khía
cạnh lực của động cơ học tập.
Như vậy việc tìm hiểu và phân tích cấu trúc tâm lý của hoạt động giúp
chúng ta biết ứng dụng nó trong hoạt động học tập của mình. Muốn việc
học có hiệu quả thì chúng ta phải hiểu bản chất của hoạt động học, từ đó
có thể vạch ra phương hướng và cách thức học hiệu quả, và quan trọng
nhất, là hình thành cho bản thân năng lực chuyên môn, phục vụ cuộc sống
của mình và mọi người trong tương lai. Có thể thấy, tâm lý học đóng một
vai trò quan trọng trong nhìn nhận và giải quyết các vấn đề không đơn giản
dừng lại ở phân tích cấu trúc hoạt động học tập như trên, mà còn trong các lĩnh vực khác.
Phân tích cấu trúc tâm lý của hoạt động, ứng
dụng của nó trong hoạt động học tập
1.2. Cấu trúc tâm lý của hoạt động:
Cấu trúc tâm lý của hoạt động được nhà tâm lý học người Nga A.N.Lê-on-chep
(1903-1929) mô tả qua một ví dụ về một quá trình lao động tập thể của những
người đi săn từ thời xa xưa: nhóm này đuổi thú, nhóm kia bắt thú, nhóm khác
làm thức ăn, áo mặc… Khi tạo ra sản phẩm cuối cùng, có thể thỏa mãn nhu cầu
của cuộc sống từng thành viên tập thể, người này có quan hệ trực tiếp, người kia
có quan hệ gián tiếp. Nhưng cuối cùng mọi người đều được hưởng thức ăn, áo
mặc, những cái này là cụ thể hóa nhu cầu của họ và cũng chính là động cơ hoạt
động của cả nhóm, cũng như của cá nhân. Ở đây ta có một bên là hoạt động, một bên là động cơ.
Hoạt động hợp bởi các hành động. Cái mà hành động nhằm tới gọi là mục đích.
Có thể coi động cơ là mục đích chung, còn mục đích mà hành động đạt tới là
mục đích bộ phận. Hoạt động của tập thể người đi săn nói trên có mục đích
chung là kiếm thức ăn. Mục đích cụ thể của nhóm thứ nhắt chỉ là đuổi thú về,
nhóm thứ hai là bắt thú, nhóm thứ ba làm thịt…
Có thể coi mục đích chung là động cơ xa, mục đích bộ phận là động cơ gần.
Ở đây ta có một bên là hành động, một bên là mục đích.
Hành động bao giờ cũng nhằm giải quyết một nhiệm vụ cụ thể nhất định,
nhiệm vụ này chính là mục đích được đặt ra trong những điều kiện cụ thể
nhất định, tức là mục đích bộ phận phải được cụ thể hóa thêm một bước
nữa, sự cụ thể hóa này được quy định bới các điều kiện cụ thể nơi diễn ra
hành động. Từ đây cũng xá định phương thức để giải quyết nhiệm vụ.Các
phương thức này gọi là thao tác. Ở đây ta có một bên là thao tác, một bên
là điều kiện khách quan cụ thể (phương tiện).
Qua phân tích trên, cấu trúc tâm lý của hoạt động có thể được mô tả bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ cấu trúc tâm lý của hoạt động:
Sơ đồ trên thể hiện quan hệ qua lại giữa động cơ và mục đích, giữa động
cơ chung – động cơ riêng, giữa mục đích chung và mục đích cụ thể. Mối
quan hệ này nảy sinh từ hoạt động. Chính quá trình hoạt động của con
người tạo nên mối quan hệ qua lại giữa động cơ và mục đích. Sự nảy sinh
và phát triển của mối quan hệ này chính là sự xuất hiện và phát triển của
tâm lí ý thức nhân cách.
Từ những phân tích trên cho thấy, trong cấu trúc hoạt động có sáu yếu tố và chia thành hai hàng:
Hàng thứ nhất là động cơ – mục đích – điều kiện, thể hiện nội dung, tính
chất của hoạt động.Giữa các yếu tố trên có mối quan hệ với nhau.Động cơ
được cụ thể hóa thành các mục đích.Mục đích lại quy định việc lựa chọn
đối tượng tác động mà từ đó ảnh hưởng đến việc xác định điều của hoạt động.
Hàng thứ hai là hoạt động – hành động – thao tác, thể hiện phương thức
và các đơn vị thực hiện hoạt động.Một hoạt động được thực hiện bởi nhiều
hành động.Một hành động lại được tiến hành bằng nhiều thao tác.
Hai hàng này có mối quan hệ nhất định. Đó là mối quan hệ nội dung và
hình thức của hoạt động. Động cơ, mục đích chi phối việc lựa chọn
phương thức tiến hành hoạt động.Ngược lại, trong quá trình tiến hành hoạt
động sẽ làm hình thành những động cơ và mục đích mới.
2. Ứng dụng của cấu trúc tâm lý của hoạt động trong hoạt
động học tập của sinh viên:
2.1. Hoạt động học dưới góc độ tâm lý:
Trong cuộc sống luôn có những quá trình tiếp thu, tích lũy kinh nghiệm
sống, trên cơ sở đó tạo thành những tri thức khoa học, tiếp thu những
thành tựu tri thức – đó là việc học, cách học theo phương pháp thường
ngày. Nhưng thực tế, chỉ có phương thức học tập của nhà trường mới có
khả năng tổ chức hoạt động đặc biệt – hoạt động học tập. Dưới cái nhìn
của tâm lý học, hoạt động học chỉ những hoạt động nhằm chiếm lĩnh tri
thức, kỹ năng, hình thành ở cá nhân kiến thức khoa học, năng lực cá nhân phù hợp thực tiễn.
Hoạt động học tập của sinh viên không giống với học sinh trung học. Bởi
sinh viên đại học cần tiếp thu nhiều hơn kiến thức thực tế chuyên môn
phục vụ đời sống, đồng thời hoạt động học tập ở sinh viên đòi hỏi hình
thành các năng lực cá nhân nhất định phù hợp cho công việc sau này.
Cũng giống hoạt động nói chung, hoạt động học tập có đặc trưng riêng của
nó: Đó là có bản chất đặc trưng, có đối tượng học tập cùng với mục đích,
phương tiện, điều kiện hoạt động. 2.2. Ứng dụng:
Từ sơ đồ cấu trúc tâm lý của hoạt động trong phân tích trên cho thấy, hoạt
động học tập bao gồm có sáu yếu tố, có thể phân thành hai phần tương
đối khác biệt, đó là nội dung tính chất của hoạt động học và phương thức,
đơn vị thực hiện hoạt động học. ứng dụng vào hoạt động học tập của sinh
viên sẽ thấy được cái nhìn toàn diện của quá trình tái tạo tri thức dưới cái nhìn của tâm lý học.
3. Nội dung, tính chất của hoạt động học tập của sinh viên:
3.1. Động cơ học tập:
Các yếu tố của hoạt động học được hình thành trong chính hoạt động
học.Nói đến hình thành hoạt động học, trước hết phải nói đến sự hình
thành động cơ học tập.
Hoạt động học với chủ thể là sinh viên, còn đối tượng của nó là những tri
thức khoa học, với mục tiêu cuối cùng là hình thành nhân cách cho người
học. Sinh viên khi tiến hành hoạt động học, chiếm lĩnh tri thức thì tri thức
dần dần thúc đẩy tiếp tục quá trình học tập. Động cơ của hoạt động học
tập ở sinh viên được hiện thân ở những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà giáo
dục ở nhà trường mang lại. Đặc biệt, đối với sinh viên, động cơ học tập
được chia thành hai loại: động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ quan hệ
xã hội. Thuộc về loại động cơ hoàn thiện tri thức ở đây là lòng ham mê,
khát khao mở rộng tri thức, say mê với những môn học… Hoạt động học
tập được thúc đẩy bởi động cơ này, không chứa những mâu thuẫn bên
trong và nó đòi hỏi phải có những nỗ lực ý chí để đạt được nguyện vọng
chứ không phải hướng vào đấu tranh với chính bản thân mình. Động cơ
quan hệ xã hội đó là sự thưởng phạt hoặc đe doạ, những áp lực gia đình,
nhà trường, công việc, danh vọng hoặc mong đợi sự hạnh phúc… ở mức
độ nào đó đối với sinh viên, động cơ này mang tính cưỡng bách, và có lúc
xuất hiện như một vật cản cần khắc phục để vượt qua đạt được mục đích
của mình. Xét về mặt lý luận, mỗi hoạt động được thúc đẩy bởi một động
cơ nhất định. Hoạt động học hướng đến là những tri thức khoa học, thì
chính nó ( tức là đối tượng của hoạt động học) trở thành động cơ của hoạt
động ấy. Động cơ hoàn thiện tri thức là động cơ chính của hoạt động học
tập.Khi động cơ hoàn thiện tri thức được đáp ứng thì đồng nghĩa với nó là
động cơ quan hệ xã hội cũng được thoả mãn. Cả hai loại động cơ này đều
xuất hiện trong quá trình học tập và trong từng hoàn cảnh cụ thể, tùy điều
kiện của sinh viên mà động cơ này hay động cơ kia trở nên chiếm ưu thế.
3.2. Mục đích học tập:
Mục đích được hiểu là cái mà hành động đang diễn ra hướng tới.Với sinh
viên, động cơ thúc đẩy học tập và tiến hành dưới các hoạt động học.Mục
đích của hoạt động học sinh viên hướng tới là các khái niệm, giá trị, chuẩn
mực… trong từng ngành khoa học cụ thể.Mục đích hình thành bắt đầu từ
các dạng biểu tượng, dần tổ chức hiện thực hóa trên thực tế.
Đặc trưng trong học tập của học sinh, sinh viên là ở chỗ: khác với lao
động, học tập không làm thay đổi đối tượng tác động mà thay đổi chính
bản thân mình. Sinh viên học tập để tiếp thu các tri thức khoa học, hình
thành những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất
nhân cách người chuyên gia tương lai.
3.3. Điều kiện học tập:
Điều kiện đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động học tập.Nếu không
có các điều kiện học tập bên ngoài như tài liệu, dụng cụ học tập, sự giảng
giải của thầy cô… và sự vận động của chính bản thân người học thì sinh
viên khó có thể tự mình tiến hành các hoạt động tái tạo tri thức. Và kể cả
đủ các điều kiện ấy thì sau khi ra trường hoạt động học tập của sinh viên
vẫn được tiếp tục dưới hình thức này hay hình thức khác.
4. Phương thức, đơn vị thực hiện hoạt động học của sinh viên:
Phương thức, đơn vị thực hiện hoạt động học tập của sinh viên được thể
hiện bằng hoạt động, hành động và thao tác theo như sơ đồ cấu trúc chung của hoạt động.
Như đã nói ở trên, hoạt động học dưới cái nhìn của tâm lý học là những
hoạt động nhằm chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, hình thành ở cá nhân kiến
thức khoa học, năng lực cá nhân phù hợp thực tiễn.Hoạt động học được
động cơ thúc đẩy và được tiến hành bởi nhiều hành động. Trong các hành
động lại được thực hiện bằng nhiều thao tác khác nhau (động tác được
thực hiện theo một trình tự nào đó).
Đối với việc học của một sinh viên, động cơ hoàn thiện tri thức hay động
cơ quan hệ xã hội đều quan trọng. Động cơ thúc đẩy hoạt động diễn ra
theo nhiều hành động khác nhau: sinh viên lên lớp nghe giảng, sinh viên
lên thư viện đọc sách, sinh viên học bài cũ củng cố kiến thức… hành động
là bộ phận cấu thành hoàn chỉnh của hoạt động, thể hiện tính tích cực bên
trong và bên ngoài của cá nhân: sinh viên bằng các cử động có chủ định
tìm kiếm, trau dồi kiến thức, đồng thời cũng xuất hiện hiện tượng tâm lý
bên trong để nhìn nhận, hệ thống lại tri thức đã có được, mở rộng hiểu biết
bằng suy đoán của bản thân – chi phối bằng mục đích học tập của người học.
Hành động tiến hành bằng nhiều thao tác. Sinh viên muốn lên thư viện thì
phải có các thao tác như tra cứu danh mục tài liệu, nhìn, ghi chép… Việc
sinh viên lựa chọn thao tác như thế nào phụ thuộc điều kiện cụ thể của
sinh viên tại thời điểm đó, cũng phụ thuộc đối tượng tác động của sinh viên
là gì, ở phương diện nào.
Tóm lại, nội dung, tính chất hoạt động học tập của sinh viên có quan hệ
gắn bó chặt chẽ đối với phương thức của hoạt động học tập ấy. Quan hệ
này phản ánh quan hệ giữa nội dung và hình thức của hoạt động. Động
cơ, mục đích chi phối chọn lựa phương thức tiến hành hoạt động.Ngược
lại trong quá trình tiến hành hoạt động sẽ làm hình thành những động cơ và mục đích mới.
Đem quan hệ nội dung – hình thức trên ứng dụng trong học tập, sinh viên
sẽ có cái nhìn toàn diện và rõ nét về định hướng, phương pháp học tập. Vì
việc học tập của sinh viên mang tính độc lập cao, và cốt lõi là sự tự ý thức
về động cơ mục đích, biện pháp học tập, do vậy, việc bao quát được toàn
bộ kết cấu của hoạt động học có vai trò cần thiết. Song trên thực tế, hoạt
động học tập mang nhiều hành động có phần riêng lẻ, nên không phải sinh
viên nào cũng có nhìn nhận đúng đắn. Nếu động cơ, mục đích tốt, việc học
diễn ra theo hướng tích cực: sinh viên chú ý tới bài giảng, tự giác tham gia
xây dựng bài học, trao đổi thảo luận, ghi chép, có khả năng hiểu và trình
bày lại bài giảng theo suy nghĩ nhận thức của mình… Học tập của sinh
viên mang tính độc lập cao, vì thế chỉ cần xác định động cơ và mục đích
học tập đúng đắn thì tự sinh viên sẽ thay đổi vị trí của mình, từ đối tượng
tiếp nhận tri thức thành chủ thể tìm kiếm tri thức.
Đối với sinh viên đại học luật Hà Nội, đa số các bạn khi bước chân vào
ngôi trường này ít nhiều đều có hứng thú riêng về ngành luật. Niềm đam
mê ấy chính là động cơ thúc đẩy các bạn nỗ lực học tập. Để thực hiện điều
đó, mỗi bạn đều tự đặt ra cho mình mục tiêu riêng và hành động theo
nhiều cách khác nhau như: đi học đều đặn, đúng giờ, lên lớp nghe giảng
để tiếp thu kiến thức, đi thư viện để mở rộng kiến thức, học ôn bài để củng
cố kiến thức… Mục đích cụ thể của những hành động đó tuy khác nhau
nhưng đều xuất phát từ động cơ chính đã xác định ban đầu. Để thực hiện
một hành động nào đó thì mỗi cá nhân phải có các thao tác, hay nói cách
khác là những cử động của cơ thể diễn ra theo một hệ thống, trật tự nhất
định trong những điều kiện cụ thể, nhằm thực hiện mục đích cụ thể của
hành động. Những thao tác của mỗi cá nhân cũng rất khác nhau. Chẳng
hạn, khi thực hiện hành động nghe giảng trên lớp nhằm tiếp thu kiến thức,
có bạn ghi chép vào vở ghi, có bạn sử dụng máy ghi âm, có bạn chỉ tập
trung nghe giảng… Điều đó phụ thuộc vào điều kiện tồn tại cụ thể hay đối
tượng tác động mà họ lựa chọn. Như vậy, nó phản ánh ý nghĩa hiện thực
của cấu trúc tâm lý trong hoạt động đối với việc học của mọi người và sinh viên nói chung.
Document Outline
- 2.1.1 Định nghĩa:
- 2.1.2.Đặc điểm của hoạt động:- 2.1.3.Phân loại hoạt động:
- 2.1.4.Cấu trúc của hoạt động:
 
- 1.2. Cấu trúc tâm lý của hoạt động:
- 2.Ứng dụng của cấu trúc tâm lý của hoạt động trong h- 2.1.Hoạt động học dưới góc độ tâm lý:
- 2.2.Ứng dụng:
 
- 3.Nội dung, tính chất của hoạt động học tập của sinh- 3.1.Động cơ học tập:
- 3.2.Mục đích học tập:
- 3.3.Điều kiện học tập:
 
- 4.Phương thức, đơn vị thực hiện hoạt động học của si
