Chân lý là gì? Tính chất, vai trò của chân lý đối với thực ễn
1. Khái niệm chân lý
Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mac-Lênin, Khái niệm chân lý được dùng để ch
những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan mà sự phù hợp đó đã được kiểm tra
và chứng minh bởi thực ễn.
Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và được kiểm nghiệm bởi thực ễn.
Theo nghĩa như vậy, khái niệm chân lý không đồng nhất với khái niệm tri thức, cũng không đồng
nhất với khái niệm giả thuyết; đồng thời, chân lý cũng là một quá trình: “tư tưởng con người
không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im, chết cứng, một bức tranh đơn giản,
nhợt nhạt, không khuynh hướng, không vận động
Chân lý thuộc về vấn đề nhận thức. Bởi vì, nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt đến chân,
nghĩa là đạt đến tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan; nhưng không phải là sự
nhận thức nói chung, mà là sự nhận thức đúng về hiện thực khách quan.
Chân lý cũng không phải bản thân hiện thực khách quan nói chung, mà chỉ là hiện thực khách
quan đã được phản ánh đúng bởi nhận thức của con người. Không thể có chân lý chủ quan,
hoặc chân lý tồn tại tự nó một cách trừu tượng thuần túy ở trong hiện thực khách quan như
quan điểm của triết học duy tâm đã thừa nhận. Hoặc có quan điểm không đúng cho rằng chân
lý thuộc về số đông, tức là tư tưởng đó được nhiều người thừa nhận, hoặc nó thuộc về những
người có quyền lực, người giàu có v.v
2. Các nh chất của chân lý
Mọi chân lý đều có nh khách quan, nh tương đối, nh tuyệt đối và nh cụ thể.
2.1 Tính khách quan
Chân lý là tri thức chứ không phải bản thân hiện thực khách quan, nhưng tri thức đó phải phản
ánh đúng hiện thực khách quan và được thực ễn kiểm nghiệm là đúng. Cho nên, theo nghĩa
đúng của từ này, chân lý bao giờ cũng là khách quan vì nội dung phản ánh của nó là khách quan,
là phù hợp với khách thể của nhận thức. V.I. Lênin nhấn mạnh; “Tha nhận chân lý khách quan,
tức là chân lý không phụ thuộc vào con người và loài ngườichphụ thuộc vào thực tại khách
quan, không phụ thuộc vào nh đơn giản hay nh chặt chẽ của lôgíc, không phụ thuộc vào li
ích hay sự quy ước, v.v.. V.I. Lênin cũng khẳng định “là người duy vật, có nghĩa là thừa nhận chân
lý khách quan”.
Tính khách quan của chân lý là chỉ nh độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý chí chủ
quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực tế khách quan chứ không phải
ngược lại. Điều đó có nghĩa là nội dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm
thuần túy chủ quan, không phải là sự xác lập tùy ện của con người hoặc có sẵn trong nhận
thức; trái lại, nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan qui định.
Khẳng định chân lý có nh khách quan là một trong những điểm cơ bản phân biệt quan niệm về
chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri – là những
học thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất và phủ nhận khả năng con
người nhận thức được thế giới đó.
2.2 Tính tuyệt đối và nh tương đối
Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ nh phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của
tri thức với hiện thực khách quan. Vnguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối. Bởi
vì, trong thế giới khách quan không tồn tại một sự vật, hiên tượng nào mà con người hoàn toàn
không thể nhận thức được. Khả năng đó trong quá trình phát triển là vô hạn. Song, khả năng đó
lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau, của từng thực ễn cụ th
và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của đối tượng được phn ánh. Do đó chân
lý có nh tương đối.
Tính tương đối của chân lý là nh phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản
ánh của tri thức đã đạt được với hiện thực khách quan mà nó phản ánh. Điều đó có nghĩa là
gia nội dung của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ đạt được sự phù hợp từng phần,
từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định.
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện
chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý tương đối. Mặt khác,
trong mỗi chân lý mang nh tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của nh tuyt
đối. Lênin viết: “Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối đang
phát triển; chân lý tương đối là những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc
lập với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù
có nh tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối”.
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa nh tương đối và nh tuyệt đối
của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm cực
đoan trong nhận thức và hành động. Nếu cường điệu nh tuyệt đối của chân lý hạ thấp nh
tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ.
Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa nh tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của nh tuyệt đối sẽ rơi
vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện,
thuyết hoài nghi và thuyết bất khả tri.
2.3 Tính cụ th
Tính cụ th của chân lý là đặc nh gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối
ợng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều đó có nghĩa là mỗi tri thức
đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể xác định. Nội dung đó không phải là sự tru
ợng thuần túy thoát ly hiện thực mà nó luôn luôn gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra
trong một không gian, thời gian hay một hoàn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ
thể. Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể. Nếu thoát ly
những điều kiện cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào
sự trừu tượng thuần túy. Vì thế nó không phải là những tri thức đúng đắn và không được coi là
chân lý. Khi nhấn mạnh đặc nh này, Lênin đẫ khẳng định: “không có chân lý trừu tượng, “chân
lý luôn luôn là cụ th”.
Việc nắm vững nguyên tắc về nh cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực ễn. Nó đòi hỏi khi xem xét, đánh giá mỗi
sự kiện, mỗi việc làm của con người phải dựa trên quan điểm lịch sử – cụ thể; phải xuất phát từ
nhng điều kiện lịch sử cụ thể mà vận dụng những lý luận chung cho phù hợp. Theo Lênin: bản
chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân ch cụ thể mỗi nh hình cụ thể; rằng phương
pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời
điểm cụ thnhất định.
3. Phạm trù thực ễn
Thực ễn, theo ếng Hy Lạp cổ là “Pracca”, có nghĩa đen là hoạt động ch cực. Các nhà triết
học duy tâm cho hoạt động nhận thức, hoạt động của ý thức, hoạt động của nh thần nói
chung là hoạt động thực ễn. Các nhà triết học tôn giáo thì cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của
thượng đế là hoạt động thực ễn. Các nhà triết học duy vật trước triết học duy vật biện chứng
có nhiều đóng góp cho quan điểm duy vật về nhận thức, nhưng chưa một đại biểu nào hiểu
đúng được bản chất của thực ễn cũng như vai tcủa thực ễn đối với nhận thức. Không phải
ngẫu nhiên mà trong luận đề số 1 của Luận cương về Feuerbach (Phoiơbắc), C.Mác viết: “Khuyết
điểm chủ yếu của toàn bộ ch nghĩa duy vật từ trước đến nay – kcả chủ nghĩa duy vật của
Feuerbach – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách
th hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người,
là thực ễn. Chính vì vậy, cũng trong Luận cương về Feuerbach, C.Mác cũng khẳng định lại
Điểm cao nhất mà chủ nghĩa duy vật trực quan, tức là chủ nghĩa duy vật không quan niệm nh
cảm giác là hoạt động thực ễn, vươn tới được là sự trực quan về những cá nhân riêng biệt
trong “xã hội công dân”. Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, thực ễn là toàn bộ nhng
hoạt động vật chất- cảm nh, có nh lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã
hội phục vụ nhân loại ến bộ.
4. Vai trò của chân lý đối với thực ễn
Để sinh tồn và phát triển, con người phải ến hành những hoạt động thực ễn, đó là các hoạt
động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội, đồng thời cũng qua đó con người thực hiện một
cách tự giác hay không tự giác quá trình hoàn thiện và phát triển chính bản thân mình. Chính
quá trình này đã làm phát sinh và phát triển hoạt động nhận thức của con người. Thế nhưng,
hoạt động thực ễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả khi con người vận dụng được những
tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động thực ễn của mình. Vì vậy, chân
lý là một trong những điều kiện ên quyết đảm bảo sự thành công và nh hiệu quả trong hoạt
động thực ễn.
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực ễn là mối quan hệ song trùng trong quá trình vận
động, phát triển của cả chân lý và thực ễn: chân lý phát triển nhờ thực ễn và thực ễn phát
triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực
ễn.
Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực ễn đòi hỏi trong hoạt động nhận
thức con người phi xuất phát từ thực ễn để đạt được chân lý, phải coi chân lý cũng là một
quá trình, đồng thời phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực ễn
để phát triển thực ễn, nâng cao hiệu quả hot động cải biến giới tự nhiên và xã hội .
Coi trọng tri thức khoa học và ch cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào trong các hoạt
động kinh tế – xã hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt động đó về thực chất cũng chính là
phát huy vai trò của chân lý khoa học trong thực ễn hiện nay.
5. Thực ễn là êu chuẩn để kiểm tra chân lý
Tri thức của con người là kết quả của quá trình nhận thức, tri thức đó có thể phản ánh đúng
hoặc không đúng hiện thực khách quan. Không thể lấy tri thức để kiểm tra tri thức, cũng không
thể lấy sự hiển nhiên, hay sự tán thành của số đông hoặc sự có lợi, có ích để kiểm tra sự đúng,
sai của tri thức. Theo triết học Mác – Lênin, thực ễn là êu chuẩn khách quan duy nhất để
kiểm tra chân lý, bác bỏ sai lầm. Dựa vào thực ễn, nời ta có thể chứng minh, kiểm nghiệm
chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thực ễn mới có thể vật chất hoá được tri thức, hiện thực hoá được tư
ởng, qua đó mới khẳng định được chân lý hoặc phủ định một sai lầm nào đó.C.Mác đã khảng
định: “Vấn đề m hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới nh chân lý khách quan không,
hoàn toàn không phải là một vấn đlý luận mà là một vấn đề thực ễn”.
Có nhiều hình thức thực ễn khác nhau, do vậy cũng có nhiều hình thức kiểm tra chân lý khác
nhau, có thể bằng thực nghiệm khoa học, có thể áp dụng lý luận xã hội vào quá trình cải biến xã
hội, v.v..Tuy nhiên, thực ễn là êu chuẩn của chân lý vừa có nh chất tuyệt đối, vừa có nh
chất tương đối. Tính tuyệt đối của thực ễn với tư cách êu chuẩn chân lý thể hin ch, thc
ễn là êu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra, khảng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Thực
ễn trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể sẽ chứng minh được chân lý, bác bỏ được sai lầm. Tính
tương đối của thực ễn với tư cách êu chuẩn chân lý thể hin chỗ, thực ễn có quá trình vận
động, biến đổi, phát triển, do đó “không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn
toàn một biểu tượng nào đó của con người, dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa”.
Vì vậy, nếu xem xét thực ễn trong không gian càng rộng, trong thời gian càng dài, trong chỉnh
thể thì càng rõ đâu là chân lý, đâu là sai lầm. Triết học Mác – Lênin yêu cầu quan điểm về đời
sống, về thực ễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức và khẳng đnh
“con người chứng minh bằng thực ễn của mình sự đóng dấu khách quan của những ý niệm,
khái niệm tri thức của mình, của khoa học, của mình”.
Từ vai trò của thực ễn đối với nhận thức, chúng ta rút ra nguyên tắc thực ễn trong nhận thức
và hoạt động. Nguyên tắc này yêu cầu xem xét svật luôn phải gắn với nhu cầu thực ễn. Coi
trọng tổng kết thực ễn, để bổ sung, hoàn thiện, phát triển nhận thức, lý luận cũng như chủ
trương, đường lối, chính sách. Do vậy, nguyên tc này có ý nghĩa to lớn trong việc chống bệnh
giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Nếu không quán triệt tốt nguyên tắc thực ễn thì dễ mắc phải
bệnh bệnh giáo điều. Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng và hành động cường điệu lý
luận coi nhẹ thực ễn, tách lý luận khỏi thực ễn, thiếu quan điểm lịch sử – cụ th. ớc ta
có hai loại giáo điều, đó là giáo điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm. Giáo điều lý luận biểu
hin việc học tập lý luận tách rời với thực ễn, xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở, v.v..
Giáo điều kinh nghiệm biểu hiện việc áp dụng dập khuôn, máy móc kinh nghiệm của ngành
khác vào ngành mình, của địa phương khác vào địa phương mình, của nước khác vào nước
mình, v.v.. không nh đến những điều kiện thực ễn lịch sử – cụ thể. Để khắc phục và ngăn
ngừa có hiệu quả cả hai loại giáo điều này, chúng ta phải từng bước quán triệt tốt nguyên tắc
thực ễn; tăng cường tổng kết thực ễn, v.v..

Preview text:

Chân lý là gì? Tính chất, vai trò của chân lý đối với thực tiễn
1. Khái niệm chân lý
Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mac-Lênin, Khái niệm chân lý được dùng để chỉ
những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan mà sự phù hợp đó đã được kiểm tra
và chứng minh bởi thực tiễn.
Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và được kiểm nghiệm bởi thực tiễn.
Theo nghĩa như vậy, khái niệm chân lý không đồng nhất với khái niệm tri thức, cũng không đồng
nhất với khái niệm giả thuyết; đồng thời, chân lý cũng là một quá trình: “tư tưởng con người
không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im, chết cứng, một bức tranh đơn giản,
nhợt nhạt, không khuynh hướng, không vận động”
Chân lý thuộc về vấn đề nhận thức. Bởi vì, nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt đến chân lý,
nghĩa là đạt đến tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan; nhưng không phải là sự
nhận thức nói chung, mà là sự nhận thức đúng về hiện thực khách quan.
Chân lý cũng không phải bản thân hiện thực khách quan nói chung, mà chỉ là hiện thực khách
quan đã được phản ánh đúng bởi nhận thức của con người. Không thể có chân lý chủ quan,
hoặc chân lý tồn tại tự nó một cách trừu tượng thuần túy ở trong hiện thực khách quan như
quan điểm của triết học duy tâm đã thừa nhận. Hoặc có quan điểm không đúng cho rằng chân
lý thuộc về số đông, tức là tư tưởng đó được nhiều người thừa nhận, hoặc nó thuộc về những
người có quyền lực, người giàu có v.v…
2. Các tính chất của chân lý
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể. 2.1 Tính khách quan
Chân lý là tri thức chứ không phải bản thân hiện thực khách quan, nhưng tri thức đó phải phản
ánh đúng hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng. Cho nên, theo nghĩa
đúng của từ này, chân lý bao giờ cũng là khách quan vì nội dung phản ánh của nó là khách quan,
là phù hợp với khách thể của nhận thức. V.I. Lênin nhấn mạnh; “Thừa nhận chân lý khách quan,
tức là chân lý không phụ thuộc vào con người và loài người” chỉ phụ thuộc vào thực tại khách
quan, không phụ thuộc vào tính đơn giản hay tính chặt chẽ của lôgíc, không phụ thuộc vào lợi
ích hay sự quy ước, v.v.. V.I. Lênin cũng khẳng định “là người duy vật, có nghĩa là thừa nhận chân lý khách quan”.
Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý chí chủ
quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực tế khách quan chứ không phải
ngược lại. Điều đó có nghĩa là nội dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm
thuần túy chủ quan, không phải là sự xác lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn trong nhận
thức; trái lại, nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan qui định.
Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân biệt quan niệm về
chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri – là những
học thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất và phủ nhận khả năng con
người nhận thức được thế giới đó.
2.2 Tính tuyệt đối và tính tương đối
Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của
tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối. Bởi
vì, trong thế giới khách quan không tồn tại một sự vật, hiên tượng nào mà con người hoàn toàn
không thể nhận thức được. Khả năng đó trong quá trình phát triển là vô hạn. Song, khả năng đó
lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau, của từng thực tiễn cụ thể
và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của đối tượng được phản ánh. Do đó chân lý có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản
ánh của tri thức đã đạt được với hiện thực khách quan mà nó phản ánh. Điều đó có nghĩa là
giữa nội dung của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ đạt được sự phù hợp từng phần,
từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định.
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện
chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý tương đối. Mặt khác,
trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt
đối. Lênin viết: “Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối đang
phát triển; chân lý tương đối là những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc
lập với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù
có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối”.
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính tuyệt đối
của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm cực
đoan trong nhận thức và hành động. Nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân lý hạ thấp tính
tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ.
Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối sẽ rơi
vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện,
thuyết hoài nghi và thuyết bất khả tri. 2.3 Tính cụ thể
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối
tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều đó có nghĩa là mỗi tri thức
đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể xác định. Nội dung đó không phải là sự trừu
tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà nó luôn luôn gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra
trong một không gian, thời gian hay một hoàn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ
thể. Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể. Nếu thoát ly
những điều kiện cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào
sự trừu tượng thuần túy. Vì thế nó không phải là những tri thức đúng đắn và không được coi là
chân lý. Khi nhấn mạnh đặc tính này, Lênin đẫ khẳng định: “không có chân lý trừu tượng”, “chân
lý luôn luôn là cụ thể”.
Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem xét, đánh giá mỗi
sự kiện, mỗi việc làm của con người phải dựa trên quan điểm lịch sử – cụ thể; phải xuất phát từ
những điều kiện lịch sử cụ thể mà vận dụng những lý luận chung cho phù hợp. Theo Lênin: bản
chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể; rằng phương
pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời
điểm cụ thể nhất định.
3. Phạm trù thực tiễn
Thực tiễn, theo tiếng Hy Lạp cổ là “Practica”, có nghĩa đen là hoạt động tích cực. Các nhà triết
học duy tâm cho hoạt động nhận thức, hoạt động của ý thức, hoạt động của tinh thần nói
chung là hoạt động thực tiễn. Các nhà triết học tôn giáo thì cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của
thượng đế là hoạt động thực tiễn. Các nhà triết học duy vật trước triết học duy vật biện chứng
có nhiều đóng góp cho quan điểm duy vật về nhận thức, nhưng chưa một đại biểu nào hiểu
đúng được bản chất của thực tiễn cũng như vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Không phải
ngẫu nhiên mà trong luận đề số 1 của Luận cương về Feuerbach (Phoiơbắc), C.Mác viết: “Khuyết
điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của
Feuerbach – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách
thể
hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người,
là thực tiễn. Chính vì vậy, cũng trong Luận cương về Feuerbach, C.Mác cũng khẳng định lại
“Điểm cao nhất mà chủ nghĩa duy vật trực quan, tức là chủ nghĩa duy vật không quan niệm tính
cảm giác là hoạt động thực tiễn, vươn tới được là sự trực quan về những cá nhân riêng biệt
trong “xã hội công dân”. Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, thực tiễn là toàn bộ những
hoạt động vật chất- cảm tính, có tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã
hội phục vụ nhân loại tiến bộ.

4. Vai trò của chân lý đối với thực tiễn
Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn, đó là các hoạt
động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội, đồng thời cũng qua đó con người thực hiện một
cách tự giác hay không tự giác quá trình hoàn thiện và phát triển chính bản thân mình. Chính
quá trình này đã làm phát sinh và phát triển hoạt động nhận thức của con người. Thế nhưng,
hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả khi con người vận dụng được những
tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy, chân
lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ song trùng trong quá trình vận
động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý phát triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát
triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.
Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động nhận
thức con người phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, phải coi chân lý cũng là một
quá trình, đồng thời phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn
để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội .
Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào trong các hoạt
động kinh tế – xã hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt động đó về thực chất cũng chính là
phát huy vai trò của chân lý khoa học trong thực tiễn hiện nay.
5. Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý
Tri thức của con người là kết quả của quá trình nhận thức, tri thức đó có thể phản ánh đúng
hoặc không đúng hiện thực khách quan. Không thể lấy tri thức để kiểm tra tri thức, cũng không
thể lấy sự hiển nhiên, hay sự tán thành của số đông hoặc sự có lợi, có ích để kiểm tra sự đúng,
sai của tri thức. Theo triết học Mác – Lênin, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để
kiểm tra chân lý, bác bỏ sai lầm. Dựa vào thực tiễn, người ta có thể chứng minh, kiểm nghiệm
chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thực tiễn mới có thể vật chất hoá được tri thức, hiện thực hoá được tư
tưởng, qua đó mới khẳng định được chân lý hoặc phủ định một sai lầm nào đó.C.Mác đã khảng
định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới tính chân lý khách quan không,
hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn”.
Có nhiều hình thức thực tiễn khác nhau, do vậy cũng có nhiều hình thức kiểm tra chân lý khác
nhau, có thể bằng thực nghiệm khoa học, có thể áp dụng lý luận xã hội vào quá trình cải biến xã
hội, v.v..Tuy nhiên, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính chất tuyệt đối, vừa có tính
chất tương đối. Tính tuyệt đối của thực tiễn với tư cách tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ, thực
tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra, khảng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Thực
tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể sẽ chứng minh được chân lý, bác bỏ được sai lầm. Tính
tương đối của thực tiễn với tư cách tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ, thực tiễn có quá trình vận
động, biến đổi, phát triển, do đó “không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn
toàn
một biểu tượng nào đó của con người, dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa”.
Vì vậy, nếu xem xét thực tiễn trong không gian càng rộng, trong thời gian càng dài, trong chỉnh
thể thì càng rõ đâu là chân lý, đâu là sai lầm. Triết học Mác – Lênin yêu cầu quan điểm về đời
sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức và khẳng định
“con người chứng minh bằng thực tiễn của mình sự đóng dấu khách quan của những ý niệm,
khái niệm tri thức của mình, của khoa học, của mình”.
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, chúng ta rút ra nguyên tắc thực tiễn trong nhận thức
và hoạt động. Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật luôn phải gắn với nhu cầu thực tiễn. Coi
trọng tổng kết thực tiễn, để bổ sung, hoàn thiện, phát triển nhận thức, lý luận cũng như chủ
trương, đường lối, chính sách. Do vậy, nguyên tắc này có ý nghĩa to lớn trong việc chống bệnh
giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Nếu không quán triệt tốt nguyên tắc thực tiễn thì dễ mắc phải
bệnh bệnh giáo điều. Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng và hành động cường điệu lý
luận coi nhẹ thực tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử – cụ thể. Ở nước ta
có hai loại giáo điều, đó là giáo điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm. Giáo điều lý luận biểu
hiện ở việc học tập lý luận tách rời với thực tiễn, xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở, v.v..
Giáo điều kinh nghiệm biểu hiện ở việc áp dụng dập khuôn, máy móc kinh nghiệm của ngành
khác vào ngành mình, của địa phương khác vào địa phương mình, của nước khác vào nước
mình, v.v.. không tính đến những điều kiện thực tiễn lịch sử – cụ thể. Để khắc phục và ngăn
ngừa có hiệu quả cả hai loại giáo điều này, chúng ta phải từng bước quán triệt tốt nguyên tắc
thực tiễn; tăng cường tổng kết thực tiễn, v.v..