



Preview text:
Chảy máu chất xám là gì? Nguyên nhân, hậu quả chảy máu chất xám
1. Hiện tượng (sự) chảy máu chất xám là gì?
Chảy máu chất xám trong tiếng Anh là Brain drain.
Chảy máu chất xám là một thuật ngữ tiếng lóng chỉ sự di cư hoặc di cư đáng kể của các cá
nhân. Chảy máu chất xám có thể là kết quả của tình trạng hỗn loạn trong một quốc gia, sự tồn
tại của các cơ hội nghề nghiệp thuận lợi ở các quốc gia khác, hoặc từ mong muốn tìm kiếm
một mức sống cao hơn. Ngoài việc xảy ra về mặt địa lý, chảy máu chất xám có thể xảy ra ở
cấp độ tổ chức hoặc cấp công nghiệp khi người lao động nhận thấy mức lương, phúc lợi tốt
hơn hoặc khả năng di chuyển đi lên trong một công ty hoặc ngành khác.
Chảy máu chất xám (brain drain) là thuật ngữ được sử dụng ám chỉ sự di cư của lực lượng lao
động được đào tạo, có trình độ chuyên môn cao từ nước nghèo sang các nước giàu. Điều này
xuất phát bởi, những người có năng lực chuyên môn hoặc được đào tạo thường chuyển sang
sống ở các nước phát triển, vì ở đó lợi suất thu được từ vốn nhân lực của họ cao hơn. Hiện nay,
ở hầu hết các nước phát triển đều có cơ chế mở để tiếp nhận những người di cư có trình độ chuyên môn cao.
Chảy máu chất xám khiến các quốc gia, ngành công nghiệp và tổ chức mất đi một phần cốt lõi
là những cá nhân có giá trị của quốc gia mình. Thuật ngữ này thường được sử dụng để mô tả
sự ra đi của các nhóm bác sĩ, chuyên gia chăm sóc sức khỏe, nhà khoa học, kỹ sư hoặc chuyên
gia tài chính. Khi những người này rời đi, nguyên quán của họ bị tổn hại theo hai cách chính.
Thứ nhất, kiến thức chuyên môn bị mất đi với mỗi người di cư, làm giảm nguồn cung của nghề
nghiệp đó. Thứ hai, nền kinh tế đất nước bị tổn hại vì mỗi nhà chuyên môn đại diện cho các
đơn vị chi tiêu thặng dư. Các chuyên gia thường kiếm được mức lương lớn, do đó, sự ra đi của
họ làm giảm chi tiêu của người tiêu dùng ở khu vực đó hoặc quốc gia nói chung.
Chảy máu chất xám cũng có thể được định nghĩa là sự mất mát của lực lượng lao động học
thuật và công nghệ thông qua việc di chuyển vốn nhân lực đến các môi trường địa lý, kinh tế
hoặc nghề nghiệp thuận lợi hơn. Thường xuyên hơn không, sự di chuyển xảy ra từ các nước
đang phát triển sang các nước hoặc khu vực phát triển.
2. Nguyên nhân của chảy máu chất xám là do đâu?
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến chảy máu chất xám, việc này xuất phát từ những nguyên nhân
khác nhau tùy thuộc vào quốc gia đang trải qua nó. Nguyên nhân của chảy máu chất xám có
thể được phân loại thành yếu tố đẩy và yếu tố kéo.
Các yếu tố thúc đẩy là những đặc điểm tiêu cực của nước sở tại tạo thành động lực cho những
người thông minh di cư từ các nước kém phát triển hơn (LDC). Ngoài thất nghiệp và bất ổn
chính trị, một số yếu tố thúc đẩy khác là thiếu cơ sở nghiên cứu, phân biệt đối xử về việc làm,
kinh tế kém phát triển, thiếu tự do và điều kiện làm việc tồi tệ. Yếu tố kéo là những đặc điểm
tích cực của quốc gia phát triển mà từ đó người di cư muốn được hưởng lợi. Các công việc
được trả lương cao hơn và chất lượng cuộc sống tốt hơn là những ví dụ về các yếu tố kéo.
Các yếu tố kéo khác bao gồm triển vọng kinh tế vượt trội, uy tín của đào tạo nước ngoài, môi
trường chính trị tương đối ổn định, hệ thống giáo dục hiện đại cho phép đào tạo vượt trội, tự
do trí tuệ và nền văn hóa phong phú. Những danh sách này không đầy đủ; có thể có các yếu tố
khác, một số trong số đó có thể cụ thể cho các quốc gia hoặc thậm chí cho các cá nhân.
Chảy máu chất xám trong tổ chức liên quan đến việc di cư ồ ạt những nhân viên tài năng khỏi
một công ty, thường là vì họ cảm thấy bất ổn, thiếu cơ hội trong công ty hoặc họ có thể cảm
thấy rằng họ có thể thực hiện mục tiêu nghề nghiệp dễ dàng hơn ở một công ty khác.
Chảy máu chất xám trong công nghiệp xảy ra khi những công nhân lành nghề không chỉ rời
khỏi một công ty mà là toàn bộ ngành công nghiệp.
Một số nguyên nhân phổ biến dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám ở cấp độ địa lý bao gồm
bất ổn chính trị, chất lượng cuộc sống kém, hạn chế tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và
thiếu cơ hội kinh tế. Những yếu tố này thúc đẩy những người lao động có kỹ năng và tài năng
rời khỏi các nước đầu mối để đến những nơi có cơ hội tốt hơn.
Chảy máu chất xám trong tổ chức và công nghiệp thường là sản phẩm phụ của bối cảnh kinh
tế phát triển nhanh chóng, trong đó các công ty và ngành công nghiệp không thể bắt kịp với
những thay đổi về công nghệ và xã hội mất đi những công nhân tốt nhất của họ cho những người có thể.
3. Hậu quả của chảy máu chất xám như thế nào?
Khi tình trạng chảy máu chất xám diễn ra phổ biến ở các quốc gia đang phát triển sẽ có thể ảnh
hưởng đến một số tác phương diện nhất định, cụ thể: – Thất thu thuế
– Mất đi những doanh nhân tiềm năng trong tương lai
– Sự thiếu hụt công nhân quan trọng, có tay nghề cao
– Việc di cư có thể dẫn đến mất niềm tin vào nền kinh tế, khiến mọi người muốn rời đi hơn là ở lại.
– Mất ý tưởng sáng tạo
– Mất đầu tư của đất nước cho giáo dục
– Sự mất mát của các dịch vụ giáo dục và y tế quan trọng
Quốc gia bị chảy máu chất xám còn mất nguồn lực đầu tư vào việc giáo dục cho trẻ em và mức
độ thua kém của quốc gia về mọi phương diện phát triển (xã hội, kĩ thuật, đồng lương và năng
xuất) càng ngày càng tăng so với thế giới. Trong cuộc đua kinh tế và kĩ thuật, vấn đề tương
quan sức mạnh rất nghiêm trọng, một khi đã thua kém thì mức độ cạnh tranh lại càng khó hơn.
Chảy máu chất xám thường được mô tả là một vấn đề cần được giải quyết. Tuy nhiên, có những
lợi ích có thể được bắt nguồn từ các hiện tượng. Khi mọi người chuyển từ các nước LDC sang
các nước phát triển, họ sẽ học được những kỹ năng và chuyên môn mới, những kỹ năng và
chuyên môn mới mà họ có thể sử dụng để tận dụng lợi thế của nền kinh tế trong nước khi họ
trở về. Một lợi ích khác là kiều hối; những người di cư gửi số tiền họ kiếm được về nước, điều
này có thể giúp kích thích nền kinh tế của đất nước.
Mặt hạn chế của chảy máu chất xám lớn hơn lợi ích, vì vậy, các chính phủ có thể thực hiện một
số động thái để giảm số lượng lao động có trình độ cao và tay nghề cao chuyển đến các nước
khác. Một cách mà các chính phủ có thể giữ chân công nhân lành nghề của mình là đảm bảo
rằng người dân cảm thấy an toàn và thực hiện các bước để kích thích hoạt động kinh tế.
4. Một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng "chảy máu chất xám" trong khu vực kinh tế nhà nước
Trong cơ chế thị trường, vấn đề cạnh tranh nguồn nhân lực, đặc biệt đối với nhân lực chất lượng
cao là điều tất yếu; việc người lao động di chuyển nơi làm việc từ doanh nghiệp này sang doanh
nghiệp khác cũng là vấn đề khó tránh khỏi và xảy ra ở hầu hết các loại hình doanh nghiệp. Tuy
nhiên, vấn đề này xảy ra ở các doanh nghiệp nhà nước là điều mà chúng ta cần hết sức lưu tâm
giải quyết, xuất phát từ chính vai trò, vị trí của bộ phận công nhân trong khu vực kinh tế này.
Trước hết, cần xác định “giữ chân” công nhân giỏi không phải là sách lược nhất thời mà là một
vấn đề mang tính chiến lược. Vì vậy, các doanh nghiệp nhà nước cần một hệ thống giải pháp
mang tính đồng bộ, xuyên suốt quá trình phát triển của doanh nghiệp.
Một là, cải cách chính sách tiền lương trong các doanh nghiệp doanh nghiệp; thường xuyên
quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của công nhân. Bởi, trong bối cảnh kinh tế thị
trường khó tránh khỏi hiện tượng, người lao động nếu có cơ hội sẽ thay đổi nơi làm việc để
nhận được mức lương cũng như những đãi ngộ xã hội tốt hơn. Vì thế, các doanh nghiệp nhà
nước cần đưa ra mức thu nhập mang tính cạnh tranh cao, xứng đáng với năng lực và công sức
của người công nhân, mới có khả năng “giữ chân” được những công nhân giỏi.
Hai là, các doanh nghiệp nhà nước cần xây dựng môi trường làm việc ổn định, có tính chuyên
nghiệp cao. Lương là yếu tố quan trọng song mới là điều kiện cần, không phải là yếu tố duy
nhất để “giữ chân” công nhân. Môi trường làm việc tốt mới là điều kiện đủ để công nhân gắn
bó lâu dài với doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp nhà nước cần xây dựng một môi trường
làm việc ổn định và có tính chuyên nghiệp cao để công nhân tin tưởng, yên tâm làm việc. Một
trường làm việc tốt được đánh giá trên rất nhiều yếu tố nhưng phải bảo đảm được những yếu
tố cơ bản sau: phải tạo được điều kiện tốt nhất để người công nhân phát huy tối đa năng lực
của mình; coi trọng yếu tố con người; có văn hóa doanh nghiệp vững mạnh; có môi trường làm
việc cởi mở, thân thiện trên tinh thần tập thể… Đây chính là những điều kiện hết sức căn bản,
quan trọng để các doanh nghiệp nhà nước “giữ chân” và thu hút được nhân tài.
Ba là, Chính phủ cần ban hành quy định về trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực của các doanh
nghiệp và trách nhiệm của người công nhân tại các doanh nghiệp nhà nước đặc thù. Hiện nay,
vấn đề cạnh tranh nguồn nhân lực giữa các doanh nghiệp đang xảy ra tình trạng bất cập: bộ
phận công nhân có trình độ cao được các doanh nghiệp nhà nước tuyển về, sau đó cử đi đào
tạo để nâng cao trình độ chuyên môn (quá trình này tốn kém rất nhiều thời gian và kinh phí của
Nhà nước); thế nhưng sau học xong, bộ phận công nhân này lại chuyển sang làm việc trong
khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, gây nên sự thiếu hụt nghiêm trọng
nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực kinh tế nhà nước.
Bốn là, bản thân mỗi người công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước cần nâng cao ý thức
trách nhiệm của mình trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội nói chung và nhiệm
vụ phát triển giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng. So với bộ phận công nhân khu vực kinh
tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước không
chỉ là lực lượng nòng cốt trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội mà còn là lực lượng
nòng cốt trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, bảo đảm giữ vững định hướng xã hội của nền
kinh tế và bảo đảm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Do đó, mỗi người công
nhân trong doanh nghiệp nhà nước cần ý thức rõ ràng nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, yên
tâm công tác, phấn đấu xây dựng doanh nghiệp nhà nước vững mạnh, thực sự trở thành bộ phận
then chốt của kinh tế nhà nước.
Nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là yếu tố then chốt, bảo đảm sự thành công của các doanh
nghiệp. Do vậy, để hoàn thành trọng trách của mình, doanh nghiệp nhà nước không thể xem
nhẹ hiện tượng “chảy máu xất chám”. Sớm tìm ra nguyên nhân và các giải pháp nhằm giải
quyết triệt để tình trạng này là việc làm quan trọng, cần thiết và thường xuyên mà các doanh
nghiệp nhà nước chú ý, nhất là trong bối cảnh có sự cạnh tranh rất “khốc liệt” về nguồn nhân
lực chất lượng cao như hiện nay.