














Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Đề tài: “ ”
Họ và tên: Hoàng Quốc Thái
Mã số sinh viên: 11225724 Lớp TC: AEP(122)_19
GV hướng dẫn: Nghiêm Thị Châu Giang Hà Nội – 01/2023 lOMoAR cPSD| 44985297
Đề tài: Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng
và vận dụng vào việc học tập chuyên ngành MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 0
NỘI DUNG ................................................................................................................ 0
Chương I:Cơ sở lí luận về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng trong
phép biện chứng duy vật ............................................................................................ 0
1.1.Các khái niệm liên quan.................................................................................... 0
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng trong phép biện chứng
duy vật ..................................................................................................................... 2
1.2.1. Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu
hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài
cái riêng ................................................................................................................ 3
1.2.2. Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là
không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung.
.............................................................................................................................. 3
1.2.3. Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái
bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng ................................................................... 4
1.2.4. Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá
trình phát triển của sự vật .................................................................................... 5
1.3.Ý nghĩa phương pháp luận ................................................................................ 5
Chương II: Vận dụng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng vào việc nhận thức
mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và tập thể và những bài học kinh nghiệm rút ra cho
bản thân ...................................................................................................................... 6
2.1. Vận dụng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng vào việc nhận thức mối
quan hệ lợi ích giữa cá nhân và tập thể trong lớp Kinh tế phát triển và trong công
việc .......................................................................................................................... 6
2.2.Định hướng nghề nghiệp, lĩnh vực phát triển cho ngành Kinh tế phát triển
củabản thân nên dựa trên những yếu tố sau: ........................................................... 8
2.3.Những lưu ý khi đưa ra lựa chọn lĩnh vực chuyên sâu, mảng công việc cho
ngành Kinh tế phát triển.......................................................................................... 9
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 11 lOMoAR cPSD| 44985297 lOMoAR cPSD| 44985297 MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của tri thức, đòi hỏi mỗi con người phải
được đào tạo trình độ học vấn, năng lực, tu dưỡng và rèn luyện phẩm chất đạo đức,
ý thức lao động, ý thức cộng đồng, bảo vệ tài nguyên môi trường... để đáp ứng yêu
cầu của sự biến đổi khoa học công nghệ cũng như sự biến đổi ngày càng nhanh của xã hội.
Đặt mỗi cá nhân trong bối cảnh hiện nay,ta lại càng thấy tầm quan trọng giữa
mối liên hệ các chung – cái riêng. Theo quan điểm triết học Mác – Lênin: “Cái
riêng xuất hiện chỉ tồn tại được trong một khoảng thời gian nhất định và khi nó
mất đi sẽ không bao giờ xuất hiện lại, cái riêng là cái không lặp lại.Cái chung tồn
tại trong nhiều cái riêng khi một cái riêng nào đó mất đi thì những cái chung tồn
tại ở cái riêng ấy sẽ không mất đi, mà nó vẫn còn tồn tại ở nhiều cái riêng khác.”
Để tìm hiểu một cách rõ ràng hơn về mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng,
cái chung và cái đơn nhất cũng như áp dụng vào trong cuộc sống hàng ngày đặc
biệt là vận dụng trong chuyên ngành, để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống và
trong công việc em chọn đề tài: “Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào việc học tập chuyên ngành” làm
chủ đề cho bài tiểu luận của mình. NỘI DUNG
Chương I:Cơ sở lí luận về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
trong phép biện chứng duy vật
1.1.Các khái niệm liên quan
Thế giới vật chất xung quanh con người tồn tại bằng muôn vàn các sự vật,
hiện tượng rất khác nhau về màu sắc, trạng thái, tính chất, hình dáng, kích thước,...
nhưng đồng thời giữa chúng cũng có rất nhiều những đặc điểm thuộc tính chung giống nhau.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Ví dụ như: ngôi nhà, cái bàn,
hiện tượng ô nhiễm môi trường, quá trình nghiên cứu thị trường của một công ti. 0 lOMoAR cPSD| 44985297
Sự tồn tại cá thể của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong các cấu trúc sự
vật khác. Tinh chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất
là một phạm trù triết học đang để chỉ những nét, những mặt, những thuộc kết cấu
vật chất nhất định và không lặp lại ở kết cấu vật chất khác. Tính cách của một
người, vân tay, nền văn hóa của một dân tộc,... là những cái đơn nhất. Như vậy,
cái đơn nhất không phải là một sự vật, hiện tượng đơn lẻ mà nó tồn tại trong cái
riêng. Nó chỉ đặc trưng của cái riêng.
Cái chung là dùng để chỉ những thuộc tính chung không những có ở một kết
cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá
trình riêng lẻ khác. ví dụ như: cái chung của người Việt Nam là có một lòng nồng
nàn yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ nền độc
lập của nước nhà. Cái chung của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư của công nhân làm thuê.
Cái đơn nhất là một phạm trù triết học chi những mặt, những thuộc tính... chỉ
có ở một sự vật mà không lặp lại ở sự vật khác. Ví dụ như: Đều là cây nhưng sao
mỗi loại cây lại có những đặc điểm khác nhau. Chẳng hạn đều là hoa hồng nhưng
tại sao hồng nhung lại có mùi hương quyến rũ, hoa hồng vàng lại nhẹ nhàng, hồng
xanh kiêu sa. Đó chính là đặc điểm riêng - “cái đơn nhất" của nó.
Phân biệt giữa cái chung bản chất và cái chung không bản chất:
Cái chung không bản chất là cái chung thường do sự ngẫu hợp mà có.
Chẳng hạn cái chung bản chất với phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật là
vật chất luôn vận động. Như vậy, tính lặp lại là đặc trưng của của cái chung Tinh
chất này cho thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều quá trình
vật chất khác nhau. 0 cho ta một cách nhìn sự vật trong mối liên hệ qua lại, gan liem với nhau.
Còn cái chung bản chất lại là cái chung giống nhau của rất nhiều sự vật hiện
tượng mang tính cơ bản là đặc trưng để nhận dạng một sự vật hiện tượng nào đó. 1 lOMoAR cPSD| 44985297
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng trong phép biện chứng duy vật
Những nhà nghiên cứu triết học Mác-Lênin đề cập đến có hai quan điểm trái
ngược nhau về mối quan hệ giữa "cái riêng" và "cái chung", đó là phái duy thực
và phái duy danh. Triết học Mác-Lênin cho rằng, cả quan niệm của phái duy thực
và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt
đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại
khách quan và mối liên hệ khăng khít giữa chúng. *Phái duy thực
Phái duy thực thực là trường phái triết học nói tiến về mối quan đã ra "cái
chung" và "cái riêng", theo phái này thì "cái riêng" chỉ tồn tại tạm thời, thoáng
qua, không phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có "cái chung" mới tồn tại vĩnh viễn,
thật sự độc lập với ý thức của con người. "Cái chung" không phụ thuộc vào "cái
riêng", mà còn sinh ra "cái riêng". Cái chung là những ý niệm tôn tại vĩnh viễn bên
cạnh những cái riêng chỉ có tính chất tạm thời, cái riêng do cái chung sinh ra. *Phái duy danh
Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung là
những tên gọi trống rỗng, do con người đặt ra, không phản ánh cái gì trong hiện
thực. Quan điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của các khái niệm.
Những khái niệm cụ thể đôi khi không có ý nghĩa gì trong cuộc sống của con
người, chỉ là những từ trống rỗng, không cần thiết phải bận tâm tìm hiểu. Ranh
giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhòa và con người không
cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học nữa.
Như vậy ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhòa
và con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học.
Cả hai quan điểm của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ
đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung
hoặc ngược lại. Họ không thấy được sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng khít giữa chúng. 2 lOMoAR cPSD| 44985297
Phép biện chứng duy vật của Triết học Marx-Lenin cho rằng cái riêng, cái
chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ
với nhau, phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái chung được dùng để chỉ những mặt,
những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn
được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lênin đã viết rằng:
“Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chi tồn
tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Bất cứ cái riêng [nào cũng là cái chung.
Bất cứ cái chung nào cũng là một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất] của
cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chi han quật một cách đi hái tất cả mọi vật
riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là một
bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất] của cái riêng. Bất cứ cái chung nào
cũng chi bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào
cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung”
1.2.1. Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu
hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng.
Chẳng hạn, không có sinh viên nói chung nào tồn tại bên cạnh sinh viên ngành
kinh tế đầu tư, sinh viên ngành kinh tế phát triển... nào cũng phải đến trường học
tập, nghiên cứu, thi cử theo nội quy nhà trường. Những đặc tính chung này lặp lại
ở những sinh viên riêng lẻ và được phản ánh trong khái niệm “sinh viên”.
Hay như quy luật bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái chung,
không thế thì không phải là nhà tư bản, nhưng quy luật đó được thể hiện ra ngoài
dưới những biểu hiện của các nhà tư bản (cái riêng). Rõ ràng, cái chung tồn tại
thực sự nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái tiêng để biểu
thị sự tồn tại của mình.
1.2.2. Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại
\trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối
độc lập, không có liên hệ với cái chung. 3 lOMoAR cPSD| 44985297
Điều này có nghĩa “cái riêng” tồn tại độc lập, nhưng sự độc lập này không có
nghĩa là cô lập với những cái khác. Thông qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn
sự chuyển hóa, “cái riêng” của loại này có liên hệ với những “cái riêng” của loại khác.
Bất cứ “cái riêng” nào cũng tồn tại trong một môi trường, hoàn cảnh nhất
định, tương tác với môi trường, hoàn cảnh ấy, do đó đều tham gia vào các mối liên
hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự vật, hiện tượng khác xung quan mình.
Các mối liên hệ qua lại này cứ trải rộng dần, gặp gỡ rồi giao thoa với các mối
liên hệ qua lại khác, kết quả là tạo nên một mạng lưới các mối liên hệ mới, trong
đó có những mối liên hệ dẫn đến một hoặc một số “cái chung” nào đó.
Bất cứ “cái riêng” nào cũng không tồn tại mãi mãi.
Mỗi “cái riêng” sau khi xuất hiện đều tồn tại trong một khoảng thời gian nhất
định rồi biến thành một “cái riêng” khác. “Cái riêng” khác này lại biến thành “cái
riêng” khác thứ ba…v.v., cứ như vậy đến vô cùng tận. Kết quả của sự biến hóa vô
cùng tận này là tất cả “cái riêng” đều có liên hệ với nhau.
Thậm chí, có những cái tưởng chừng như hết sức xa lạ, hoàn toàn không dính
dáng gì đến nhau, nhưng qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn sự chuyển hóa, ta
vẫn thấy chúng liên quan nhau.
1.2.3. Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ
phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng.
Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng
còn có đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng, vì cái chung phản ánh những
thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại nhiều cái riêng cùng loại.
Do vậy, cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng
tồn tại và phát triển câu cái riêng. Cái riêng là sự kết hợp giữa cái chung và cái
đơn nhất. Cái chung chỉ giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật,
còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là tập thể sống động, trong mỗi cái riêng luôn tồn
tại đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất. Nhờ thế, giữa những cái riêng luôn có
sự tách biệt, vừa có thể tác động qua lại lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau, sự va chạm
giữa những cái riêng vừa làm cho những sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, 4 lOMoAR cPSD| 44985297
vừa làm cho sự vật tách xa bởi cái đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa những
cái riêng mà cái chung có thể được phát hiện.
1.2.4. Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình
phát triển của sự vật.
Sở dĩ như vậy vì trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ
ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới
hoàn thiện dần và thay thế cái cũ trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngược lại, cái
cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện
mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn
nhất thành cái chung là biểu hiện cái mới ra đời thay thế cái cũ. Đồng thời sự
chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái
lỗi thời bị phủ định, bị thay thế bằng cái mới.
Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính tương
đối. Có những đặc điểm xét trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất nhưng xét trong
nhóm sự vật khác lại là cái chung. Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng
trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược
lại, cái chung có thể biến thành cái đơn nhất, nên trong hoạt động thực tiễn có thể
và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho con người trở thành
cái chung và cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
1.3.Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, Triết
học Mác-Lênin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối quan hệ này để
ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là:
Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự
vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người
bên ngoài cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để
biểu thị sự tồn tại của mình. Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái
riêng, nên nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải
dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu 5 lOMoAR cPSD| 44985297
biết những nguyên lý chung (không hiểu biết lý luận), sẽ không tránh khỏi rơi vào
tình trạng hoạt động một cách mò mẫm, mù quáng.
Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định "cái
đơn nhất" có thể biến thành "cái chung" và ngược lại "cái chung" có thể biến thành
"cái đơn nhất", nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận
lợi để "cái đơn nhất" có lợi cho con người trở thành "cái chung" và "cái chung"
bất lợi trở thành "cái đơn nhất". Trong Bút ký Triết học, Lênin viết:
“Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết vấn đề chung,
thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi những vấp váp những vấn đề
chung một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng
trường hợp riêng có nghĩa là đưa ra những chính sách của mình đến chỗ có những
sự giao động tồi tệ nhất và mất đi hẳn tính nguyên tắc.
Chương II: Vận dụng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng vào việc nhận
thức mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và tập thể và những bài học kinh
nghiệm rút ra cho bản thân.
2.1. Vận dụng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng vào việc nhận thức mối
quan hệ lợi ích giữa cá nhân và tập thể trong lớp Kinh tế phát triển và trong công việc
Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể là vấn đề luôn mang tính thực tiễn cao
đối với mỗi chúng ta. Tập thể là hình thức liên kết cá nhân thành từng nhóm xã
hội xuất phát từ lợi ích, nhu cầu về kinh tế, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, khoa học,
tư tưởng, nghề nghiệp. Trong mối quan hệ vừa thống nhất, vừa khác biệt, tập thể
là phần tử tạo thành xã hội.
Thứ nhất, cá nhân tồn tại trong tập thể với tư cách là đơn vị cấu thành của
cái toàn thể, biểu hiện bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể nhưng
không hòa tan vào tập thể.
Thực chất mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể là quan hệ lợi ích. Sự thống
nhất biện chứng giữa cá nhân và tập thể là điều kiện cơ bản đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của mỗi cá nhân cũng như tập thể. Xuất phát từ bản chất xã hội của con
người, cá nhân không tồn tại một cách đích thực nếu không gắn với một tập thể 6 lOMoAR cPSD| 44985297
nhất định. Cá nhân không thể sống đơn độc, tách mình khỏi tập thể. Đó là cơ sở
để hình thành tính tập thể, tính cộng đồng. Song, tính tập thể sẽ trở nên trừu tượng
nếu không dựa trên cơ sở lợi ích. Thông qua lợi ích, hình thành nên sự liên kết
giữa cá nhân và tập thể, quy định phương hướng lợi ích của tập thể, nhằm làm cho
tập thể vừa bảo đảm lợi ích cá nhân, vừa là điều kiện cho sự phát triển cá nhân. Từ
đó mỗi cá nhân lại tác động thúc đẩy tập thể phát triển.
Thứ hai, sự liên kết giữa cá nhân và tập thể được quy định bởi các mối liên
hệ khách quan và chủ quan.
Tính khách quan bắt nguồn từ bản chất xã hội của mọi thành viên, những quy
định, quy tắc của tập thể bắt buộc mọi thành viên thực hiện. Tính chủ quan là năng
lực tự tiếp nhận điều chỉnh mọi suy nghĩ và hành vi của cá nhân. Sự thống nhất
giữa tính khách quan và chủ quan ở trên là điều kiện cần thiết để tập thể phát triển lành mạnh.
Thứ ba, dựa trên cơ sở lợi ích, tính phong phú đa dạng của lợi ích cá nhân
trong một tập thể biểu hiện thành nhu cầu phong phú, đa dạng của mỗi con người.
Trong điều kiện hiện thực, tập thể không thể đáp ứng mọi yêu cầu của cá
nhân. Điều này dẫn đến mâu thuẫn giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập
thể. Nhưng xét cho cùng, thì đó là mâu thuẫn tất yếu nảy sinh trong quá trình vận
động và phát triển của cá nhân và tập thể. Bởi vậy, cần phải phát hiện mâu thuẫn
một cách kịp thời và phân biệt vị trí các loại mâu thuẫn để giải quyết, trên cơ sở
đảm bảo nguyên tắc định hướng về sự phát triển hài hòa, toàn diện nhu cầu, lợi ích
của cá nhân và tập thể. Sự kết hợp hài hòa và toàn diện của quan hệ lợi ích và nhu
cầu; sự bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau trên cơ sở nguyên tắc; ý thức trách nhiệm
về nghĩa vụ và hành vi của mỗi cá nhân trước tập thể… là những điều kiện chủ
yếu cho sự phát triển của cá nhân, tập thể phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Thứ tư, mối quan hệ biện chứng cá nhân – tập thể đòi hỏi phải chống lại
khuynh hướng cực đoan có hại cho sự phát triển của cá nhân và tập thể 7 lOMoAR cPSD| 44985297
Không nên tuyệt đối hóa tập thể, bắt cái cá nhân phải hy sinh một chiều. Hoặc
trong trường hợp ngược lại, cũng không nên tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân để “cái
tôi” của chủ nghĩa cá nhân phát triển.
2.2.Định hướng nghề nghiệp, lĩnh vực phát triển cho ngành Kinh tế phát triển
của bản thân nên dựa trên những yếu tố sau:
Thứ nhất, thiên hướng cá nhân: Mỗi cá nhân đều mang trong mình những
nét đặc trưng và ưu, khuyết điểm riêng. Vì vậy, việc định hướng nghề nghiệp trước
tiên phải xuất phát từ tài năng, sở thích và thiên hướng của bản thân bạn. Khi dựa
trên chính bản thân để định hướng nghề nghiêp, em sẽ tìm thấy sự câṇ bằng trong
cuôc sống và thỏa mãn được khát khao của chính mình. Được làṃ công việc đúng
sở trường và khuynh hướng phát triển cũng giúp bạn lĩnh hội kiến thức nhanh
chóng và hoàn thành công việc hiệu quả hơn. Việc miễn cường theo đuổi nghề
nghiệp không phù hợp cũng giống như người bơi ngược dòng, chúng ta sẽ cảm
thấy rất mệt mỏi, mất sức, căng thẳng và chịu áp lực lớn khi làm việc.
Thứ hai, điều mà bản thân mỗi người thật sự muốn làm: mỗi ngành nghề
sẽ yêu cầu bạn phải có những kỹ năng và năng lực riêng biệt. Vì vây, saụ khi xác
định được tài năng và thiên hướng của bản thân, chúng ta nên liệt kê những nghề
nghiêp phù hợp với mình, từ đó xem xét thật kỹ để nhận ra đâu là ̣ nghề nghiêp mà
bản thân thực sự muốn làm.̣
Thứ ba, cân nhắc lợi ích tài chính mà ngành nghề đó đem lại: trong việc
lựa chọn ngành học và công việc, những hứa hẹn về tài chính mà ngành nghề mang
lại luôn được xem xét kỹ lưỡng. Khi đã xác định được công việc phù hợp với thiên
hướng, chúng ta cần phải tìm hiểu xem nguồn lợi tài chính đến từ công việc ấy có
đáp ứng được kỳ vọng của mình không? Bởi vì, suy cho cùng, tiền bạc không chỉ
giải quyết được những nhu cầu cơ bản nhất của đời sống mà còn kích thích khả
năng làm việc của con người.
Thứ tư, xu hướng, triển vọng ngành nghề đó trong tương lai: xã hội đang phát
triển rất nhanh và không ngừng thay đổi. Do đó, bên cạnh việc quan sát bản thân,
viêc định hướng nghề nghiệ p còn phải dựa trên xu hướng phát triển của thị ̣ trường 8 lOMoAR cPSD| 44985297
viêc làm. Nắm bắt xu hướng việc làm nhanh nhạy sẽ giúp chúng ta tiếp ̣ cận được
nhiều cơ hội việc làm tốt và có khả năng thăng tiến cao trong tương lai.
2.3.Những lưu ý khi đưa ra lựa chọn lĩnh vực chuyên sâu, mảng công việc cho
ngành Kinh tế phát triển
Thứ nhất, phải biết nghiên cứu, tìm hiểu những định hướng của gia đinh và
không nên chạy theo trào lưu nghề nghiệp: nhiều người chịu ảnh hưởng từ những
định hướng nghề nghiêp của bố mẹ, người thân. Mặc dù lời khuyên của người đị
trước rất đáng quý nhưng chúng ta cần nhận thức rõ về sở thích, mong muốn của
bản thân và nhìn nhận ý kiến của gia đình ở góc độ khách quan nhất. Nếu nhâṇ
thấy những định hướng này không phù hợp, bạn cần kiên định với quan điểm của
mình. Cùng với đó, chúng ta cũng nên tránh trường hợp chọn nghề nghiêp dựạ
trên tâm lý đám đông, thấy nghề nào đang hot, dễ kiếm tiền thì chạy theo nghề ấy
bất chấp việc bản thân không phù hợp.
Thứ hai, nên tìm hiểu bản thân: Việc định hướng nghề nghiệp bản thân chỉ có
thể chính xác khi lấy chính mình làm trung tâm và dành thời gian để tìm hiểu tính
cách, tư duy của bạn. Chúng ta nên tự đặt câu hỏi cho bản thân như tài năng và thế
mạnh của mình là gì? Bản thân mình có hài lòng với những hoạt đông nàọ nhất?
Những loại hoạt đông tinh thần nào có thể thúc đẩy bản thân tiến về phíạ trước?
Từ đó hiểu được bản thân mình muốn gì, làm được gì, khả năng đến đâu.
Thứ ba, nên tìm hiểu kĩ về nghề nghiệp, đặc thù, tính chất, yêu cầu của công
việc, xem xét xem công việc nào sẽ phù hợp với năng lực, tính cách, sở thích của bản thân.
Thứ tư, không ngừng trau dồi những kỹ năng cần thiết cho bản thân. Thực tế
cho thấy, những người thành công chỉ vân dụng có 25% kiến thức chuyên môṇ
trong công viêc, còn lại 75% là dựa vào những kỹ năng mềm mà họ đã học hỏị và
rèn luyên được. Do đó, bên cạnh kiến thức chuyên ngành, chúng ta cần liêṇ tục bổ
sung những kỹ năng mềm hữu ích. Để từ đó tìm ra, khám phá, tạo nên cái chất riêng cho bản thân.
Thứ năm, tự bản thân bạn phải trải nghiêm. Ngay từ khi còn ngồi trên ghệ́
nhà trường, chúng ta nên tìm cơ hôi làm những công việ c mình quan tâm để hiểụ 9 lOMoAR cPSD| 44985297
rõ hơn về nghề nghiêp đó cũng như nhậ n định được xem bản thân có phù hợp ̣ với nghề hay không. 10 lOMoAR cPSD| 44985297 KẾT LUẬN
Như vậy, cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Còn cái chung
là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt, những mối
liên hệ giống nhau, hay lặp đi lặp lại ở nhiều cái riêng. Cái chung thường chứa
đựng ở trong nó tính quy luật, sự lặp lại. Có thể khẳng định giữa cái chung và cái
riêng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, cái chung tồn tại trong cái riêng,
thông qua cái riêng để thể hiện sự tồn tại của mình; còn cái riêng tồn tại trong mối
liên hệ dẫn đến cái chung.
Bản thân em, với vai trò là một cái riêng trong cuộc sống xã hội, thì cá nhân
em tự ý thức được rằng mình phải biết hoà nhập với cộng đồng, cống hiến năng
lực trí tuệ của bản thân cho gia đình, nhà trường, và xã hội. Hoà nhập với mọi
người xung quanh để làm việc học tập đạt được những kết quả cao hơn, tuy nhiên
lại không hoà tan, phải luôn giữ và tạo cho bản thân có một cái chất riêng để tạo
nên giá trị bản thân, khiến bản thân trở nên hoàn hảo hơn, độc đáo hơn, mang chất
riêng của mình. Từ đó sẽ góp phần xây dựng bản thân, gia đình, xã hội, đất nước
ngày càng giàu đẹp hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (Nhà xuất bản
chính trị quốc gia – năm 2012)
2.Giáo trình Triết học Mác – Lênin
3.Bách khoa toàn thư triết học (1989) NXB: Từ điển Xô viết 11