










Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ***** BÀI TẬP LỚN
MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: CHỌN 1 TRONG 6 PHẠM TRÙ ĐỂ VẬN DỤNG SÁNG TẠO
VÀO QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN BẢN THÂN CỦA EM.
Họ và tên sinh viên : Lê Ngọc Ánh Mã sinh viên : 11220728 Lớp
: Triết học Mác – Lenin 27
Giáo viên hướng dẫn : cô Võ Thị Hồng Hạnh
Hà Nội – Tháng 1/ 2023 Page 1 of 12 lOMoAR cPSD| 44985297 MỤC LỤC I. LỜI CẢM ƠN
II. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1. KHÁI NIỆM CẶP PHẠM TRÙ
2. MỐI QUAN HỆ GIỮA CẶP PHẠM TRÙ
a. TÍNH CHẤT CỦA MỐI LIÊN HỆ NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ
b. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ
3. Ý NGHĨA CỦA CẶP PHẠM TRÙ
4. VẬN DỤNG, LIÊN HỆ BẢN THÂN IV. KẾT LUẬN
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân đã đưa bộ
môn Triết học vào chương trình giảng dạy. Đặc biệt em muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc Page 2 of 12 lOMoAR cPSD| 44985297
đến giảng viên của bộ môn – cô Võ Thị Hồng Hạnh đã dạy dỗ, truyền đạt cho em
những kiến thức quý báu trong suốt quãng thời gian vừa qua. Đặc biệt phương pháp
học của cô rất hiệu quả và bổ ích, giúp em cho thêm nhiều kinh nghiệm trong nhiều
lĩnh vực và em thấy nó thực sự giúp ích cho em trong quá trình học tập và rèn luyện sau này.
Bộ môn Triết là môn học thú vị, hấp dẫn nhưng vì thời gian học trên lớp không nhiều,
mặc dù đã cố gắng nhưng chắc chắn những hiểu biết và kỹ năng về bộ này của em
vẫn còn hạn chế. Do đó bài luận của em khó có thể tránh khỏi những thiếu sót và
chưa chuẩn xác. Kính mong cô xem xét và có những góp ý giúp bài luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
II. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Trên thực tế mỗi lĩnh vực đều có phạm trù riêng của mình ví dụ trong vật lý đó là các phạm
trù năng lượng, khối lượng…; trong sinh học là biến dị, di truyền,…Thế phạm trù là gì?
Phạm trù là khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ
chung, cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định. Khác
với các phạm trù trên, phạm trù của phép biện chứng duy vật là những khái niệm chung
nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản phổ biến nhất của
toàn bộ thế giới hiện thực ( bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy ).
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
V.I.Lenin đã khẳng định: “ Ý thức của con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách
quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan”. Có thể nói tư duy khoa học, năng lực tư duy
khoa học có vai trò quan trọng đối với cả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Là
kết quả của hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn vì vậy nội dung của các
phạm trù mang tính khách quan, bị thế giới khách quan quy định, mặc dù hình thức tồn tại
của chúng là chủ quan. Nó không phải những từ ngữ sáo rỗng, không biểu hiện một cái gì
như những người duy danh khẳng định. Để chứng minh điều này, em đã quyết định chọn
chủ đề về các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật. Bên cạnh đó, trong phép
biện chứng duy vật, các cặp phạm trù đóng vai trò và có những lập luận khác nhau. Để
vận dụng vào cuộc sống, có cái nhìn toàn diện, biết phân biệt đúng sai, để có một phương
pháp học tập và rèn luyện đúng đắn thì ta phải nắm bắt và hiểu rõ về các cặp phạm trù này.
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 1. Khái niệm Page 3 of 12 lOMoAR cPSD| 44985297
Trong 6 cặp phạm trù em ấn tượng nhất với cặp phạm trù Nguyên nhân – Kết quả.
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tương tác lẫn nhau giữa các mặt trong sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các khía cạnh trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định. Kết quả là khiến cho phạm trù triết
học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tương tác giữa các yếu tố có tính nguyên
nhân gây nên. Nguyên nhân cần được phân biệt, xác định rõ với nguyên cớ, điều kiện.
Nguyên cớ và điều kiện không sinh ra kết quả mặc dù nó xuất hiện cùng với nguyên nhân.
Nguyên cớ là một sự kiện xảy ra ngay trước kết quả, còn điều kiện là những yếu tố giúp
nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng bản thân điều kiện không sinh ra kết quả. Để làm rõ khái
niệm trên thì em có những ví dụ sau đây:
Vd1: Sự tác động của dòng điện lên dây dẫn chính là nguyên nhân khiến cho dây dẫn nóng
lên và khi dây dẫn nóng lên đó chính là kết quả.
Vd2: Sự tác động của các yếu tố về mặt tự nhiên, đặc biệt những yếu tố tác động từ con người
như con người chặt phá rừng một cách bừa bãi, con người vứt rác một cách tùy tiện đó chính
là nguyên nhân dẫn tới ô nhiễm môi trường.
Vd3: Dung nghỉ học quá nhiều chính là nguyên nhân dẫn tới việc Dung phải học lại môn,
việc Dung phải học lại môn đó chính là kết quả.
Vd 4: Linh làm vỡ bát là nguyên nhân khiến Linh bị mẹ phạt, Linh bị mẹ phạt chính là kết quả.
2. Mối quan hệ giữa cặp phạm trù Nguyên nhân – Kết quả
a. Tính chất của mối liên hệ nguyên nhân và kết quả
Mối liên hệ giữa cặp Nguyên nhân – Kết quả có tính khách quan, phổ biến và tất yếu.
Trước tiên, mối liên hệ nhân quả là mối liên khách quan của các sự vật. Nó tồn tại ngoài ý
thức của con người dù cho ta có nhận thức được hay không thì các sự vật vẫn tác động lẫn
nhau và gây nên những biến đổi nhất định. Mối quan hệ nhân quả vốn có trong bản thân các
sự vật nên ta không thể đồng nhất nó với khả năng tiên đoán. Con người có thể phản ánh
những tác động, biến đổi trong hiện thực chứ không thể sáng tạo ra mối liên hệ nhân quả
hiện thực trong đầu mình. Không có nguyên nhân nào mà không dẫn tới một kết quả và
ngược lại không có một kết quả nào mà lại không có nguyên nhân. Bởi vậy, khi nắm bắt
được nguyên nhân thì ta có thể dự đoán được kết quả trước mỗi sự biến đổi.
Ví dụ : Khi khảo sát được nguồn khí thải do các nhà máy, xí nghiệp, các phương tiện giao
thông,… người ta có thể dự đoán được sự biến đổi của khí hậu và sự nóng lên của Trái Đất.
Tiếp theo, tính phổ biến được thể hiện rõ ràng ở chỗ mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong tự
nhiên và xã hội đều có nguyên nhân nhất định. Không có sự vật, hiện tượng nào là không có Page 4 of 12 lOMoAR cPSD| 44985297
nguyên nhân, quan trọng là ta đã khám phá, phát hiện và tìm ra được nguyên nhân đó hay
chưa. Cái sản sinh ra cái khác được gọi là nguyên nhân, và cái tạo thành được gọi là kết quả.
Ví dụ : Sự tạo thành của cây lúa là do sự biến đổi mầm mống trong hạt lúa, vậy cây lúa là
kết quả của sự biến đổi trong hạt lúa.
Cuối cùng, tính tất yếu thể hiện ở chỗ cùng một nguyên nhân như nhau trong những điều
kiện giống nhau sẽ có những kết quả giống nhau. Tính tất yếu ở đây không có nghĩa là cứ có
nguyên nhân là sẽ có kết quả mà phải đặt nguyên nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh
nhất định. Thế nhưng trong thế giới vật chất không có tác động nào là giống hệt nhau, cũng
không tồn tại những điều kiện hoàn cảnh như nhau. Vậy nên những kết quả đều được sinh ra
ở những nguyên nhân khác nhau mặc dù nguyên nhân đó có thể giống nhau về mặt chủng
loại. Chỉ có thể nói rằng nếu các nguyên nhân và hoàn cảnh ít khác nhau bao nhiêu thì kết
quả nó mang lại ít khác nhau bấy nhiêu.
Ví dụ : Các cây lúc trong một ô đất đều được chăm sóc trong điều kiện ánh sáng, nhiệt độ,
độ ẩm, dinh dưỡng là như nhau nhưng kết quả lại có cây to lớn khỏe mạnh, có những cây lại còi cọc, nhỏ bé.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Trong quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có sự tác
động qua lại với nhau như sau:
Trong quá trình vận động phát triển nguyên nhân và kết quả có thể đổi chỗ, chuyển hóa
cho nhau. Cái mà ở thời điểm, mối quan hệ này là nguyên nhân thì ở trong thời điểm, mối
quan hệ khác lại là kết quả. Nguyên nhân đốt cháy mình sinh ra kết quả và kết quả tắt đi
sinh ra nguyên nhân. Nhưng bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng có nguyên nhân của nó thì
cũng không có nghĩa là mỗi sự vật chỉ do một nguyên nhân sinh ra. Trên thực tế có nhiều
nguyên nhân sinh ra nên ta phân loại thành nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yếu,
nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài. Nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng kết
quả cũng có khả năng tác động ngược trở lại nguyên nhân, khi kết quả tác động ngược trở
lại thì kết quả sẽ biến thành nguyên nhân chứ không phải là kết quả nữa. Nguyên nhân là cái
sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn có trước kết quả. Tuy nhiên không phải mối liên hệ
nối tiếp nào trong thời gian cũng thể hiện mối liên hệ nhân quả. Có thể nói nguyên nhân và
kết quả có thể hoán đổi vị trí cho nhau trong một mối quan hệ nhân quả. Điều này có nghĩa
là một hiện tượng, sự vật nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân nhưng trong mối
quan hệ khác thì nó lại là nguyên nhân và ngược lại. Engels nhận xét rằng :
“ Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả
khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định. Nhưng một khi chúng ta nghiên Page 5 of 12 lOMoAR cPSD| 44985297
cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới, thì những
khái niệm ấy lại gắn với nhau trong một khái niệm về sự tác động qua lại một cách phổ
biến, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn thay đổi vị trí cho nhau. Chuỗi nhân quả là vô
cùng, không có bắt đầu và không có kết thúc. Một hiện tượng nào đấy được coi là nguyên
nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể”. Ông cũng khẳng định :
“ Nguyên nhân và kết quả là những biểu tượng có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi
nào được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt, nhưng khi ta xét trường hợp riêng biệt ấy
trong mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới, thì nguyên nhân hội tụ lại và quyện vào
nhau trong biểu tượng về sự tác động qua lại phổ biến trong đó nguyên nhân và kết quả luôn
đổi chỗ cho nhau: cái ở đây hay bây giờ là nguyên nhân, thì ở chỗ khác hay lúc khác lại trở
thành kết quả và ngược lại..”.
Bên cạnh đó không phải nguyên nhân nào cũng tác động vào một sự vật theo một chiều
hướng. Có những nguyên nhân tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ gây nên ảnh
hưởng cùng chiều, thúc đẩy quá trình hình thành kết quả. Và ngược lại, có những nguyên
nhân tác động lên sự vật ngược chiều hướng thì sẽ gây nên ảnh hưởng ngược chiều, làm
giảm quá trình hình thành kết quả, thậm chí các tác động ngược chiều có thể làm triệt tiêu
ảnh hưởng của nhau đối với sự vật ấy. Ví dụ : Em muốn đạt được học bổng của trường Đại
Học Kinh Tế Quốc Dân thì chắc chắn em sẽ phải chịu sự tác động của các nguyên nhân như
lực học, tốc độ tiếp thu bài giảng, sự chăm chỉ học bài về nhà, hay những công việc làm
thêm khiến em không còn nhiều thời gian để dành cho việc học. Em có những điều kiện
thuận lợi là được học trong một môi trường có đội ngũ giảng viên và các bạn xuất sắc
nhưng bên cạnh đó em cũng phải đối diện với những thách thức cần phải vượt qua để có thể
đạt được học bổng. Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả và ngược lại, một kết
quả cũng có thể do nhiều nguyên nhân tạo nên tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, tác động
cùng lúc hoặc riêng lẻ. Mặt khác, không phải sự vật nào có trước thì cũng là nguyên nhân
cho sự vật đằng sau. Ví dụ : Mùa xuân không phải nguyên nhân của mùa hè, và ban ngày
không phải là nguyên nhân của ban đêm. Hiện tượng trước không phải nguyên nhân của
hiện tượng sau bởi vì nó không có tác động gì đến hiện tượng sau, đây chỉ là mối liên hệ về
mặt thời gian chứ không phải mối liên hệ nhân quả. Trong quan hệ nhân quả thì sự tác động
của nguyên nhân chính là cái sinh ra kết quả. Sự chuyển hóa các mùa trong năm là do vị trí
khác nhau của trái đất so với mặt trời chứ không phải do mùa xuân là nguyên nhân của mùa hè và mùa thu. Page 6 of 12 lOMoAR cPSD| 44985297
Chúng ta cần chú ý tới vấn đề tiếp theo là sự kế tiếp nhau của nguyên nhân và kết quả.
Không phải nguyên nhân xảy ra xong rồi kết quả mới nảy sinh mà trái lại, nguyên nhân vừa
tác động thì sự hình thành của kết quả đã bắt đầu, cho đến khi nhận được mọi tác động của
nguyên nhân, và do vậy kết quả vẫn còn đang tiếp tục phát triển khi vẫn có tác động của
nguyên nhân. Ví dụ : Bạn D không chăm chỉ học hành khiến cho kết quả học tập của D ngày
càng trở nên tồi tệ, như vậy khi D tiếp tục không học tập thì kết quả là D sẽ ngày càng trở
nên tồi tệ hơn nữa. Như vậy, ta không thể nhìn mối quan hệ nguyên nhân – kết quả như một
sự đứt đoạn, kế tụng mà nó phải là sự chuyển hóa lẫn nhau, sự vận động liên tục của thế giới
vật chất và sự tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng.
Ví dụ : Nhúng một thanh sắt vừa nung nóng đỏ vào chậu nước nguội thì nhiệt độ của nước
trong chậu sẽ tăng lên, sự tăng lên về nhiệt độ của nước trong chậu làm kìm hãm tốc độ tỏa nhiệt của thanh sắt.
Việc nguyên nhân sinh ra kết quả còn cần một yếu tố nữa đó là điều kiện. Không phải
chỉ cần có sự tác động vào một sự vật, hiện tượng là sẽ có kết quả mà còn phải trong điều
kiện nhất định thì mới có kết quả. Ví dụ : Em dạy em gái học bài nhưng phải trong điều kiện
em gái chăm chỉ học hành và tiếp thu kiến thức thì mới có kết quả là quá trình học tập của
em gái ngày càng đi lên, nếu không có điều kiện trên thì chắc chắn rằng kết quả học tập của
em gái vẫn không có sự tiến triển. Điều kiện có vai trò rất quan trọng, khiến cho nguyên
nhân nào thì sinh ra kết quả nào. Có thể cùng một nguyên nhân nhưng trong điều kiện khác
nhau thì sẽ mang lại những kết quả khác nhau. Ví dụ : Hai hạt giống có chất lượng tốt như
nhau nhưng trong điều kiện nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, nước, dinh dưỡng khác nhau thì chất
lượng của cây sinh ra lại khác nhau.
3. Ý nghĩa của cặp phạm trù
Từ mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, Triết học Mác – Lênin đã đưa
ra một số ý nghĩa cho mối quan hệ này để ứng dụng vào thực tiễn và tư duy.Trong thực tiễn
và nhận thức cần tôn trọng tính khách quan của mối liên hệ nhân quả, không được lấy ý
muốn chủ quant hay cho quan hệ nhân quả. Mối quan hệ của cặp phạm trù có tính khách
quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự vật, hiện tượng nào trên thế giới vật chất lại
không có nguyên nhân, nhưng không phải nguyên nhân nào con người cũng có thể nhận
thức được. Muốn tìm được nguyên nhân của sự vật hiện tượng, ta phải tìm trong thế giới
hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất chứ không
phải do chúng ta tưởng tượng ra, tách rời thế giới hiện thực. Vì nguyên nhân luôn có
trước kết quả bởi vậy khí muốn xóa bỏ một sự vật, hiện tượng, hay một kết quả nào đó thì ta
cần loại bỏ nguyên nhân sinh ra nó. Hoặc khi cần tìm kết quả của sự vật hiện tượng nào đấy Page 7 of 12 lOMoAR cPSD| 44985297
thì ta cần tìm trong những sự vật và hiện tượng xảy ra trước khi sự vật, hiện tượng đó xuất
hiện. Ngược lại, khi muốn làm xuất hiện một hiện tượng, sự vật nào đó thì ta cần phải tìm ra
nguyên nhân và tạo điều kiện để nguyên nhân ấy phát triển và sinh ra kết quả. Đồng thời
phải nắm được chiều hướng tác động của nguyên nhân, từ đó ta sẽ biết nên tạo điều kiện để
nguyên nhân phát triển thành kết quả hay ta nên hạn chế sự phát triển của nguyên nhân đó
để tránh có những kết quả tiêu cực. Một sự vật hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh
ra và quyết định nên không vội kết luận về nguyên nhân sinh ra nó. Các loại nguyên nhân là
nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yêu, nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên
ngoài. Vì kết quả có thể tác động trở lại đối với nguyên nhân nên cần làm tốt công tác tổng
kết, đánh giá, rút kinh nghiệm, phát huy những kết quả tích cực.
4. Vận dụng, liên hệ bản thân
a. Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân kết quả vào cuộc sống về bạo lực học đường
Nguyên nhân dẫn đến việc bạo lực học đường :
Thứ nhất : Bạo lực học đường thường diễn ra ở độ tuổi từ 12 đến 17 tuổi. Đây là giai đoạn
thay đổi tâm sinh lý của học sinh, một độ tuổi vô cùng nhạy cảm, chưa làm chủ được nhận
thức và hành động của bản thân mà dễ cáu gắt, bực tức và sinh ra những vấn đề bạo lực học đường.
Thứ hai : Từ phía gia đình. Cuộc sống ngày càng bận rộn, vì cơm ăn áo mặc nên bố mẹ đã
vô tình bỏ qua cảm xúc của con cái, trút giận lên người con khiến cho người con có tâm lí
bạo lực và có xu hướng bạo lực người khác.
Thứ ba : Từ nhà trường. Nhiều trường học chỉ quan trọng đào tạo giáo dục, kiến thức mà
không chú ý tới việc giáo dục nhân cách, phẩm chất cho học sinh. Hoặc khi xảy ra bảo lưc
học đường, nhà trường không đưa ra được những phương án, hướng giải quyết hợp lí,
thuyết phục nên học sinh không sợ và coi vấn đề bạo lực học đường là một vấn đề đơn giản.
Thứ tư : Từ phía xã hội. Sự ảnh hưởng của thời đại số phát triển mãnh mẽ và không được
kiểm duyệt khiến cho trẻ ở độ tuổi vị thành niên tò mò và học theo những cách cư xử, bạo
lực trên internet và sinh ra tâm lý bạo hành ở ngoài đời.
Thứ năm : Do biến chất về mặt tâm lý. Nhiều học sinh, giáo viên có những cách nhìn nhận
sai lệch, không đúng đắn khiến cho nạn bạo lực học đường ngày càng gia tăng với sự phức
tạp ngày một lớn. Những lời nói thô bạo, sỉ nhục hoặc bắt người khác làm theo ý mình hay
những hành động như dứt tóc, lột đồ, trấn lột cướp đồ giữa học sinh với nhau hết sức phổ Page 8 of 12 lOMoAR cPSD| 44985297
biến. Bên cạnh đó còn có nhiều vụ việc xâm hại tình dục gây rung động dư luận trong thời
gian qua cần được xử lý nghiêm.
Hệ quả của vấn nạn bạo lực học đường :
Có thể thấy mối quan hệ giữa nguyên nhân của bạo lực học đường dẫn đến những hệ lụy
sau này vô cùng đáng tiếc. Từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên có thể dẫn
tới việc bỏ học, nghỉ học và kéo theo nhiều hậu quả nặng nề về sau đối với học sinh. Ngoài
việc tác động xấu đến các nạn nhân mà còn khiến cho không khí trong trường học trở nên
áp lực, nặng nề, căng thẳng, nỗi sợ hãi bao trùm. Bên cạnh đó học sinh sẽ trở thành nỗi bất
an của phụ huynh khi cho con em của họ tới trường, làm mất đi ý nghĩa trong sáng, lành
mạnh của môi trường giáo dục. Không những thế, bạo lực học đường còn ảnh hưởng đến
nét đẹp văn hóa truyền thống, những chuẩn mực đạo đức, thể hiện một sự suy đồi về mặt
đạo đức và sự sai lệch về mặt hành vi một cách báo động.
Một số giải pháp cho vấn đề bạo lực học đường :
Học sinh cần tích cực rèn luyện kĩ năng sống, chấp hành tốt mọi nội quy ở trường lớp và
tránh xa bạo lực. Học cách kiềm chế cảm xúc, tích cực tham gia vào các hoạt động do nhà
trường tổ chức, tuyên truyền tốt về vấn đề bạo lực học đường. Cần có biện pháp và cách
giáo dục nghiêm khắc, phù hợp đối với những học sinh gây bạo lực và hỗ trợ kịp thời đối
với những nạn nhân của các vụ bạo lực. Tạo một môi trường trong sáng, lành mạnh cho học
sinh với các mối quan hệ xoay quanh.
b. Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân kết quả vào cuộc sống về vấn đề ô nhiễm môi trường
Nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường :
Chất thải công nghiệp: Trong quá trình vận hành, hoạt động, sản xuất công nghiệp, các
nhà máy, xí nghiệp liên tục xả thải ra môi trường. Những khí thải chưa qua xử lý hay những
chất thải độc hại được thải trực tiếp ra môi trường vì lí do tốn kinh phí gây ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống và sinh hoạt của người dân trong khu vực.
Chất thải sinh hoạt: Trên ao hồ, song ngòi, biển, cống bốc mùi hôi thối từ rác thải sinh
hoạt, túi ni lông , thức ăn thừa, phân, nước tiểu,…khiến cho các sinh vật dưới nước không còn không gian sinh sống.
Hoạt động nông nghiệp: Trong quá trình trồng trọt, người dân thường sử dụng các loại
thuốc trừ sâu, phân bón để bảo vệ và tăng năng suất cây trồng. Trong các loại hóa chất này
gây ảnh hưởng tới nguồn nước ngầm hoặc chảy ra ao hồ gây ô nhiễm nguồn nước.
Do tác nhân tự nhiên: Lũ lụt, băng tan cũng là một trong số các tác nhân gây ra tình trạng
ô nhiễm nguồn nước theo diện rộng. Page 9 of 12 Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
Do chặt phá rừng: Rừng là lá phổi xanh của trái đất, giúp lọc bụi bẩn, hấp thụ CO2 và sản
sinh ra khí O2 phục vụ cho việc hít thở, tồn tại của con người và nhiều sinh vật trong tự
nhiên. Thế nhưng có rất nhiều đối tượng tàn phá rừng, chặt cây rừng để lấy gỗ kiếm lợi
nhuận dẫn đến việc mất rừng, đất trống, đồi hoang… Hậu quả của việc ô nhiễm môi trường :
Ô nhiễm môi trường để lại rất nhiều hậu quả nghiêm trọng và có ảnh hưởng to lớn đến
sức khỏe của con người. Nó là nguyên nhân chính gây ra các bệnh hiểm nghèo, thiên tai, và
ảnh hưởng tới đa dạng sinh học, sự cân bằng hệ sinh thái, biến đổi khí hậu, cạn kiệt nguồn
tài nguyên thiên nhiên. Ô nhiễm không khí ô nhiễm có chứa nhiều bụi bẩn là nguyên nhân
chính gây ra các bệnh về đường hô hấp, viêm phổi,… Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu khiến
cho nhiệt độ tăng giảm bất thường có chiều hướng gia tăng gây ra các bệnh như đột quỵ
nhiệt thậm chí là tử vong.
Các biện pháp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường :
Phát động phong trào trồng cây gây rừng, hạn chế sử dụng túi nilong và các sản phẩm từ
nhựa, sử dựng các sản phẩm tái chế. Không xả thải bừa bãi ra môi trường, áp dụng các ứng
dụng khoa học hiện đại vào đời sống. Luôn luôn có ý thức bảo vệ môi trường, tham gia các
hoạt động vì môi trường xanh, tuyên truyền nâng cao nhận thức của mọi người về vấn đề ô
nhiễm môi trường. Tiết kiệm điện bằng cái sử dụng các thiết bị lấy năng lượng từ ánh sáng
mặt trời. Tăng cường các biện pháp cưỡng chế tài chính với những hành vi không tuân thủ
quy định bảo vệ môi trường.
c. Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả vào vấn đề học tập của bản thân em
Nguyên nhân dẫn tới việc bản thân em ra trường với tấm bằng giỏi :
Nguyên nhân chủ quan : Do em cố gắng nỗ lực, chăm chỉ học tập và rèn luyện bản thân.
Tìm tòi và tiếp thu kiến thức mới từ thầy cô và bạn bè trong quá trình học tập và rèn luyện
tại trường. Mỗi ngày dành đủ số thời gian cho việc học, thiết lập thời gian biểu cho học tâp
và sinh hoạt một cách cụ thể, rõ ràng, khoa học. Bên cạnh đó, bản thân em đã trang bị được
nhiều kĩ năng học tập, làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình và nhiều kĩ năng khác một cách
bài bản khi còn ở dưới mái trường Trung học và Tiểu học.
Nguyên nhân khách quan : Được học tập và rèn luyện trong một ngôi trường có đầy đủ
thiết bị, cơ sở vật chất tiên tiến, hiện đại. Được sự chỉ bảo, giảng dạy của đội ngũ giáo viên
chất lượng, kinh nghiệm và tâm huyết. Và có những người bạn xuất sắc, giúp đỡ lẫn nhau
trong học tập và cùng nhau phát triển bản thân. Được sự ủng hộ của gia đình và mọi người xung quanh.
Kết quả của việc em ra trường với tấm bằng giỏi : Page 10 of 12
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
Em cảm thấy tự hào, hãnh diện khi đạt được mục tiêu dưới mái trường Đại Học Kinh Tế
Quốc Dân. Ra trường với tấm bằng giỏi khiến em được nhiều công ty săn đón mà không cần
phải vất vả đi xin việc làm. Nó khiến em có một công việc tốt, ổn định, Với tấm bằng giỏi
trong tay, có thể không phải là tất cả nhưng nó là thành công lớn nhất đối với em trong suốt
chặng đường đi học. Nó mở ra một tương lai mới, một chân trời mới, giúp em tiến vào một
môi trường làm việc mới một cách đầy tự tin. IV. KẾT LUẬN
Tóm lại mối quan hệ nguyên nhân kết quả có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với nhận thức
của chúng ta, ở nhiều lĩnh vực nhưng trong lĩnh vực, hoàn cảnh, điều kiện nào thì con người
cũng phải luôn luôn tìm hiểu, khám phá, nghiên cứu, học hỏi để khắc phục tránh những hậu
quả xấu do tác động gây ra. Ngược lại chúng ta có thể ứng dụng mối quan hệ nhân quả vào
đời sống, giúp nâng cao đời sống, hiểu biết, cách nhìn nhận của chúng ta với cuộc sống.
Quá trình nhân quả được lặp lại nhiều lần sẽ khiến cho tư duy con người phản ánh được
những mối quan hệ nhân quả, đồng thời ở những khía cạnh khác nó dẫn tới những kết luận
về mặt phương pháp luận rất phong phú. Tất cả các mối quan hệ biện chứng nêu lên đều là
sự khái quát những đặc trưng của những mối liên hệ cụ thể, ở trong những lĩnh vực cụ thể
của thế giới vật chất. Tương tự thế, ta có thể coi quan hệ nhân quả là kết quả của một sự tác
động này gây nên một kết quả khác ở nhiều lĩnh vực.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph. Ăng – ghen Toàn tập, Tập 20 – Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1995.
2. V. I. Lênin – Bút ký triết học Tập 29 – Nxb Tiến bộ, Mát – xcơ – va, 1981.
3. Nguyễn Hữu Vui – Lịch sử triết học – Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004.
4. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác –
Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh – Giáo trình triết học Mác – Lênin – Nxb Chính trị quốc gia – Hà Nội, 1999. Page 11 of 12 Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)