

















Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN 
Khoa Kinh Tế - Quản Trị  ---------------------------         
BÀI TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ   MÁC-LÊNIN   
Chủ đề 1: Hàng hoá và những thuộc tính của nó. Liên hệ với 
nền sản xuất hàng hoá ở Việt Nam hiện nay?             
HỌ VÀ TÊN HỌC VIÊN:  TRẦN VĂN CÔNG  Mã số SV:  22200115  Ngành:  Quản trị kinh doanh  LỚP MÔN HỌC:  DC141DL01 
GIẢNG VIÊN PHỤ TRÁCH  PHẠM THỊ NGỌC ANH                   
Tp.Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 12 năm 2022    LỜI CAM ĐOAN 
Tôi cam kết bài tiểu luận của tôi bảo đảm được bảo mật, tuyệt đối không chia sẻ bài 
cho sinh viên khác. Kết quả bài tiểu luận của nhóm tôi do nhóm tôi tự thực hiện dựa trên 
bài giảng, powerpoint, các thông tin từ giảng viên và tham khảo từ các nguồn trích dẫn  trong bài.... 
Tôi xin cam đoan rằng mọi thông tin trích dẫn trong bài tiểu luận đã được chỉ rõ nguồn  gốc.               
Sinh viên thực hiện bài tiểu luận               
 (Ký và ghi rõ họ tên)                                2   MỤC LỤC 
I. Hàng hoá và hai thuộc tính cơ bản của nó ..................................................................................... 5  1. 
Khái niệm hàng hoá. ................................................................................................................ 5  2. 
Hai thuộc tính của hàng hoá .................................................................................................... 5 
a. Giá trị sử dụng của hàng hoá. .................................................................................................... 5 
b. Giá trị của hàng hoá .................................................................................................................. 7 
c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá. ........................................................................ 9 
II. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa .............................................................................. 9 
1. Lao động cụ thể .......................................................................................................................... 1  0
2. Lao động trừu tượng .................................................................................................................. 10 
III. Ý nghĩa nghiên cứu .................................................................................................................... 1  2
IV. Vai trò của sản xuất hàng hóa qua liên hệ thực tế ở nước ta .................................................... 14 
V. Kết luận ....................................................................................................................................... 1  6                                           3
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI   
Hàng hoá đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội. Bất kỳ một hình thái xã hội nào 
cũng liên quan đến hàng hoá. Hàng hoá ra đời khi con người có sự phát triển nhất định. 
Đánh dấu cho sự ra đời của hàng hoá là sự hình thành các bộ lạc và bắt đầu trao đổi 
cho nhau để đảm bảo sự sinh tồn. Bởi lẽ là một sinh vật sống con người cần có nhu cầu 
ăn, mặc, ở, đi lại … một cá nhân hay một nhóm người nào đó không thể tự sản xuất tất 
cả mọi thứ để đáp ứng nhu cầu của mình. Để thoả mãn họ phải tự trao đổi với nhau. 
Vậy hàng hoá ra đời từ nhu cầu cấp thiết, không thể thiếu của cuộc sống. Từ chủ nghĩa 
Mác, đến Mác và sau Mác đã có rất nhiều lý luận, đã ra đời nhằm nghiên cứu một thứ 
vật chất đặc biệt đó là “hàng hoá”. 
Với những thuộc tính của mình hàng hoá giữ một vai trò quan trọng trong sản 
xuất và lưu thông, hàng hoá là một “tế bào kinh tế” của xã hội tư bản. “Có nền kinh tế 
hàng hoá thì tất nhiên tồn tại cạnh tranh…cạnh tranh là quy luật bắt buộc của nền kinh 
tế hàng hoá” vì vậy việc nghiên cứu về hàng hoá và những thuộc tính của nó là một việc 
quan trọng có ý nghĩa lí luận và thực tiễn đối với quá trình cạnh tranh. Đây chính là lí 
do mà em lựa chọn đề tài này. Do vốn kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế còn hạn 
chế, bài làm của em không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong cô quan tâm, chỉ bảo 
để bài tiểu luận của có thể hoàn thiện hơn.  Em cảm ơn cô.                              4
I. Hàng hoá và hai thuộc tính cơ bản của nó   
1. Khái niệm hàng hoá.   
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức 
kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá. Trong nền sản xuất hàng hoá 
tồn tại một phạm trù lịch sử đó chính là hàng hoá. Hàng hoá là sản phẩm của lao động, 
có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. 
Có rất nhiều tiêu thức để phân chia các loại hàng hoá như: hàng hoá thông 
thường, hàng hoá đặc biệt, hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình, hàng hoá tư nhân,  hàng hoá công cộng… 
- Dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm….   
- Dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên,  bác sĩ, nghệ sĩ… 
- Hàng hoá có thể cho một cá nhân sử dụng hoặc nhiều người cùng sử dụng. 
Từ khái niệm trên cho thấy: 
Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hoá, 
đồng thời sản phẩm lao đ
 ộng mang hình thái hàng hoá khi nó là đối tượng mua bán trên  thị trường. 
Karl Marx định nghĩa hàng hoá trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả năng 
thoả mãn nhu cầu con người nhờ vào các tính chất của nó. Để đồ vật trở thành hàng hoá  cần phải có: 
- Tính hữu dụng đối với người dùng   
- Giá trị (kinh tế), nghĩa là được chi phí bởi lao động.   
- Sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm.   
2. Hai thuộc tính của hàng hoá   
Hàng hoá có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị. Giữa hai thuộc 
tính này có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, nếu thiếu một trong hai thuộc tính thì không  phải là hàng hoá. 
a. Giá trị sử dụng của hàng hoá.   
Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu 
cầu nào đó của con người. 
- Nhu cầu trực tiếp như: ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại…   
- Nhu cầu gián tiếp như: các tư liệu sản xuất…      5
- Bất cứ hàng hoá nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công 
dụng (tính có ích) đó làm cho nó có giá trị sử dụng 
VD: Gạo để ăn, áo để mặc, nhà để ở, máy móc để sản xuất, phương tiện để đi lại…   
Giá trị sử dụng của mỗi hàng hoá là do những thuộc tính tự nhiên (vật lý, hoá học…) 
của vật thể hàng hoá đó quyết định nên giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn 
tại trong mọi phương thức hay kiểu tổ chức sản xuất. Tuy nhiên, việc phát hiện ra và 
vận dụng từng thuộc tính tự nhiên có ích đó lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của  xã hội .
VD: Ngày xưa than đá chỉ được dùng để nấu, sưởi ấm. Khi nồi súpde ra đời, than đá 
được dùng làm chất đốt, về sau nó cũng được dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp  hoá chất… 
Khoa học kỹ thuật càng phát triển, người ta càng phát hiện thêm những thuộc 
tính mới của sản phẩm và lợi dụng chúng để tạo ra những giá trị sử dụng mới, giá trị sử 
dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng. Nó là n
 ội dung vật chất của của cải. 
C.Mác viết: "giá trị sử dụng cấu thành cái nội dung vật chất của của cải, chẳng 
kể hình thái xã hội của của cải đó như thế nào" 
Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó không phải 
là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử dụng cho người 
khác, cho xã hội thông qua trao đổi - mua bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng 
là vật mang giá trị trao đổi, giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay 
tiêu dùng nó, khi chưa tiêu dùng thì giá trị sử dụng chỉ ở trạng thái khả năng. Để giá trị 
sử dụng có khả năng biến thành giá trị sử dụng hiện thực thì nó phải được tiêu dùng. 
Điều này nói lên ý nghĩa quan trọng của tiêu dùng đối với sản xuất. Đòi hỏi người sản 
xuất hàng hóa luôn luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm đáp ứng 
được nhu cầu xã hội. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam 
nói riêng, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp trong nước ngày 
càng cạnh tranh quyết liệt. Vì vậy, để định vị được sản phẩm của mình trong tâm trí 
khách hàng là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Để đứng vững trên thương trường, doanh 
nghiệp phải thường xuyên tạo ra sản phẩm có sự khác biệt và điều quan trọng là phải 
phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Ngoài ra do khoa học kỹ thuật ngày càng 
tiến bộ mà công dụng của hàng hóa ngày càng đa dạng nên nhu cầu ngày càng tăng vì 
vậy các doanh nghiệp nên tính toán chuẩn bị lực lượng để đón đúng thời cơ. Bên cạnh 
công dụng và phẩm chất hàng hóa, nhà kinh doanh cần phải lưu tâm đến hình thức bao 
bì và nhãn hiệu hàng hóa. 
Dù trải qua không ít khó khăn nhưng một số doanh nghiệp trong nước đã mạnh dạn đổi 
mới trang thiết bị sản xuất, mẫu mã, chất lượng, marketing… Họ thành công và khẳng 
định danh tiếng của doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nổi bật trong ngành may mặc 
hiện nay là Công ty Cổ phần Tập đoàn Thái Tuấn (Thai Tuan Group Corporation). Thành 
lập vào cuối năm 1993, Thái Tuấn không ngừng nỗ lực mở rộng hoạt động sản xuất 
kinh doanh, từ việc đầu tư xây dựng các nhà máy dệt, phân xưởng, nhà máy nhuộm cho 
đến việc thành lập và phát triển các chi nhánh, hệ thống Showroom, trung tâm thời trang 
và phân xưởng may. Tính đến nay, Thái Tuấn đã có 3 chi nhánh, 8 Showroom, hơn 300    6
đại lý và trên 3.500 nhà phân phối trải đều trên toàn quốc. Cùng với việc đầu tư mở rộng 
hoạt động sản xuất - kinh doanh là sự phát triển mạnh mẽ về cơ sở vật chất máy móc 
thiết bị và đặc biệt là sự gia tăng nguồn lực con người. Bên cạnh việc tăng cường chuyển 
giao công nghệ tiên tiến từ Nhật Bản và Châu Âu, nguồn lực con người được Thái Tuấn 
chú trọng phát triển đáng kể thể hiện qua số lượng CB-CNV của công ty tính đến nay 
khoảng 1.300 người so với thời điểm ban đầu chỉ có 30 người. Được nhìn nhận như 
một trong những doanh nghiệp hàng đầu Việt N
 am về lĩnh vực dệt may, Công ty Thái 
Tuấn đã góp phần làm thị trường đa dạng, phong phú hơn với rất nhiều m  ẫu mã, chủng 
loại sản phẩm, điển hình là các dòng sản phẩm lụa, Silk thun, phi thun, voan, chất liệu 
cao cấp dành cho nữ sinh mang nhãn hiệu LENCII... được rất nhiều khách hàng biết 
đến và tin dùng, đặc biệt là dòng sản phẩm cao cấp như In digital, thêu và tơ tằm. Bên 
cạnh đó, Thái Tuấn cũng vừa cho ra mắt nhãn hiệu thời trang may sẵn cao cấp SILKI 
với các mẫu thiết kế trang phục gia đình và dạo phố dành cho các bạn gái trẻ và cả lứa 
tuổi trung niên. Phát triển và đổi mới theo từng giai đoạn phát triển và nhu cầu của xã 
hội, Cty Thái Tuấn đã đón đầu tung ra rất nhiều dòng sản phẩm đa dạng cung ứng cho 
thị trường trong và ngoài nước. 
Trong bất kỳ một xã hội nào, của cải vật chất của xã hội đều là một lượng nhất 
định những giá trị sử dụng. Xã hội càng tiến bộ, khoa học – kỹ thuật phát triển, phân 
công lao động xã hội ngày càng cao, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá 
trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất lượng giá 
trị sử dụng ngàng càng tăng. 
Ngoài những đặc điểm chung, hàng hoá vô hình (phi vật thể) còn có những đặc  điểm sau: 
- Giá trị sử dụng không có hình thái vật thể (hữu hình) mà tồn tại dưới hình thái  phi vật thể. 
- Hàng hoá vô hình là dịch vụ. Có hai loại dịch vụ cho sản xuất v  à dịch vụ cho tiêu 
dùng, trong đó dịch vụ cho tiêu dùng phát triển ngày càng nhiều, phục vụ trực 
tiếp người tiêu dùng (chữa bệnh, dạy học, cắt tóc, chăm sóc sức khoẻ, thẩm 
mỹ…). Dịch vụ với tư cách là h
 àng hoá đang ngày càng đóng vai trò quan trọng 
đối với sản xuất và đối với đời sống h ệ i n đại. 
Trong nền sản xuất hàng hoá, giá trị sử dụng đồng thời cũng là vật mang giá trị  trao đổi. 
b. Giá trị của hàng hoá   
Muốn hiểu giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan 
hệ về lượng, là t ỷ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác nhau. 
VD: 1m vải có giá trị trao đổi bằng 10 kg thóc.   
Sở dĩ vải và thóc là hai hàng hóa mặc dù có giá trị sử dụng khác nhau nhưng lại 
có thể trao đổi với nhau được theo một tỉ lệ nhất định nào đó là vì giữa chúng có một 
cơ sở chung là cả vải và thóc đều là s
 ản phẩm của lao động (thời gian lao động và công  sức lao động) do lao đ
 ộng được chứa đựng trong hàng hoá, đó chính là cơ sở giá trị của  hàng hoá.    7
Đây là khái niệm được khẳng định trong các giáo trình kinh tế chính trị. Nếu xét 
nó trên quan điểm của trường phái hiệu dụng biên thì vẫn đạt được lý lẽ hoàn chỉnh. 
Theo đó, đối tượng chung của nhu cầu có trong các cá nhân khác nhau vẫn đảm 
bảo cơ sở cho trao đổi. 
VD: Nhu cầu ăn và mặc có trong hai cá nhân A và B, trong lúc A sở hữu áo và B sở 
hữu gạo thì nhu cầu chung kia sẽ tạo tiền đề cho trao đổi, tỷ lệ trao đổi tùy thuộc rất 
nhiều yếu tố: vị thế, độ bức xúc nhu cầu, thói quen tâm lý, quy định xã hội v.v., vì thế 
tỷ lệ trao đổi sẽ là ngẫu nhiên nhưng mang tính ổn định nhất định. 
Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hoá có thể trao đổi được với nhau. Vì vậy, khi 
người ta trao đổi hàng hoá cho nhau về thực chất là trao đổi lao động của mình ẩn dấu 
trong những hàng hoá ấy. Do vậy có thể nói, lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá 
là cơ sở chung cho việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hoá. Chất của giá trị là 
lao động, vì vậy sản phẩm nào không có lao động của người sản xuất chứa đựng trong 
đó, thì nó không có giá trị . Sản phẩm nào lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng 
nhiều thì giá trị càng cao. 
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng 
hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu h  ao để sản xuất 
ra hàng hóa đó. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao động. Lượng 
giá trị của hàng hóa không phải do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động 
cá biệt quy định, mà nó được đo bởi thời gian lao động xã hội cần thiết. 
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra một 
hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình 
độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao 
động trung bình trong xã hội đó. Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian 
lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa, mới quyết định đại lượng giá trị  của hàng hóa ấy. 
Nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa để xác định được giá cả của hàng hóa làm ra 
và tìm ra được những nhân tố tác động đến nó, từ đó có thể tìm ra cách để làm giảm giá  cả sản xuất.  Ví dụ: 
- Tăng năng suất, đầu tư khoa học công nghệ hiện đại... mà vẫn giữ nguyên hoặc 
làm tăng thêm giá trị để tiến tới cạnh tranh trên thị trường, đây chính là điều mà 
các nhà làm kinh tế luôn hướng tới nhằm đạt được lợi nhuận cao. 
Trong sản xuất nông nghiệp hiện n
 ay, cày ruộng có nhiều cách như tự cày, trâu 
cày hoặc máy cày. Tùy theo khả năng vốn của mỗi hộ nông dân mà chọn 
phương thức phù hợp, nhưng xu thế chung là sử dụng máy cày vì đây là 
phương thức cho hiệu quả cao nhất. 
- Trong trao đổi, mua bán hàng hóa nông sản, nông dân luôn muốn bán sản  phẩm với g
 iá cao. Nhưng đôi khi điệp khúc được mùa mất giá diễn ra thường 
xuyên. Vì vậy, họ áp dụng nhiều biện p
 háp tiên tiến để bán nông sản với giá cao 
nhất như đầu tư vào khâu bảo quản đợi giá cao thì bán, hoặc đa dạng hóa đầu 
ra như chế biến phơi khô, sấy khô... để sản phẩm có giá trị cao hơn... 
Cũng giá trị trao đổi mà chúng ta để cập ở trên, chẳng qua chỉ là hình thức biểu    8
hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời, 
giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. gắn liền với kinh tế 
hàng hoá. Nó là một phạm trù lịch sử. Giá trị t rao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá 
trị. Giá trị là nội dung là c
 ơ sở của giá trị trao đổi.Cũng chính vì vậy, giá trị là phạm trù 
chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hoá. 
c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá.   
Hai thuộc tính của hàng hoá có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa  mâu thuẫn với nhau.     
Mặt thống nhất biểu hiện ở chỗ: 
Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hoá. Nếu một vật có 
giá trị sử dụng (tức có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, xã hội), nhưng 
không có giá trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao động) như không 
khí tự nhiên thì sẽ không phải là h
 àng hoá. Ngược lại, một vật có giá trị (tức có lao động 
kết tinh), nhưng không có giá trị sử dụng (tức không thể thoả mãn nhu cầu nào của con  người, xã hội) c
 ũng không trở thành hàng hoá.   
Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hoá thể hiện ở chỗ: 
Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá khác nhau về chất (vải 
mặc, sắt thép, lúa gạo…). Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá lại 
đồng nhất về chất, đều là “những cục kết tinh đ
 ồng nhất của lao động mà thôi”, tức đều 
là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá ( vải mặc, sắt thép, lúa 
gạo... đều do lao động tạo ra, kết tinh lao động trong đó). 
Thứ hai, quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời nhau cả về 
mặt không gian và thời gian. 
- Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước. 
- Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiê  u dùng.   
Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt buộc 
họ cũng phải chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan tâm tới giá trị 
sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn có giá trị sử dụng họ 
phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Nếu không thực hiện giá trị sẽ không có giá trị 
sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá cũng chính là một trong 
những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa. 
II. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa   
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động của người sản 
xuất ra hàng hóa có tính hai mặt. Chính tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa 
quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hóa. 
C. Mác là người đầu tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng 
hóa. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.    9
1. Lao động cụ thể   
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp 
chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương 
tiện riêng, phương pháp riêng, và kết quả riêng. 
Có mục đích riêng: lao động của người thợ may và lao động của người thợ mộc 
thì mục đích của 2 loại lao động này là tạo ra sản phẩm quần áo và bàn ghế. 
Có đối tượng lao động riêng: người thợ may đối tượng là kim, chỉ, vải còn người  thợ mộc là đ  ục, mộc, đẽo. 
Có phương tiện riêng: người thợ may có công cụ là kéo, kim, chỉ, nút còn người 
thợ mộc thì có công cụ bào, đục, khoan, sơn… 
Có phương pháp riêng: người thợ may dung phương pháp may còn người thợ 
mộc thì đục, đẽo, sơn … 
Có kết quả riêng: kết quả thu được của người thợ may là quần áo để mặc, còn 
người thợ mộc là bàn, tủ… để ngồi, để đồ. 
Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể 
càng nhiều loại càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau. Các lao động cụ thể hợp 
thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, 
các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú, nó phản ánh trình đ  ộ phát 
triển của phân công lao đ  ộng xã hội. 
Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì vậy lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn 
tồn tại gắn liền với vật phẩm, nó là một điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái 
kinh tế xã hội nào. Cần chú ý rằng, hình thức của lao động cụ thể có thể thay đổi. 
Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng do nó sản 
xuất ra. Giá trị sử dụng của các vật thể hàng hóa bao giờ cũng do hai nhân tố hợp thành: 
vật chất và lao động. Lao động cụ thể của con người chỉ thay đổi hình thức tồn tại của 
các vật chất, làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người mà thôi. 
2. Lao động trừu tượng   
Lao động của người sản xuất hàng hóa, nếu coi đó là sự hao phí óc, sức thần kinh 
và sức cơ bắp nói chung của con người, chứ không kể đến hình thức cụ thể của nó như 
thế nào, thì gọi đó là lao động trừu tượng. 
Lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may, nếu xét về mặt lao 
động cụ thể thì hoàn toàn khác nhau, nhưng nếu gạt bỏ tất cả những sự khác nhau ấy 
sang một bên thì chúng chỉ còn có một cái chung, đều phải tiêu phí sức óc, sức bắp thịt 
và sức thần kinh của con người. Lao động trừu tượng chính là lao động hao phí đồng  chất của con người. 
Ví dụ: Người thợ may phải bỏ sức lao động chân tay thì người thiết kế ra sản 
phẩm điện thoại Iphone thì phải bỏ ra trí tuệ, tiêu hao chất xám để tạo ra sản phẩm. 
C.Mac viết “Nếu như không kể đến tính chất cụ thể của hoạt động sản xuất và do 
đó đến tính có ích của lao động thì trong lao động ấy còn lại sự tiêu phí sức lao động  của con người”. 
Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức lực của con người xét về mặt sinh lý, nhưng    10
không phải sự hao phí sức lao động nào về mặt sinh lý cũng là lao đ  ộng trừu tượng. Lao 
động trừu tượng chỉ có trong nền sản xuất hàng hóa, do mục đích của sản xuất là để 
trao đổi. Từ đó làm xuất hiện sự cần thiết phải quy các lao động cụ thể vốn rất khác 
nhau, không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng chất có thể trao 
đổi với nhau, tức lao động trừu tượng. 
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị, làm cơ sở cho sự ngang bằng trong trao đổi. 
Nếu không có sản xuất hàng hóa, không có trao đổi thì cũng không cần phải quy các lao 
động cụ thể và lao động trừu tượng. Vì vậy, lao động trừu tượng là một phạm trù lịch 
sử riêng có của sản xuất hàng hóa. 
Cần lưu ý, ở đây không phải có hai thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động 
của người sản xuất hàng hóa, nhưng lao đ
 ộng đó mang tính hai mặt: vừa là lao động cụ  thể, vừa là lao đ  ộng trừu tượng. Và g
 iữa hai mặt này có nhũng mâu thuẫn như sau: 
- Lao động trừu tượng là biểu hiện của lao đông xã hội, vì dù bạn đang làm bất cứ 
ngành gì bạn cũng phải hao phí sức lực. 
- Lao động cụ thể đại diện cho lao động tư nhân, lao động trừu tượng đại d ệ i n cho  lao động xã hội.  Nếu lao động cụ thể c
 hỉ là một trong hai nhân tố tạo thành giá trị sử dụng, thì lao 
động trừu tượng là nhân tố duy nhất tạo ra giá trị của hàng hóa. Giá trị của mọi hàng 
hóa chỉ là sự kết tinh của lao động trừu tượng. 
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa rất to 
lớn về mặt lý luận; nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực 
sự. Giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động 
trái ngược khi khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá 
trị của nó giảm xuống. 
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính 
chất xã hội của người sản xuất hàng hóa 
Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Là việc riêng 
của mỗi người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ vì vậy có tính chất tư nhân 
và lao động cụ thể của họ sẽ là biểu hiện của lao động tư nhân. 
Đồng thời lao động của mỗi người sản xuất hàng hóa, nếu xét về mặt hao phí sức 
lực nói chung, tức là lao động trừu tượng, thì nó luôn là một bộ phận của xã hội thống 
nhất, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội. 
Khi khẳng định, phân công lao động xã hội là điều kiện tồn tại của sản xuất hàng 
hóa, C.Mác đồng thời chỉ rõ rằng trong các công xã ở Ấn Độ và trong các công xưởng 
hiện đại, tuy lao động đã có sự phân công xã hội, nhưng các sản phẫm lao động không 
trở thành hàng hóa vì “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không 
phụ thuộc vào nhau mới đối diện với như những hàng hóa” 
Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản 
xuất hàng hóa. Họ làm việc cho nhau, thông qua trao đổi hàng hóa. Việc trao đổi hàng 
hóa không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy lao động cụ thể về lao động 
chung đồng nhất - lao động trừu tượng. Do đó, lao đ  ộng trừu tượng là b  iểu hiện của lao  động xã hội. 
Chúng ta biết rằng lao động sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt: lao động cụ thể và    11
lao động trừu tượng. Lao động cụ thể sản xuất ra giá trị sử dụng của hàng hóa mang tính 
chất tư nhân, vì sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai là do từng người 
sản xuất tự quyết định. Nhưng giá trị sử dụng của hàng hóa lại là giá trị sử dụng cho 
người khác, tức là giá trị sử dụng xã hội. Muốn moi được tiền trong túi của những người 
chủ tiền thì giá trị sử dụng phải đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của họ, nên lao động tư 
nhân này phải là một khâu của lao động tổng thể, là một khâu của hệ thống phân công 
lao động xã hội tự phát. Mặt khác, mỗi lao động tư nhân, có ích và đặc thù này có thể 
trao đổi với bất kỳ loại lao động tư nhân , có ích và đặc thù khác, do đó, được coi là  ngang với thứ lao đ
 ộng tư nhân ấy. Sự ngang giá ấy chỉ có thể thấy được khi ta quy các 
lao động tư nhân, cụ thể đó thành tính chất chung của chúng là sự tiêu p  hí sức lao động 
của con người, là lao động trừu tượng của con người. Bởi vậy, lao động trừu tượng  mang tính chất xã hội 
Xét trong phạm vi cả xã hội thì lao đ
 ộng của mỗi người lao động cá thể hay mỗi 
người lao động tổng thể ấy trước hết biểu hiện ra là lao động tư nhân, sản phẩm được 
tạo ra trước hết biểu hiện ra là l ao động tư nhân, sản phẩm tạo ra trước hết thuộc quyền 
sở hữu của mỗi tư nhân đó (không kể các yếu tố đầu vào của họ hay họ đi vay, đi thuê) 
và chỉ thong qua trao đổi lao động tư nhân đó mới biểu hiện thành lao đ  ộng xã hội, mới 
chứng tỏ lao động tư nhân đó được xã hội thừa nhận hay không 
Trong nền sản xuất hàng hóa, lao đ  ộng tư nhân và lao đ
 ộng xã hội không phải là 
hai lao động khác nhau, mà chỉ là hai mặt đối lập của một lao động thống nhất. Giữa lao  động tư nhân và lao đ
 ộng xã hội có mâu thuẫn với nhau. Đó là m
 âu thuẫn cơ bản của “ 
sản xuất hàng hóa”. Mâu thuẫn này biểu hiện: 
- Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa tạo ra có thể không ăn khớp hoặc không 
phù hợp vơi nhu cầu của xã hội (hoặc không đủ cung cấp cho xã hội hoặc vượt 
quá nhu cầu của xã hội...). Khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, sẽ có một 
số hàng hóa không bán được, tức không thực hiện được giá trị. 
Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hay thấp hơn hao phí 
lao động mà xã hội có thể chấp nhận. Khi đó hàng hóa cũng không bán được hoặc bán 
được nhưng không thu hồi đủ chi phí lao động bỏ ra. 
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu 
thuẫn trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất 
hàng hóa vừa vận động phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng “sản xuất  thừa”.   
III. Ý nghĩa nghiên cứu   
Đem lại cho học thuyết lý luận giá trị lao động một cở sở khoa học thật sự. Các 
nhà kinh tế học trước Mác cho rằng Lao động tạo ra giá trị, nhưng không biết mặt lao 
động nào tạo ra giá trị. C. Mác phát hiện ra mặt lao động trừu tượng của người sản xuất 
hàng loạt ra giá trị hàng hoá. 
- Nhờ phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, C.Mác đã giải 
thích được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư, phân tích được bản chất bất 
biến và tư bản khả biến... Do đó, đem lại cơ sở khoa học vũng chắc học thuyết    12
giá trị thặng dư, học thuyết tích luỹ, học thuyết tái sản xuất… 
- Xác định được chất của giá trị là do lao động trừu tượng kết tinh, biểu hiện quan 
hệ xã hội và là một phạm trù lịc  h sử. 
- Xác định được lượng của giá trị là lượng lao động trung bình hay thời gian lao 
động xã hội cần thiết. 
- Xác định được hình thái biểu hiện của giá trị phát triển từ thấp tới c  ao, từ hình 
thái giản đơn đến hình thỏi mở rộng, hình thái chung và cuối cùng là h  ình thái  tiền. 
Xác định được quy luật giá trị- quy luật cơ bản của sản xuất hàng hoá. Quy luật 
này đòi hỏi người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải đảm bảo thời gian lao động xã hội  cần thiết. 
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao đ
 ộng sản xuất hàng hoá có ý nghĩa rất to 
lớn về mặt lý luận; nó đem đến cho lý thuyết lao đ
 ộng sản xuất một cơ sở khoa học 
thực sự, giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp d
 iễn ra trong thực tế, như sự vận 
động trái ngược: khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền v  ới khối lượng 
giá trị của nó giảm xuống 
Xuất phát từ nhũng mâu thuẫn như vậy! Do đó việc nghiên cứu ý nghĩa hai mặt của 
lao động sản xuất hàng hóa là vô cùng cần thiết: 
- Từ nghiên cứu về hai mặt lao động ta biết là một hàng hóa muốn xã hội chấp nhận 
thì nó phải phù hợp với nhu cầu thị hiếu và có hao phí lao động thấp hơn hay 
bằng hao phí lao động xã hội. Do vậy việc nâng cao năng suất, đầu tư máy móc 
thiết bị, tăng maketing, tìm hiểu thị trường là những biện pháp đề lên hàng đầu 
- Còn trong dài hạn thì yếu tố quyết định nhất vẫn là t rình độ tay nghề của người 
lao động. Vận dụng lý thuyết bàn tay vô hình của Adam Smith cho phép ta suy 
luận đến giải pháp cuối cùng là nâng cao dân trí, cải thiện giáo dục, đầu tư mới 
cho giáo dục. Xem giáo dục là gốc cho cả quá trình. 
Ngoài việc đề ra các biện pháp nâng cao năng suất, cải thiện nền kinh tế. Việc 
nghiên cứu này còn có ý nghĩa quan trọng hơn là giúp ngăn ngừa nguy cơ cuộc khủng 
hoảng thừa của nền kinh tế. 
Giải thích cho ý nghĩa này: Để hàng hóa được chấp nhận trong thị trường cạnh tranh thì 
giá trị sử dụng của nó phải được mọi người chấp nhận và có nhu cầu. Song song đó là 
hao phí sức lao động của hàng hóa đó được xã hội chấp nhận. Khi nghiên cứu tính chất 
này tức là mục đích ta nhắm đến những mục tiêu. Do đó đứng ở tầm vi mô mà nói thì 
doanh nghiệp thu được lơi nhuận, dẫn đến sản xuất điều độ, giá cả ít biến động tăng cao, 
làm cho người tiêu dùng luôn chấp nhận sản phẩm. Đứng về tầm vĩ mô mà nói thì nền 
kinh tế hoạt động một cách vững vàng. Hàng hóa ít có hiện tượng thừa thải, mức giá 
chung ít biến động tăng cao. Kết hợp hai ý trên lại ta chống được khủng hoảng thừa 
(thừa hàng hóa nhưng thiếu sức mua). 
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay, để tăng 
khả năng cạnh tranh bình đẳng trong môi trường tự do thương mại thế giới đòi hỏi các  nhà sản xuất phải: 
- Đẩy mạnh phân công lao động để phát triển kinh tế hàng hóa, đáp ứng nhu cầu 
đa dạng và phong phú của xã hội    13
- Phải coi trọng hai thuộc tính của hàng hóa để không ngừng cải tiến mẫu mã, tạo 
ra hàng hóa phong phú đa dạng cả về số lượng, chất l ợng  ư để đáp ứng nhu cầu 
của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Để tạo động lực cho sự phát triển  sản xuất k
 inh doanh, buộc nhà sản xuất phải chủ động sáng tạo, nhạy bén trong 
tổ chức quản lý, áp dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất 
lao động, tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt, đẹp hơn, giá cả ổn định, có thể hạ 
giá thành để giành ưu thế trên thị trường. 
- Phải vận dụng hai thuộc tính hàng hóa bằng các quy định về kinh tế, qui định nhà 
sản xuất sao cho phù hợp trên cơ sở khoa học nhằm thực hiện có hiệu quả những 
mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra ở đại hội XI của Đảng phấn đấu đến 2020, nước 
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.   
IV. Vai trò của sản xuất hàng hóa qua liên hệ thực tế ở nước ta 
Theo quan điểm của C. Mác kinh tế hàng hoá không phải là một phương thức sản xuất độc 
lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại trong các phương thức xã hội. Với phạm vi 
và mức độ khác nhau, tuy cùng là nền kinh tếhàng hoá nhưng bản chất của xã hội quy định 
đặc điểm của kinh tế hàng hoá của xã hội đó. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên 
vai trò quản lý của nhànước định hướng nền kinh tế hàng hoá theo chủ nghĩa xã hội ở Việt 
Nam. Đất nước ta vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản 
xuất xã hội rất thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh để lạihậu quả nặng 
nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế 
tập trung, quan liêu, bao cấp. Chính vì vậy, nhà nước ta khẳng định chỉ có thể phát triển 
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần mới phát triển được lực lượng sản xuất; mới thúc đẩy sự 
nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá; mới đẩy lùi được kinh tế tự nhiên; khắc phục được 
hậu quả của kinh tế kế hoạch hoá tập trung; mới làm cho kinh tế nước ta hoà nhập vào kinh 
tế khu vực và thế giới. Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan 
điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước 
ta. Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng, các 
nước... không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hoá, tinh thần cũng được 
nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn. Nền sản xuất hàng hóa ở nước ta thời gian qua 
là một nền sản xuất vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều chỉnh của chính phủ theo 
định hướng xã hội chủ nghĩa đứng trước vận hội mới của đất nước, nền sản xuất hàng hóa 
ở nước ta có những thuận lợi nhất định và những khó khăn không nhỏ.    - Về thuận lợi: 
+ Là một nền kinh tế đang lên với tốc độ phát triển cao, tạo được niềm tin với các nhà đầu 
tư và bạn bè quốc tế. Việt Nam có giá nhân công rẻ, trình độ dân chí khá cao, thị trường 
lớn với dân số đông, một đất nước ổn định về chính trị và một quyết tâm đổi mới mạnh mẽ 
của chính phủ, về tài nguyên, về vị trí địa lý,...   
+ Cho đến nay đất nước ta đã đạt một số thành tựu trong công cuộc đổi mới đất nước như: 
quy mô công nghiệp tăng gấp 4,8 lần, quy mô xuất khẩu tăng gấp gần 6,9 lần, xuất khẩu    14
gạo đứng thứ ba trên thế giới, tránh được dòng xoáy của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền 
tệ khu vực thời kỳ 1997-1998, tăng trưởng GDP năm 2002 là 7,04% đứng thứ hai trong khu 
vực Châu Á-Thái Bình Dương. 
+ Xu hướng chung của phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước 
không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Với quan điểm hợp tác hai bên cùng 
có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, Việt Nam đã và đang tạo dựng được những 
mối quan hệ tốt đẹp với nhiều nước trên thế giới; tham gia vào những tổ chức kinh tế xã 
hội như: ASIAN, AFTA, tiến tới gia nhập WTO. Năm 2003-năm bản lề của kế hoạch 5 
năm 2000-2005 chúng ta đặt ra rất nhiều mục tiêu và thách thức, trọng tâm vẫn là chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế với tầm cao hơn trong lộ trình thực hiện cam kết hội nhập nhằm phát 
triển một nền kinh tế toàn diện.    - Về khó khăn: 
+ Bên cạnh đó, nền kinh tế hàng hoá nước ta còn bộc lộ rất nhiều yếu kém như: trình độ 
khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập… Đảng và Nhà nước 
ta đã và đang có những chính sách, giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trên. Xu 
hướng chung của phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể 
tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Với quan điểm hợp tác hai bên cùng có lợi, tôn 
trọng độc lập chủ quyền của nhau, Việt Nam đã và đang tạo dựng được những mối quan hệ 
tốt đẹp với nhiều nước trên thế giới; tham gia vào những tổ chức kinh tế xã hội như: ASIAN, 
AFTA, tiến tới gia nhập WTO. Năm 2003-năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2000-2005 chúng 
ta đặt ra rất nhiều mục tiêu và thách thức, trọng tâm vẫn là chuyển dịch cơ cấu kinh tế với 
tầm cao hơn trong lộ trình thực hiện cam kết hội nhập nhằm phát triển một nền kinh tế toàn  diện. 
+ Phải khẳng định là nền kinh tế nước ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức 
lớn. đi lên từ một nền nông nghiệp nhỏ lạc hậu, nền kinh tế ta có đặc thù là sản xuất nhỏ lẻ 
mang nặng tính tự cung tự cấp, sức cạnh tranh yếu. trình độ công nghệ sản xuất, quản lý, 
cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém. chất lượng lao động được đào tạo chưa đáp ứng được nhu 
cầu ngày một khắt khe của nền kinh tế, người dân nước ta chưa có được cách nghĩ năng 
động, chính sách dù được cải thiện còn nhiều bất cập... bên cạnh đó, các nền kinh tế khác 
và đặc biệt là, Trung Quốc, khu vực Đông Nam Á đã và đang lên mạnh mẽ và cạnh tranh 
gay gắt với Việt Nam... Do mục đích của sản xuất hàng hoá không phải để thoả mãn nhu 
cầu của bản thân người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để thoả mãn nhu cầu của 
người khác, của thị trường. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động 
lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. 
+ Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong 
sản xuất - kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng 
năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và thu 
được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển  mạnh mẽ. 
+ Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất "mở" của các quan hệ hàng hoá tiền tệ làm 
cho giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát 
triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân    15
cấp, tự túc của nền kinh tế, tất yếu phải phát triển sản xuất hàng hoá để phát huy những ưu 
thế của nền kinh tế - Hướng đi đúng đắn của phát triển nền kinh tế hàng hóa ở nước ta: 
+ Phát triển kinh tế hàng hoá là con đường dân chủ đời sống kinh tế, phải giải phóng tiềm 
năng phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế. Phát triển công nghiệp theo hướng tập 
trung đầu tư khai thác có hiệu quả tiềm năng về thuỷ điện; khai thác lợi thế về nguồn nguyên 
liệu để đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản như công nghiệp chế biến 
cao su, điều, cà phê, bông vải và các loại nông sản khác, chế biến sản phẩm chăn nuôi, hàng 
mộc cao cấp xuất khẩu, vật liệu xây dựng, các ngành hàng tiểu thủ công nghiệp truyền  thống,...   
Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đây là yếu tố nền tảng, tạo tiền đề cho quá 
trình phát triển, là trọng điểm xuyên suốt trong quy hoạch phát triển 10 - 15 năm tới. Ưu 
tiên đầu tư hoàn thiện mạng lưới giao thông và hệ thống thuỷ lợi. Tiếp tục xây dựng các 
mạng lưới điện, cấp nước, bưu chính viễn thông. Đầu tư cơ sở hạ tầng vùng biên giới; mở 
cửa khẩu Đăk Ruê. Phát triển và mở rộng hệ thống đô thị, xây dựng thành phố Buôn Ma 
Thuột trở thành đô thị hạt nhân và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục đào tạo, 
khoa học kỹ thuật, y tế, dịch vụ, du lịch, thể dục thể thao của tỉnh Đăk Lăk và vùng Tây 
Nguyên. Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành Trung ương trong việc tham gia tích cực vào 
quá trình phát triển cùng với các địa phương, lãnh thổ trong Tam giác Việt Nam - Lào - 
Campuchia. Tạo bước chuyển biến vượt bậc trong du lịch, dịch vụ với mức tăng trưởng 
cao. Tập trung đầu tư các cụm du lịch trọng điểm Buôn Ma Thuột, Buôn Đôn, Hồ Lăk v.v… 
Nâng cao năng lực và chất lượng, tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.   
Tăng cường liên doanh liên kết với các vùng lân cận và cả nước, đặc biệt là với TP. Hồ Chí 
Minh, vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Duyên Hải miền Trung trong phát triển du lịch, 
dịch vụ, xuất khẩu, trao đổi hàng hóa. Phát triển nông, lâm, nghiệp và kinh tế nông thôn 
theo hướng hiện đại hoá, công nghiệp hoá, đầu tư chiều sâu, tăng cường áp dụng khoa học 
công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Hình thành các vùng trọng điểm, 
sản xuất tập trung cây trồng, vật nuôi chủ lực, mũi nhọn của tỉnh. Đẩy mạnh việc giao đất 
giao rừng, tổ chức khuyến nông, khuyến lâm và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ổn 
định sản xuất, nâng cao đời sống. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đào 
tạo tăng cường đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý, các doanh nhân, công nhân lành 
nghề; xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ và tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ 
vào sản xuất và đời sống.    V. Kết luận 
Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đều sử dụng cỗ xe kinh tế hàng hoá để phát 
triển lực lượng sản xuất. Nhưng dưới tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi quy luật cá lớn 
nuốt cá bé, bất bình đẳng, bất công. Chúng ta phát triển nền kinh tế hàng hoá nhằm tăng 
trưởng kinh tế, khuyến khích làm giàu, xoá đói giảm nghèo, gia tăng về mức sống nhưng 
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Chúng ta phải chủ động nắm thời cơ, kiên quyết đẩy 
lùi và khắc phục những nguy cơ nhằm vượt lên để phát triển nhanh, vững chắc và đúng    16
hướng. Có như vậy, đấtnước ta mới ngày càng phồn vinh, giàu đẹp hơn.       
Tài liệu tham khảo:    
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin (sử dụng trong các trường đại học - hệ không 
chuyên lý luận chính trị), Nxb.Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2021. 
2. Bài giảng m-Learning môn Kinh Tế Chính Trị Mác-Lênin trường Đại học Hoa Sen. 
3. Website:https://www.academia.edu/32406001/ĐỀ_CƯƠNG_THẢO_LUẬN_MÔN _KTCT_dot 
4. Website:https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/phat-trie - n kinh-te-th - i truong-
dinh- huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-137544      ---HẾ - T --    17 
