Chủ đề 1: Sinh viên vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã học về bản đồ, bản - tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

Chủ đề 1: Sinh viên vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã học về bản đồ, bản - tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem

2 quy luật lượng chất
. Mở đầu vấn đề
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chất phạm trù triết học dùng
để chỉ tính quy định khách quan vốn của sự vật, sự thống nhất hữu những
thuộc tính làm cho sự vật chứ không phải cái khác. Lượng phạm trù triết
học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng và chất hai mặt bản của mọi sự vật hiện tượng. Trong bản thân sự vật
thì hai mặt này luôn tác động qua lại, nột mức độ nào đó, làm cho sự vật phát
triển. Khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng trong sự vật chưa đủ làm thay
đổi căn bản chất của sự vật được gọi là độ. Chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về
lượng đạt tới mức đủ để dẫn tới sự thay đổi về chất thì độ bị phá vỡ sự vật phát
triển sang một giai đoạn mới, khác hẳn về chất.
Mọi sự vật trong thế giới vật chất đều vận động phát triển không
ngừng. Việc tích lũy về lượng cũng chính một trong những cách vận
động của sự vật. Vì thế, dù nhanh hay chậm, sớm hay muộn thì việc tích
lũy về lượng của sự vật cũng sẽ đến một giới hạn mà ở đó làm cho chất
của sự vật thay đổi về căn bản. Thời điểm mà ở đó sự thay đổi về lượng
đã đủ để làm thay đổi về chất của sự vật gọi điểm nút. Chất của sự
vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy.
2. Phân tích của Ăngghen về quy luật lượng - chất
Về quy luật lượng - chất, Ăngghen nêu: “Trong giới tự nhiên, thì những sự biến đổi
về chất - xảy ra một cách xác định chặt chẽ đối với từng trường hợpbiệt - chỉ
thể được do thêm vào hay bớt đi một số lượng vật chất hay vận động (hay
năng lượng như người ta thường nói)”.
Ăngghen giải thích như sau: “Tất cả những sự khác nhau về chất trong giới tự nhiên
đều dựa hoặc trên thành phần hoá học khác nhau, hoặc trên những số lượng
hay hình thức vận động (năng lượng) khác nhau, hoặc như trong hầu hết mọi trường
hợp, đều dựa trên cả hai cái đó. Như thếnếu không thêm vào hoặc bớt đi một số
vật chất hay vận động, nghĩa là nếu không thay đổi một vật thể về mặt số lượng, thì
không thể thay đổi được chất lượng của vật thể ấy. Dưới hình thức ấy, luận đề thần
bí của Hêghen không những đã trở nên hoàn toàn hợp lý thậm chí còn khá hiển
nhiên nữa”.
Qua nhiều thí dụ về vật học hoá học thời đó, Ăngghen vạch khoa học tự
nhiên luôn luôn chứng thực những sự chuyển hoá lượng thành chất: “Trong vật
học, người ta coi các vật thể là những cái gì không biến hoá hoặc không khác biệt về
mặt hoá học; đây, chúng ta những sự biến hoá của trạng thái phân tử của các
vật thể,sự biến đổi hình thái của vận động, sự biến đổi này, trong mọi trường
hợp - ít nhất là ở một trong hai mặt - đều làm cho các phân tử hoạt động. Ở đây mọi
sự biến hoá đều là sự đổi lượng thành chất, là kết quả của sự biến đổi về lượng của
số lượng vận động - vận động bất kỳ dưới hình thức nào - cố hữu của vật thể ấy
hoặc được truyền cho vật thể ấy”.
Ăngghen trích dẫn đoạn của Hêghen như sau: “Ví dụ như nhiệt độ của nước...
không ảnh hưởng mấy đến trạng thái lỏng của nó; nhưng nếu người ta tăng
hoặc giảm nhiệt độ của chất nước lỏng, thì sẽ tới một điểm trạng thái kết hợp
của sẽ biến đổi nước trong trường hợp này sẽ biến thành hơi, trong trường
hợp khác thành nước đá”.
Ăngghen nêu ra: “Ví dụ, cần phải một cường độ dòng điện tối thiểu nhất định để
đốt sáng dây bạch kim của đèn điện; dụ, mỗi kim loại độ cháy sáng nóng
chảy của nó; ví dụ, mỗi chất lỏng có một điểm đông đặc và một điểm sôi nhất định ở
một áp lực nhất định - chỉ cần chúng ta dùng những phương tiện của chúng ta để tạo
ra những nhiệt độ tương đương; cuối cùng, ví dụ, mỗi chất khí cũng có một điểm tới
hạn điểm này áp suất sự làm lạnh sẽ biến thể khí thành thể lỏng. Nói tóm lại,
những cái người ta gọi hằng số vật học thì phần nhiều chỉ những điểm
nút, ở những điểm ấy chỉ cần đem thêm vào hoặc bớt đi một số lượng vận động thì
biến đổi được trạng thái của vật thể về chất, cho nên những điểm ấy, lượng đổi
thành chất”.
=> Ăngghen nhận xét, quy luật này đã toàn thắng rực rỡ trong hoá học nêu định
nghĩa “hoá học là khoa học của sự biến đổi về chất của vật thể sinh ra do sự thay đổi
về thành phần số lượng”.
Ví dụ chứng minh vấn đề lượng - chất của Ăngghen
Ăngghen lần lượt nêu dụ trong hoá học để chứng minh cho quy luật lượng chất
này: Chất khí làm cười (prôôxyt nitric N2O) khác với anhyđric nitơ (penôxyt nitric
N2O5) biết bao. Chất thứ nhất là một chất khí, chất thứ hai là một chất rắn. Đó là do
thành phần hoá học của chất thứ hai có chứa ô xy nhiều hơn năm lần chất thứ nhất.
Quy luật này còn thể hiện rõ trong các dãy đồng đẳng của các hợp chất cácbon, nhất
trong các chất hyđrô cácbon đơn giản nhất. Các chất được kết hợp lại với nhau
theo công thức CnH2n+2, cứ mỗi lần thêm CH2 thì lại tạo ra một chất mới khác với
chất trước.
Tiếp đó, Ăngghen lại chứng thực quy luật này hiện tượng các chất đồng phân.
Đồng phân hiện tượng nhiều chất cấu tạo giống nhau, nhưng khác nhau về
thuộc tính vật lý do sự sắp xếp các nguyên tử trong phân tử khác nhau, các nguyên
tử được sắp xếp trong phân tử một cách khác nhau thìảnh hưởng hoá học khác
nhau. Ăngghen cho rằng: “Những hợp chất đầu dãy đòi hỏi một sự sắp xếp duy nhất
của các nguyên tử với nhau. Nhưng nếu trong một dãy, số lượng nguyên tử kết hợp
thành phân tử là một số lượng nhất định, thì các nguyên tử trong phân tử có thể sắp
xếp theo nhiều cách thức; thế cho nên chúng ta thể thấy hai hoặc nhiều chất
đồng phân một số lượng C, H, O như nhau trong một phân tử, nhưng lại khác
nhau về chất lượng. Thậm chí chúng ta lại còn thể tách ra bao nhiêu chất đồng
phân đối với từng thành phần của dãy. Ví dụ, trong dãy paraphin, C4H10 có hai đồng
phân, C5H12 có ba, đối với các hợp chất cao cấp, số lượng các chất đồng phân tăng
lên rất nhanh. Thế là ở đây cũng vậy, số lượng nguyên tử trong phân tử quy định khả
năng tồn tại và, - trong chừng mực điều đó được thực nghiệm xác minh, - sự tồn tại
thực sự của những chất đồng phân khác nhau về chất”.
Các quy luật của phép biện chứng thường được nhắc đến luôn trong nhiều bài văn
chủ yếu, cũng như trong nhiều tài liệu khảo. Ăngghen nói rằng, ông không định
viết một tài liệu hướng dẫn về phép biện chứng chỉ muốn vạch ràng các quy
luật biện chứng những quy luật phát triển thực tế của tự nhiên, toàn bộ tác
phẩm Biện chứng của tự nhiên của Ăngghen chính là nhằm chứng minh điều đó.
Tất cả các phần trong quyển sách này đều viết với tinh thần phép biện chứng duy
vật. vậy, khó nói rằng trong phần “Phép biện chứng”, Ăngghen đã trình bày
xong về quy luật chuyển hoá lượng thành chất hay chưa. Chỉ có điều chắc chắn rằng
quy luật này được Ăngghen nói tới nhiều chỗ trong những phần sau. Đặc biệt cần
chú ý đến ý kiến của Ăngghen về sự chuyển hoá ngược lại từ chất thành lượng, điều
này trong các tài liệu giáo khoa đôi khi không được nêu lên. Ăngghen phê phán
thuyết máy móc nói rằng quan điểm máy móc giải thích mọi sự biến đổi bằng sự
thay đổi vị trí, giải thích tất cả mọi sự khác nhau về chất lượng bằng những sự khác
nhau về số lượng không thấy rằng quan hệ giữa số lượng chất lượng một
quan hệ qua lại, rằng chất lượng thể chuyển hoá thành số lượng cũng như số
lượng có thể chuyển hoá thành chất lượng là một quan hệ qua lại”.
Đặc điểm của những người siêu hình trước hết quy mọi sự khác nhau về chất
thành những sự khác nhau về lượng, quan niệm về phát triển nói chung, chỉ sự
tuần tự tăng lên hay giảm bớt một cách giản đơn, chỉ sự lắp lại cái cũ. Để phê
phán những nhà siêu hình, Ăngghen đã nhấn mạnh những sự thay đổi về lượng dẫn
đến chất đổi và ngược lại. Đó là nội dung chính của quy luật lượng - chất.
3. Khái quát nội dung lượng – chất
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại một thể thống nhất bao gồm phần chất phần
lượng. Trong đó phần chất phần tương đối ổn định còn phần lượng phần
thường xuyên có sự biến đổi.
Sự biến đổi này của lượng sẽ tạo nên sự mâu thuẫn giữa lượng và chất.
Trong một điều kiện nhất định đáp ứng được sự biến đổi về lượng, một sự vật, hiện
tượng sẽ có sự biến đổi về lượng, đến một mức độ nhất định, nó sẽ phá vỡ chất cũ.
Lúc này mâu thuẫn giữa lượng chất được giải quyết, chất mới được hình thành
với một lượng mới. Tuy nhiên bản chất của lượng vận động nên sẽ không
đứng yênsẽ tiếp tục vận động đến một thời điểm nào đó nó sẽ làm phá vỡ chất
hiện tại.
Quá trình vận động giữa hai mặt Lượng chất tác động với nhau qua hai mặt:
Chúng tạo nên sự vận động liên tục không dừng lại. Lượng sẽ biến đổi dần dần
tạo nên chất mới, hay nói cách khác, lượng biến đổi dần dần tạo nên bước
nhảy vọt. Sau đó chúng tiếp tục biến đổi dần và tạo nên bước nhảy vọt tiếp theo.
Nói một cách ngắn gọn thì nội dung quy luật lượng chất bất cứ một sự vật, hiện
tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
Biến đổi về lượng đến một mức nhất định sẽ dẫn đến biến đổi về chất, sản sinh chất
mới. Rồi trên nền tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về lượng. Biến đổi về lượng
nền tảng chuẩn bị tất yếu của biến đổi về chất. Biến đổi về chất kết quả tất
yếu của biến đổi về lượng. Quy luật biến đổi về chất và lượng cho thấy trạng thái và
quá trình phát triển của sự vật.
4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất
a. Ý nghĩa trong nhận thức
- Nhờ phương pháp luận lượng chất chung ta hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện
tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
- Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng Chất. Do đó khi nhận
thức, chúng ta cần nhận thức về cả hai mặt lượng chất để cái nhìn phong
phú hơn về những sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh chúng ta.
- Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác định giới
hạn độ, điểm nút, bước nhảy.
b. Ý nghĩa trong thực tiễn
- Muốn sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ
điểm nút);
- Cần tránh hai khuynh hướng sau:
Một là, nôn nóng tả khuynh: Đâyviệc mà một cá nhân không kiên trì và nỗ lực để
có sự thay đổi về lượng nhưng lại muốn có sự thay đổi về chất;
Hai là, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức điểm nút nhưng không
muốn thực hiện bước nhảy để có sự thay đổi về chất.
- Nếu không muốn sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm soát lượng trong
giới hạn độ.
- Bước nhảy một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy phải
được thực hiện một cách cẩn thận.
Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút thực hiện
bước nhảy một cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện hoàn cảnh cụ thể để
tránh được những hậu quả không đáng có như không đạt được sự thay đổi về chất,
dẫn đến việc phải thực hiện sự thay đổi về lượng lại từ đầu.
5. ứng dụng quy luật lượng chất trong quá trình học tập rèn luyện
của học sinh, sinh viên
học sinh, sinh viên, ai cũng phải trải qua quá trình học tập các bậc học phổ
thông, từ mẫu giáo đến cấp ba, kéo dài trong suốt 12 năm.
Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh đều được trang bị những kiến
thức cơ bản của các môn học thuộc hai lĩnh vực cơ bản, đó là: Khoa học tự nhiên và
khoa học hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh lại tự trang bị cho mình những năng,
những hiểu biết riêng về cuộc sống, về tự nhiên, xã hội. Ta thấy rõ rằng là:
- Quá trình tích lũy về lượng - tri thức của mỗi học sinh một quá trình dài, đòi hỏi
nỗ lực không chỉ từ phía gia đình, nhà trường còn chính từ sự nỗ lực khả
năng của bản thân người học.
- Quy luật lượng chất thể hiện chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình một khối
lượng kiến thức nhất định qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc giải bài tập
ở nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các kì học, trước hết là các kì thi
học kì và cuối cấp là kì thi tốt nghiệp.
Với việc tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua các kì thi
chuyển sang một giai đoạn học mới.
=> Như vậy, ta thể thấy: Trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thì quá
trình học tập tích lũy kiến thức chính là độ, các kì thi chính là điểm nút, việc vượt qua
các thi chính bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học sinh bước sang
giai đoạn mới, tứcsự thay đổi về chất. Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi
học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút khác
nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất lượng
mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó làthi đại học. Vượt quathi tốt nghiệp
cấp 3 đã một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được thi đại học lại còn
điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã sự
tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời phát triển mới
của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
2. Vận dụng trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên Đại
Học Văn hóa thể thao và du lịch Thanh Hóa
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có
ý nghĩa phương pháp luận với việc học tập rèn luyện của sinh viên trong
môi trường Đại Học văn hóa thể thao và du lich Thanh Hóa như sau:
*Sự khác nhau bản giữa việc học tập phổ thông Đại
Học
So với học ph thông thì khối lượng kiến thức cấp độ Đại học tăng lên
một cách đáng kể. Một ví dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn học sẽ
kéo dài trong một năm, thế khối lượng kiến thức được chia đều ra kiến học
sinh dễ dàng tiếp nhận hơn. Trong khi ở Đại học một môn chỉ kéo dài khoảng
8 đến 18 buổi học (từ 1 đến 2 tháng). ràng sự tăng lên đáng kể về số
lượng kiến thức sẽ khiến tân sinh viên gặp những khó khăn. Chính vì thế sinh
viên cần phải chủ động tìm hiểu và sãn sàng để thích nghi với sự thay đổi này.
Không chỉ khác biệt về khối lượng kiến thức, học đại học và phổ thông còn có
sự khác biệt về sự đa dạng kiến thức. Tiếp đến là các nhiệm vụ trong học tập,
nếu học phổ thông hoạt động chủ yếu là ở trên lớp còn học đại học còn đi kiến
tập, thực tập,...Đây là cơ hội cũng nhưng cũng là thách thức cho sinh viên..
đây sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ sự thay đổi về hình thức,
bởi vậy thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như
quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vậy người sinh viên cần
phải thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, phù hợp
với yêu cầu của ngành giáo dục đối với Đại học. Chỉ khio làm được như
vậy sinh viên mới hy vọng đạt được những thành tích rực rỡ trong quá rình
học tập và nghiên cứu của mình.
* Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến
ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện
bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng không nằm
ngoài điều đó. Để một tầm bằng Đại học chúng ta cần phải tích lũy đủ số
lượng các tín chỉ của các n học. Như vậy thể coi học tập quá trình
tích lũy về lượng điểm nút các kỳ thi, thi cử bước nhảy điểm số
xác định quá trình tích lũy kiến thức đã đủ dẫn tới sự chuyển hóa về chất hay
chưa. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết từng
bước tích lũy về lượng ( tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo
quy luật. Cần học tập đều đặn hạng ngày để chất được thấm sâu vào mỗi sinh
viên. Tránh gặp gấp rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, như vậy thiếu kinh nghiệm
nhận thức được trong quá trình học tập. Tránh tưởng chủ quan, nóng vội
trong học tập và trong hoạt động thực tiễn hàng ngày.
Hàng ngày mỗi tân sinh viên vẫn đến trường để học tập, tiếp thu những
kiến thức mới lượng kiến thức ngày một nhiều, nhưng chưa thể ra trường
để làm việc ngay được kiến thức mỗi sinh viên chưa tích lũy đầy đủ, chưa
đảm bảo để ta làm việc. Nhưng nếu qua 4 năm mỗi sinh viên học tập rèn
luyện chăm chỉ để tích lũy kiến thức, tích lũy kinh nghiệm qua thầy cô, qua
những lần đi thực tập...(lượng) tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, đảm
bảo về chuyên môn cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất
đã thay đổi và biến đổi sang chất mới.
* Sinh viên phải tự học tập rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm
túc, trung thực.
Trong thực tiễn đời sống của con người, muốn có sự thay đổi về chất, cần
sự tích lũy về lượng, sự tích lũy ấy do tự bản thân mỗi chúng ta phấn đấu,
đánh đổi bằng sức lao động mà có được, chứ không nhờ vào một sự giúp đỡ
nào khác. Để làm ý kiến trên, chúng ta cùng suy ngẫm về câu chuyện ngụ
ngôn sau: Một người nọ tìm thấy cái kén của con bướm. Anh ta nhận thấy
cái kén này bắt đầu được cắn rách, sâu bướm bắt đầu ra. Quan sát một
hồi lâu, anh thấy con sâu bướm cố hết lách thân mình qua lỗ hổng không
được. Động lòng thương, anh ta lấy kéo cắt vết rách của cái kén để sâu bướm
ta vượt ra ngoài đễ dàng. Khi sâu bướm ra khỏi kén, thì thân hình lớn ra
nhưng đôi cánh thì nhỏ lại. Người nọ cố chờ xem con bướm có thể phát triển
thêm ra không? Mong rằng đôi cánh kia có thể nở rộng thêm để đủ sức bay đi.
Than ôi! ích! Con bướm đã trọn đời tàn tật, lết với cái cánh nhỏ
không thể bay đi được”. Người nọ lòng thương hấp tấp làm hỏng cuộc
đời của con bướm. anh không biết luật của tạo hóa bắt buộc con sâu bướm
phải tự phấn đấu để vượt qua khỏi lỗ nhỏ của cái kén. Trong lúc phấn đấu đó,
huyết mạch sẽ được luân lưu từ thân mình cho đến đôi cánh sau khi vượt
ra khỏi cái kén, bướm ta mới có đủ sức vươn đôi cánh lớn ra mà bay bổng.
Hãy trở lại với việc học tập rèn luyện của sinh viên. Trong một kỳ
thi, nếu sinh viên gian lận để một kết quả tốt thì chẳng khác con sâu
bướm nhỏ tội nghiệp kia. Bằng gian lận, ta thể qua được kỳ thi, nhưng
về bản chất thì vẫn chưa được biến đổi nào về chất, khi học những kiến
thức sâu hơn, khó hơn chắc chắn ta sẽ không tiếp thu được, không đáp ứng
được yêu cầu công việc sau này và nếu ta giúp đỡ bạn bè theo theo cách của
anh chàng trong câu chuyện kia thì không khác gì chúng ta đang hại họ.
* Trong học tập nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh
nóng vội đốt cháy giai đoạn
Trong quá trình học tập rèn luyện của sinh viên cần tránh tưởng tả
khuynh, tức là, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước
nhảy . Sinh viên khi học đủ những kiến thức bản sự biến đổi về chất
mới có thể học tiếp những kiến thức sâu hơn, khó hơn. Học tập nghiên cứu từ
dễ đến khó là phương pháp học tập mang tính khoa học mà chúng ta đều biết
nhưng trong thực tế, không phải ai cũng thể thực hiện được. Nhiều sinh
viên trong quá trình đi học tập do không tập trung, còn mải vui chơi , dẫn
đến sự chậm chễ trong học tập, rồi nước tới chân mới nhảy” khi sắp thi họ
mới tập trung cao độ vào việc học. Giai đoạn ôn thi lúc ta củng cố lại kiến
thức chứ không phải học mới, do đó sinh viên học tập chăm chỉ trong thời
gian này không thể đảm bảo lượng kiến thức qua được kỳ thi. Ngược lại
nhiều sinh viên có ý thức học ngay từ đầu , nhưng họ lại nóng vội, muốn học
nhanh, nhiều để hơn người khác, chưa học bản đã đến nâng cao, “chưa
học bò đã lo học chạy”. Như vậy, muốn tiếp thu được tri thức ngày càng nhiều
và đạt được kết quả cao, thì mỗi sinh viên cần phải hàng ngày học tập, học từ
thấp đến cao, từ dễ đến khó để có sự biến đổi về chất.
*Liên tục phấn đấu học tập rèn luyện, tránh tưởng chủ
quan
Khi bước chân vào Đại học, có một bộ phận không nhỏ trong sinh viên tự mãn
với những đã đạt được, không tiếp tục nỗ lực phấn đấu vươn lên, sống
không tưởng, hoài bão. Nhưng bên canh đó một số sinh viên ý thức
rèn luyện và phấn đấu học tập để có trình độ tri thức cao nhất.
Xét theo quan điểm của triết học, chất thay đổi sẽ tác động trở lại lượng của
sự vật. Sự tác động đó được thể hiện: Chất mới có thể làm thay đổi kết cấu
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vật. Khi đã đỗ vào đại học, trở thành sinh
viên chúng ta được tiếp cận những tri thức cao hơn, sâu hơn. Nhiệm vụ của
mỗi sinh viên phải tiếp tục học hỏi, trau dồi thêm những kiến thức ( tích lũy
về lượng), trở thành những giáo viên, nhà quản lý văn hóa, họa sỹ...đóng góp
cho xã hội, tránh tinh thần thỏa mãn với những gì đã đạt được.
Trong quá trình học tập, sinh viên phải trải qua rất nhiều kỳ thi. Kết
quả tốt của các kỳ thi đánh dấu ta kết thúc một giai đoạn và là bước khởi đầu
cho ta sang một giai đoạn mới đòi hỏi chúng ta có một trình độ cao hơn, lượng
kiến thức nhiều hơn, chính vậy, mỗi sinh viên cần phải không ngừng học
tập phấn đấu để tiếp cận những tri thức mới trình độ cao hơn. giúp
chúng ta tránh được tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong học tập rèn luyện.
*Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên
Ngạn ngữ Trung quốc câu” Gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt
tính cách, gieo tính cách găp số phận” câu nói đó có ý nghĩa triết học của nó.
Đó quy luật lượng- chất trong triết học, ràng là, những thói quen
chúng ta đang được hình thành từ sự tích lũy của nhiều hành vi được lặp
đi lặp lại trong cuộc sống hàng ngày, nhiều thói như thế đến lượt lại
quyết định đến tính cách của chúng ta, số phận của mỗi con người phụ
thuộco tính cách của họ. Khi tích lũy hành vi (lượng) dần dần sẽ tạo nên
thói quen (chất), sinh viên cần rèn luyện cho mình tính chăm chỉ, tự chủ năng
động trong quá trình học tập, tích lũy tri thức giản đơn nhất từ những thói
quen hàng ngày. Trong cuộc sống cũng như trong quá trình học tập sinh viên
phải rèn luyện hàng ngày để hình thành những thói quen học tập, rèn luyện
tốt, như: phải biết tiết kiệm thời gian, làm việc nghiêm túc khoa học,....tích
lũy nhiều thói quen như vậy sẽ góp phần hình thành nên tính cách, giúp chúng
ta thành công trong học tập cũng như trong cuộc sống.
*Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân mỗi sinh viên.
Một tập thể bao gồm nhiều nhân. Mỗi cá nhân phẩm chất tốt (lượng)
sẽ góp phần tạo nên “chất” tốt cho tập thể đó. Một lớp học tập tốt, nếu trong
lớp nhiều nhân ý thức học tập tốt, luôn cố gắng để phấn đấu đạt
được thành tích cao. Một lớp đoàn kết nếu các nhân luôn sẵn sàng giúp
đỡ mọi người. Có thể nói uy tín, thành tích của một lớp phụ thuộc vào sự phấn
đấu nỗ lực của mỗi sinh viên.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
lượng và chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn
trong việc học tập và rèn luyện của sinh viên trường Đại học Văn hóa thể thao
và Du lich Thanh Hóa hiện nay. Lượng và chất là hai mặt thống nhất biện
chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất đinh mới
làm thay đổi về chất, do đó trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập của
sinh viên phải tích lũy dần về lượng và đồng thời phải biết thực hiện và thực
hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi để biến đổi về chất.
Những việc làm vĩ đại của con, bao giờ cũng tổng hợp những việc làm bình
thường, vì vậy mỗi sinh viên phải luôn tích cực học tập, chủ động trong công
việc học tập và rèn luyện của mình cả đức và tài, để trở thành một con người
phát triển toàn diện, tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội mà không chịu tích lũy
về kiến thức (lượng). Cũng như trong hoạt động của mình ông cha thường có
câu: “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”...đó sao.
| 1/9

Preview text:

2 quy luật lượng chất
. Mở đầu vấn đề
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chất là phạm trù triết học dùng
để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ những
thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác. Lượng là phạm trù triết
học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng và chất là hai mặt cơ bản của mọi sự vật hiện tượng. Trong bản thân sự vật
thì hai mặt này luôn tác động qua lại, ở nột mức độ nào đó, làm cho sự vật phát
triển. Khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng trong sự vật chưa đủ làm thay
đổi căn bản chất của sự vật được gọi là độ. Chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về
lượng đạt tới mức đủ để dẫn tới sự thay đổi về chất thì độ bị phá vỡ và sự vật phát
triển sang một giai đoạn mới, khác hẳn về chất.
Mọi sự vật trong thế giới vật chất đều vận động và phát triển không
ngừng. Việc tích lũy về lượng cũng chính là một trong những cách vận
động của sự vật. Vì thế, dù nhanh hay chậm, sớm hay muộn thì việc tích
lũy về lượng của sự vật cũng sẽ đến một giới hạn mà ở đó làm cho chất
của sự vật thay đổi về căn bản. Thời điểm mà ở đó sự thay đổi về lượng
đã đủ để làm thay đổi về chất của sự vật gọi là điểm nút. Chất của sự
vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy.
2. Phân tích của Ăngghen về quy luật lượng - chất
Về quy luật lượng - chất, Ăngghen nêu: “Trong giới tự nhiên, thì những sự biến đổi
về chất - xảy ra một cách xác định chặt chẽ đối với từng trường hợp cá biệt - chỉ có
thể có được do thêm vào hay bớt đi một số lượng vật chất hay vận động (hay là
năng lượng như người ta thường nói)”.
Ăngghen giải thích như sau: “Tất cả những sự khác nhau về chất trong giới tự nhiên
đều dựa hoặc là trên thành phần hoá học khác nhau, hoặc là trên những số lượng
hay hình thức vận động (năng lượng) khác nhau, hoặc như trong hầu hết mọi trường
hợp, đều dựa trên cả hai cái đó. Như thế là nếu không thêm vào hoặc bớt đi một số
vật chất hay vận động, nghĩa là nếu không thay đổi một vật thể về mặt số lượng, thì
không thể thay đổi được chất lượng của vật thể ấy. Dưới hình thức ấy, luận đề thần
bí của Hêghen không những đã trở nên hoàn toàn hợp lý mà thậm chí còn khá hiển nhiên nữa”.
Qua nhiều thí dụ về vật lý học và hoá học thời đó, Ăngghen vạch rõ khoa học tự
nhiên luôn luôn chứng thực những sự chuyển hoá lượng thành chất: “Trong vật lý
học, người ta coi các vật thể là những cái gì không biến hoá hoặc không khác biệt về
mặt hoá học; ở đây, chúng ta có những sự biến hoá của trạng thái phân tử của các
vật thể, và có sự biến đổi hình thái của vận động, sự biến đổi này, trong mọi trường
hợp - ít nhất là ở một trong hai mặt - đều làm cho các phân tử hoạt động. Ở đây mọi
sự biến hoá đều là sự đổi lượng thành chất, là kết quả của sự biến đổi về lượng của
số lượng vận động - vận động bất kỳ dưới hình thức nào - cố hữu của vật thể ấy
hoặc được truyền cho vật thể ấy”.
Ăngghen trích dẫn đoạn của Hêghen như sau: “Ví dụ như nhiệt độ của nước...
không có ảnh hưởng gì mấy đến trạng thái lỏng của nó; nhưng nếu người ta tăng
hoặc giảm nhiệt độ của chất nước lỏng, thì sẽ tới một điểm mà trạng thái kết hợp
của nó sẽ biến đổi và nước trong trường hợp này sẽ biến thành hơi, trong trường
hợp khác thành nước đá”.
Ăngghen nêu ra: “Ví dụ, cần phải có một cường độ dòng điện tối thiểu nhất định để
đốt sáng dây bạch kim của đèn điện; ví dụ, mỗi kim loại có độ cháy sáng và nóng
chảy của nó; ví dụ, mỗi chất lỏng có một điểm đông đặc và một điểm sôi nhất định ở
một áp lực nhất định - chỉ cần chúng ta dùng những phương tiện của chúng ta để tạo
ra những nhiệt độ tương đương; cuối cùng, ví dụ, mỗi chất khí cũng có một điểm tới
hạn ở điểm này áp suất và sự làm lạnh sẽ biến thể khí thành thể lỏng. Nói tóm lại,
những cái mà người ta gọi là hằng số vật lý học thì phần nhiều là chỉ những điểm
nút, ở những điểm ấy chỉ cần đem thêm vào hoặc bớt đi một số lượng vận động thì
biến đổi được trạng thái của vật thể về chất, cho nên ở những điểm ấy, lượng đổi thành chất”.
=> Ăngghen nhận xét, quy luật này đã toàn thắng rực rỡ trong hoá học và nêu định
nghĩa “hoá học là khoa học của sự biến đổi về chất của vật thể sinh ra do sự thay đổi
về thành phần số lượng”.
Ví dụ chứng minh vấn đề lượng - chất của Ăngghen
Ăngghen lần lượt nêu ví dụ trong hoá học để chứng minh cho quy luật lượng chất
này: Chất khí làm cười (prôôxyt nitric N2O) khác với anhyđric nitơ (penôxyt nitric
N2O5) biết bao. Chất thứ nhất là một chất khí, chất thứ hai là một chất rắn. Đó là do
thành phần hoá học của chất thứ hai có chứa ô xy nhiều hơn năm lần chất thứ nhất.
Quy luật này còn thể hiện rõ trong các dãy đồng đẳng của các hợp chất cácbon, nhất
là trong các chất hyđrô cácbon đơn giản nhất. Các chất được kết hợp lại với nhau
theo công thức CnH2n+2, cứ mỗi lần thêm CH2 thì lại tạo ra một chất mới khác với chất trước.
Tiếp đó, Ăngghen lại chứng thực quy luật này ở hiện tượng các chất đồng phân.
Đồng phân là hiện tượng nhiều chất có cấu tạo giống nhau, nhưng khác nhau về
thuộc tính vật lý do sự sắp xếp các nguyên tử trong phân tử khác nhau, các nguyên
tử được sắp xếp trong phân tử một cách khác nhau thì có ảnh hưởng hoá học khác
nhau. Ăngghen cho rằng: “Những hợp chất đầu dãy đòi hỏi một sự sắp xếp duy nhất
của các nguyên tử với nhau. Nhưng nếu trong một dãy, số lượng nguyên tử kết hợp
thành phân tử là một số lượng nhất định, thì các nguyên tử trong phân tử có thể sắp
xếp theo nhiều cách thức; vì thế cho nên chúng ta có thể thấy hai hoặc nhiều chất
đồng phân có một số lượng C, H, O như nhau trong một phân tử, nhưng lại khác
nhau về chất lượng. Thậm chí chúng ta lại còn có thể tách ra bao nhiêu chất đồng
phân đối với từng thành phần của dãy. Ví dụ, trong dãy paraphin, C4H10 có hai đồng
phân, C5H12 có ba, đối với các hợp chất cao cấp, số lượng các chất đồng phân tăng
lên rất nhanh. Thế là ở đây cũng vậy, số lượng nguyên tử trong phân tử quy định khả
năng tồn tại và, - trong chừng mực điều đó được thực nghiệm xác minh, - sự tồn tại
thực sự của những chất đồng phân khác nhau về chất”.
Các quy luật của phép biện chứng thường được nhắc đến luôn trong nhiều bài văn
chủ yếu, cũng như trong nhiều tài liệu sơ khảo. Ăngghen nói rằng, ông không định
viết một tài liệu hướng dẫn về phép biện chứng mà chỉ muốn vạch rõ ràng các quy
luật biện chứng là những quy luật phát triển thực tế của tự nhiên, và toàn bộ tác
phẩm Biện chứng của tự nhiên của Ăngghen chính là nhằm chứng minh điều đó.
Tất cả các phần trong quyển sách này đều viết với tinh thần phép biện chứng duy
vật. Vì vậy, khó mà nói rằng trong phần “Phép biện chứng”, Ăngghen đã trình bày
xong về quy luật chuyển hoá lượng thành chất hay chưa. Chỉ có điều chắc chắn rằng
quy luật này được Ăngghen nói tới nhiều chỗ trong những phần sau. Đặc biệt cần
chú ý đến ý kiến của Ăngghen về sự chuyển hoá ngược lại từ chất thành lượng, điều
này trong các tài liệu giáo khoa đôi khi không được nêu lên. Ăngghen phê phán
thuyết máy móc và nói rằng quan điểm máy móc giải thích mọi sự biến đổi bằng sự
thay đổi vị trí, giải thích tất cả mọi sự khác nhau về chất lượng bằng những sự khác
nhau về số lượng và không thấy rằng quan hệ giữa số lượng và chất lượng là một
quan hệ qua lại, rằng chất lượng có thể chuyển hoá thành số lượng cũng như số
lượng có thể chuyển hoá thành chất lượng là một quan hệ qua lại”.
Đặc điểm của những người siêu hình trước hết là quy mọi sự khác nhau về chất
thành những sự khác nhau về lượng, quan niệm về phát triển nói chung, chỉ là sự
tuần tự tăng lên hay giảm bớt một cách giản đơn, chỉ là sự lắp lại cái cũ. Để phê
phán những nhà siêu hình, Ăngghen đã nhấn mạnh những sự thay đổi về lượng dẫn
đến chất đổi và ngược lại. Đó là nội dung chính của quy luật lượng - chất.
3. Khái quát nội dung lượng – chất
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại ở một thể thống nhất bao gồm phần chất và phần
lượng. Trong đó phần chất là phần tương đối ổn định còn phần lượng là phần
thường xuyên có sự biến đổi.
Sự biến đổi này của lượng sẽ tạo nên sự mâu thuẫn giữa lượng và chất.
Trong một điều kiện nhất định đáp ứng được sự biến đổi về lượng, một sự vật, hiện
tượng sẽ có sự biến đổi về lượng, đến một mức độ nhất định, nó sẽ phá vỡ chất cũ.
Lúc này mâu thuẫn giữa lượng và chất được giải quyết, chất mới được hình thành
với một lượng mới. Tuy nhiên bản chất của lượng là vận động nên nó sẽ không
đứng yên mà sẽ tiếp tục vận động đến một thời điểm nào đó nó sẽ làm phá vỡ chất hiện tại.
Quá trình vận động giữa hai mặt Lượng và chất tác động với nhau qua hai mặt:
Chúng tạo nên sự vận động liên tục và không dừng lại. Lượng sẽ biến đổi dần dần
và tạo nên chất mới, hay nói cách khác, lượng biến đổi dần dần và tạo nên bước
nhảy vọt. Sau đó chúng tiếp tục biến đổi dần và tạo nên bước nhảy vọt tiếp theo.
Nói một cách ngắn gọn thì nội dung quy luật lượng chất là bất cứ một sự vật, hiện
tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
Biến đổi về lượng đến một mức nhất định sẽ dẫn đến biến đổi về chất, sản sinh chất
mới. Rồi trên nền tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về lượng. Biến đổi về lượng
là nền tảng và chuẩn bị tất yếu của biến đổi về chất. Biến đổi về chất là kết quả tất
yếu của biến đổi về lượng. Quy luật biến đổi về chất và lượng cho thấy trạng thái và
quá trình phát triển của sự vật.
4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất
a. Ý nghĩa trong nhận thức

- Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà chung ta hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện
tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
- Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng và Chất. Do đó khi nhận
thức, chúng ta cần nhận thức về cả hai mặt lượng và chất để có có cái nhìn phong
phú hơn về những sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh chúng ta.
- Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác định giới
hạn độ, điểm nút, bước nhảy.
b. Ý nghĩa trong thực tiễn
- Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ và điểm nút);
- Cần tránh hai khuynh hướng sau:
Một là, nôn nóng tả khuynh: Đây là việc mà một cá nhân không kiên trì và nỗ lực để
có sự thay đổi về lượng nhưng lại muốn có sự thay đổi về chất;
Hai là, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức điểm nút nhưng không
muốn thực hiện bước nhảy để có sự thay đổi về chất.
- Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm soát lượng trong giới hạn độ.
- Bước nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy phải
được thực hiện một cách cẩn thận.
Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và thực hiện
bước nhảy một cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để
tránh được những hậu quả không đáng có như không đạt được sự thay đổi về chất,
dẫn đến việc phải thực hiện sự thay đổi về lượng lại từ đầu.
5. ứng dụng quy luật lượng chất trong quá trình học tập và rèn luyện
của học sinh, sinh viên
Là học sinh, sinh viên, ai cũng phải trải qua quá trình học tập ở các bậc học phổ
thông, từ mẫu giáo đến cấp ba, kéo dài trong suốt 12 năm.
Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh đều được trang bị những kiến
thức cơ bản của các môn học thuộc hai lĩnh vực cơ bản, đó là: Khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh lại tự trang bị cho mình những kĩ năng,
những hiểu biết riêng về cuộc sống, về tự nhiên, xã hội. Ta thấy rõ rằng là:
- Quá trình tích lũy về lượng - tri thức của mỗi học sinh là một quá trình dài, đòi hỏi
nỗ lực không chỉ từ phía gia đình, nhà trường mà còn chính từ sự nỗ lực và khả
năng của bản thân người học.
- Quy luật lượng chất thể hiện ở chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình một khối
lượng kiến thức nhất định qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc giải bài tập
ở nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các kì học, trước hết là các kì thi
học kì và cuối cấp là kì thi tốt nghiệp.
Với việc tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua các kì thi và
chuyển sang một giai đoạn học mới.
=> Như vậy, ta có thể thấy: Trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thì quá
trình học tập tích lũy kiến thức chính là độ, các kì thi chính là điểm nút, việc vượt qua
các kì thi chính là bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học sinh bước sang
giai đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất. Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi
học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút khác
nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất và lượng
mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt nghiệp
cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn là
điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có sự
tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới
của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
2. Vận dụng trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên Đại
Học Văn hóa thể thao và du lịch Thanh Hóa
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có
ý nghĩa phương pháp luận với việc học tập và rèn luyện của sinh viên trong
môi trường Đại Học văn hóa thể thao và du lich Thanh Hóa như sau:
*Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học
So với học ở phổ thông thì khối lượng kiến thức ở cấp độ Đại học tăng lên
một cách đáng kể. Một ví dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn học sẽ
kéo dài trong một năm, vì thế khối lượng kiến thức được chia đều ra kiến học
sinh dễ dàng tiếp nhận hơn. Trong khi ở Đại học một môn chỉ kéo dài khoảng
8 đến 18 buổi học (từ 1 đến 2 tháng). Rõ ràng sự tăng lên đáng kể về số
lượng kiến thức sẽ khiến tân sinh viên gặp những khó khăn. Chính vì thế sinh
viên cần phải chủ động tìm hiểu và sãn sàng để thích nghi với sự thay đổi này.
Không chỉ khác biệt về khối lượng kiến thức, học đại học và phổ thông còn có
sự khác biệt về sự đa dạng kiến thức. Tiếp đến là các nhiệm vụ trong học tập,
nếu học phổ thông hoạt động chủ yếu là ở trên lớp còn học đại học còn đi kiến
tập, thực tập,...Đây là cơ hội cũng nhưng cũng là thách thức cho sinh viên.. Ở
đây là sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức,
bởi vậy có thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như
quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà người sinh viên cần
phải thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, phù hợp
với yêu cầu của ngành giáo dục đối với Đại học. Chỉ khi nào làm được như
vậy sinh viên mới hy vọng đạt được những thành tích rực rỡ trong quá rình
học tập và nghiên cứu của mình.
* Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến
ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện
bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng không nằm
ngoài điều đó. Để có một tầm bằng Đại học chúng ta cần phải tích lũy đủ số
lượng các tín chỉ của các môn học. Như vậy có thể coi học tập là quá trình
tích lũy về lượng mà điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy và điểm số
xác định quá trình tích lũy kiến thức đã đủ dẫn tới sự chuyển hóa về chất hay
chưa. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết từng
bước tích lũy về lượng ( tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo
quy luật. Cần học tập đều đặn hạng ngày để chất được thấm sâu vào mỗi sinh
viên. Tránh gặp gấp rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, như vậy là thiếu kinh nghiệm
nhận thức được trong quá trình học tập. Tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội
trong học tập và trong hoạt động thực tiễn hàng ngày.
Hàng ngày mỗi tân sinh viên vẫn đến trường để học tập, tiếp thu những
kiến thức mới và lượng kiến thức ngày một nhiều, nhưng chưa thể ra trường
để làm việc ngay được vì kiến thức mỗi sinh viên chưa tích lũy đầy đủ, chưa
đảm bảo để ta làm việc. Nhưng nếu qua 4 năm mỗi sinh viên học tập và rèn
luyện chăm chỉ để tích lũy kiến thức, tích lũy kinh nghiệm qua thầy cô, qua
những lần đi thực tập...(lượng) và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, đảm
bảo về chuyên môn cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất
đã thay đổi và biến đổi sang chất mới.
* Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực.
Trong thực tiễn đời sống của con người, muốn có sự thay đổi về chất, cần có
sự tích lũy về lượng, sự tích lũy ấy là do tự bản thân mỗi chúng ta phấn đấu,
đánh đổi bằng sức lao động mà có được, chứ không nhờ vào một sự giúp đỡ
nào khác. Để làm rõ ý kiến trên, chúng ta cùng suy ngẫm về câu chuyện ngụ
ngôn sau: “ Một người nọ tìm thấy cái kén của con bướm. Anh ta nhận thấy
cái kén này bắt đầu được cắn rách, sâu bướm bắt đầu bò ra. Quan sát một
hồi lâu, anh thấy con sâu bướm cố hết lách thân mình qua lỗ hổng mà không
được. Động lòng thương, anh ta lấy kéo cắt vết rách của cái kén để sâu bướm
ta vượt ra ngoài đễ dàng. Khi sâu bướm ra khỏi kén, thì thân hình lớn ra
nhưng đôi cánh thì nhỏ lại. Người nọ cố chờ xem con bướm có thể phát triển
thêm ra không? Mong rằng đôi cánh kia có thể nở rộng thêm để đủ sức bay đi.
Than ôi! Vô ích! Con bướm đã trọn đời tàn tật, lê lết với cái cánh nhỏ bé
không thể bay đi được”. Người nọ vì lòng thương mà hấp tấp làm hỏng cuộc
đời của con bướm. anh không biết luật của tạo hóa bắt buộc con sâu bướm
phải tự phấn đấu để vượt qua khỏi lỗ nhỏ của cái kén. Trong lúc phấn đấu đó,
huyết mạch sẽ được luân lưu từ thân mình cho đến đôi cánh và sau khi vượt
ra khỏi cái kén, bướm ta mới có đủ sức vươn đôi cánh lớn ra mà bay bổng.
Hãy trở lại với việc học tập và rèn luyện của sinh viên. Trong một kỳ
thi, nếu có sinh viên gian lận để một kết quả tốt thì chẳng khác gì con sâu
bướm bé nhỏ tội nghiệp kia. Bằng gian lận, ta có thể qua được kỳ thi, nhưng
về bản chất thì vẫn chưa có được biến đổi nào về chất, khi học những kiến
thức sâu hơn, khó hơn chắc chắn ta sẽ không tiếp thu được, không đáp ứng
được yêu cầu công việc sau này và nếu ta giúp đỡ bạn bè theo theo cách của
anh chàng trong câu chuyện kia thì không khác gì chúng ta đang hại họ.
* Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh
nóng vội đốt cháy giai đoạn
Trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên cần tránh tư tưởng tả
khuynh, tức là, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước
nhảy . Sinh viên khi học đủ những kiến thức cơ bản có sự biến đổi về chất
mới có thể học tiếp những kiến thức sâu hơn, khó hơn. Học tập nghiên cứu từ
dễ đến khó là phương pháp học tập mang tính khoa học mà chúng ta đều biết
nhưng trong thực tế, không phải ai cũng có thể thực hiện được. Nhiều sinh
viên trong quá trình đi học tập do không tập trung, còn mải mê vui chơi , dẫn
đến sự chậm chễ trong học tập, rồi “ nước tới chân mới nhảy” khi sắp thi họ
mới tập trung cao độ vào việc học. Giai đoạn ôn thi là lúc ta củng cố lại kiến
thức chứ không phải học mới, do đó sinh viên học tập chăm chỉ trong thời
gian này không thể đảm bảo lượng kiến thức qua được kỳ thi. Ngược lại có
nhiều sinh viên có ý thức học ngay từ đầu , nhưng họ lại nóng vội, muốn học
nhanh, nhiều để hơn người khác, chưa học cơ bản đã đến nâng cao, “chưa
học bò đã lo học chạy”. Như vậy, muốn tiếp thu được tri thức ngày càng nhiều
và đạt được kết quả cao, thì mỗi sinh viên cần phải hàng ngày học tập, học từ
thấp đến cao, từ dễ đến khó để có sự biến đổi về chất.
*Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan
Khi bước chân vào Đại học, có một bộ phận không nhỏ trong sinh viên tự mãn
với những gì đã đạt được, không tiếp tục nỗ lực và phấn đấu vươn lên, sống
không có lý tưởng, hoài bão. Nhưng bên canh đó một số sinh viên có ý thức
rèn luyện và phấn đấu học tập để có trình độ tri thức cao nhất.
Xét theo quan điểm của triết học, chất thay đổi sẽ tác động trở lại lượng của
sự vật. Sự tác động đó được thể hiện: Chất mới có thể làm thay đổi kết cấu
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vật. Khi đã đỗ vào đại học, trở thành sinh
viên chúng ta được tiếp cận những tri thức cao hơn, sâu hơn. Nhiệm vụ của
mỗi sinh viên là phải tiếp tục học hỏi, trau dồi thêm những kiến thức ( tích lũy
về lượng), trở thành những giáo viên, nhà quản lý văn hóa, họa sỹ...đóng góp
cho xã hội, tránh tinh thần thỏa mãn với những gì đã đạt được.
Trong quá trình học tập, sinh viên phải trải qua rất nhiều kỳ thi. Kết
quả tốt của các kỳ thi đánh dấu ta kết thúc một giai đoạn và là bước khởi đầu
cho ta sang một giai đoạn mới đòi hỏi chúng ta có một trình độ cao hơn, lượng
kiến thức nhiều hơn, chính vì vậy, mỗi sinh viên cần phải không ngừng học
tập phấn đấu để tiếp cận những tri thức mới ở trình độ cao hơn. Nó giúp
chúng ta tránh được tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong học tập rèn luyện.
*Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên
Ngạn ngữ Trung quốc có câu” Gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt
tính cách, gieo tính cách găp số phận” câu nói đó có ý nghĩa triết học của nó.
Đó là quy luật lượng- chất trong triết học, rõ ràng là, những thói quen mà
chúng ta đang có được hình thành từ sự tích lũy của nhiều hành vi được lặp
đi lặp lại trong cuộc sống hàng ngày, nhiều thói hư như thế đến lượt nó lại
quyết định đến tính cách của chúng ta, và số phận của mỗi con người phụ
thuộc vào tính cách của họ. Khi tích lũy hành vi (lượng) dần dần sẽ tạo nên
thói quen (chất), sinh viên cần rèn luyện cho mình tính chăm chỉ, tự chủ năng
động trong quá trình học tập, tích lũy tri thức giản đơn nhất từ những thói
quen hàng ngày. Trong cuộc sống cũng như trong quá trình học tập sinh viên
phải rèn luyện hàng ngày để hình thành những thói quen học tập, rèn luyện
tốt, như: phải biết tiết kiệm thời gian, làm việc nghiêm túc và khoa học,....tích
lũy nhiều thói quen như vậy sẽ góp phần hình thành nên tính cách, giúp chúng
ta thành công trong học tập cũng như trong cuộc sống.
*Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân mỗi sinh viên.
Một tập thể bao gồm nhiều cá nhân. Mỗi cá nhân có phẩm chất tốt (lượng)
sẽ góp phần tạo nên “chất” tốt cho tập thể đó. Một lớp học tập tốt, nếu trong
lớp có nhiều cá nhân có ý thức học tập tốt, luôn cố gắng để phấn đấu đạt
được thành tích cao. Một lớp đoàn kết nếu các cá nhân luôn sẵn sàng giúp
đỡ mọi người. Có thể nói uy tín, thành tích của một lớp phụ thuộc vào sự phấn
đấu nỗ lực của mỗi sinh viên.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
lượng và chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn
trong việc học tập và rèn luyện của sinh viên trường Đại học Văn hóa thể thao
và Du lich Thanh Hóa hiện nay. Lượng và chất là hai mặt thống nhất biện
chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất đinh mới
làm thay đổi về chất, do đó trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập của
sinh viên phải tích lũy dần về lượng và đồng thời phải biết thực hiện và thực
hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi để biến đổi về chất.
Những việc làm vĩ đại của con, bao giờ cũng tổng hợp những việc làm bình
thường, vì vậy mỗi sinh viên phải luôn tích cực học tập, chủ động trong công
việc học tập và rèn luyện của mình cả đức và tài, để trở thành một con người
phát triển toàn diện, tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội mà không chịu tích lũy
về kiến thức (lượng). Cũng như trong hoạt động của mình ông cha thường có
câu: “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”...đó sao.