Chủ đề: Giá trị lý luận và thực tiễn quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền hiện nay | Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Bách Khoa Hà Nội

Chủ đề: Giá trị lý luận và thực tiễn quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền hiện nay | Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

Chủ đề: Giá trị lý luận và thực tiễn quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
Cộng sản Việt Nam cầm quyền hiện nay
I. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Theo quan niệm chung, “đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học
chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh
đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai
cấp mình.
Đảng cầm quyền cũng là thuật ngữ dùng để chỉ các đảng cộng sản ở những
nước có duy nhất một đảng cầm quyền, đang nắm chính quyền để lãnh đạo cách
mạng ở các nước đó như: Đảng Cộng sản Trung Quốc (dù nhiều đảng nhưng thực
chất là một đảng cầm quyền), Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào...
Ở Việt Nam, từ trước năm 1988, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
chính quyền, còn có hai đảng tham chính: Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội
Việt Nam. Hai đảng này đều do Đảng Cộng sản Việt Nam đứng ra vận động thành
lập, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không phải là đảng
đối lập. Năm 1988, hai đảng tuyên bố tự giải thể sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của mình, trên chính trường Việt Nam chỉ còn lại duy nhất một đảng là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Trong văn bản chính trị và pháp lý ở Việt Nam, thuật ngữ được sử dụng phổ
biến, chính thức là Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Khái niệm “đảng
cầm quyền” được dùng như “đảng lãnh đạo” và vì vậy, “nội dung và phương thức
cầm quyền của Đảng” cũng được dùng như là nội dung và phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Khái niệm “đảng cầm quyền” không loại trừ
nội dung “Đảng lãnh đạo chính quyền” mà bao hàm trong đó. Không lãnh đạo
chính quyền thì Đảng không cầm quyền được. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
II. Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng chính trị ra đời năm 1930, do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập và rdn luyện. “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc”. “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập,
dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành
đảng cầm quyền thực hiện sự lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam.
2. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội
Khoản 2, Điều 4, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm
của Đảng đối với nhân dân: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân
dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân
dân về những quyết định của mình”. Bằng quy định này, bản chất tiên phong, trách
nhiệm chính trị - pháp lý của Đảng đối với nhân dân đã được xác định rõ nét hơn.
Với tư cách là đảng duy nhất cầm quyền, Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân về
vận mệnh của dân tộc và sự phát triển của đất nước.
Nội dung cầm quyền của Đảng là toàn bộ hoạt động của đảng cầm quyền,
bao gồm: việc xác định mục tiêu chính trị của Đảng và dân tộc, đường lối phát
triển đất nước, nội dung thực hiện mục tiêu chính trị và bao quát toàn diện các lĩnh
vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh
đất nước. Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở nội dung và phương thức lãnh đạo
của Đảng.
Nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong cương lĩnh chính trị, đường
lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm tính định hướng chính trị cho sự phát triển đất
nước, tạo lập cơ sở chính trị cho tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính
trị và toàn bộ xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Trong hệ thống chính trị nước ta, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội được thể hiện trên các phương thức cơ bản sau đây:
- Một là, Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn, định hướng cho sự
phát triển của toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực trong từng thời kỳ nhất
định.
- Hai là, Đảng đề ra phương hướng và những nguyên tắc cơ bản nhằm xây
dựng một Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, một Nhà nước có bộ
máy chính quy, quy chế làm việc khoa học với đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức có năng lực tổ chức và quản lý, hết lòng vì nhân dân.
- Ba là, Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong
các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân,
nhất là người đứng đầu.
- Bốn là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ;
phát hiện, bồi dưỡng, lựa chọn những đảng viên ưu tú và những người ngoài
Đảng có phẩm chất và năng lực giới thiệu với cơ quan nhà nước để thông
qua cơ chế bầu cử, tuyển chọn của Nhà nước, bố trí vào công tác trong các
cơ quan nhà nước.
- Năm là, Đảng giáo dục đảng viên nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu;
tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng, giáo dục, động viên các tầng
lớp nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, ủng hộ và tích cực
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là
bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân... chịu sự giám
sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Sáu là, Đảng kiểm tra đảng viên và các tổ chức của Đảng trong các cơ quan,
tổ chức nhà nước về việc chấp hành và tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương, các nghị quyết của Đảng
Đại hội XIII của Đảng năm 2021 đã khẳng định những kết quả quan trọng về
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng: Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các tổ
chức trong hệ thống chính trị tiếp tục được tăng cường, nhất là với Nhà nước trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân; đồng thời, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
và quyền làm chủ của nhân dân
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng và sự vận dụng của Đảng ta
Khi bàn về tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, đã nhiều bài
viết, bài nói rất sâu sắc về vấn đề này, song tựu trung lại nổi lên một số luận điểm
bản chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng, làm sáng tỏ trong điều kiện mới. Trên
sở nhận thức, quán triệt vận dụng sáng tạo luận điểm của Mác, Ăngghen,
Lênin: “Cách mạng vô sản chỉthể giành thắng lợi khi Đảng Cộng sản, chính
đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo”, Lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định: cách
mạng Việt Nam “trước hết phải đảng cách mệnh, để trong thì vận động tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi
nơi. Đảng vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái vững
thuyền mới chạy” . Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai cấp công nhân
1
Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân, vừa mang bản chất giai cấp công
nhân, vừa có tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; có khả năng đoàn kết, tập hợp, lôi
kéo mọi tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh làm cách mạng - nhân tố hàng đầu
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng muốn tồn tại, phát triển, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
tiến lên thì trước hết “phải chủ nghĩa làm cốt”, bởi “Không luận cách
mạng, thì không phong trào hành động cách mạng” trong Đảng ai ai cũng
phải hiểu, nắm vững tinh thần đó làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn. Lấy chủ nghĩa
“làm cốt”, theo Hồ Chí Minh đó sở nền tảng tưởng, luận của Đảng để
Đảng định ra cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược mục tiêu cần đạt tới
của cách mạng, đảm bảo cho sự đoàn kết, thống nhất về tưởng hành động
trong Đảng. Người chỉ rõ: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất chủ nghĩa Lênin” , nên
2
“Phải theo chủ nghĩa Khắc Lênin” . Nhờ đó, làm cho Đảng thể trở
3
thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ,
danh dự lương tâm của dân tộc. Tuy nhiên, “Chủ nghĩa Mác - Lênin kim chỉ
nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh” , cho nên cần “Học tập cái tinh
4
thần xử trí mọi việc, đối với mọi người, đối với bản thân mình; học tập cái
chân phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm” .
5
Khi bàn đến tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, không thể không
nhắc đến quan điểm xây dựng Đảng theo những nguyên tắc bản về Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân. Theo Người, để Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự
một tổ chức chặt chẽ, thống nhất mạnh mẽ của những người cộng sản, một
Đảng Mác - Lênin chân chính thì Đảng phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập
trung dân chủ. Nghĩa là, trong hoạt động, Đảng phải “Có đảng chương thống nhất,
kỷ luật thống nhất,quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể,
số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải
phục tùng Trung ương” . Tất cả mọi đảng viên phải chấp hành điều kiện nghị
6
quyết của Đảng; khi chưa nghị quyết thì “tha hồ bàn cãi”, nhưng khi quyết
định rồi thì không được bàn cãi nữa, bàn cãi cũng chỉ bàn cách thi hành cho
được, cho nhanh, chứ không phải là đề nghị không thực hiện.
Để làm được điều đó, Người yêu cầu: “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả
đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình” ; bởi, tập trung và dân chủ là hai vế của một
7
nguyên tắc quan hệ biện chứng, không tách rời, không đối lập. “Tập trung trên
nền tảng dân chủ. Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung” . Cùng với nguyên tắc tổ
8
chức, Hồ Chí Minh coi “tập thể lãnh đạo, nhân phụ trách” nguyên tắc lãnh
đạo của Đảng; “Tập thể lãnh đạo dân chủ, cá nhân phụ tráchtập trung” . Đẩy
9
mạnh tự phê bình phê bình, coi đây nguyên tắc sinh hoạt, quy luật phát triển
của Đảng, nên phải thái độ phương pháp hợp lý: Thành khẩn, trung thực,
kiên quyết, có văn hoá, phê bình việc chứ không phê bình người. Đảng phải kỷ
luật tự giác, nghiêm minh để đảm bảo “tư tưởng nhất trí và hành động thống nhất”;
tăng cường đoàn kết, thống nhất, coi đó sức mạnh của Đảng, nhân tố bảo đảm
thắng lợi của cách mạng. Trong quan hệ với quần chúng nhân dân, Đảng vừa
người lãnh đạo, vừa người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đảng phải thuyết
phục, thu phục, chinh phục được quần chúng nhân dân; trí tuệ, danh dự, lương
tâm của dân tộc, đạo đức, văn minh của toàn xã hội.
Chỉnh đốn, đổi mới Đảng tưởng nhất quán xuyên suốt trong quá trình xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh. Người coi đây một tất yếu
khách quan, một công việc bản, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng.
Đặc biệt, trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên
của Đảng gắn với chức quyền rất dễ “đánh mất mình”, “ngày hôm qua” thể
những con người “vĩ đại” được quần chúng ca ngợi, tin yêu, kính trọng nhưng
“ngày hôm nay” có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm
vào tham ô, lãng phí, quan liêu, v.v. Do đó, việc chỉnh đốn, đổi mới Đảng khôi
phục đạo đức cách mạng, giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho cán bộ,
đảng viên, khôi phục uy tín chính trị của Đảng đối với nhân dân. Chỉnh đốn Đảng
nhiệm vụ bản, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng, song Hồ Chí
Minh cũng lưu ý: vào thời điểm khi cách mạng gặp khó khăn cần phải bình tĩnh,
sáng suốt để Đảng, đảng viên không rơi vào bi quan, dao động, rụt rd, lùi bước; khi
cách mạng trên đà thắng lợi phải chỉnh đốn, đổi mới để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo,
thoả mãn, chủ quan; khi cách mạng chuyển giai đoạn, cũng phải chỉnh đốn, đổi
mới để Đảng đủ sức lãnh đạo trước sự phát triển của thực tiễn, v.v.
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi kim chỉ nam cho
Đảng ta xác định phương hướng xây dựng Đảng qua các kỳ đại hội, đặc biệt là Đại
hội XIII sắp tới. Vận dụng tưởng của Người trong tình hình hiện nay, Đảng ta
xác định phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tưởng, tổ chức đạo
đức; gắn xây dựng với chỉnh đốn Đảng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, xây dựng Đảng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.
Trước hết, Bản lĩnh chính trị củanâng cao bản lĩnh chính trị trí tuệ của Đảng.
Đảng thể hiện việc kiên định vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội vào thực tiễn
lãnh đạo cách mạng của Đảng. Do đó, cần phải thường xuyên bồi dưỡng cho cán
bộ, đảng viên luận Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương
của Đảng, truyền thống dân tộc và kiến thức mới của thời đại; kiên định đường lối
đổi mới những nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng; giữ vững bản chất
giai cấp công nhân; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên,
trước hếtcán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Thực hành dân chủ gắn với
tăng cường kỷ cương; phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng
viên, nhất người đứng đầu. Trí tuệ, sự sáng suốt trong lãnh đạo của Đảng thể
hiện việc vạch ra đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển kinh tế - hội
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm và điều kiện của nước ta; nâng cao năng
lực dự báo, ứng phó với các thách thức, biến động của tình hình. Kiên quyết đấu
tranh hiệu quả với những biểu hiện hội, giáo điều, bảo thủ, suy thoái, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, v.v.
Hai , Trong đó, tập trung đổi mới mạnhcoi trọng xây dựng Đảng về tưởng.
mẽ nội dung, phương thức công tác tưởng, bảo đảm tính đảng, tính khoa học,
tính chiến đấu, tính thực tiễn; nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục,
học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương
trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị; kết hợp chặt chẽ giáo dục, học tập
luận với rdn luyện, thử thách trong thực tiễn, góp phần nâng cao nhận thức, hành
động trong Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Thường xuyên làm tốt công tác dự báo,
nắm chắc tình hình tưởng, không để bị động, bất ngờ; tăng cường bảo vệ nền
tảng tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch; chủ động phòng, chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu độc trên Internet,
mạng xã hội. Tăng cường quản lý, định hướng hoạt động các cơ quan báo chí; xây
dựng đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm
chất đạo đức trong sáng, tinh thông nghề nghiệp; phát huy vai trò của văn học,
nghệ thuật trên lĩnh vực tư tưởng. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận, nhất là những vấn đề khó, phức tạp nảy sinh từ thực tiễn.
Ba là, Theo đó, phải kiên quyết, kiên trì thựctập trung xây dựng Đảng về đạo đức.
hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn
với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập
làm theo tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; ngăn chặn, đẩy lùi suy
thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực những hành vi bao che, dung túng, tiếp tay cho
những tệ nạn đó. Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho cán bộ, đảng
viên thấy bổn phận, trách nhiệm của mình, không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền
tài, danh vọng, tránh xa chủ nghĩa nhân, lợi ích nhóm, tham vọng quyền lực;
nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên. Thực hiện nghiêm tự phê bình
phê bình; coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ. Thực
hiện tốt quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các cấp, cán bộ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu; nêu gương phải
trở thành một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Cùng với
đó, cần giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước; kịp
thời biểu dương những tấm gương về đạo đức, lối sống; đấu tranh với những biểu
hiện lệch lạc, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống.
Bốn là, xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng thực sự là nền tảng và hạt nhân
chính trị ở cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng có vị trí vai trò hết sức quan trọng, là cầu nối
Đảng với quần chúng, nơi trực tiếp tổ chức, hướng dẫn cho quần chúng thực hiện
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do vậy,
cần khảo sát, đánh giá thực trạng từng tổ chức cơ sở đảng để có biện pháp đổi mới,
chỉnh đốn cho phù hợp, bảo đảm mỗi loại hình sở hoạt động theo đúng chức
năng, nhiệm vụ tương thích với tổ chức bộ máy hệ thống chính trị; tăng cường
chấn chỉnh, củng cố các sở yếu kém; nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách và các nguyên tắc của Đảng phải được quán triệt, thực hiện
nghiêm túc. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ sở, bố trí đúng đội
ngũ cán bộ chủ chốt, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, kỹ năng, nghiệp vụ
công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy. Phát huy vai trò
của tổ chức sở đảng trong quy tụ sức mạnh, lãnh đạo đơn vị hoàn thành nhiệm
vụ chính trị; làm tốt công tác quản lý, giáo dục, rdn luyện, kết nạp đảng viên
thường xuyên soát, sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủcách ra khỏi
Đảng.
Năm , tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất cấp chiến lược
người đứng đầu vững mạnh. Chất lượng cán bộ ảnh hưởng trực tiếp tới bản chất
giai cấp, vai trò, hiệu quả lãnh đạo uy tín của Đảng. Bởi vậy, cần tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất cấp chiến lược người đứng đầu đầy đủ
phẩm chất, năng lực uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên
tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh phân
cấp, phân quyền gắn với kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ. Việc
xây dựng đội ngũ cán bộ phải quán triệt tinh thần chỉ đạo của Tổng thư, Chủ
tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “đừng nhìn hoá cuốc”, “đừng thấy đỏ tưởng
chín”, đừng chỉ thấy “cái bên ngoài, che đậy cái sài bên trong”. thế,
cần đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá cán bộ; không để lọt những người hội
chính trị, tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm, vào đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản các cấp; đồng thời, không để sót những cán bộ thực
sự có đức, có tài. Tăng cường bồi dưỡng, giáo dục, rdn luyện nâng cao trình độ mọi
mặt cho cán bộ; phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, đúng người, đúng việc đưa
cán bộ, đảng viên vào hoạt động thực tiễn để rdn luyện.
Sáu , đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới; tăng cường
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Việc đổi mới phải theo hướng nâng
cao năng lực dự báo, tầm chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương; khắc
phục tình trạng ban hành nghị quyết không sát thực tiễn, thiếu tính khả thi. Tiếp tục
thể chế hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Với Nhà nước, Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện làm
thay mà phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản
đất nước. Với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, cần chú ý xác định mục
tiêu, phương hướng và nội dung hoạt động từng thời kỳ; phát huy tinh thần tự chủ,
sáng tạo của Mặt trận các đoàn thể nhân dân trong tổ chức hoạt động. Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới phong cách hoạt động, lề lối
làm việc dân chủ, thiết thực, nói làm thống nhất, khắc phục bệnh quan liêu, tùy
tiện, chủ quan, hình thức.
Xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân là một trong những mối
quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng. Bởi
theo Người: Cách mạng sự nghiệp của quần chúng, thắng lợi của cách mạng
sự phấn đấu hy sinh và trí thông minh sáng tạo của hàng triệu nhân dân. Vì vậy, sự
gắn với quần chúng, trước hết, người đảng viên phải tin vào khả năng lực
lượng của nhân dân. Nêu cao tinh thần phục vụ, trách nhiệm trước quần chúng,
chăm lo đến lợi ích đời sống của người dân. Phải hoà mình với quần chúng
thành một khối, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, gương mẫu
trước quần chúng từ lời nói đến việc làm, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Thông qua phong trào cách mạng của quần chúng rdn luyện sàng lọc đội
ngũ cán bộ, đảng viên
| 1/9

Preview text:

Chủ đề: Giá trị lý luận và thực tiễn quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
Cộng sản Việt Nam cầm quyền hiện nay

I. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Theo quan niệm chung, “đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học
chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh
đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình.
Đảng cầm quyền cũng là thuật ngữ dùng để chỉ các đảng cộng sản ở những
nước có duy nhất một đảng cầm quyền, đang nắm chính quyền để lãnh đạo cách
mạng ở các nước đó như: Đảng Cộng sản Trung Quốc (dù nhiều đảng nhưng thực
chất là một đảng cầm quyền), Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào...
Ở Việt Nam, từ trước năm 1988, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
chính quyền, còn có hai đảng tham chính: Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội
Việt Nam. Hai đảng này đều do Đảng Cộng sản Việt Nam đứng ra vận động thành
lập, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không phải là đảng
đối lập. Năm 1988, hai đảng tuyên bố tự giải thể sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của mình, trên chính trường Việt Nam chỉ còn lại duy nhất một đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong văn bản chính trị và pháp lý ở Việt Nam, thuật ngữ được sử dụng phổ
biến, chính thức là Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Khái niệm “đảng
cầm quyền” được dùng như “đảng lãnh đạo” và vì vậy, “nội dung và phương thức
cầm quyền của Đảng” cũng được dùng như là nội dung và phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Khái niệm “đảng cầm quyền” không loại trừ
nội dung “Đảng lãnh đạo chính quyền” mà bao hàm trong đó. Không lãnh đạo
chính quyền thì Đảng không cầm quyền được. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
II. Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng chính trị ra đời năm 1930, do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập và rdn luyện. “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc”. “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập,
dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành
đảng cầm quyền thực hiện sự lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam.
2. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội
Khoản 2, Điều 4, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm
của Đảng đối với nhân dân: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân
dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân
dân về những quyết định của mình”. Bằng quy định này, bản chất tiên phong, trách
nhiệm chính trị - pháp lý của Đảng đối với nhân dân đã được xác định rõ nét hơn.
Với tư cách là đảng duy nhất cầm quyền, Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân về
vận mệnh của dân tộc và sự phát triển của đất nước.
Nội dung cầm quyền của Đảng là toàn bộ hoạt động của đảng cầm quyền,
bao gồm: việc xác định mục tiêu chính trị của Đảng và dân tộc, đường lối phát
triển đất nước, nội dung thực hiện mục tiêu chính trị và bao quát toàn diện các lĩnh
vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh
đất nước. Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng.
Nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong cương lĩnh chính trị, đường
lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm tính định hướng chính trị cho sự phát triển đất
nước, tạo lập cơ sở chính trị cho tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính
trị và toàn bộ xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong hệ thống chính trị nước ta, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội được thể hiện trên các phương thức cơ bản sau đây:
- Một là, Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn, định hướng cho sự
phát triển của toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực trong từng thời kỳ nhất định.
- Hai là, Đảng đề ra phương hướng và những nguyên tắc cơ bản nhằm xây
dựng một Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, một Nhà nước có bộ
máy chính quy, quy chế làm việc khoa học với đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức có năng lực tổ chức và quản lý, hết lòng vì nhân dân.
- Ba là, Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong
các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân,
nhất là người đứng đầu.
- Bốn là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ;
phát hiện, bồi dưỡng, lựa chọn những đảng viên ưu tú và những người ngoài
Đảng có phẩm chất và năng lực giới thiệu với cơ quan nhà nước để thông
qua cơ chế bầu cử, tuyển chọn của Nhà nước, bố trí vào công tác trong các cơ quan nhà nước.
- Năm là, Đảng giáo dục đảng viên nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu;
tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng, giáo dục, động viên các tầng
lớp nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, ủng hộ và tích cực
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là
bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân... chịu sự giám
sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Sáu là, Đảng kiểm tra đảng viên và các tổ chức của Đảng trong các cơ quan,
tổ chức nhà nước về việc chấp hành và tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương, các nghị quyết của Đảng
Đại hội XIII của Đảng năm 2021 đã khẳng định những kết quả quan trọng về
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng: Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các tổ
chức trong hệ thống chính trị tiếp tục được tăng cường, nhất là với Nhà nước trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân; đồng thời, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
và quyền làm chủ của nhân dân
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng và sự vận dụng của Đảng ta
Khi bàn về tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, đã có nhiều bài
viết, bài nói rất sâu sắc về vấn đề này, song tựu trung lại nổi lên một số luận điểm
cơ bản chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng, làm sáng tỏ trong điều kiện mới. Trên
cơ sở nhận thức, quán triệt và vận dụng sáng tạo luận điểm của Mác, Ăngghen,
Lênin: “Cách mạng vô sản chỉ có thể giành thắng lợi khi có Đảng Cộng sản, chính
đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo”, Lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định: cách
mạng Việt Nam “trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi
nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy”1. Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai cấp công nhân
Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân, vừa mang bản chất giai cấp công
nhân, vừa có tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; có khả năng đoàn kết, tập hợp, lôi
kéo mọi tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh làm cách mạng - nhân tố hàng đầu
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng muốn tồn tại, phát triển, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
tiến lên thì trước hết “phải có chủ nghĩa làm cốt”, bởi “Không có lý luận cách
mạng, thì không có phong trào hành động cách mạng” và trong Đảng ai ai cũng
phải hiểu, nắm vững tinh thần đó làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn. Lấy chủ nghĩa
“làm cốt”, theo Hồ Chí Minh đó là cơ sở nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng để
Đảng định ra cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược và mục tiêu cần đạt tới
của cách mạng, đảm bảo cho sự đoàn kết, thống nhất về tư tưởng và hành động
trong Đảng. Người chỉ rõ: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”2, nên
“Phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”3. Nhờ đó, làm cho Đảng có thể trở
thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ,
danh dự và lương tâm của dân tộc. Tuy nhiên, “Chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ
nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”4, cho nên cần “Học tập cái tinh
thần xử trí mọi việc, đối với mọi người, và đối với bản thân mình; là học tập cái
chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”5.
Khi bàn đến tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, không thể không
nhắc đến quan điểm xây dựng Đảng theo những nguyên tắc cơ bản về Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân. Theo Người, để Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là
một tổ chức chặt chẽ, thống nhất và mạnh mẽ của những người cộng sản, một
Đảng Mác - Lênin chân chính thì Đảng phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập
trung dân chủ. Nghĩa là, trong hoạt động, Đảng phải “Có đảng chương thống nhất,
kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể,
số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải
phục tùng Trung ương”6. Tất cả mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị
quyết của Đảng; khi chưa có nghị quyết thì “tha hồ bàn cãi”, nhưng khi có quyết
định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là bàn cách thi hành cho
được, cho nhanh, chứ không phải là đề nghị không thực hiện.
Để làm được điều đó, Người yêu cầu: “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả
đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”7; bởi, tập trung và dân chủ là hai vế của một
nguyên tắc có quan hệ biện chứng, không tách rời, không đối lập. “Tập trung trên
nền tảng dân chủ. Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”8. Cùng với nguyên tắc tổ
chức, Hồ Chí Minh coi “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” là nguyên tắc lãnh
đạo của Đảng; “Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung”9. Đẩy
mạnh tự phê bình và phê bình, coi đây là nguyên tắc sinh hoạt, quy luật phát triển
của Đảng, nên phải có thái độ và phương pháp hợp lý: Thành khẩn, trung thực,
kiên quyết, có văn hoá, phê bình việc chứ không phê bình người. Đảng phải có kỷ
luật tự giác, nghiêm minh để đảm bảo “tư tưởng nhất trí và hành động thống nhất”;
tăng cường đoàn kết, thống nhất, coi đó là sức mạnh của Đảng, nhân tố bảo đảm
thắng lợi của cách mạng. Trong quan hệ với quần chúng nhân dân, Đảng vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đảng phải thuyết
phục, thu phục, chinh phục được quần chúng nhân dân; là trí tuệ, danh dự, lương
tâm của dân tộc, đạo đức, văn minh của toàn xã hội.
Chỉnh đốn, đổi mới Đảng là tư tưởng nhất quán xuyên suốt trong quá trình xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh. Người coi đây là một tất yếu
khách quan, một công việc cơ bản, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng.
Đặc biệt, trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên
của Đảng gắn với chức quyền rất dễ “đánh mất mình”, “ngày hôm qua” có thể là
những con người “vĩ đại” được quần chúng ca ngợi, tin yêu, kính trọng nhưng
“ngày hôm nay” có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm
vào tham ô, lãng phí, quan liêu, v.v. Do đó, việc chỉnh đốn, đổi mới Đảng là khôi
phục đạo đức cách mạng, giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho cán bộ,
đảng viên, khôi phục uy tín chính trị của Đảng đối với nhân dân. Chỉnh đốn Đảng
là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng, song Hồ Chí
Minh cũng lưu ý: vào thời điểm khi cách mạng gặp khó khăn cần phải bình tĩnh,
sáng suốt để Đảng, đảng viên không rơi vào bi quan, dao động, rụt rd, lùi bước; khi
cách mạng trên đà thắng lợi phải chỉnh đốn, đổi mới để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo,
thoả mãn, chủ quan; khi cách mạng chuyển giai đoạn, cũng phải chỉnh đốn, đổi
mới để Đảng đủ sức lãnh đạo trước sự phát triển của thực tiễn, v.v.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi là kim chỉ nam cho
Đảng ta xác định phương hướng xây dựng Đảng qua các kỳ đại hội, đặc biệt là Đại
hội XIII sắp tới. Vận dụng tư tưởng của Người trong tình hình hiện nay, Đảng ta
xác định phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo
đức; gắn xây dựng với chỉnh đốn Đảng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, xây dựng Đảng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.
Trước hết, nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng. Bản lĩnh chính trị của
Đảng thể hiện ở việc kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn
lãnh đạo cách mạng của Đảng. Do đó, cần phải thường xuyên bồi dưỡng cho cán
bộ, đảng viên lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương
của Đảng, truyền thống dân tộc và kiến thức mới của thời đại; kiên định đường lối
đổi mới và những nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng; giữ vững bản chất
giai cấp công nhân; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Thực hành dân chủ gắn với
tăng cường kỷ cương; phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng
viên, nhất là người đứng đầu. Trí tuệ, sự sáng suốt trong lãnh đạo của Đảng thể
hiện ở việc vạch ra đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm và điều kiện của nước ta; nâng cao năng
lực dự báo, ứng phó với các thách thức, biến động của tình hình. Kiên quyết đấu
tranh có hiệu quả với những biểu hiện cơ hội, giáo điều, bảo thủ, suy thoái, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, v.v.
Hai là, coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Trong đó, tập trung đổi mới mạnh
mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng, bảo đảm tính đảng, tính khoa học,
tính chiến đấu, tính thực tiễn; nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục,
học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương
trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị; kết hợp chặt chẽ giáo dục, học tập lý
luận với rdn luyện, thử thách trong thực tiễn, góp phần nâng cao nhận thức, hành
động trong Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Thường xuyên làm tốt công tác dự báo,
nắm chắc tình hình tư tưởng, không để bị động, bất ngờ; tăng cường bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch; chủ động phòng, chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu độc trên Internet,
mạng xã hội. Tăng cường quản lý, định hướng hoạt động các cơ quan báo chí; xây
dựng đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm
chất đạo đức trong sáng, tinh thông nghề nghiệp; phát huy vai trò của văn học,
nghệ thuật trên lĩnh vực tư tưởng. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận, nhất là những vấn đề khó, phức tạp nảy sinh từ thực tiễn.
Ba là, tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Theo đó, phải
kiên quyết, kiên trì thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn
với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; ngăn chặn, đẩy lùi suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và những hành vi bao che, dung túng, tiếp tay cho
những tệ nạn đó. Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho cán bộ, đảng
viên thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình, không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền
tài, danh vọng, tránh xa chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, tham vọng quyền lực;
nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên. Thực hiện nghiêm tự phê bình
và phê bình; coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ. Thực
hiện tốt quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các cấp, cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu; nêu gương phải
trở thành một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Cùng với
đó, cần giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước; kịp
thời biểu dương những tấm gương về đạo đức, lối sống; đấu tranh với những biểu
hiện lệch lạc, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống.
Bốn là, xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng thực sự là nền tảng và hạt nhân
chính trị ở cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng có vị trí vai trò hết sức quan trọng, là cầu nối
Đảng với quần chúng, nơi trực tiếp tổ chức, hướng dẫn cho quần chúng thực hiện
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do vậy,
cần khảo sát, đánh giá thực trạng từng tổ chức cơ sở đảng để có biện pháp đổi mới,
chỉnh đốn cho phù hợp, bảo đảm mỗi loại hình cơ sở hoạt động theo đúng chức
năng, nhiệm vụ và tương thích với tổ chức bộ máy hệ thống chính trị; tăng cường
chấn chỉnh, củng cố các cơ sở yếu kém; nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách và các nguyên tắc của Đảng phải được quán triệt, thực hiện
nghiêm túc. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ cơ sở, bố trí đúng đội
ngũ cán bộ chủ chốt, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, kỹ năng, nghiệp vụ
công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy. Phát huy vai trò
của tổ chức cơ sở đảng trong quy tụ sức mạnh, lãnh đạo đơn vị hoàn thành nhiệm
vụ chính trị; làm tốt công tác quản lý, giáo dục, rdn luyện, kết nạp đảng viên và
thường xuyên rà soát, sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Năm là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và
người đứng đầu vững mạnh.
Chất lượng cán bộ ảnh hưởng trực tiếp tới bản chất
giai cấp, vai trò, hiệu quả lãnh đạo và uy tín của Đảng. Bởi vậy, cần tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đầy đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên
tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh phân
cấp, phân quyền gắn với kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ. Việc
xây dựng đội ngũ cán bộ phải quán triệt tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “đừng nhìn gà hoá cuốc”, “đừng thấy đỏ tưởng là
chín”, đừng chỉ thấy “cái mã bên ngoài, nó che đậy cái sơ sài bên trong”. Vì thế,
cần đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá cán bộ; không để lọt những người cơ hội
chính trị, tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm, … vào đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đồng thời, không để sót những cán bộ thực
sự có đức, có tài. Tăng cường bồi dưỡng, giáo dục, rdn luyện nâng cao trình độ mọi
mặt cho cán bộ; phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, đúng người, đúng việc và đưa
cán bộ, đảng viên vào hoạt động thực tiễn để rdn luyện.
Sáu là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới; tăng cường
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Việc đổi mới phải theo hướng nâng
cao năng lực dự báo, tầm chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương; khắc
phục tình trạng ban hành nghị quyết không sát thực tiễn, thiếu tính khả thi. Tiếp tục
thể chế hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Với Nhà nước, Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện làm
thay mà phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý
đất nước. Với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, cần chú ý xác định mục
tiêu, phương hướng và nội dung hoạt động từng thời kỳ; phát huy tinh thần tự chủ,
sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong tổ chức và hoạt động. Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới phong cách hoạt động, lề lối
làm việc dân chủ, thiết thực, nói và làm thống nhất, khắc phục bệnh quan liêu, tùy
tiện, chủ quan, hình thức.
Xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân là một trong những mối
quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng. Bởi
theo Người: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, thắng lợi của cách mạng là
sự phấn đấu hy sinh và trí thông minh sáng tạo của hàng triệu nhân dân. Vì vậy, sự
gắn bó với quần chúng, trước hết, người đảng viên phải tin vào khả năng và lực
lượng của nhân dân. Nêu cao tinh thần phục vụ, trách nhiệm trước quần chúng,
chăm lo đến lợi ích và đời sống của người dân. Phải hoà mình với quần chúng
thành một khối, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, gương mẫu
trước quần chúng từ lời nói đến việc làm, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Thông qua phong trào cách mạng của quần chúng mà rdn luyện và sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên