-
Thông tin
-
Quiz
Chủ đề tri thức và ứng dụng trong việc học tập và nghiên cứu của sinh viên- Triết học Mác Lenin | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Chủ đề tri thức và ứng dụng trong việc học tập và nghiên cứu của sinh viên- Triết học Mác Lenin | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:



















Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI: Quan điểm của triết học Mác Lênin về tri thức, vai trò của
tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên.
Họ và tên: Đinh Thùy Dung
Mã số sinh viên: 12
Lớp: Triết học Mác – Lênin (221) – 31
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng
Hà Nội, tháng 5/2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI: Quan điểm của triết học Mác Lênin về tri thức, vai trò của
tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên.
Họ và tên: Đinh Thùy Dung
Mã số sinh viên: 12
Lớp: Triết học Mác – Lênin (221) – 31
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng
Hà Nội, tháng 5/2022 MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU 1 PHẦN II: NỘI DUNG 2
I. QUAN ĐIỂM CỦA MÁC - LÊNIN VỀ TRI THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC 2 1.1.
Lý luận Mác- Lênin về tri thức 2
1.1.1. Khái niệm tri thức theo quan điểm Mác- Lênin 2
1.1.2. Phân tích quan điểm Mác- Lênin về tri thức 2 1.2.
Vai trò của tri thức theo quan điểm Mác- Lênin 3
1.2.1. Vai trò tri thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa 3
1.2.2. Vai trò của lao động tri thức 5
II. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT
HỌC MÁC – LÊNIN TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU CỦA SINH VIÊN 6
2.1. Những điểm tích cực và tiêu cực của sinh viên hiện nay 6 2.1.1. Điểm tích cực 6 2.1.2. Điểm tiêu cực 8
2.2. Vai trò của tri thức đối với quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam 9
2.2.1. Đối với văn hóa giáo dục 9
2.2.2. Vai trò của trí thức đối với xã hội 10
2.2.3. Vai trò của tri thức đối với sinh viên 10
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM VẬN DỤNG QUAN
ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ TRI THỨC ĐỐI VỚI SINH VIÊN 11
3.1. Đối với nhà nước 11
3.1.1. Giải pháp về tuyển dụng, bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ trí thức 11
3.1.2. Giải pháp về chế độ chính sách đối với đội ngũ trí thức 11
3.2. Đối với sinh viên 12
PHẦN III: KẾT LUẬN 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Không ai có thể phủ nhận sức mạnh làm thay đổi thế giới của tri thức.
Từ thuở sơ khai tri thức được chạm khắc trên vách đá, xương thú, mai rùa.
Khi có chữ viết, con người biết lưu giữ tri thức trên vải, trên giấy. Ngày nay,
người ta đã mã hóa tri thức và lưu trữ bằng các bản điện tử. Việc lưu trữ điện
tử cho phép con người lưu trữ nhanh chóng, chắc chắn và vô hạn. Bởi nó có
sức mạnh nên ở bất cứ thời đại nào con người cũng cố gắng tìm kiếm những
cách lưu giữ đầy đủ nhất, chắc chắn nhất, bền lâu nhất. Con người bảo vệ tri
thức như một “thanh gươm thần”, xem nó như một báu vật thiêng liêng không thể đánh mất.
Nắm được tầm quan trọng của tri thức trong cuộc sống, em đã lựa chọn
đề tài “ Quan điểm của triết học Mác Lênin về
tri thức, vai trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong
nghiên cứu, học tập của sinh viên” để có cái nhìn sâu và rộng hơn về cả mặt lý luận và thực tế.
Kết cấu đề tài gồm có 3 phần:
I. Quan Điểm Của Mác- Lênin Về Tri Thức Vài Vai Trò Của Tri Thức
II. Thực Trạng Vận Dụng Quan Điểm Của Triết Học Mác – Lênin
Trong Quá Trình Học Tập, Nghiên Cứu Của Sinh Viên
III. Một Số Giải Pháp Nhằm Vận Dụng Quan Điểm Của Triết Học Mác
- Lênin Về Tri Thức Đối Với Sinh Viên 1 PHẦN II: NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA MÁC- LÊNIN VỀ TRI THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC
1.1. Lý luận Mác- Lênin về tri thức
1.1.1. Khái niệm tri thức theo quan điểm Mác- Lênin
Về mặt triết học, V.I.Lênin cho rằng, “Tri thức bao hàm không những chỉ
các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các
đại biểu của những người tự do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc”.
Quan niệm của V.I.Lênin về người trí thức cũng rất rõ ràng: “Người tri thức
đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực lực theo lối này
hay lối khác, mà là bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ chính là sự
hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của cá
nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân của họ, cho nên mới có
thể đóng được một vai trò nào đó. Vì vậy, đối với họ, quyền được hoàn toàn
tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để công tác
được kết quả. Với tư cách là một bộ phận trong toàn thể, họ chỉ phục tùng
toàn thể đó một cách miễn cưỡng, phục tùng vì bắt buộc, chứ không phải tự
nguyện. Họ chỉ thừa nhận kỷ luật là cần thiết đối với quần chúng, chứ không
phải đối với những nhân vật được lựa chọn. Dĩ nhiên là họ xếp mình vào
những hàng ngũ những nhân vật được lựa chọn...”
1.1.2. Phân tích quan điểm Mác- Lênin về tri thức
Sau thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917,
V.I.Lênin bắt tay ngay vào việc xây dựng đất nước và bảo vệ nhà nước Xô
Viết non trẻ, thực hiện cương lĩnh quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ
một nước Nga còn nghèo nàn lạc hậu, khi chủ nghĩa tư bản mới chỉ phát triển
không cao ở khu vực thành thị và nền sản xuất tiểu nông gia trưởng vẫn còn
tràn ngập khắp các vùng nông thôn còn nghèo nàn lạc hậu. Sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ nhà nước XHCN đòi hỏi nhân dân phải tiến hành hàng loạt lao
động sáng tạo lịch sử. Trong sự nghiệp vĩ đại đó không thể không có sự tham
gia của tầng lớp tri thức xã hội chủ nghĩa; vì theo V.I.Lênin nếu “Không có sự
chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh
nghiệm thì không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được”. Chủ nghĩa xã
hội đòi hỏi một bước tiến cao về ý thức và có tính quần chúng, để tạo ra một
năng suất lao động cao hơn hẳn năng suất lao động của phương thức sản xuất
xã hội tư bản chủ nghĩa; dựa trên cơ sở những kết quả mà chủ nghĩa tư bản đã được.
Trong tư tưởng của V.I.Lênin đã nhiều lần chỉ ra rằng trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa nếu giai cấp công nhân và chính đảng của nó, lôi kéo lãnh đạo
được tri thức, phát huy tài năng trí tuệ của họ vào mọi công việc cách mạng thì
cách mạng mới có thể phát triển nhanh chóng, đỡ những tổn thất do thiếu tri
thức và hiệu quả của mọi công việc mới được nâng cao không ngừng; để đạt
được những thắng lợi cuối cùng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ở những nước tư bản phát triển giai cấp công
nhân và chính đảng của nó chỉ có thể giành được thắng lợi từng bước nếu biết
không ngừng nâng cao nhận thức của mình tương xứng với yêu cầu của xã hội
hiện đại, đồng thời lôi kéo được tầng lớp tri thức theo mình. Cũng từ thực tiễn
lịch sử mà V.I.Lênin đã rút ra một kết luận khoa học có tính định hướng cho
tương lai “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và
giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được”. Thực tế cũng
cho thấy những kiến thức khoa học, nếu bị những kẻ có đặc quyền, những lực
lượng thống trị phản động kiềm chế và sử dụng, thì sẽ trở thành vũ khí để nô
dịch quần chúng nhân dân, hủy hoại nhân loại, cho nên cách mạng vô sản phải
có nhiệm vụ giành lại vũ khí đó, vì sự nghiệp giải phóng con người và sự
nghiệp bảo vệ con người.
1.2. Vai trò của tri thức theo quan điểm Mác- Lênin
1.2.1. Vai trò tri thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Theo V.I.Lênin cần thiết phải xây dựng và phát triển tri thức mới, tri
thức xã hội chủ nghĩa, bao gồm đào tạo tri thức mới từ giai cấp công nhân,
nông dân và cải tạo tầng lớp tri thức cũ theo hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là
một yêu cầu khách quan trong tiến trình cách mạng vô sản, ngay từ năm 1902
khi cách mạng vô sản chưa giành thắng lợi; V.I.Lênin đã chủ trương giai cấp
vô sản phải tạo ra tầng lớp tri thức riêng của mình và không chỉ thế, ông còn
thu nạp cả những người ủng hộ mình và người có học thức; trong thời kỳ quá
độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, việc tạo ra một tầng lớp tri thức
mới là một nhiệm vụ hết sức cấp thiết đáp ứng sự nghiệp đổi mới xây dựng,
quản lý đất nước và nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải có
nhiều người có trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý cao, cho
nên khi bàn về nhiệm vụ đoàn sinh viên
V.I.Lênin đã chỉ ra “Việc điện khí hóa không thể do những người mù chữ
thực hiện được, mà chỉ biết chữ không thôi thì cũng không đủ… Họ phải hiểu
rằng điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại,
và nếu họ không có nền học vấn đó, thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một
nguyện vọng mà thôi”. Theo Người, nhiệm vụ của đoàn sinh viên nói chung
và các tổ chức khác nói riêng, có thể tóm gọn bằng một từ đó là học tập. Vận
dụng quan điểm của V.I.Lênin, ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã cử những sinh viên ưu tú trong nước sang Trung Quốc,
Liên Xô để học tập, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng, sau cách mạng tháng
Tám năm 1945, người phát động phong trào bình dân học vụ “diệt giặc dốt”
và ngay trong những năm đầu kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và
sau này là trong kháng chiến chống Mĩ. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến sự nghiệp đào tạo đội ngũ tri thức cho sự nghiệp xây dựng,
cải tạo xã hội và nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như nhiệm vụ
bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, sau khi kháng chiến kết thúc thành công.
V.I.Lênin cho rằng khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền,
và trong chừng mực nhiệm vụ tước đoạt và nhiệm vụ đập tan sự phản kháng
của chúng đã được hoàn thành trên những nét chủ yếu, thì một nhiệm vụ cơ
bản khác được đặt lên hàng đầu, đó là thiết lập một chế độ mới cao hơn chế độ
chủ nghĩa tư bản, nghĩa là năng suất lao động, trước hết là nâng cao trình độ
học vấn và văn hóa của quần chúng nhân dân lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật
của nền đại công nghiệp. Với chủ trương này nhà nước Xô viết đã tiến hành
một loạt biện pháp cải biến cách mạng trong hệ thống giáo dục và đào tạo để
đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng tri thức cho sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước.
V.I.Lênin cũng lưu ý tri thức không phải là giai cấp mà là một tầng lớp
đặc biệt trong xã hội; từ vị trí của mình trong phân công lao động xã hội, tri
thức không có quan hệ riêng và trực tiếp với sở hữu tư liệu sản xuất, các dấu
hiệu quan trọng nhất để xác định giai cấp; do đó không có khả năng đại biểu
cho phương thức sản xuất nào, cũng không có hệ tư tưởng độc lập, tri thức
luôn gắn với những giai cấp nhất định, với tư cách là một tầng lớp và ở trong
một thể chế chính trị cụ thể, tri thức nói chung là của giai cấp thống trị do hệ
thống giáo dục và đường lối đào tạo của Nhà nước của giai cấp thống trị ấy
tạo ra. Tầng lớp này tự giác hoặc không tự giác phục vụ cho chế độ và giai cấp
thống trị. Quá trình đấu tranh giai cấp và tác động nhiều mặt về lợi ích đã làm
cho tri thức phân hóa thành những bộ phận khác nhau; những bộ phận khác
nhau đó sẽ ngả theo lực lượng này hay lực lượng khác, giai cấp này hay giai
cấp khác. V.I.Lênin phê phán những ai coi tri thức là siêu giai cấp hoặc đứng
trên giai cấp, Người nói: “nếu không nhập cục với một giai cấp thì giới tri
thức chỉ là một con số không mà thôi” (V.I.Lênin, tập 1, tr.552).
1.2.2. Vai trò của lao động tri thức
Khi bàn về đặc điểm lao động tri thức, V.I.Lênin chỉ ra rằng phương thức
lao động của tri thức, là lao động trí tuệ cá nhân, sản phẩm lao động trực tiếp
của họ là những tri thức khoa học sáng tạo, những giá trị tinh thần, đó là
những công trình khoa học và công nghệ, được tạo ra trong quá trình nghiên
cứu, phát minh, giảng dạy, quản lý trên tất cả các lĩnh vực khoa học xã hội,
khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật và lĩnh vực quốc
phòng an ninh… Nói đến tri thức là nói đến lao động sáng tạo khoa học không
ngừng, biết làm giầu tri thức của mình bằng tất cả những tri thức nhân loại tại
ra, nhất là khi trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy; thì càng phải có tầm
trí tuệ cao, V.I.Lênin đòi hỏi: “Người lãnh đạo cơ quan nhà nước cần phải có
ở mức độ cao, khả năng lôi cuốn mọi người và có đủ trình độ kiến thức khoa
học kỹ thuật, vững vàng để kiểm tra công tác của họ. Đó là điều cơ bản không
thể thiếu, không như thế thì công tác không thể đúng đắn được”. Đúng là
những người lãnh đạo càng ở những cương vị cao, càng đòi hỏi phải có tri
thức, có tầm nhìn sâu rộng.
Cũng theo V.I.Lênin: “Muốn đổi mới bộ máy nhà nước của chúng ta,
phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập, hai là học
tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước ta
không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa, phải làm sao cho học
thức thực sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận
khắng khít của cuộc sống của chúng ta”. Một lần nữa V.I.Lênin khẳng định
vai trò của tri thức trong công cuộc đổi mới bộ máy nhà nước, đồng thời với
việc nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi đảng viên cộng sản là phải không ngừng
học tập, nâng cao tri thức, lý luận. Nhưng điều quan trọng hơn, theo Người là
phải đưa tri thức, lý luận đó vào cuộc sống, phát huy tác dụng trong cuộc sống
chứ không phải là những tri thức vô hồn “trên giấy”. Từ trong di sản của
V.I.Lênin về tri thức, giúp chúng ta rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm,
thiết thực và bổ ích góp phần xây dựng đội ngũ tri thức ngày càng lớn mạnh
phục vụ công cuộc đổi mới và xây dựng, phát triển đất nước và nhiệm vụ bảo
vệ tổ quốc trong giai đoạn mới.
II. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC
MÁC – LÊNIN TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU CỦA SINH VIÊN
2.1. Những điểm tích cực và tiêu cực của sinh viên hiện nay 2.1.1. Điểm tích cực:
Điểm nổi bật đầu tiên khi ta nghĩ về sinh viên, đó là những con người
năng động và sáng tạo. Chính sinh viên là những người tiên phong trong mọi
công cuộc cải cách, đổi mới về kinh tế, giáo dục…Trong đầu họ luôn đầy ắp
các ý tưởng độc đáo và thú vị; và họ tận dụng mọi cơ hội để biến các ý tưởng
ấy thành hiện thực. Không chỉ chờ đợi cơ hội đến, họ còn tự mình tạo ra cơ
hội. Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh, sáng chế; và không ít
trong số những phát minh ấy được áp dụng, được biến thành những sản phẩm
hữu ích trong thực tiễn. Trong học tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới
phương phấp học sao cho lượng kiến thức họ thu được là tối đa. Phần lớn sinh
viên đều có khả năng thích nghi cao với mọi môi trường sinh sống và học tập.
Họ không chỉ học tập trong một phạm vi hẹp ở trường, lớp; giới trẻ ngày nay
luôn phát huy tinh thần học tập ở mọi nơi, mọi lúc. Không chỉ lĩnh hội tri thức
của nhân loại, sinh viên Việt Nam còn tiếp thu những cái hay, cái đẹp trong
mọi lĩnh vực khác như văn hóa, nghệ thuật…
Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện ở việc tích cực tham gia
các hoạt động xã hội như y tế, từ thiện…Ngoài giờ học, những sinh viên-tuyên
truyền viên hiến máu nhân đạo lại ngược xuôi đi lại mang kiến thức về hiến
máu đến mọi người, mọi nhà… Bằng sự năng động, sinh viên luôn tự cập nhật
thông tin, kiến thức, làm mới mình phù hợp với sự thay đỏi và phát triển của
xã hội. Rõ ràng, năng động và sáng tạo là những ưu điểm nổi bật của sinh viên
Việt Nam thời đại mới.
Sinh viên dám nghĩ , dám làm, dám chịu thử thách. Các ý tưởng độc đáo
không chỉ nằm trong suy nghĩ mà luôn được thử nghiệm trong thực tế. Có thể
thành công hoặc thất bại, song họ không hề chùn bước. Với họ, mỗi lần thất
bại lại làm họ tự tin hơn với nhiều kinh nghiệm hơn. Táo bạo nhưng không
liều lĩnh. Trước khi thực hiện một việc gì, họ luôn tính toán, xem xét vấn đề
một cách thận trọng. Khi cảm thấy mình đã có đủ mọi điều kiện cần thiết, họ
mới bắt tay vào thực hiện. Một điều quan trọng đáng nói ở đây, đó là nếu gặp
rủi ro thất bại thì họ sẵn sàng chấp nhận như một chuyện đương nhiên tất yếu
sẽ xảy ra, tức là có thất bại thì thất bại ấy cũng nằm trong kế hoạch. Họ dám
nhìn thẳng vào thất bại và vượt qua nó. Tóm lại, táo bạo và tự tin cũng là điểm
rất đáng quý trong lối sống của sinh viên Việt Nam.
Thứ ba, phong cách độc lập trong cuộc sống cũng như trong học tập
cũng góp phần xây dựng một hình tượng đẹp về sinh viên Việt Nam. Không
giống như sinh viên các thế hệ trước chỉ biết sống phụ thuộc vào gia đình, sinh
viên ngày nay đã biết thân tự lập thân. Nếu như trong quá khứ, sinh viên còn
chờ đợi tiền chu cấp của gia đình mỗi đầu tháng thì ngày nay mọi chuyện
dường như đã khác đi rất nhiều. Ngoài giờ học, họ tìm việc làm kiếm thêm
tiền mua sách vở hay phục vụ cho những chi tiêu thường ngày khác. Nhiều
người không chỉ lo được cho bản thân mà còn có thể giúp đỡ những người bạn
khác thiệt thòi hơn mình, hay giúp đỡ gia đình ngay cả khi họ vẫn còn ngồi
trong giảng đường đại học.
Ngoài ra, sinh viên Việt Nam còn được thừa hưởng một truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, đó là truyền thống hiếu học. Sinh viên Việt Nam mọi thời đại
luôn ham học, ham hiểu biết. Họ khao khát tìm tòi, khám phá chân trời tri
thức. Ham học, ham hiểu biết chính là động lực cho việc lĩnh hội tri thức của
sinh viên. Không thỏa mãn với những gì được dạy trong truờng, họ tự mình
học thêm bên ngoài, qua sách báo, qua bạn bè khắp nơi. 2.1.2. Điểm tiêu cực:
Thứ nhất phần lớn sinh viên trước khi lên lớp không đọc trước giáo
trình, hay không học bài cũ, học đối phó với các kiến thức trong giáo trình.
Cho dù giảng viên đã cho trước tài liệu học là các slide, tài liệu tham khảo có
rất nhiều trên mạng, nhưng phần lớn sinh viên vẫn coi các môn đại cương ví
dụ như Triết học nói riêng là một môn “chỉ cần qua môn là được”, từ đó dẫn
đến cách học đối phó, thụ động, gây ra tác hại lớn trức tiếp đến chính bản thân sinh viên.
Tư tưởng là vấn đề tiếp theo và cũng là vấn đề lớn nhất cần bàn đến. Tư
tưởng của một bộ phận sinh viên còn lệch lạc. Dưới sự tác động ồ ạt của nền
kinh tế thị trường, dường như giới trẻ ngày nay luôn nhìn sự vật dưới con mắt
của người tư bản. Họ còn nghi ngờ vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là cái
nhìn thiển cận, lệch lạc. Nhiều sinh viên đã đánh mất niềm tin vào chủ nghĩa
xã hội. Thử hỏi những người nắm trong tay vận mệnh của đất nước ma có
những tư tưởng như vậy thì tương lai đất nước sẽ đi về đâu?
Nét tiêu cực trong lối sống của sinh viên còn thể hiện trong việc nhìn
nhận một cách sai lầm về giá trị cuộc sống. Đó là hiện tượng sùng bái giá trị
vật chất. Nhiều thanh niên lấy đồng tiền làm thước đo giá trị trong cuộc sống.
Đó là thang giá trị của xã hội tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội ấy, kẻ có tiền là
kẻ mạnh. Chính vì thế, không ít sinh viên con nhà giàu đã sử dụng đồng tiền
gây ra nhiều chuyện sai trái: mua điểm, chèn ép bạn bè…Lối sống hưởng thụ
dẫn đến nhiều vấn đế tiêu cực khác trong sinh viên. Tệ nạn xã hội, thái độ
không đúng đắn đối với lao động xảy ra nhiều trong sinh viên.
Chủ nghĩa cá nhân có xu hướng tăng trong giới trẻ ngày nay. Nhiều
người chỉ quan tâm tới những lợi ích cá nhân truớc mắt mà quên mất lợi ích
tập thể, thậm chí chà đạp lên lợi ích của ngưới khác. Vì đồng tiền, vì lợi ích cá
nhân, một số thanh niên còn bất chấp tất cả: luật pháp, gia đình, bạn bè…Một
số khác sống không động chạm đến ai, nhưng cũng không quan tâm đến ai.
Chỉ cần biết đến mình, còn người khác thì mặc kệ kiểu “đèn nhà ai nấy rạng”.
Điều đó cũng khó mà chấp nhận được trong một đất nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa.
2.2. Vai trò của tri thức đối với quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam
2.2.1. Đối với văn hóa giáo dục
Tri thức có vai trò rất lớn đến văn hóa - giáo dục của một quốc gia. Nó
giúp con người có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý thức
của con người được nâng cao. Khi nhu cầu xã hội ngày càng nâng cao, việc
đáp ứng nhu cầu đòi hỏi mỗi công dân cần phải có, đặc biệt nhu cầu trong giáo
dục và trách nhiệm của học sinh sinh viên là quan trọng. Con người có tri
thức, kiến thức và nhận thức tốt, làm chủ tri thức bản thân là chủ trong cách
sống của mình, biết bản thân mình làm gì, biết được nhu cầu xã hội đang đòi
hỏi gì ở chính các bạn trẻ, mà không ngừng học hỏi. Vai trò của tri thức trong
việc phục vụ những yêu cầu của xã hội, cũng góp phần trong việc thể hiện khả
năng bản thân mình ở xã hội không ngừng phát triển lớn mạnh. Và do đó nền
văn hóa ngày càng lành mạnh. Có những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo
dục. Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh.
Tri thức mang lại cho xã hội sự hội nhập quốc tế, giao lưu học hỏi kiến
thức và những truyền thống tốt đẹp của các quốc gia khác, hay là tham gia các
cuộc thi quốc tế mà các vấn đề cần quan tâm ở đây là ngôn ngữ tiếng anh phải
thực sự tốt và chuyên môn cao. Xã hội sẽ được sánh ngang với các cường
quốc năm châu, sự sáng tạo cũng như những phát minh hay, mới lạ thì công
dân có tri thức là không thể thiếu, là công cụ giúp giải quyết mọi vấn đề khó
khăn không chỉ cho bản thân, gia đình mà còn cho cả xã hội.
2.2.2. Vai trò của tri thức đối với xã hội
Tri thức đang ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong hoạt
động xã hội, là tiền đề quan trọng để hình thành nên xã hội tri thức – một xã
hội đổi mới văn minh và là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế
giới hiện nay. Chúng ta đều nhận thấy rằng, tri thức đóng một vai trò hết sức
quan trong góp phần tạo nên mọi thành tựu tiến bộ trong lịch sử hình thành và
phát triển của văn minh nhân loại. Mặc dù những câu hỏi mang tính triết học
xung quanh phạm trù tri thức vẫn không ngừng được tranh luận và chưa được
câu trả lời thích đáng nhưng trong mọi lĩnh vực hoạt động khoa học, kinh tế,
chính trị, văn hóa, … tri thức vẫn luôn được tìm kiếm, phát triển và ngày càng
có tác động to lớn đến sự phát triển của xã hội loài người. Tất cả mọi người,
tuy hoàn cảnh địa vị khác nhau nhưng họ đang cùng có chung một hoạt động,
đấy là hoạt động tri thức. Và vì thế, tri thức không còn là vấn đề riêng của mỗi
cá nhân mà đã trở thành vấn đề chung của mọi xã hội.
Dù ở trong bất cứ xã hội nào thì tri thức của loài người cũng là một
nguồn lực đóng góp cho sự phát triển. Một xã hội tri thức bền vững khi nó bảo
tồn và thúc đẩy các quyền con người và quyền công dân; mở rộng khả năng
tiếp cận tri thức của con người; là công cụ hỗ trợ cho con người trong việc
phát triển cuộc sống và môi trường sống.
2.2.3. Vai trò của tri thức đối với sinh viên
Như đã tìm hiểu, tri thức chính là hiểu biết, là kiến thức, là khả năng để
đóng góp cho sự trau dồi bản thân của sinh viên nói chung và sự phát triển về
kinh tế - xã hội của đất nước nói chung. Tri thức có ở mọi nơi, kể cả trong
những điều bình dị nhất xung quanh mỗi người. Điều đó cung cấp cho sinh
viên những điều kiện thuận lợi nhất để nậng cao hiểu biết và giá trị của bản
thân hơn. Bên cạnh đó, tri thức chính là sự định hướng đúng đắn đối với sự
học tập, nghiên cứu, tìm hiểu của sinh viên. Nó như là chiếc kim chỉ nam
hướng dẫn các sinh viên đi đúng hướng, trở thành người tốt và có ích cho xã
hội. Việc có tri thức giúp sinh viên tránh được những điều sai trái trong xã hội,
giữ vững quan điểm, lập trường của bản thân. Học tập đi đôi với tri thức, nên
tri thức chính là yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển của sinh viên.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA
TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN VỀ TRI THỨC:
3.1. Đối với nhà nước
3.1.1. Giải pháp về tuyển dụng, bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ trí thức
+ Xây dựng các bộ tiêu chuẩn, tiêu chí và điều kiện tuyển dụng, thu hút
trí thức có trình độ chuyên môn, thuộc lĩnh vực, ngành đang thiếu; đổi mới
chính sách, phương thức tuyển dụng, thu hút trí thức: Xét tuyển đặc cách
không qua thi tuyển vào làm việc trong các tổ chức khoa học và công nghệ đối
với những người tốt nghiệp thủ khoa tại các cơ sở đào tạo trình độ đại học
trong nước, tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc của các trường đại học có uy tín ở
nước ngoài hoặc có kinh nghiệm công tác từ 5 năm trở lên, đáp ứng được
ngay yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng.
+ Xây dựng đồng bộ các chính sách trong việc phát hiện, quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ trí thức. Quan tâm bổ nhiệm trí
thức có tư duy đổi mới, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm. Có chính sách và kế hoạch cụ thể để phát hiện, đào tạo,
bồi dưỡng trí thức trẻ, trí thức là những người đã có cống hiến trong hoạt động
thực tiễn, trí thức người dân tộc thiểu số và các nữ trí thức.
3.1.2. Giải pháp về chế độ chính sách đối với đội ngũ trí thức
Chế độ, chính sách đối với trí thức được coi là toàn diện, khi nó tạo điều
kiện thuận lợi cả về vật chất lẫn tinh thần để trí thức bộc lộ hết tài năng sáng tạo
và cống hiến hết sức mình cho sự phồn vinh của quốc gia dân tộc. Do đó, Đảng
và Nhà nước cần tập trung:Hoàn thiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với trí
thức: Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho đội ngũ trí thức làm việc và sinh
hoạt, như phương tiện đi lại, làm việc, nhà công vụ; chế độ đãi ngộ cho gia đình
đối với những nhà khoa học đầu đàn, đầu ngành... đồng thời có sự quan tâm đặc
biết tới đội ngũ trí thức đang công tác ở miền núi, vùng có điều kiện khó khăn...
+ Đổi mới cơ chế trả lương theo chế độ khoán sản phẩm; giao quyền tự
chủ cho các tổ chức, cơ quan trong việc chi trả lương, thưởng và các chính sách
đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức được thu hút về làm việc, đồng thời hạn chế,
khắc phục tối đa tình trạng “chảy máu chất xám” ở các đơn vị thuộc Nhà nước quản lý.
+ Xây dựng các quy định, quy chế về tôn vinh trí thức. Đánh giá năng lực
theo kết quả và sản phẩm đầu ra để có những hình thức tôn vinh, tưởng thưởng
tương xứng. Các hình thức tôn vinh phải thể hiện được văn hóa coi trọng hiền
tài, tránh tôn vinh một cách hình thức, cào bằng, không dân chủ...
+ Tiếp tục quan tâm và đầu tư nguồn lực tài chính trong việc xây dựng cơ
sở vật chất, kỹ thuật tối đa nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động chuyên môn, nghề
nghiệp, như phòng làm việc, trang thiết bị, máy móc hiện đại, phương tiện đi lại,
cơ sở nghiên cứu, phòng thí nghiệm, thư viện...
3.2. Đối với sinh viên
Trong giai đoạn phát triển của đất nước ta – giai đoạn quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội, thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ
trung tâm, trong vấn đề nguồn nhân lực thì sinh viên – sinh viên lại giữ vai trò
quan trọng, là nguồn lực chủ yếu, bởi họ chiếm một số lượng lớn trong số
người ở độ tuổi lao động của nước ta, họ có một nhiệm vụ hay giữ một trọng
trách hết sức nặng nề những người được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề
nghiệp, được tổ chức tốt về kiến thức văn hóa, chính trị, đạo đức, lối sống....
- Thứ nhất, sinh viên phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý
luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng. Sinh viên phải rèn
luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có lòng yêu nước, có niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có đạo
đức trong sáng và lối sống lành mạnh; tích cực tham gia vào các cuộc đấu
tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ cương lĩnh, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu cực, tệ nạn xã hội, tham nhũng…
- Thứ hai, sinh viên cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ
văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật và tay nghề. Sinh viên phải tích
cực tham gia xây dựng xã hội học tập với phương châm: người sinh viên
nào cũng phải học ở đâu, làm gì, thời gian nào cũng phải học, người sinh
viên nào cũng phải xác định tham gia họ tập thường xuyên, suốt đời là
quyền và nghĩa vụ của bản thân.
- Thứ ba, sinh viên phải tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Các đối tượng sinh viên
tự nguyện, tự giác tham gia vào các hội của sinh viên, phấn đấu trở thành
đoàn viên, đảng viên của Đảng và hội viên của các quần chúng nhân dân.
- Thứ tư, sinh viên phải tích cực tham gia vào việc xây dựng môi trường xã
hội lành mạnh và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp. Tích cực tham
gia phòng chống ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và ứng phó
với biến đổi khí hậu toàn cầu.
- Thứ năm, sinh viên phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Tích cực tham gia các chương
trình, dự án của địa phương; tự nguyện, tự giác tham gia thực hiện nghĩa
vụ quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
- Thứ sáu, sinh viên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế;
tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao
nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ
động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu như: giữ
gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi
trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân
số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo…
PHẦN III: KẾT LUẬN
Xuất phát từ quan điểm bao trùm “con người là trung tâm, vừa là động
lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển”, Đảng ta đã nhất quán và kiên trì thực
hiện quan điểm: “Đối với trí thức, phát huy năng lực, trí tuệ, mở rộng thông
tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà
khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu, đãi ngộ xứng đáng những
cống hiến của trí thức trong công cuộc phát triển đất nước”.
Đã có nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức đã
được Đảng và Nhà nước thực thi, đem lại hiệu quả tốt trong thời gian qua, như
chính sách đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ trí thức; chính sách tạo môi trường
phát huy vai trò của trí thức; chính sách sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh trí thức và
chính sách thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài. Gắn liền với các chủ
trương, chính sách đó là sự cố gắng trong việc đổi mới cơ chế quản lý, tăng
cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn
nghệ,... đã góp phần phát huy tiềm năng và nội lực của đội ngũ trí thức trong hoạt động thực tiễn.
Điều đó cho thấy đối với Đảng và nhà nước ta, vai trò của tri thức ngày
càng quan trọng. Đứng trước thế kỉ 21 – thế kỉ có hiều biến đổi sâu sắc và phổ
biến trên tất cả các lĩnh vực của đồi sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Đây là thử thách đồng thời là thời cơ nghiệt ngã cho tất cả các quốc gia, dân
tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Duy Quý (Chủ biên) (2018), “Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. A.P.Septulin (2017), “Phương pháp nhận thức biện chứng”, Nxb. Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Tài (Chủ biên) (2018) “Giáo trình Triết học Mác -Lênin - Lý
luận và vận dụng”, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
6. GS.TS. Phạm Văn Đức (chủ biên), Giáo trình Triết học Mác – Lênin
(2019), Hội đồng biên soạn giáo trình môn Triết học Mác – Lênin