



















Preview text:
dan
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA MARKETING
----------------
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Đề tài:
THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊ - NIN,
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐƯỢC TIẾP CẬN TỪ NHỮNG GÓC ĐỘ NÀO? VẬN
DỤNG LÝ THUYẾT NÀY VÀO NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC LÀO. Nhóm: 05
Lớp học phần: 241_HCMI0121_10
Giáo viên hướng dẫn: Phạm Thị Hương
Hà Nội, tháng 10 năm 2024 MỤC LỤC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 5.....................................................................4
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................5
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................6
CHƯƠNG 1: NHỮNG GÓC ĐỘ TIẾP CẬN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI...........6
I. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ PHONG TRÀO THỰC TIỄN, PHONG TRÀO
ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG CHỐNG LẠI ÁP BỨC, BẤT
CÔNG, CHỐNG LẠI GIAI CẤP THỐNG TRỊ.......................................................6
1. Điều kiện ra đời của Chủ nghĩa Xã hội......................................................................6
2. Chủ nghĩa xã hội là phong trào thực tiễn...................................................................7
3. Chủ nghĩa xã hội là phong trào đấu tranh của nhân dân lao động..............................8
II. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN PHẢN ÁNH
LÝ TƯỞNG GIẢI PHÓNG NHÂN DÂN LAO ĐỘNG KHỎI ÁP BỨC BÓC LỘT
BẤT CÔNG..................................................................................................................9
1. Chủ nghĩa xã hội là trào lưu tư tưởng........................................................................9
a. Phản ánh hiện thực xã hội và lý tưởng thay đổi xã hội...............................................9
b. Phê phán chủ nghĩa tư bản.........................................................................................9
2. Chủ nghĩa xã hội là lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao động khỏi áp
bức và bóc lột...............................................................................................................10
III. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC - CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC - LÀ KHOA HỌC VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN............................................................................................................11
1. Khái niệm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.............................................11
a. Khái niệm giai cấp công nhân..................................................................................11
b. Sứ mệnh của giai cấp công nhân..............................................................................11
2. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân....12
a. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.................12
b, Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh của lịch sử...............13
IV. LÀ MỘT CHẾ ĐỘ XÃ HỘI TỐT ĐẸP, GIAI ĐOẠN ĐẦU CỦA HÌNH THÁI
KINH TẾ - XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA.....................................................13
1. Sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.....................................13
2. Phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.............................................14
CHƯƠNG 2: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀO..............................................................16
I. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG TIỀN ĐỀ ĐỂ TỪNG BƯỚC TIẾN LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở LÀO...........................................................................................16
1. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Lào..................................................................16 2. Quá trình xây
dựng tiền đề để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội...........................4
3. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng tiền đề để từng bước tiến lên
chủ nghĩa xã hội...........................................................................................................20
a. Thành tựu.................................................................................................................20
b. Hạn chế....................................................................................................................21
4. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế.................................................................................21
II. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HẠN CHẾ VÀ TIẾP TỤC
XÂY DỰNG TIỀN ĐỀ ĐỂ TỪNG BƯỚC TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
LÀO TRONG THỜI GIAN TỚI..............................................................................22
1. Về phương hướng....................................................................................................22
2. Về giải pháp.............................................................................................................24
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................29
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 5 ST Họ và tên Nhiệm vụ Đánh giá Chữ ký T điểm 61 Nguyễn Thùy Linh Nội dung Chương 1 phần IV 62 Nguyễn Thùy Linh Nội dung Chương 1 phần III 63 Trần Thị Thùy Linh Thuyết trình 64 Vi Thị Khánh Linh Nội dung Chương 2 phần II.1 65 Đỗ Ngọc Xuân Mai Nội dung Chương 1 phần I 66 Hà Ngọc Mai Nội dung Chương 1 phần II 67 Phí Thị Ngọc Mai Thuyết trình 68 Vũ Phương Mai Thư ký + Word (Thư ký) 69 Nguyễn Văn Mạnh Tổng kết và chỉnh (Nhóm trưởng) sửa toàn bộ nội dung. 70 Trần Đức Mạnh Nội dung Chương 2 phần I.3, I.4 71 Chu Quang Minh Powerpoint 72 Lê Hiểu Minh Nội dung Chương 2 phần II.2 73 Lê Thị Hồng Minh Lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và Word 74 Nguyễn Thị Hải Minh Nội dung Chương 2 phần I.1, I.2 75 Trần Hải Minh Powerpoint PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Chủ nghĩa xã hội, một lý tưởng xã hội mang tính nhân văn sâu sắc, luôn là một
chủ đề nghiên cứu hấp dẫn và có ý nghĩa thời đại. Trong bối cảnh thế giới ngày nay,
với những biến động phức tạp và đa dạng, việc tìm hiểu sâu hơn về bản chất, mục tiêu
và con đường đi đến chủ nghĩa xã hội trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đặc biệt, việc
vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin để nghiên cứu thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở các quốc gia, trong đó có Lào, sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện và
khách quan hơn về quá trình này. Nghiên cứu này được lựa chọn nhằm làm rõ những
góc độ của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê - nin và ứng dụng
của chúng trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Lào, một quốc gia có nhiều đặc điểm riêng biệt.
2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã
hội, từ đó làm rõ những góc độ tiếp cận đa chiều đối với lý tưởng xã hội này. Bên cạnh
đó, đề tài sẽ vận dụng lý thuyết trên để phân tích thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước Lào, nhằm phân tích cách thức mà lý thuyết này được vận dụng trong trong quá trình xây dựng này.
3. Mục đích nghiên cứu
Từ đó tiến hành tìm hiểu và phân tích quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Lào,
từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu. Đồng thời, góp phần làm sáng tỏ một
số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
cụ thể của từng quốc gia. 4. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Nghiên cứu tập trung vào lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Lào.
Về thời gian: Nghiên cứu sẽ khảo sát quá trình hình thành và phát triển của lý
luận Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội, cũng như quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Lào từ khi thành lập nước đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu theo phương pháp diễn dịch. Bám sát theo giáo trình xã hội học đại
cương và bài giảng của giáo viên hướng dẫn kết hợp với việc tìm hiểu tài liệu từ các
nguồn trên internet. Đồng thời có sự kết hợp giữa các phương pháp nghiên cứu lý luận,
phương pháp so sánh và phương pháp thống kê. 6. Phạm vi áp dụng
Bài luận có thể trở thành tài liệu tham khảo cho mọi người học tập, nghiên cứu
với nội dung liên quan, góp phần vào công tác tuyên truyền, giáo dục về vấn đề chủ nghĩa xã hội. 5 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG
1: NHỮNG GÓC ĐỘ TIẾP CẬN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ PHONG TRÀO THỰC TIỄN, PHONG TRÀO
ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG CHỐNG LẠI ÁP BỨC, BẤT
CÔNG, CHỐNG LẠI GIAI CẤP THỐNG TRỊ
1. Điều kiện ra đời của Chủ nghĩa Xã hội Bằng lý luâ p
n hình thái kinh tế – xã hô p
i, C.Mác đã đi sâu phân tích, tìm ra qui luâ p t vâ p n đô p
ng của hình thái kinh tế – xã hô p
i tư bản chủ nghĩa, từ đó cho phrp ông dự báo
khoa học về sự ra đời và tương lai của hình thái kinh tế – xã hô p i cô p ng sản chủ nghĩa.
V.I Lênin cho rằng: C.Mác xuất phát từ chỗ là chủ nghĩa cô p
ng sản hình thành từ chủ
nghĩa tư bản, phát triển lên từ chủ nghĩa tư bản là kết quả tác đô p ng của mô p t lực lượng xã hô p
i do chủ nghĩa tư bản sinh ra – giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiê p n đại.
Các nhà sáng lâ p chủ nghĩa xã hô p
i khoa học đã thừa nhâ p
n vai trò to lớn của chủ
nghĩa tư bản khi khẳng định: sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là mô p t giai đoạn mới trong
lịch sử phát triển mới của nhân loại. Các ông cũng chỉ ra rằng, trong xã hô p i tư bản chủ
nghĩa, lực lượng sản xuất càng được cơ khi hóa, hiê p
n đại hóa càng mang tính xã hô p i
hóa cao, thì càng mâu thuẫn với quan hê p sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế đô p
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Quan hê p
sản xuất từ chỗ đóng vai trò mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển, thì ngày càng trở nên lỗi thời, xiềng xích của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành thực sự của giai cấp công
nhân là tiền đề, điều kiê p
n cho sự ra đời của hình thái kinh tế- xã hô p i cô p ng sản chủ
nghĩa. Tuy nhiên, do khác về bản chất với tất cả các hình thái kinh tế – xã hô p i trước đó,
nên hình thái kinh tế – xã hô p i cô p
ng sản chủ nghĩa không tự nhiên ra đời, trái lại, nó chỉ
được hình thành thông qua cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng của giai cấp công nhân – Đảng Cô p ng sản, thực hiê p
n bước quá đô p từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hô p i và chủ nghĩa cô p ng sản.
Do tính sâu sắc và triê p
t để của nó, cách mạng vô sản chỉ có thể thành công, hình thái kinh tế- xã hô p
i cô png sản chủ nghĩa chỉ có thể được thiết lâ p
p và phát triển trên cơ sở của chính nó, mô p
t khi tính tích cực chính trị của giai cấp công nhân được khơi dâ p y và
phát huy trong liên minh với các giai cấp và tầng lớp những người lao đô p ng dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cô p ng sản.
Điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội được thể hiện qua 3 mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội:
Kinh tế: lực lượng sản xuất ở trình độ cao, tạo nền đại công nghiệp; sản xuất ra
nhiều của cải vật chất. Sự ra đời của công nghiệp cơ khí trong cách mạng công nghiệp
lần 2 đã tạo ra bước tiến to lớn, vượt bậc của lực lượng sản xuất, lúc này lực lượng sản
xuất hiện đại hóa không còn phù hợp với quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu nữa nên tất
yếu phải có 1 hình thái kinh tế mới, có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với lực lượng sản xuất.
Chính trị: trong xã hội tư bản chủ nghĩa; giai cấp thống trị chính là giai cấp tư
sản ngày càng thể hiện sự bóc lột của mình lên giai cấp bị trị - giai cấp công nhân, lúc
này tạo nên mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa 2 giai cấp; giai cấp tư sản và giai 6
cấp công nhân; bên cạnh đó, các cuộc đấu tranh của nhân dân đều thất bại. Điều này
đòi hỏi sự phát triển chín muồi của giai cấp công nhân, của Đảng cộng sản để lãnh đạo cuộc đấu tranh
Văn hóa xã hội: thời điểm này là sự chín muồi trong nhận thức của người dân về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng cao.
2. Chủ nghĩa xã hội là phong trào thực tiễn
Phản ánh thực trạng xã hội
Chủ nghĩa xã hội ra đời là kết quả của sự bất bình đẳng sâu sắc trong xã hội tư
bản, nơi một số ít người nắm giữ phần lớn tài sản trong khi đa số phải sống trong nghèo khổ.
Chủ nghĩa tư bản bị chỉ trích vì khai thác sức lao động của công nhân, dẫn đến
các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi.
Xã hội tư bản tồn tại những mâu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp tư sản và vô sản, tạo
điều kiện cho các cuộc cách mạng xã hội.
Đáp ứng nhu cầu của nhân dân
Chủ nghĩa xã hội hứa hẹn một xã hội công bằng, nơi mọi người có cơ hội phát
triển bình đẳng. Vì mục đích lớn nhất của chủ nghĩa xã hội chính là xóa bỏ mọi áp
bức, nô dịch về kinh tế cũng như tinh thần cho con người, bảo đảm cho sự phát triển
toàn diện của cá nhân, hình thành và phát triển lối sống mới: lối sống xã hội chủ nghĩa;
làm phát huy tính tích cực của mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xóa
bỏ chiếm hữu tư bản, xóa bỏ mọi đối kháng giai cấp, xóa bỏ tình trạng người bóc lột
người; tạo nên 1 xã hội công bằng, bình đẳng. Chủ nghĩa xã hội đặt lợi ích chung lên
trên lợi ích cá nhân, hướng tới mục tiêu xây dựng một xã hội thịnh vượng cho tất cả mọi người.
Chủ nghĩa xã hội đề cao dân chủ, coi nhân dân là chủ thể của xã hội. Do nhân
dân lao động làm chủ, tức là mọi quyền lực thuộc về nhân dân, từ quản lý nhà nước
đến tham gia xây dựng, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là đặc trưng thể
hiện thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội, vì con người và do con người; biến giai
cấp vô sản thành giai cấp thống trị. Đây là đặc trưng thể hiện thuộc tính bản chất của
chủ nghĩa xã hội, xã hội vì con người và do con người; nhân dân mà nòng cốt là nhân
dân lao động là chủ thể của xã hội thực hiện quyền làm chủ ngày càng rộng rãi và đầy
đủ trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội là một chế
độ chính trị dân chủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa với hệ thống pháp luật và hệ thống tổ
chức ngày càng hoàn thiện sẽ quản lý xã hội ngày càng hiệu quả. C. Mác và Ph.
Ăngghen đã chỉ rõ: “Bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản
biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”. VI. Lênin, từ thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết đã coi chính quyền Xô Viết, là một kiểu Nhà
nước chuyên chính vô sản, một chế độ dân chủ ưu việt gấp triệu lần so với chế độ dân
chủ tư sản: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân
chủ hơn gấp triệu lần Chính quyền Xô Viết so với nước cộng hòa tư sản dân chủ nhất
thì cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”. Có cơ sở khoa học 7
Các nhà kinh tế học xã hội như C.Mác đã phân tích sâu sắc các quy luật vận động
của xã hội tư bản, từ đó đưa ra những dự báo về sự sụp đổ của chế độ này và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội cung cấp một lý luận chính trị khoa học, chỉ ra con đường để
xây dựng một xã hội mới. Có sức hấp dẫn lớn
Chủ nghĩa xã hội vẽ ra một bức tranh tương lai tươi sáng, thu hút đông đảo người
dân, đặc biệt là những người lao động.
Chủ nghĩa xã hội được coi là một giải pháp khả thi để giải quyết những vấn đề
nan giải của xã hội tư bản. Thực tiễn lịch sử
Nhiều cuộc cách mạng xã hội trên thế giới đã được thực hiện dưới ngọn cờ chủ
nghĩa xã hội, thay đổi sâu sắc bộ mặt các quốc gia.
Nhiều quốc gia đã xây dựng các mô hình xã hội chủ nghĩa khác nhau, tạo ra
những kinh nghiệm quý báu cho phong trào.
Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội cũng đối mặt với nhiều thách thức và tranh cãi:
Một số quốc gia đã thất bại trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, dẫn đến
những hậu quả nghiêm trọng.
Không có một mô hình xã hội chủ nghĩa duy nhất phù hợp với tất cả các
quốc gia và điều kiện lịch sử.
Chủ nghĩa xã hội phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ chủ nghĩa tư bản.
3. Chủ nghĩa xã hội là phong trào đấu tranh của nhân dân lao động
Góc độ lịch sử:
Nguồn gốc của chủ nghĩa xã hội: Ra đời trong bối cảnh xã hội tư bản với những
bất bình đẳng sâu sắc, nơi một số ít người nắm giữ hầu hết tài sản trong khi đại đa số
phải sống trong nghèo khổ và lao động vất vả. Chủ nghĩa xã hội xuất hiện như một
tiếng nói phản kháng, đòi hỏi một xã hội công bằng hơn.
Các cuộc cách mạng:
Trong lịch sử, đã có nhiều cuộc cách mạng xã hội lớn nhỏ nổ ra trên toàn thế
giới, với mục tiêu lật đổ chế độ cũ, xây dựng một xã hội mới, nơi mọi người bình
đẳng. Các cuộc cách mạng này đều bắt nguồn từ những mâu thuẫn sâu sắc giữa giai
cấp thống trị và giai cấp bị áp bức. Góc độ lý luận:
Các nhà lý luận xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là C. Mác, đã phân tích sâu sắc các
mâu thuẫn trong xã hội tư bản, cho thấy sự bất công và khai thác bóc lột là những yếu
tố tất yếu dẫn đến các cuộc cách mạng.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội:
Chủ nghĩa xã hội đặt mục tiêu xây dựng một xã hội không có giai cấp, không có
sự khai thác người người, nơi mọi người cùng nhau làm việc và hưởng thụ thành quả lao động.
Mục đích cao nhất và cuối cùng của những cải tạo xã hội chủ nghĩa:
Xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp: biến tất cả thành viên trong xã hội
thành người lao động, tiêu diệt cơ sở của mọi tình trạng bóc lột người. (VI Lênin)
Nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. 8
Nhiệm vụ của giai cấp công nhân trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Tạo ra các điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật và đời sống tinh thần.
Giải phóng giai cấp được đặt lên hàng đầu, vì:
“Thay thế cho xã hội tư sản cũ với các giai cấp và những sự đối lập giai cấp của
nó sẽ là một khối liên hiệp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người sẽ là sự phát
triển tự do của tất cả mọi người.” (Mác, Ăngghen - Tuyên ngôn Đảng Cộng sản)
Con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội của chính mình thì cũng do đó làm
chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình, trở thành một người tự do.
Chủ nghĩa xã hội muốn làm một cuộc cách mạng triệt để thì đầu tiên phải tiến
hành xóa bỏ tình trạng giai cấp này bóc lột, áp bức giai cấp kia, và một khi tình trạng
áp bức, bóc lột người bị xóa bỏ thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị loại bỏ”.
Chủ nghĩa xã hội là một phong trào đấu tranh lâu dài và rộng khắp của nhân dân
lao động nhằm xóa bỏ bất công, áp bức và xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ.
Đây là một quá trình lịch sử lâu dài và phức tạp, đòi hỏi sự kiên trì, đoàn kết và sáng tạo của nhân dân. Ví dụ
: Cách mạng tháng Mười Nga 1917 là một trong những sự kiện lịch sử quan
trọng nhất của thế kỷ 20, đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Cuộc cách mạng này đã lật đổ chế
độ Nga hoàng chuyên chế, thành lập nhà nước Xô viết đầu tiên trên thế giới, mở ra
một kỷ nguyên mới cho phong trào cộng sản quốc tế. Nguyên nhân là chiến tranh thế
giới thứ nhất đã đẩy nước Nga vào tình trạng suy sụp hoàn toàn: nền kinh tế lạc hậu,
công nghiệp phát triển chậm, bất bình đẳng xã hội sâu sắc, chế độ Nga hoàng chuyên
chế đàn áp nhân dân. Tháng 10/1917, đảng Bôn - sê - vích dưới sự lãnh đạo của Lê -
nin thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, lật đổ chính phủ lâm thời tư sản, thành
lập chính quyền Xô viết. Cách mạng Tháng Mười trở thành tấm gương sáng cho các
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp trên thế giới. Cuộc cách mạng đã làm
thay đổi cục diện chính trị thế giới, thúc đẩy phong trào công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ.
II. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN PHẢN
ÁNH LÝ TƯỞNG GIẢI PHÓNG NHÂN DÂN LAO ĐỘNG KHỎI ÁP BỨC BÓC LỘT BẤT CÔNG.
1. Chủ nghĩa xã hội là trào lưu tư tưởng
a. Phản ánh hiện thực xã hội và lý tưởng thay đổi xã hội
Chủ nghĩa xã hội xuất phát từ sự bất bình với hiện thực xã hội tư bản, nơi mà giai
cấp công nhân và nhân dân lao động bị bóc lột bởi giai cấp tư sản (những người sở hữu
tư liệu sản xuất). C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng xã hội tư bản chứa đựng những
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa, và điều này đã dẫn đến sự phát triển của một
hệ thống tư tưởng nhằm thay đổi xã hội, xoá bỏ tình trạng bất công.
Tư tưởng của chủ nghĩa xã hội kêu gọi một xã hội không còn sự bất bình đẳng và
bóc lột, nơi tư liệu sản xuất được sở hữu công cộng thay vì thuộc về một thiểu số giàu
có. Lý tưởng của nó là xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, trong đó tất cả mọi
người đều có quyền bình đẳng trong việc hưởng thụ các thành quả của lao động. 9
b. Phê phán chủ nghĩa tư bản
Một trong những đặc điểm nổi bật của tư tưởng xã hội chủ nghĩa là nó dựa trên
sự phê phán chủ nghĩa tư bản. C.Mác và Ph.Ăngghen lập luận rằng chủ nghĩa tư bản
tạo ra một hệ thống sản xuất theo đó người lao động bị bóc lột để tạo ra giá trị thặng
dư, nhưng lợi nhuận đó lại thuộc về người sở hữu tư liệu sản xuất (giai cấp tư sản).
Theo tư tưởng của chủ nghĩa xã hội, hệ thống này là không công bằng vì nó dẫn đến
tình trạng một nhóm nhỏ sở hữu hầu hết của cải trong xã hội, trong khi đa số người
dân phải sống trong nghèo khổ.
Chủ nghĩa xã hội phê phán chủ nghĩa tư bản ở chỗ nó tạo ra sự bất bình đẳng sâu
sắc và làm cho giai cấp công nhân không có quyền kiểm soát cuộc sống và công việc
của họ. Thay vào đó, chủ nghĩa xã hội kêu gọi xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất và thiết lập quyền sở hữu công cộng.
2. Chủ nghĩa xã hội là lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao
động khỏi áp bức và bóc lột.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là theo chủ nghĩa Mác-Lênin là giải
phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi tình trạng bị áp bức và bóc lột.
Theo đó, lý tưởng này hướng đến việc thiết lập một xã hội không còn giai cấp, nơi mà
quyền sở hữu tư liệu sản xuất sẽ thuộc về toàn thể xã hội, và lợi ích sản xuất sẽ được
chia đều cho mọi người. Khi công nhân nắm giữ tư liệu sản xuất, họ sẽ không còn bị
bóc lột bởi những người trung gian, mà được hưởng lợi trực tiếp từ sức lao động của
mình. Đây là một trong những điểm cốt lõi phản ánh lý tưởng xã hội công bằng và không còn áp bức.
Mác và Lênin cho rằng xã hội tư bản gây ra tình trạng phân hóa giàu nghèo,
trong đó một thiểu số (giai cấp tư sản) kiểm soát tài nguyên và của cải, trong khi đa số
(giai cấp lao động) phải làm việc dưới sự kiểm soát và bóc lột của tầng lớp này. Chủ
nghĩa xã hội ra đời để đấu tranh loại bỏ những bất công này, xây dựng một xã hội mà
mỗi cá nhân có thể phát triển toàn diện và bình đẳng về cơ hội.
Chủ nghĩa xã hội nhìn nhận rằng trong xã hội tư bản, con người bị biến thành
công cụ lao động và không có điều kiện để phát triển bản thân. Vì vậy, lý tưởng của
chủ nghĩa xã hội là xây dựng một môi trường xã hội và kinh tế trong đó mọi người đều
có điều kiện tiếp cận giáo dục, y tế, và các cơ hội để phát triển toàn diện.
Hướng đến xây dựng xã hội công bằng, không giai cấp: Chủ nghĩa xã hội còn
phản ánh lý tưởng xây dựng một xã hội không có sự phân chia giai cấp. Khi giai cấp
công nhân chiếm lĩnh tư liệu sản xuất và tổ chức lại nền kinh tế, xã hội sẽ tiến tới một
trạng thái không còn áp bức giai cấp và bất công xã hội. Mác và Ăngghen tin rằng
trong một xã hội không có giai cấp, tất cả mọi người sẽ bình đẳng và tự do, không ai
phải chịu cảnh nghèo đói hoặc bị áp bức bởi người khác.
Ví dụ: Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga (1917)
Cuộc cách mạng Tháng Mười là một minh chứng điển hình cho lý tưởng của
chủ nghĩa xã hội trong việc giải phóng giai cấp công nhân khỏi sự áp bức của chế độ
phong kiến và tư bản. Trước cách mạng, nước Nga nằm dưới chế độ quân chủ của Sa
hoàng, nơi người dân lao động bị bóc lột nặng nề. Đất nước chủ yếu là nông nghiệp,
và nông dân bị áp bức bởi giới quý tộc và địa chủ. Tầng lớp công nhân trong các 10
thành phố cũng phải chịu điều kiện làm việc khắc nghiệt và mức lương thấp trong các nhà máy.
Lãnh đạo của Đảng Bolshevik, do Lênin đứng đầu, đã tập hợp lực lượng công
nhân và nông dân để lật đổ chính quyền Sa hoàng và sau đó là Chính phủ Lâm thời.
Kết quả là Đảng Bolshevik đã thành công trong việc thiết lập một chính quyền Xô
viết, với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, nơi quyền lực thuộc về giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Chế độ tư hữu tư liệu sản xuất bị xóa bỏ, tài sản và tài
nguyên quốc gia được công hữu hóa. Sau cách mạng, đất đai của giới địa chủ và tài
sản của các nhà tư bản được quốc hữu hóa và phân phối lại cho người lao động. Công
nhân tham gia vào các hội đồng quản lý nhà máy, trong khi nông dân được chia lại
ruộng đất. Đây là một biểu hiện cụ thể của lý tưởng giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức và bóc lột.
Quan điểm trên nhấn mạnh tính cách mạng của chủ nghĩa xã hội trong việc giải
phóng nhân dân lao động khỏi sự áp bức và bóc lột của hệ thống tư bản. Đây không
chỉ là một trào lưu tư tưởng mà còn là một phương pháp lý luận với mục tiêu cụ thể,
dựa trên sự phân tích khoa học về xã hội và lịch sử. Chủ nghĩa Marx-Lenin định
hướng cho một xã hội tương lai công bằng hơn, nơi mà quyền lợi của người lao động
được bảo vệ và phát triển.
III. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC - CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC - LÀ KHOA HỌC VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1. Khái niệm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
a. Khái niệm giai cấp công nhân
Khái niệm giai cấp công nhân được xác định dựa trên hai phương diện:
Về phương diện kinh tế - xã hội: Công nhân là người lao động trực tiếp hoặc gián
tiếp vận hành công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện tại và có tính xã hội hóa cao
Về phương diện chính trị - xã hội: Trong chủ nghĩa tư bản, công nhân không sở
hữu tư liệu sản xuất chỉ yếu, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị bóc lột giá trị thặng dư.
Từ hai phương diện trên theo chủ nghĩa Mác - Lênin giai cấp công nhân là một
tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền
công nghiệp hiện đại; Là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến; Là lực
lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; Ở
các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ
bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản
bóc lột giá trị thặng dư; Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng nhân
dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì
lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của mình.
b. Sứ mệnh của giai cấp công nhân
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là những nhiệm vụ mà
giai cấp công nhân cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong, là lực lượng
đầu trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. 11
- Theo chủ nghĩa Mác - Lênin sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân tổng quát
là thông qua chính đảng tiền phong, giai cấp công nhân tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao
động đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn,
lạc hậu và xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
- Sứ mệnh của giai cấp được thể hiện cụ thể qua từng nội dung:
Nội dung kinh tế: giai cấp công nhân là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, tiên
tiến nhất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, đại biểu cho phương thức sản
xuất tiến bộ nhất từ đó giai cấp công nhân tạo tiền đề vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời
của xã hội mới. Và ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân thông qua quá
trình công nghiệp hóa và thực hiện “một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động” để tăng
năng suất lao động xã hội và thực hiện các nguyên tắc sở hữu, quản lý và phân phối
phù hợp với nhu cầu phát triển sản xuất, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Nội dung chính trị - xã hội: lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ chế
độ bóc lột, áp bức của chủ nghĩa tư bản, giành quyền lực về tay giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Thiết lập nhà nước kiểu mới, thực hiện quyền lực của nhân dân,
quyền dân chủ và làm chủ xã hội. cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã hội mới,
phát triển kinh tế và văn hóa, xây dựng nền chính trị dân chủ - pháp quyền, quản lý
kinh tế - xã hội và tổ chức đời sống xã hội phục vụ quyền và lợi ích của nhân dân.
Nội dung văn hóa tư tưởng: Giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn
hóa, tư tưởng bao gồm cải tạo cái cũ lỗi thời, lạc hậu, xây dựng cái mới, tiến bộ trong
lĩnh vực ý thức tư tưởng, trong tâm lý, lối sống và trong đời sống tinh thần xã hội. Xây
dựng và củng cố ý thức hệ tiên tiến của giai cấp công nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin,
đấu tranh để khắc phục ý thức hệ tư sản và các tàn dư còn sót lại của các hệ tư tưởng cũ.
Ví dụ: Tại Liên Xô, giai cấp công nhân đã thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình
thông qua các giai đoạn chính sau như cách mạng Tháng Mười giai cấp công nhân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Bolshevik, đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười, lật
đổ chính quyền tư sản và thiết lập nền chuyên chính vô sản và sau khi giành chính
quyền, giai cấp công nhân đã tiến hành xây dựng nhà nước Xô viết, một hình thức nhà
nước mới, đại diện cho quyền lợi của nhân dân lao động. Bên cạnh đó giai cấp công
nhân tại Liên Xô cũng tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là tiến hành cải tạo xã
hội cũ, quốc hữu hóa các tư liệu sản xuất lớn, xóa bỏ chế độ bóc lột người, thực hiện
công nghiệp hóa nhanh chóng, xây dựng một nền kinh tế công nghiệp hiện đại, nỗ lực
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, xóa bỏ nạn thất nghiệp, đảm bảo
quyền lợi cho người lao động và xây dựng một nền văn hóa mới, tiến bộ, phục vụ cho lợi ích của nhân dân.
2. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
a. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm những điều kiện sau:
Do điều kiện kinh tế của giai cấp công nhân quy định: giai cấp công nhân đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại. quy định giai 12
cấp công nhân là lực lượng phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính
quyền về tay mình, chuyển từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “vì nó”. Giai cấp công là
lực lượng duy nhất có đủ điều kiện để tổ chức, lãnh đạo, xây dựng một xã hội mới
Do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định: giai cấp công nhân
có được những phẩm chất của một giai cấp tiên tiến, giai cấp cách mạng: tính tổ chức
và kỷ luật, tự giác và đoàn kết trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng
xã hội. Bên cạnh đó giai cấp công nhân cũng là một giai cấp cách mạng, đại biểu cho
lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức sản xuất tiên tiến thay thế phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, xác lập phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cuối cùng, một điều quan trọng hơn hết là giai cấp
công nhân được trang bị những lý luận tiên tiến và có Đảng Cộng Sản lãnh đạo.
b, Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh của lịch sử
Có ba điều kiện chủ quan quan trọng để giai cấp công nhân có thể thực hiện được
sứ mệnh lịch sử của mình, đó là:
- Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng:
giai cấp công nhân cần sự lớn mạnh cả về quy mô cũng như sự phát triển thể hiện ở
trình độ trưởng thành về ý thức chính trị của một giai cấp cách mạng, tức là tự giác
nhận thức được vai trò và trọng trách của giai cấp mình đối với lịch sử. Bên cạnh đó là
chất lượng giai cấp công nhân thể hiện ở năng lực và trình độ làm chủ khoa học kỹ
thuật và công nghệ hiện đại. Chỉ với sự phát triển như vậy về số lượng và chất lượng,
đặc biệt về chất lượng thì giai cấp công nhân mới có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình.
Để làm được điều này đòi hỏi chú ý đến hai biện pháp cơ bản là phát triển công
nghiệp và xây dựng Đảng Cộng sản - hạt nhân chính trị của giai cấp công nhân.
- Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình: Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội và
nguồn bổ sung lực lượng quan trọng nhất của Đảng và Đảng Cộng Sản là đội tiền
phong của giai cấp công nhân, thực hiện lãnh tụ chính trị và tham mưu chiến đấu cho
giai cấp công nhân từ đó trở thành nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện sứ mệnh lịch sử
thắng lợi của giai cấp công nhân.
- Phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
các tầng lớp lao động khác do giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó là
Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Ví dụ: Tại Việt Nam giai cấp công nhân có sự gia tăng lớn về số lượng, được kế
thừa truyền thống đấu tranh anh hùng bất khuất của dân tộc, lại phải chịu ba tầng áp
bức nặng nề nên họ có tình thần cách mạng cao. Bên cạnh đó đa số công nhân xuất
thân từ nông dân và các tầng lớp lao động khác nên có mối quan hệ khăng khít, chặt
chẽ với giai cấp nông dân, tầng lớp tri thức cũng như các giai tầng khác trong xã hội.
Tuy ra đời sau Cách mạng Tháng Mười Nga, giai cấp công nhân nước ta là giai cấp
thuần nhất về tư tưởng, sớm tập trung về lực lượng, giác ngộ cách mạng, tiếp thu chủ
nghĩa Mác – Lênin và tổ chức được chính Đảng của mình. Nhờ vậy mà trong lịch sử
đất nước, giai cấp công nhân đã nhận thức rõ sứ mệnh của mình theo từng nội dung và
đấu tranh giành được thắng lợi, xây dựng xã hội phát triển công bằng, bình đẳng, văn
minh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và liên minh giữa các giai cấp. 13
IV. LÀ MỘT CHẾ ĐỘ XÃ HỘI TỐT ĐẸP, GIAI ĐOẠN ĐẦU CỦA HÌNH
THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA
1. Sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, C.Mác Ph.Ăngghen khi nghiên cứu
lịch sử phát triển của xã hội loài người, nhất là lịch sử xã hội tư bản đã xây dựng nên
học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội. Học thuyết vạch rõ những quy luật cơ bản của
vận động xã hội, chỉ ra phương pháp khoa học để giải thích lịch sử. Học thuyết hình
thái kinh tế- xã hội của C. Mác không chỉ làm rõ những yếu tố cấu thành hình thái kinh
tế- xã hội mà còn xem xrt xã hội trong quá trình biến đổi và phát triển không ngừng.
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội do C.Mác và Ph.Ăngghen khởi xướng
được V.I.Lênin bổ sung, phát triển và hiện thực hóa trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết trở thành học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tài sản vô giá của nhân loại.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra tính tất
yếu sự thay thế hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa, đó là quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự thay thế này được thực
hiện thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa xuất phát từ hai tiền đề vật chất quan trọng
nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp công nhân.
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội do C.Mác và Ph.Ăngghen phát minh tạo
nên cuộc cách mạng trong quan niệm về lịch sử xã hội loài người, là cơ sở khoa học để
nhận thức chân thực về thời kỳ quá độ. Trên cơ sở quan điểm sản xuất vật chất là cơ sở
của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết
định các mặt của đời sống xã hội,
đồng thời là cơ sở quyết định sự hình thành, phát triển, thay thế lẫn nhau giữa các hình
thái kinh tế - xã hội, làm sáng tỏ, xã hội loài người đã và sẽ tuần tự trải qua 5 hình thái
kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; đỉnh cao, tiến bộ nhất là hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa (CSCN). Giữa các hình thái ấy luôn có một thời kỳ chuyển tiếp được gọi
là thời kỳ quá độ. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã
cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho sự phân kỳ lịch sử, trong đó
có sự phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
2. Phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Khi phân tích hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp
lên cao qua hai giai đoạn, giai đoạn thấp là xã hội chủ nghĩa và giai đoạn cao là cộng sản chủ nghĩa.
Ở giai đoạn xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế và sự phát triển của văn hóa mới đạt
tới giới hạn và chỉ đảm bảo cho xã hội thực hiện nguyên tắc “Làm theo năng lực,
hưởng theo lao động”. Trong giai đoạn này nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc
điều hành nền kinh tế, các phương tiện sản xuất chủ yếu thuộc sở hữu của nhà nước
hoặc của các tổ chức xã hội và mức thu nhập của mỗi người dựa trên lượng lao động
đóng góp. Không còn giai cấp bóc lột và bị bóc lột. Giai đoạn này đã tập trung vào
mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, trong đó mọi người được đảm bảo
cuộc sống đầy đủ, có cơ hội phát triển toàn diện. Xã hội chủ nghĩa được xem là một
giai đoạn chuyển tiếp không thể tránh khỏi trên con đường đi lên chủ nghĩa cộng sản,
đóng vai trò là nền tảng để xây dựng và phát triển lên chủ nghĩa cộng sản. 14
Ở giai đoạn cộng sản chủ nghĩa, con người không còn bị lệ thuộc vào sự phát
triển của lao động; lao động vừa là phương tiện sống, vừa trở thành nhu cầu bậc nhất
của cuộc sống; sự phát triển phi thường của lực lượng sản xuất tạo ra năng suất lao
động ngày càng tăng, của cải tuôn ra dào dạt… xã hội đủ các điều kiện vật chất và tinh
thần để thực hiện nguyên tắc“Làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu”; sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta" (1875) C.Mác đã cho rằng: “Giữa
xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ
chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính
cách mạng của giai cấp vô sản”. Khẳng định quan điểm của C. Mác, V.I. Lênin cho
rằng: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định”.
Về xã hội của thời kỳ quá độ, C. Mác cho rằng đó là xã hội vừa thoát thai từ xã
hội tư bản chủ nghĩa, xã hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó còn mang nhiều
dấu vết của xã hội cũ để lại: “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã
hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội
cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội về
mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ
mà nó đã lọt lòng ra". Sau này, từ thực tiễn nước Nga, V. I Lênin cho rằng, đối với
những nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển cao “cần phải có thời kỳ quá độ khá
lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Vậy là, về mặt lý luận và thực tiễn, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa cộng sản, được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, đối với các nước chưa trải qua chủ
nghĩa tư bản phát triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội- những cơn đau đẻ kro dài; thứ hai, đối với những nước đã trải
qua chủ nghĩa tư bản phát triển, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một
thời kỳ quá độ nhất định, thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia,
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Ví dụ: Ở giai đoạn chủ nghĩa xã hội, sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Liên Xô
đã xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ, quốc hữu hóa các ngành
kinh tế trọng yếu, xóa bỏ chế độ bóc lột người lao động. Tuy nhiên, nền kinh tế Liên
Xô gặp phải nhiều khó khăn như thiếu linh hoạt, năng suất lao động thấp, thiếu sự
cạnh tranh. Đến những năm 1980, Liên Xô rơi vào tình trạng trì trệ, không thể thích
ứng với sự thay đổi của tình hình thế giới. Điều này cho thấy, mặc dù đã đạt được
nhiều thành tựu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng Liên Xô vẫn chưa vượt qua
được giai đoạn đầu và chưa đạt đến trình độ của cộng sản chủ nghĩa. 15 CHƯƠNG 2: C
HỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀO
I. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG TIỀN ĐỀ ĐỂ TỪNG BƯỚC TIẾN LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở LÀO
Lào đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chưa phải một
quốc gia xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh, mà đang trên con đường xây dựng các tiền đề
cho một xã hội xã hội chủ nghĩa. Đảng NDCM Lào xác định rõ rằng đất nước cần phải
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau để phát triển nền tảng kinh tế, chính trị và văn hóa
phù hợp trước khi có thể hoàn thành mục tiêu này. Giai đoạn quá độ này được hiểu là
quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại hơn, với sự quản
lý chặt chẽ của nhà nước.
1. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Lào
Lào là một quốc gia theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ
tư tưởng Mác-Lênin và các mô hình xã hội chủ nghĩa ở các nước khác, đặc biệt là Việt
Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển, Lào đã phát
triển một quan niệm về chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện đặc thù của đất nước.
Chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu: Theo quan điểm của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào, chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đưa Lào đến độc lập, tự chủ
và phát triển bền vững. Đây là một lý tưởng lâu dài mà Lào phấn đấu để đạt được
thông qua các cải cách kinh tế và xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cách thức linh hoạt: Lào nhận thức rằng không
thể áp dụng hoàn toàn mô hình xã hội chủ nghĩa của các nước khác mà phải điều chỉnh
để phù hợp với đặc điểm cụ thể của Lào, bao gồm trình độ phát triển kinh tế, xã hội và
văn hóa. Điều này thể hiện qua việc thúc đẩy "đổi mới" theo kiểu của Lào, tức là kết
hợp kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhấn mạnh vai trò của nhà nước: Lào định hình chủ nghĩa xã hội là con đường
phát triển đất nước dựa trên sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
(Đảng NDCM Lào). Trong quan niệm này, Đảng giữ vai trò tiên phong, dẫn dắt toàn
bộ quá trình xây dựng và phát triển xã hội. Quan niệm này phù hợp với các tư tưởng
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
thông qua một đảng duy nhất cầm quyền.
Lấy nhân dân làm trung tâm: Mọi chính sách và hoạt động đều hướng tới mục
tiêu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Thông qua các tổ chức chính trị và xã hội như Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào, Mặt trận Lào Xây dựng Đất nước, nhân dân được tham gia vào
quá trình ra quyết định và kiểm soát xã hội.
Độc lập dân tộc: Lào luôn đặt vấn đề độc lập dân tộc lên hàng đầu, kiên quyết
bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Hướng đến giải phóng con người khỏi sự áp
bức, bóc lột giai cấp, từ đó tạo điều kiện để tất cả các cá nhân phát triển toàn diện. Sự
giải phóng này không chỉ dừng lại ở sự thay đổi về cấu trúc kinh tế và chính trị, mà
còn mang đến tự do về mặt tinh thần và xã hội.
Hòa bình, trung lập: Lào là quốc gia đa dân tộc, do đó sự đoàn kết giữa các dân
tộc là điều kiện tiên quyết để duy trì ổn định xã hội và phát triển bền vững. Chính sách
dân tộc của Lào hướng tới việc đảm bảo quyền lợi và sự phát triển bình đẳng cho tất cả 16
các dân tộc, bất kể quy mô hay đặc điểm văn hóa. Lào chủ trương hòa bình, hữu nghị
với tất cả các quốc gia, không tham gia bất kỳ khối quân sự nào. Bên cạnh đó, Lào
cũng luôn coi trọng việc hợp tác với các nước trên thế giới, đặc biệt là trong khu vực
Đông Nam Á và các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Lào luôn giữ vững quan điểm hòa
bình, hữu nghị và hợp tác quốc tế để cùng nhau phát triển, đóng góp vào hòa bình và an ninh toàn cầu.
2. Quá trình xây dựng tiền đề để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội
Lào đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chưa phải một
quốc gia xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh, mà đang trên con đường xây dựng các tiền đề
cho một xã hội xã hội chủ nghĩa. Đảng NDCM Lào xác định rõ rằng đất nước cần phải
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau để phát triển nền tảng kinh tế, chính trị và văn hóa
phù hợp trước khi có thể hoàn thành mục tiêu này. Cũng giống như Việt Nam, từ sau
khi tiến hành công cuộc đổi mới, nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào đã lựa chọn
con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đã đạt
những thành tựu to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử.
Quá trình xây dựng tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội của Lào được thực hiện
một cách từng bước, phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa và xã hội của đất nước.
Dưới đây là những giai đoạn quan trọng trong quá trình này:
Giai đoạn trước và sau hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954
Trước hiệp định Giơ-ne-vơ 1954:
Trước Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, Lào trải qua nhiều bất ổn chính trị và kinh tế.
Dù sự hiện diện của quân đội Pháp và viện trợ từ Pháp và Mỹ tạo ra một sự bùng nổ
kinh tế, lợi ích chỉ tập trung ở thành thị, trong khi nông dân vẫn nghèo khổ. Chính phủ
Lào yếu krm, chia rẽ và tham nhũng, với những mâu thuẫn giữa các phe phái chính trị.
Souvanna Phouma, nhà chính trị phi cộng sản, bị phe cánh hữu phản đối vì chính sách
hòa giải với lực lượng Pathet Lào do Việt Minh hỗ trợ.
Phong trào đấu tranh giành độc lập: Từ những năm 1940, Lào đã chứng kiến sự
trỗi dậy của phong trào đấu tranh chống lại sự thống trị của thực dân Pháp. Trong bối
cảnh này, nhiều tổ chức cách mạng hình thành, đóng vai trò lãnh đạo trong việc khơi
dậy tinh thần dân tộc. Sự thành lập của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào năm 1955 là
dấu mốc quan trọng. Đây là tổ chức chính trị lãnh đạo cuộc đấu tranh vì độc lập, ảnh
hưởng từ phong trào cách mạng thế giới và tinh thần Mác-Lênin.
Năm 1953, Lào giành độc lập từ Pháp, nhưng Pathet Lào và Việt Minh kiểm soát
nhiều vùng lãnh thổ, đe dọa chính phủ Lào. Cuộc chiến tại Việt Nam khiến Pháp suy
yếu, và sau thất bại tại Điện Biên Phủ năm 1954, Pháp quyết định rút khỏi Đông
Dương. Tại Hội nghị Genève, Lào được công nhận là quốc gia trung lập với một chính
phủ liên hiệp. Lệnh ngừng bắn có hiệu lực vào tháng 8 năm 1954 và yêu cầu rút quân
nước ngoài, giải tán quân đội Pathet Lào, và tổ chức bầu cử tự do. Liên minh với các
lực lượng cách mạng Đông Dương: Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập, Lào có mối
liên hệ chặt chẽ với Việt Nam và Campuchia. Đặc biệt, Lào đã nhận được sự hỗ trợ to
lớn từ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Phong trào đấu tranh của
Lào cũng là một phần trong phong trào đấu tranh chung của nhân dân Đông Dương.
Sau hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 - 1975: 17
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, Lào chính thức được công nhận là một quốc gia
độc lập, nhưng tình hình chính trị vẫn còn bất ổn. Từ năm 1954 đến 1975, đất nước
này đã trải qua một thời kỳ xung đột kro dài, bao gồm cuộc nội chiến Lào và sự can
thiệp của các cường quốc nước ngoài.
Giai đoạn đầu (1954-1960): Pathet Lào, một lực lượng cộng sản được Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa hỗ trợ, chiếm giữ một phần lớn lãnh thổ Lào. Trong khi đó,
chính phủ Hoàng gia Lào được Mỹ và phương Tây hỗ trợ. Điều này dẫn đến sự chia rẽ
chính trị sâu sắc trong nước.
Hiệp định Trung lập Lào 1962: Một giải pháp hòa bình tạm thời được thiết
lập tại Hội nghị Giơ-ne-vơ 1962, tuyên bố Lào là quốc gia trung lập với một chính phủ
liên hiệp. Tuy nhiên, các bên nhanh chóng vi phạm thỏa thuận này. Quân đội Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục hoạt động tại Lào, và Mỹ bắt đầu can thiệp mạnh mẽ,
bao gồm cả các chiến dịch nrm bom để ngăn cản sự lan rộng của cộng sản.
Giai đoạn xung đột quyết liệt (1964-1973): Nội chiến Lào trở nên ác liệt hơn
khi Pathet Lào, với sự hỗ trợ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tăng cường tấn công
vào lực lượng Hoàng gia Lào. Đồng thời, Đường mòn Hồ Chí Minh chạy qua Lào trở
thành con đường tiếp tế quan trọng cho Việt Nam trong chiến tranh Đông Dương.
Sự kết thúc của cuộc nội chiến (1975): Sau khi các cuộc chiến tranh ở Việt
Nam và Campuchia kết thúc vào năm 1975, Pathet Lào giành được quyền kiểm soát
hoàn toàn đất nước. Chính phủ Hoàng gia Lào sụp đổ, và Lào trở thành nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào vào tháng 12 năm 1975, đánh dấu sự thống nhất dưới sự
lãnh đạo của lực lượng cộng sản. Đây là sự kiện quan trọng, chấm dứt chế độ quân chủ
và mở ra một giai đoạn mới, đưa Lào vào con đường xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn xây dựng đất nước sau năm 1975
Sau năm 1975, Lào bắt đầu quá trình xây dựng hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đây là
giai đoạn đầy khó khăn do đất nước vừa thoát ra từ chiến tranh kro dài, kinh tế krm
phát triển và phụ thuộc nhiều vào viện trợ nước ngoài.
Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa: Lào đã tiến hành tái cơ cấu toàn
diện hệ thống chính trị, thiết lập một chính quyền mới do Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào lãnh đạo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa Lào được tổ chức theo mô hình tập trung
quyền lực, trong đó Đảng đóng vai trò lãnh đạo toàn diện.
Kinh tế kế hoạch hóa tập trung: Giống như nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác,
Lào đã áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung với sự kiểm soát chặt chẽ của
nhà nước trong mọi lĩnh vực kinh tế. Đất nước đã quốc hữu hóa nhiều tài sản của tư
nhân, tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp và xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp.
Khó khăn về kinh tế và xã hội: Do kinh tế chưa phát triển, nguồn lực tài chính
hạn chế và bị phụ thuộc nhiều vào viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa, Lào đã gặp
nhiều khó khăn trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển các ngành kinh tế.
Điều này dẫn đến sự trì trệ và chậm phát triển trong những năm đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn đổi mới và phát triển từ năm 1986
Chính sách đổi mới
Tại Đại hội IV của Đảng NDCM Lào năm 1986 là sự kiện mang tính bước ngoặt
quan trọng trong đổi mới tư duy và nhận thức về kinh tế thị trường. Đại hội đã đề ra 18
phương hướng và nhiệm vụ chính trong giai đoạn quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa, trong
đó Có chính sách phát triển kinh tế thông qua cải cách cơ chế quản trị, vận dụng đúng
đắn mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ, đề ra các tiêu chí xóa bỏ cơ chế quản lý tập thể
quan liêu, bao cấp là những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu.
Tư duy mở về kinh tế: Trước những khó khăn về kinh tế, năm 1986, Lào quyết
định thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, khởi động một giai đoạn phát triển mới.
Chính sách này mang tên "Chương trình kinh tế mới", trong đó Lào chấp nhận kinh tế
thị trường nhưng vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mở cửa nền kinh tế: Lào chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó khuyến khích sự
tham gia của khu vực tư nhân và các doanh nghiệp nước ngoài. Chính sách mở cửa
này đã tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và hợp tác quốc tế.
Đẩy mạnh nông nghiệp và phát triển cơ sở hạ tầng: Trong quá trình đổi mới, Lào
tập trung vào phát triển nông nghiệp và nâng cao cơ sở hạ tầng. Nông nghiệp vẫn là
ngành chủ đạo của nền kinh tế, những nước này cũng từng bước đa dạng hóa nền kinh
tế, phát triển các ngành công nghiệp nhẹ và du lịch.
Chính sách phát triển
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong thời gian đầu của công cuộc đổi mới, phát triển nông nghiệp vẫn là chủ yếu,
nhưng sau khi thực hiện công cuộc đổi mới, cơ cấu kinh tế đã chuyển sang công
nghiệp và dịch vụ nhiều hơn. Hiện Lào đã hoàn thành cơ bản việc xây dựng đường
quốc lộ ở các tỉnh có đường nối liền với quốc tế, hệ thống đường giao thông kết nối
với khu vực được sử dụng hiệu quả hơn. Hệ thống viễn thông cũng được cải thiện
bằng cách sử dụng kỹ thuật hiện đại.
Về văn hóa - xã hội: Lào đã xây dựng cơ sở và trang thiết bị, kỹ thuật tại các
bệnh viện lớn, việc xây dựng trường học và trung tâm nghề nghiệp cho tới việc nâng
cấp về y tế ở khu vực ngoại thành và vùng nông thôn được thực hiện thường xuyên và
từng bước được nâng cấp, trở thành nhân tố cơ bản bảo đảm phát triển kinh tế bền
vững trong những năm qua, trong đó, Lào đã đạt được chỉ số phát triển nhân lực của
các nước thoát khỏi tình trạng krm phát triển, việc giải quyết nghèo của người dân có
tiến độ và liên tục giảm.
Việc huy động vốn và thu hút đầu tư có xu hướng khả quan hơn, nhân dân đặt
niềm tin nhiều hơn vào các tổ chức tín dụng, việc cho vay từ các tổ chức tài chính
quốc tế cũng được huy động nhiều hơn và thu hút đầu tư nước ngoài đều tăng hằng
năm; tỷ lệ lạm phát được kiểm soát; tỷ giá hối đoái ngày càng ổn định.
Về môi trường, Lào đã ban hành chính sách quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên, nhất là rừng và nước - hai nguồn tài nguyên phục vụ cho cho
phát triển công nghiệp năng lượng của Lào. 19
3. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng tiền đề để từng
bước tiến lên chủ nghĩa xã hội a. Thành tựu
Trong sự nghiệp giữ gìn và xây dựng đất nước trong suốt 43 năm qua, Đảng
Nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo các bộ tộc Lào đạt được những thành tựu sau:
Về chính trị
Hệ thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân đã được củng cố vững chắc.
Đảng không ngừng được chỉnh đốn, ngày càng vững mạnh, trong sạch. Hệ thống tổ
chức Đảng từ Trung ương xuống cơ sở được củng cố (gần 6.2090 cơ sở Đảng, 281.013
đảng viên, trong đó có 63.748 nữ đảng viên, tăng 77.992 đồng chí so với năm 2011).
Đảng viên đạt loại vững mạnh 73,49%, trung bình 26%, yếu 0,2%.
Nhà nước dân chủ không ngừng được củng cố, hoàn thiện, sắp xếp, bố trí lại gọn
nhẹ, quản lý nhà nước, quản lý xã hội có hiệu quả. Chính phủ có 18 Bộ, 3 cơ quan
ngang Bộ, có sự phân công trách nhiệm quản lý giữa trung ương với địa phương. Cơ
quan chính quyền địa phương được củng cố, đã thành lập HĐND ở cấp tỉnh và thủ đô.
Hiện nay có 17 tỉnh và 1 thủ đô, 148 huyện, 8.507 bản.
Hợp tác quốc tế: Lào cũng đã mở rộng quan hệ quốc tế, gia nhập ASEAN năm
1997, và thiết lập nhiều thỏa thuận hợp tác kinh tế với các nước lớn trong khu vực như
Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan. Về kinh tế
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần
kinh tế, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức kinh tế bình đẳng, hợp tác
và cạnh tranh nhau theo pháp luật. Tăng trưởng kinh tế có xu hướng tăng. GDP năm
2001-2005 là 6,3%, năm 2011-2015 là 7,9%, năm 2016-2017 là 6,8% và năm 2018 là 6,7%.
Tổng sản phẩm quốc nội GDP đầu người năm 2001-2005 là 491 USD, năm
2014-2015 là 1.970 USD, năm 2016-2017 là 2.472 USD.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa như:
Ngành nông - lâm nghiệp từ 51% vào năm 2000 giảm còn 23,7% vào năm
2014 - 2015 và 16,34% năm 2016-2017.
Ngành công nghiệp tăng từ 23,3% vào năm 2000 thành 23,7% vào năm 2014
-2015 và 30,04% vào năm 2016-2017.
Ngành du lịch tăng từ 25,7% vào năm 2000 thành 47,2% vào năm 2014 -
2015 và 42,8% vào năm 2016-2017 (kế hoạch là 34,7%).
Tóm lại, việc phát triển kinh tế có nhiều kết quả tích cực, thu nhập thực tế của
nhân dân được cải thiện, tình hình nghèo của người dân từng bước được giải quyết
(giảm xuống), đời sống của người dân được nâng cao, có điều kiện phát triển các mặt khác.
Về văn hóa - xã hội
Đảng - Chính phủ lấy phát triển nguồn nhân lực là trọng tâm của sự phát triển,
cải cách giáo dục quốc gia, làm cho chất lượng nền giáo dục có sự thay đổi tích cực, tỷ
lệ vào học các cấp đều tăng lên như: 20