Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh là sự lựa chọn phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh là sự lựa chọn phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45469857
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE ---oOo--- BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội của Hồ Chủ tịch là sự
lựa chọn phù hợp với điều kiện lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Họ tên sinh viên: Đặng Lê Thanh Mai Mã sinh viên: 11213623
Lớp: POHE Truyền thông Marketing 63
Hà Nội, ngày 21 tháng 10 năm 2022 lOMoAR cPSD| 45469857 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................3
I. Sự tiếp cận của Hồ Chí Minh về
CNXH........................................................................4
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về
CNXH................................................................4
2. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh đối với
CNXH.....................................................4
II. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH – vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh..5 1. Độc lập dân
tộc.......................................................................................................5
2. Tính nhất thiết của việc gắn liền độc lập dân tộc với
CNXH.................................9
III. Liên hệ bản thân.........................................................................................................14
IV. Danh mục tài liệu tham khảo.....................................................................................15 lOMoAR cPSD| 45469857 LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiêu biểu của tinh hoa, trí tuệ Việt Nam; là một nhà lý luận,
tư tưởng lớn của Cách mạng Việt Nam. Người đã được thế giới tôn vinh là Danh nhân
văn hóa thế giới. Suốt cuộc đời, Người phấn đấu không mệt mỏi cho nhân dân và cho đất
nước. Tên tuổi và sự nghiệp của Người gắn liền với lịch sử quang vinh của Đảng Cộng
sản Việt Nam, với lịch sử đấu tranh và thắng lợi của Cách mạng Việt Nam, và với phong
trào cách mạng trên thế giới trong gần một thế kỷ qua. Di sản tư tưởng của Người để lại
thật vô cùng đồ sộ và mang ý nghĩa to lớn, đã và đang soi đường cho sự phát triển của
Cách mạng nước ta, trở thành những giá trị bền vững của dân tộc ta và lan tỏa ra thế giới.
Trong toàn bộ sự nghiệp Cách mạng và hệ thống tư tưởng lý luận của Người, vấn đề
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn luôn là một trong những vấn đề cốt lõi
nhất, được thể hiện rõ ràng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình hoạt động thực tiễn
của cách mạng Việt Nam và trên thế giới. Tư tưởng đặc sắc ấy đã thể hiện nhất quán mục
tiêu của con đường cách mạng mà Người lựa chọn, vừa đáp ứng được những yêu cầu bức
xúc của dân tộc và khát vọng của quần chúng nhân dân mong muốn giành lại độc lập, tự
do, ấm no và hạnh phúc; giải phóng khỏi cuộc đời đầy lầm than đói khổ mà ách thống trị
tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai bắt họ chịu đựng. Tư tưởng ấy
đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự do, thống nhất hai miền Nam – Bắc như ngày nay; đó
cũng chính là nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã hội chủ nghĩa Việt Nam
mới: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Nghiên cứu vấn đề này, không
chỉ là vấn đề trong quá khứ, lịch sử mà còn có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn nóng hổi
trong giai đoạn hiện nay và mai sau nữa.
I. Sự tiếp cận của Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội
Về mặt chính trị: CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, nhà nước là của dân, do
dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh côngnông-trí
thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân
để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH. lOMoAR cPSD| 45469857
Dưới chế độ CNXH, mọi quyền lực tập trung trong tay nhân dân, nhân dân là người quyết
định vận mệnh và sự phát triển của đất nước.
Về mặt kinh tế: CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Nền kinh tế gắn
liền với sự phát triển của khoa học-kỹ thuật – công nghệ, phát triển dựa trên cơ sở năng
suất lao động xã hội cao, sức sản xuất luôn luôn phát triển, ứng dụng có hiệu quả những
thành tựu khoa học – kĩ thuật tiên tiến của nhân loại.
Về mặt văn hóa – xã hội: CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức,
trong đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em. Con người được giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để
phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình. Không còn sự đối lập giữa lao động chân
tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con người được giải phóng có điều
kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển xã hội và tự nhiên. Không chỉ vậy,
CNXH còn là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi, không một
ai bị bỏ lại phía sau. CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây
dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh đối với Chủ nghĩa xã hội
Trên lập trường của một con người yêu nước đi tìm đường giải phóng dân tộc và mong
muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp, Hồ Chí Minh đến với CNXH. Người tiếp thu và học
hỏi quan điểm từ những người sáng lập CNXH khoa học, đồng thời tự bổ sung cách tiếp
cận mới của bản thân về CNXH. Người tiếp thu lý luận của CNXH khoa học Mác – Lênin
trước hết từ lòng yêu nước, ý chí mạnh mẽ quyết tâm cứu nước và giải phóng dân tộc Việt
Nam khỏi ách thống trị. Người tiếp cận CNXH trên một phương diện nữa – đó là đạo đức,
Người hướng tới những giá trị nhân đạo, nhân văn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân
và xã hội. Nhưng bao trùm lên tất cả là hướng tiếp cận CNXH từ mặt văn hóa. Trong
CNXH ở Việt Nam, văn hóa có quan hệ biện chứng với chính trị và kinh tế. Quá trình xây lOMoAR cPSD| 45469857
dựng CNXH ở nước ta cũng song hành với quá trình xây dựng một nền văn hóa có sự kết
tinh, kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp từ hàng ngàn năm
nay của dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, có sự kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế.
II. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ
Chí Minh 1. Độc lập dân tộc
Từ giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, mặc dù các phong trào yêu
nước, chống Pháp liên tục diễn ra, người trước ngã - người sau đứng lên, sẵn sàng “Đúc
gang sắt để dời non lấp biển, xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”, nhưng tất cả các cuộc nổi
dậy ấy đều “trăm thất bại mà không có lấy một thành công” - (Phan Bội Châu). Nguyên
nhân có nhiều, nhưng suy cho cùng nguyên nhân chủ yếu là chưa có một đường lối đúng đắn.
Chứng kiến những thất bại đau đớn của các vị yêu nước tiền bối, cảnh nhân dân sống
lầm than, cực khổ dưới ách thực dân tàn bạo đã hun đúc và nung nấu lên ý chí, tinh thần
cứu nước trong tư tưởng người thanh niên Việt Nam ưu tú Nguyễn Tất Thành. Mặc dù rất
khâm phục tinh thần yêu nước của các vị yêu nước tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Hoàng Hoa Thám …, nhưng không đồng tình, tán thành với con đường cách mạng
của họ, Nguyễn Tất Thành đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình bôn
ba ở nước ngoài để tìm đường cứu nước, Người đã nghiên cứu nhiều học thuyết, chủ nghĩa
khác nhau, nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới đã nổ ra, Người đã đến với Chủ
nghĩa Mác- Lênin và nhận ra rằng đây chính là chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng, triệt
để nhất. Từ đó, vượt qua những hạn chế về tầm nhìn của các nhà cách mạng yêu nước Việt
Nam đương thời, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường duy nhất đúng
đắn cứu nước và giải phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân
tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trước nhất, theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi
theo con đường cách mạng vô sản. Sau khi được Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin hoàn toàn soi sáng, Hồ Chí Minh đã nhận lOMoAR cPSD| 45469857
thức được rằng “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai
cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế
giới”, và rằng “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài
con đường cách mạng vô sản”. Và con đường cứu nước ấy của Hồ Chí Minh đã chấm dứt
thời kỳ khủng hoảng về đường lối chính trị của cách mạng Việt Nam. Con đường ấy đã
đặt nền móng cho đường lối giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH đầy tính
chất sáng tạo của Người và của Đảng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc được
thể hiện qua những luận điểm cơ bản như:
- Thứ nhất, độc lập dân tộc đòi hỏi trước hết phải đảm bảo cho dân tộc đó quyền tự
quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát
triển, độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hóa.
- Thứ hai, độc lập tự do đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột, nô dịch của dân
tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần.
- Thứ ba, độc lập dân tộc cũng đòi hỏi phải thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân, đảm bảo nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được phát triển toàn diện.
Trong khi chỉ ra rằng cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường của cách
mạng vô sản, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra: cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít
của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; sự đoàn kết của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động ở các nước thuộc địa và giai cấp vô sản ở “chính quốc” là một tất yếu
trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc quốc
tế. Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng: cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không nhất thiết
phải chờ đợi cách mạng vô sản ở “chính quốc”, hai cuộc cách mạng này phải tiến hành
đồng thời, tác động, hỗ trợ lẫn nhau; các dân tộc bị áp bức hoàn toàn có khả năng chủ
động tiến hành công cuộc tự giải phóng và giành thắng lợi trước khi giai cấp vô sản
“chính quốc” giành chính quyền. Người đã đi tới một luận điểm: cách mạng thuộc địa
không phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc mà có thể chủ động, tự lực đứng lên “Đem
sức ta mà giải phóng cho ta”. Trong tác phẩm nổi tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp”,
Hồ Chí Minh đã nêu luận điểm trên bằng một hình ảnh sinh động: “Chủ nghĩa tư bản là
một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở “chính quốc” và một cái vòi khác lOMoAR cPSD| 45469857
bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật đó người ta phải đồng thời
cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút
máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra”. Do
vậy, ở những nước thuộc địa, nhân dân thuộc địa phải tự quyết định lấy vận mệnh của
dân tộc mình, phải đặt lên hàng đầu cách mạng giải phóng dân tộc để đi tới CNXH. Lập
trường dứt khoát này của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa phù hợp với trào lưu tiến hóa của
lịch sử, vừa nói đến tính triệt để trong tư tưởng Hồ Chí Minh khi đặt cách mạng giải
phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi còn phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Quan điểm này đã được Hồ
Chí Minh khẳng định: “muốn cách mạng giải phóng dân tộc thành công trước hết phải có
Đảng Cách mệnh… Đảng có vững thì cách mạng mới thành công … Đảng muốn vững
thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt … bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lê nin.”
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh điều kiện để đảm bảo thắng lợi cho cách
mạng giải phóng dân tộc là cách mạng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản –
chính đảng của giai cấp công nhân và Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc Đảng
kiểu mới của LêNin, được vũ trang bằng Chủ nghĩa Mác – Lênin. Sự thất bại của các nhà
yêu nước Phan Chu Trinh, Phan Bội
Châu đã chỉ rõ rằng những phong trào cách mạng này sở dĩ tan rã và thất bại là vì thiếu
một đường lối chính trị đúng đắn, một đường lối tổ chức chặt chẽ; lại không có cơ sở
rộng rãi trong quần chúng.
Bên cạnh đó, Người cũng chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết
của toàn dân, trên cơ sở liên minh công – nông. Người nhận định rằng cách mạng giải
phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người, vì
vậy phải đoàn kết toàn dân, sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền.
Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó không được quên cái cốt của nó là công - nông: “công
- nông là người chủ cách mệnh … công nông là gốc cách mệnh”. Người cũng đánh giá cao
tinh thần yêu nước của bộ phận tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, tư sản dân tộc
Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, cần phải tập họp tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội: lOMoAR cPSD| 45469857
công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc cùng với các thân sĩ yêu nước hợp thành
lực lượng cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc. Tư tưởng này về việc tập họp
lực lượng đã để lại cho Đảng ta những bài học có giá trị thực tiễn sâu sắc.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rằng muốn giải phóng dân tộc phải thực hiện con đường cách
mạng bạo lực. Từ thực tiễn của xã hội Việt Nam, từ thái độ của kẻ thù, từ nguyên lý của
chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành dần dần lý luận cách mạng bạo lực ở
Việt Nam. Năm 1947, nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Giải phóng quân Việt Nam, Người
khẳng định: "Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn giải phóng thì phải
đánh phát xít Nhật và thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có
lực lượng quân sự. Muốn có lực lượng quân sự thì phải có tổ chức. Muốn tổ chức thành
công thì phải có kế hoạch, có quyết tâm". Theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng ở Việt
Nam là sức mạnh tổng hợp của hai yếu tố chính trị và quân sự, hai lực lượng là lực lượng
chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Cách mạng bạo lực là sử dụng sức
mạnh tổng hợp để "chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ
chính quyền" dưới hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, từ đấu tranh từng
phần đến đấu tranh cách mạng để đạt được mục tiêu của từng chặng đường tiến tới mục
đích cuối cùng là giành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc. Khẳng định giải phóng dân
tộc bằng con đường cách mạng bạo lực, song Hồ Chí Minh luôn chủ động, tích cực đưa ra
giải pháp để tranh thủ khả năng hòa bình và phát triển của cách mạng.
Nhìn chung, có thể thấy Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết
của Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ và sáng tạo,
bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa. Thực tiễn cách mạng Việt Nam, thắng lợi của cách mạng tháng
Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã chứng minh tư tưởng
của Người là đúng đắn và khoa học.
2. Tính nhất thiết của việc gắn liền độc lập dân tộc với CNXH
Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
không chỉ mang lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, mà trong từng bước phải mang lại tư
do, hạnh phúc cho toàn dân. Vì vậy, cuộc cách mạng đã động viên và phát huy cao độ sức lOMoAR cPSD| 45469857
mạnh của toàn dân tộc và giai cấp, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của phong trào giải
phóng dân tộc và cả loài người tiến bộ để đánh thắng các kẻ thù mạnh hơn mình gấp bội.
Những luận điểm đó cũng là cơ sở của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng phải dựa vào
sức mạnh của toàn dân, “có dân là có tất cả”; vào sức mạnh của đại đoàn kết - bộ phận cấu
thành đường lối chung của cách mạng Việt Nam trước kia và cho mãi mãi trong sự nghiệp
dựng và giữ nước của nhân dân ta.
Tuy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc mới diễn ra trong một thời gian
ngắn nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những quan điểm rất cơ bản và sâu sắc về
điểm xuất phát, về mục tiêu cơ bản lâu dài và trước mắt, về lực lượng xã hội, về phương
thức, bước đi về về vai trò của khoa học kĩ thuật… Người nhấn mạnh rằng xây dựng xã
hội chủ nghĩa phải lâu dài, phát triển dần dần và không thể nóng vội được bởi đặc điểm
lớn nhất của cách mạng XHCN ở nước ta là quá độ từ một nền sản xuất nhỏ, kinh tế lạc
hậu tiến thẳng lên CNXH, không qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa .
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội được nói đến một cách thiết
thực, cụ thể, dễ hiểu: “CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn, bần
cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”,
“Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập tự do cũng không có ý
nghĩa gì”, “CNXH là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy
đều được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập
quán không tốt được dần dần được xóa bỏ”; “CNXH là nhằm nâng cao đời sống vật chất
và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. Nói tóm lại “CNXH là làm sao
cho dân giàu nước mạnh”. Như đã nói ở phần 1 về quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH,
đó là những bản chất của CNXH mà Đảng và nhân dân ta đang ra sức phấn đấu để đạt tới.
Tóm lại, quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH là một quan niệm khoa học, hoàn
chỉnh, hệ thống, dự trên học thuyết hình thái kinh tế - xã hộia của Mác đồng thời có bổ
sung thêm một số đặc trưng khác phản ánh truyền thống, đặc điểm của Việt Nam. Chủ
nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người. Vận dụng và
quán triệt quan điểm dịch vụ về lịch sử của học thuyết Mácxít, Hồ Chí Minh quan niệm lOMoAR cPSD| 45469857
lịch sử xã hội loài người là một quá trình tự nhiên của sự thay thế lần lượt các phương
thức sản xuất. Quy luật phổ quát tiến hóa chung này là một "tất yếu thép" được quyết
định bởi sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất xã hội.
Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú,
trong đó bao trùm lên tất cả là động lực con người, trên cả hai bình diện: cộng đồng và cá
nhân. Đó là phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc - động lực chủ yếu để
phát triển đất nước, phát huy sức mạnh của con người được giải phóng để làm chủ. Để
phát huy sức mạnh này phải tác động vào nhu cầu, lợi ích của con người, phát huy động
lực chính trị, tinh thần đạo đức, truyền thống, quyền làm chủ của người lao động, thực
hiện công bằng xã hội. Đó là khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa
xã hội, bao gồm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh chống tham ô, lãng phí,
quan liêu, chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập cái mới. Đó
cũng là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
Về con đường quá độ lên CNXH, Hồ Chí Minh đã chỉ ra 2 phương thức quá độ chủ
yếu: phương thức quá độ trực tiếp (từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH) và phương thức quá
độ gián tiếp (từ nghèo nàn, lạc hậu tiền tư bản qua dân chủ nhân dân lên CNXH). Ở Việt
Nam, trước hết, Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy luật chung và
đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước khi bước vào xây dựng CNXH. “Tùy hoàn cảnh mà
các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau … Có nước thì đi thẳng lên con đường
CNXH …, có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ rồi mới tiến lên CNXH”. Hồ Chí
Minh cũng đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam nhưng bao trùm là đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
CNXH, không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN.
Về độ dài của thời kỳ quá độ, Người nói “xây dựng CNXH là một cuộc đấu tranh cách
mạng phức tạp, gian khổ lâu dài”
Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “..phải xây dựng nền
tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH …có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn
hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền lOMoAR cPSD| 45469857
kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới mà xây dựng nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. Những
quan điểm, tư tưởng của Người được thể hiện cụ thể trên các lĩnh vực, những đặc điểm
này quy định bản chất và tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ở nước ta.
Đối với lĩnh vực kinh tế: Hồ Chí Minh đề cập đến trên các bình diện: lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế, đồng thời nhấn mạnh đến việc tăng gia sản
xuất gắn liền với thực hành tiết kiệm, không ngừng nâng cao năng suất lao động trên cơ
sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh là người đầu tiên ở nước ta
chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế.
Cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh ở Việt Nam để tạo nền tảng vật chất cho chủ
nghĩa xã hội, thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Đối với lĩnh vực văn hóa - xã hội: Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con
người mới: "Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa". Con người
vừa là mục đích, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Đặc biệt Hồ Chí Minh đề cao
vai trò của văn hóa giáo dục và khoa học kỹ thuật trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Người cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức, cần phải có
sự kết hợp giữa kiến thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Người đánh giá rất cao việc nâng
cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài. Từ đó, người khẳng định, văn hóa là một trong
những mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng con người mới, xã hội mới.
Đối với lĩnh vực chính trị: Người cho rằng nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững,
tăng cường và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải được chỉnh đốn, nâng cao
sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Mặt
khác phải củng cố, tăng cường vai trò của Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, tất cả các cơ
quan Nhà nước phải là những thể chế dân chủ, dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với dân, lắng
nghe và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Phải xây dựng bộ máy Nhà nước vững mạnh,
trong sạch, thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đủ năng lực, đủ lOMoAR cPSD| 45469857
uy tín để lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phải
xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng XHCN.
Đối với phương diện quốc tế: theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế thuận lợi. Chủ nghĩa xã hội đã thành công ở một
loạt nước, chúng ta nhận được sự hỗ trợ, hợp tác mạnh mẽ từ bên ngoài, theo tinh thần
quốc tế chân chính, nhưng mặt khác lại luôn luôn bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách phá hoại
công cuộc hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó buộc chúng ta phải có ý thức độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, hạn chế những khó
khăn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một sự nghiệp cách mạng mang
tính toàn diện theo nguyên tắc: xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ chủ nghĩa
xã hội. Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực.
Về bước đi của thời kỳ quá độ, Người đã chỉ rõ: “Ta xây dựng CNXH từ 2 bàn tay
trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”,…Tư tưởng chủ đạo
của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam phải qua nhiều bước, “bước
ngắn, bước dài, tuỳ theo hoàn cảnh, nhưng chớ ham làm mau, ham rầm rộ … đi bước nào
vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần..”
Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng CNXH ở Việt Nam, Người
luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều rập khuôn
kinh nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên CNXH ở nước ta giai đoạn hiện
nay, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định “lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng
trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.”, thực sự là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; đủ năng lực, đủ uy tín để lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ lOMoAR cPSD| 45469857
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời phải xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng XHCN.
Con đường đi lên của nước ta tuy bỏ qua quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư
bản chủ nghĩa mà quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng ta vẫn tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là những thành tựu
khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại. Con đường quá độ lên CNXH vô cùng khó khăn, phức tạp, nên phải trải qua một thời
kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ, có sự đan xen cái mới và cái cũ.
Đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân và tập thể, phát huy mọi tiềm năng và
nguồn lực sẵn có của các thành phần kinh tế và của toàn xã hội chính là động lực thúc đẩy phát triển đất nước.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế này là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển
nền kinh tế để đảm bảo cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với quan hệ sản xuất mới phù
hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kết hợp cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. lOMoAR cPSD| 45469857
III. Liên hệ bản thân
Là một sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân, bản thân em nhận thấy độc lập là
tài sản thiêng liêng vô giá của cả dân tộc, là cái phải giữ cho dù mất tất cả và việc tư tưởng
Hồ Chí Minh trong việc gắn liền độc lập dân tộc với CNXH là vô cùng nhất thiết và quan
trọng. Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, khi mà việc ra nước ngoài và học tập những
kiến thức phương Tây đã trở nên dễ dàng, sinh viên chúng em cần phải thấm nhuần tư
tưởng Hồ Chí Minh để có thể giữ vững sự kiên định về nền độc lập dân tộc,
biết phân biệt thông tin đúng sai và tiếp thu những cái đúng, phê phán những kiến thức sai
lệch. Đồng thời, chúng em cần không ngừng học tập sáng tạo để phát huy chủ nghĩa dân
tộc chân chính, góp phần dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Bên cạnh đó, em thấy rằng trong thời gian gần đây, khi mà xu thế toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra và ngày càng phổ biến, không một quốc gia nào trên thế
giới có thể phát triển mà không đi cùng với những mối quan hệ đa dạng và đa phương với
các quốc gia khác. Việt Nam chúng ta cũng không là ngoại lệ. Tuy nhiên, ngoài những lợi
ích hiển nhiên mà việc hội nhập này đem lại, hơn bao giờ hết, nước ta đang đứng trước rất
nhiều nguy cơ có ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập dân tộc. Đó là những nguy cơ lệ thuộc
vào nước ngoài trên hai phương diện kinh tế và chính trị, phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc.
Chúng ta còn phải đối mặt với âm mưu diễn biến hoà bình. Các thế lực thù địch trong và
ngoài nước đang núp dưới những chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc tôn giáo để
chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta. Trước những nguy cơ ấy, Đảng và Nhà nước ta
phải không ngừng khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn
động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Phát huy tối đa các nguồn nội lực, bao
gồm nhân lực, trí tuệ, truyền thống, tài nguyên… để xây dựng và phát triển kinh tế, đưa đất
nước từng bước bắt kịp các nước phát triển. Một khi đất nước phát triển, nền kinh tế hùng
mạnh sẽ góp phần tạo sức mạnh cho toàn dân ta giữ vững nền độc lập dân tộc. Muốn thực
hiện tốt tinh thần bất hủ: “Độc lập dân tộc phải được xem là cái bất biến trong sự thiên biến
vạn hoá của nền kinh tế thế giới và bản sắc văn hoá Việt Nam cũng phải được xem là cái
bất biến trong sự đa dạng các nền văn hoá thế giới, tiếp thu những nét đẹp, tiên tiến mà vẫn lOMoAR cPSD| 45469857
không mất đi cái gốc của người Việt Nam” của Hồ Chí Minh, ngày nay đường lối của Đảng
và Nhà nước ta cần phải thể hiện rõ sự quan tâm, không ngừng chăm lo đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân. Tiếp thu và phát huy tinh hoa của dân tộc với truyền thống “lấy
dân làm gốc”, “vì dân phục vụ”. Như vậy, chăm lo, không ngững nâng cao đời sống nhân
dân vừa là mục tiêu vừa là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân tộc theo đúng tinh
thần mà Hồ Chí Minh đã nêu rõ. Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng
phải phát huy chủ nghĩa dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự lực
tự cường của mọi người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
IV. Danh mục tài liệu tham khảo
- Báo cáo Tư tưởng Hồ Chí Minh
- Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
- Wikipedia – độc lập dân tộc
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia