Chứng minh tính chất yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Là độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chứng minh tính chất yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Là độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45469857
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP LỚN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: CHỨNG MINH TÍNH TẤT YẾU TRONG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH: LÀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC PHẢI GẮN LIỀN VỚI CNXH.
Tên sinh viên : Đặng Vũ Ngọc Minh Mã sinh viên : 11213776
Lớp sinh viên : QTKDQT Tiên Tiến 63C Hà Nội, tháng 4 năm 2022 1 lOMoAR cPSD| 45469857 MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................................... 2
I. CÁCH TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ CNXH: .................................... 4
II. VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC:..............................................................................3 ...... 7
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - Con đường tất yếu của cách
mạngViệt Nam trong thời đại mới .................................................................................... 7
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn bộ
tư tưởng Hồ Chí Minh........................................................................................................ 9
3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội ................................ 9
III. QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ KẾT LUẬN:............................................................31.
Kết luận ................................................................................................................................. 12
2. Liên hệ thực tiễn ........................................................................................................... 13 2 lOMoAR cPSD| 45469857
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................4 3 lOMoAR cPSD| 45469857 NỘI DUNG
I. CÁCH TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ CNXH:
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, ngoài việc nghiên cứu các cuộc cách mạng
trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917. Người khẳng định: Trên thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công và
thành công đến nơi đến chốn vì dân chúng được hưởng tự do và độc lập.
Đến khi bản Yêu sách đòi các quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho Nhân dân An Nam
được Hồ Chí Minh thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi tới Hội nghị hòa bình
Vécxây (1919) không được các nước đế quốc chấp nhận. Sau việc này, Nguyễn Ái Quốc càng
nhận ra bộ mặt thật của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Người thấy rằng, nó không như
những gì giai cấp tư sản thường rao giảng là “Tự do - bình đẳng - bác ái” cho mọi người và
cho các dân tộc. Điều này đối lập hoàn toàn với tư tưởng của Lênin. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh rút ra bài học “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân
mình”. Đồng thời “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”.
Quyết tâm giành độc lập cho dân tộc
Từ một người yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc đến với chủ nghĩa Mác Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu bản chất học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, và mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội khoa học trên cơ sở quan điểm duy vật lịch sử. Người đã thấy trong học
thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin con đường chân chính để giải phóng dân tộc. Năm 1920,
sau khi đọc tác phẩm “Những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin,
Người rút ra chân lý: Muốn cho nước nhà được độc lập phải đi theo con đường cách mạng vô
sản và chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và giai cấp công nhân toàn thế giới. Hay, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Kể từ
đây, người hoàn toàn tin theo Lênin và tin theo quốc tế thứ ba.
Với tư tưởng biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định giữa cách mạng dân tộc dân
chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai đoạn trước làm
tiền đề cho giai đoạn sau. Giai đoạn sau kế tiếp và củng cố, phát triển giai đoạn trước. Tư
tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội trở thành cốt lõi, xuyên suốt trong quá trình
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Thấm nhuần tư tưởng đó, năm 1930 trong văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập
Đảng, bản Chánh cương vắn tắt do Người soạn thảo ghi rõ con đường của cách mạng Việt
Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Con đường cách mạng này trải qua hai giai đoạn là cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng 4 lOMoAR cPSD| 45469857
xã hội chủ nghĩa. Người xác định: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
Việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho Việt Nam còn xuất phát từ thực tế của
đất nước thời kỳ đó khi các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, hệ tư tưởng tư
sản đều không thành công. Đến như nhà yêu nước Phan Bội Châu, người theo con đường nhờ
nước Nhật đánh Pháp để cứu lấy Tổ quốc đang bị người Pháp đô hộ phải thốt lên rằng: “Than
ôi! Đời tôi một trăm lần thất bại mà không một lần thành công!”. Chỉ đến khi Chủ tịch Hồ Chí
Minh đi theo con đường cách mạng vô sản, Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917 thì
nước ta mới giành được độc lập, dân ta mới có tự do, ấm no và hạnh phúc.
Khi thời cơ giành độc lập cho Tổ quốc đã đến, vào khoảng tháng 7 năm 1945, dù đang
ốm nặng, Bác vẫn nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp rằng: “… dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt
cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Trong Bản Tuyên
ngôn độc lập được Bác thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố trước quốc
dân đồng bào năm 1945, cũng là lúc Người dự liệu được tình hình đất nước sẽ khó khăn trong
việc giữ gìn độc lập của Tổ quốc trước dã tâm tái xâm lược của đế quốc Pháp cũng như của
chủ nghĩa đế quốc. Người đã tuyên bố với thế giới rằng: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Trong Lời kêu gọi gửi Liên hợp quốc (11/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt
dân tộc Việt Nam thể hiện quyết tâm khi khẳng định rằng: “Nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ
quốc và độc lập cho đất nước”. Đến tháng 12 năm 1946, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến, Hồ Chí Minh đã gửi đi thông điệp cho đế quốc Pháp sẽ cùng toàn thể dân tộc Việt Nam
bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước bằng ý chí sắt đá: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ
không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Nối tiếp mạch tư duy về nền độc lập cho dân
tộc, ngày 17 tháng 7 năm 1966, chân lý đó tiếp tục được Người khẳng định khi tuyên bố trong
Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Độc lập dân tộc là giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm đối với bất kỳ một quốc gia,
dân tộc nào trên thế giới cũng như của dân tộc Việt Nam. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Người đã giành cả cuộc đời để phấn đấu cho chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”.
Đưa Việt Nam đi lên CNXH sau khi giành được độc lập cho dân tộc
Chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của V.I.Lênin về quyền tự quyết của các dân tộc và
ủng hộ các nước đi lên CNXH, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy luật phát triển của cách mạng
Việt Nam trong thời đại mới: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ: con
đường cách mạng của Việt Nam là tiến tới chủ nghĩa xã hội, quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. 5 lOMoAR cPSD| 45469857
Vì sao Người lại chọn đi lên CNXH chứ không phải đi lên CNTB mặc dù Người đã
sống ở các nước TBCN phát triển như Anh, Pháp, Mỹ… trong suốt phần lớn thời gian 30 năm
đi tìm đường cứu nước? Điều này đã được Người khẳng định rằng, đấu tranh giành độc lập để
gắn với con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoàn toàn không phải là con đường phát triển của dân tộc Việt Nam.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, mặc dù đất nước ta tiếp tục cuộc
kháng chiến chống đế quốc Pháp nhưng toàn Đảng, toàn dân ta vẫn khẳng định đi lên chủ
nghĩa xã hội là hợp quy luật, hợp lòng dân của cách mạng Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh từng
khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của các dân tộc không ai ngăn nổi.
Sở dĩ Người chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi nước ta giành được độc
lập như Người từng lý giải rằng: chủ nghĩa xã hội sẽ giải phóng con người khỏi mọi áp bức,
bóc lột của chủ nghĩa tư bản; khỏi áp bức, bóc lột, bất công, nghèo đói, lầm than và trả lại cho
họ tính người vốn có, đầy đủ trong quá trình phát triển. Chính chủ nghĩa xã hội là niềm tin, là
ước mơ, là lý tưởng cao đẹp của tất cả những người lao động đang bị giai cấp tư sản áp bức,
bóc lột trên toàn thế giới. Ở đó, con người sống với nhau thân ái, hòa bình, bình đẳng, cùng
tiến bộ và được tôn trọng. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có điều kiện để con người thể hiện “sự
phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện tự do cho tất cả mọi người”.
Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là
sự áp đặt khiên cưỡng mà có cội nguồn trong chiều sâu văn hóa dân tộc. Bởi vì ở Việt Nam
đã từng tồn thuyết xã hội đại đồng của Nho giáo quan niệm “Thiên hạ vi công” (thiên hạ là
của chung). Về quan hệ sở hữu, ở đất nước chúng ta đã tồn tại hàng nghìn năm chế độ công
điền, công thổ, chế độ tỉnh điền; nguyên tắc vần công, đổi công trong lao động nông nghiệp...
Đây là những cơ sở chính trị và kinh tế quan trọng để Nguyễn Ái Quốc đưa ra tư tưởng độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Người tin rằng điều đó sẽ thành công. Và thực tế ở Việt
Nam đã chứng minh quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Như vậy, trên cơ sở các nhân tố khách quan và chủ quan, kinh tế và chính trị, lịch sử
và hiện tại để Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng của Người còn là sự thỏa mãn khát vọng của dân tộc Việt Nam trong việc vươn lên
những giá trị vĩnh hằng mà nhân loại ước muốn như độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc! Cho
đến nay, dù tình hình đất nước và quốc tế có những đổi thay nhanh chóng, nhưng chân lý của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn giữ nguyên giá trị.
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Người là nền tảng, là kim chỉ nam tiếp tục soi
đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi đến bến bờ vinh quang. Toàn Đảng, toàn dân, ta
đang nỗ lực cố gắng quyết tâm thực hiện mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. 6 lOMoAR cPSD| 45469857
II. VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC:
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - Con đường tất yếu của cách mạng
Việt Nam trong thời đại mới
Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, độc lập dân tộc bị xâm
phạm, trong tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn trong thì sợ nhân dân, ngoài thì bạc nhược
trước kẻ thù, lúc đầu có chống cự yếu ớt, sau đã từng bước nhân nhượng cầu hoà, cuối cùng
là cam chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hoàng tộc.
Năm 1883 và 1884, triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký các hàng ước với thực dân Pháp,
nước ta bị đặt dưới ách thống trị của chúng. Mặc dầu bị đặt vào tình thế phải chống “cả triều
lẫn Tây" nhưng nhân dân ta với tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí căm thù giặc sôi sục đã
dấy lên phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ và lan rộng trong cả nước: từ
Trương Định, Nguyễn Trung Trực… ở miền Nam; Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân
Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn
Quang Bích… ở miền Bắc. Nhưng các cuộc khởi nghĩa này đều bị thất bại vì chưa có một
đường lối kháng chiến đúng đắn; lãnh đạo khởi nghĩa là các sĩ phu văn thân với ý thức hệ
phong kiến mang nặng tư tưởng tôn quân.
Sang đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta chuyển
sang xu hướng dân chủ tư sản. Tiêu biểu cho xu hướng này có các phong trào Đông Du, Đông
Kinh nghĩa thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội... Các phong trào này chưa lôi cuốn
được mọi tầng lớp nhân dân, tư tưởng dân chủ tư sản chưa có cơ sở xã hội vững chắc. Do vậy
phong trào chỉ rộ lên được một thời gian ngắn rồi lần lượt bị đàn áp và thất bại.
Khi phong trào chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung, trong đó có Hồ Chí Minh
tham gia bị đàn áp (1908) cũng là lúc các phong trào yêu nước chống Pháp ở thời điểm cực
kỳ khó khăn, bế tắc. Đứng trước cuộc khủng hoảng con đường cứu nước, Hồ Chí Minh xác
định: “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm
như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
Đầu tháng 6-1911, Hồ Chí Minh xuống làm phụ bếp trên chiếc tàu Pháp mang tên
Amiran Latusơ Tơrêvin của hãng Năm Sao đang cập bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn). Ngày
5/6/1911, con tàu rời Sài Gòn đi Pháp, Hồ Chí Minh bắt đầu một cuộc hành trình lịch sử - đi
tìm con đường cứu nước, con đường giải phóng.
Xuất phát từ lòng yêu nước ra đi tìm đường cứu nước, trải qua gần 10 năm đầy gian
truân và thử thách, Hồ Chí Minh đã đi khắp các châu lục khảo sát nhiều nước thuộc địa và các
nước tư bản phát triển Mỹ, Anh, Pháp... Người nhận rõ: chủ nghĩa đế quốc là một hệ thống
thế giới, chúng vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các dân
tộc nhỏ yếu trong hệ thống thuộc địa của chúng. Mỗi thuộc địa là một mắt khâu của chủ nghĩa 7 lOMoAR cPSD| 45469857
đế quốc, do vậy cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mỗi nước chỉ tiến hành riêng rẽ thì
không thể giành thắng lợi.
Cuối năm 1917, Hồ Chí Minh từ Anh về Pari, thủ đô nước Pháp, một trung tâm văn
hoá khoa học và cách mạng của châu Âu. Hồ Chí Minh hoạt động trong phong trào công nhân
Pari, đến với phái tả của cách mạng Pháp, gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng bênh vực các thuộc địa.
Năm 1919, nhân danh những người yêu nước Việt Nam, Hồ Chí Minh gửi tới Hội nghị
hoà bình Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam đối các quyền tự do, dân chủ tối thiểu
cho Việt Nam. Yêu sách đó không được chấp nhận. Người đã rút ra bài học “muốn được giải
phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân mình”.
Hồ Chí Minh nghiên cứu những cuộc cách mạng xã hội lớn trên thế giới. Với cách
mạng giải phóng dân tộc năm 1776 của Mỹ và cách mạng nhân quyền và dân quyền Pháp năm
1789, Người rút ra kết luận: cách mạng Pháp và cách mạng Mỹ là cách mạng tư sản, cách
mạng không đến nơi, không giải phóng những người lao động mà lại đi áp bức các dân tộc
khác. Cách mạng Việt Nam không thể đi theo con đường đó.
Đầu tháng Mười năm 1917, cách mạng vô sản Nga thành công. Tháng 3 năm 1919,
Lênin sáng lập Quốc tế Cộng sản. Rồi nhà nước Xôviết chiến thắng cuộc chiến tranh can thiệp
của 14 nước đế quốc. Từ năm 1920 tiếng vang và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười
lan rộng ra châu Âu và toàn thế giới. Nghiên cứu Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, Hồ
Chí Minh nhận rõ: chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga mới thành công đến nơi, mang lại tự
do bình đẳng thật cho tất cả nhân dân lao động và giúp đỡ giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: Cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường Cách mạng Tháng
Mười Nga - con đường cách mạng vô sản.
Tháng 7-1920, Người đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo L’Humanité. Luận cương của Lênin đã giúp Hồ Chí
Minh tìm ra “cái cẩm nang thần kỳ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc” - con đường
giải phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vô sản. Con đường đó được Hồ Chí Minh khẳng
định rõ ràng trong những văn kiện thông qua tại Hội nghị hợp nhất ngày 3-2-1930 “làm tư sản
dân quyền cách mệnh và thổ địa cách mệnh để đi tới xã hội cộng sản”.
Sự xác định trên đây của Hồ Chí Minh là một sáng tạo lớn về con đường cách mạng ở
một nước thuộc địa nửa phong kiến. Đó là con đường giải phóng dân tộc một cách triệt để,
con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là kết quả tất yếu quá trình tìm
đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng, phù hợp với đòi hỏi và
nguyện vọng của dân tộc, nhân dân Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới,
mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. 8 lOMoAR cPSD| 45469857
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn bộ
tư tưởng Hồ Chí Minh
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận
và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Từ khi trở thành người cộng sản cho đến khi trở
thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh
chỉ rõ các bài viết của Người chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc, chống phong
kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một cách tập trung những luận
điểm sáng tạo lớn về lý luận của Hồ Chí Minh. Những luận điểm đó có giá trị lâu dài chỉ đạo
đường lối cách mạng Việt Nam và đóng góp quan trọng vào việc phát triển lý luận về cách
mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của
cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”(2).
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự phản ánh chính xác mục đích, lý
tưởng, khát vọng và ham muốn tột bậc của danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh: nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh tính triệt để cách mạng của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người
ở mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng.
3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ có
hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ
dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở
giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp
bách. Kết luận này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu
thuẫn khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến. 9 lOMoAR cPSD| 45469857
Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến.
Với dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu
xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ.
Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập
nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với
thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn
với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là mục
tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới
xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục
tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách
mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa
xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc dân chủ được thể hiện: -
Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai
cấpcông nhân lãnh đạo. -
Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội
chủnghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. -
Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ, khối
quầnchúng công - nông - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ, đoàn kết
trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được hình
thành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con
đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển
tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước giải
phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất với con đường cứu nước những năm đầu
thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới.
Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai trò
lãnh đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng 10 lOMoAR cPSD| 45469857
Cộng sản Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân Việt Nam
yêu nước mà nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức. Những nhân tố này lại quy định
tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng
dân tộc. Rõ ràng định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở Việt Nam được chi phối và chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc cách mạng đó.
Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một
cách hoàn toàn triệt để.
Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục
tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một quá trình cách
mạng. Logic lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục tiêu trước mắt là điều kiện tiên quyết
để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu trước mắt
mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn cách mạng không có
bức tường ngăn cách, cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội
chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh
phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng
dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo
lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng nội
tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành được trong cách mạng
dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc.
Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt để: độc
lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà
còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện thực hoá các nội dung
đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt
để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho
một nền độc lập thật sự, chân chính.
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xoá bỏ mọi áp bức,
bóc lột; công bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng;
bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi; một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với
sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân lao động. Đó là một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh trong đó người với người
là bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người được phát triển hết khả năng của mình; hòa bình hữu
nghị, làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực phát triển
của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Với các thiết chế đó và
nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận động liên tục, tự bảo vệ vững 11 lOMoAR cPSD| 45469857
chắc các thành quả cách mạng của nhân dân. Trên phạm vi quốc tế, chủ nghĩa xã hội lớn mạnh
sẽ có sức hấp dẫn thu hút các dân tộc, đặc biệt các dân tộc chậm phát triển đi theo con đường
chủ nghĩa xã hội; mặt khác chủ nghĩa xã hội sẽ là bệ đỡ của hoà bình thế giới, hạn chế và ngăn
chặn các cuộc chiến tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng dân tộc này đi áp bức dân tộc khác.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín muồi thì
các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều
kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng phòng thủ. Không có một chế độ xã hội
nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ cấu trúc
nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội thể hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo vệ.
Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người chủ duy
nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước đó. Chế độ
dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của nhà nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải
được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế,
xã hội và nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận mệnh của dân tộc, tạo
ra sức đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có khả năng chống trả bất kỳ một hành động
nào đe dọa độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được một xã hội như vậy thì độc lập dân tộc
mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để.
III. QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ KẾT LUẬN: 1. Kết luận
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930 đến nay, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là mục tiêu được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết
tâm thực hiện. Thực tiễn hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và gần ba
mươi năm đổi mới đất nước đã chứng minh giành, giữ độc lập dân tộc gắn với xây dựng chủ
nghĩa xã hội như một quy luật tất yếu khách quan, phù hợp với sự vận động phát triển sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Trong tiến trình đổi mới, Đảng nhận diện ngày càng rõ hơn vấn đề độc lập dân tộc và
CNXH trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Tiến trình đổi mới là sự
tiếp tục vận động của những quan niệm mới về CNXH và con đường xây dựng CNXH của
Đảng, được hình thành dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế thừa những nhận thức đúng đắn mà Đảng đã tích lũy được trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam (17).
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu, là nội dung nổi bật, xuyên suốt và
chủ đạo trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH là một trong những nguyên nhân của mọi thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp 12 lOMoAR cPSD| 45469857
cách mạng của dân tộc và mãi là ánh sáng soi đường cho sự nghiệp đổi mới, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng trong thế kỷ XXI của
Đảng và nhân dân Việt Nam.
Ngày nay, độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, tư tưởng “không có gì quý hơn
độc lập tự do” vẫn giữ nguyên giá trị và sức sống của nó. Bởi vì, tình hình quốc tế diễn biến
phức tạp, thay đổi khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng xung
đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ, khủng bố quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo... vẫn diễn ra
ở nhiều nơi. Cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nuớc phát
triển, nhưng cạnh tranh, tranh giành thị trường, các nguồn nguyên liệu, năng lượng, nguồn
lực khoa học công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh tế diễn ra quyết liệt, đặt các
quốc gia, nhất là các nước đang và kém phát triển trước những thách thức gay gắt.
Thực tiễn trên thế giới, nhiều nước sau khi giành được độc lập đưa đất nước đi theo
con đường tư bản chủ nghĩa đang rơi vào tình trạng nghèo đói, khó khăn, chiến tranh, xung
đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái. Sự nghèo đói, chậm phát triển làm cho quốc gia đó không thể
có độc lập thật sự. Nhiều nước trước đây là chủ nghĩa xã hội, trong công cuộc cải tổ, cải
cách đã mắc sai lầm cơ bản về đường lối cách mạng, thậm chí phản bội lại chủ nghĩa xã hội,
muốn đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hay “xã hội dân chủ” với ảo tưởng
mong chờ vào sự giúp đỡ của thế giới tư bản nhưng hiện nay đang rơi vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội, về con đường phát triển của đất nước; nhiều định
hướng giá trị của xã hội bị đảo lộn; xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái gia tăng; đời sống
của người lao động ngày càng khó khăn, tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng;
đặc biệt tác động của đại dịch COVID-19 đến kinh tế, đời sống của người dân và cách giải
quyết của các nước làm cho vị thế của các nước đó trên trường quốc tế ngày càng giảm sút;
đồng thời, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, với
tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thắng lợi to lớn hơn nữa
trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
2. Liên hệ thực tiễn
Đặc biệt, thế hệ trẻ Việt Nam là lực lượng đông đảo và vai trò quan trọng trong thực
hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã lựa chọn.. Đa số thế hệ trẻ hiện nay đã thể hiện lòng trung thành với Đảng, với
Tổ Quốc, luôn đi đầu trong thực hiện các nhiệm vụ học tập, lao động sản xuất và công tác xã
hội, không ngại khó khăn, gian khổ, thể hiện sự cần cù, mưu trí, dũng cảm trong hoạt động
thực tiễn. Trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, “Tuổi trẻ
giữ nước”, “Năm xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc” … Đặc biệt, cuộc 13 lOMoAR cPSD| 45469857
vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” đã góp phần quan trọng để giáo
dục truyền thống, đạo đức, lối sống và cổ vũ thế hệ trẻ vươn lên trong học tập, công tác.
Hiện nay, tình hình thế giới đang có những diễn biến rất phức tạp, các thế lực thù địch
vẫn tiếp tục chống phá cách mạng nước ta với những âm mưu thủ đoạn ngày càng xảo quyệt,
tinh vi hơn. Chúng tìm mọi cách nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, sử dụng
những chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”, “tự do tôn giáo” hòng phá hoại khối đoàn kết của
nhân dân ta. Thế hệ trẻ là một trong những đối tượng mà kẻ thù luôn tìm mọi cách mua
chuộc, tác động đến nhận thức và tình cảm với mục đích làm cho thanh niên thờ ơ với các
vấn đề chính trị - xã hội, phải nhạt lý tưởng cách mạng của Đảng là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, lơ là trong học tập, công tác, suy giảm niềm tin, buông thả trong đạo đức, lối sống.
Do đó, để thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, vấn đề giáo dục lý tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc càng trở nên bức
thiết và cần tập trung vào các nội dung chính sau: -
Giáo dục nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với với chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng ta là thực hiện một nước Việt Nam độc lập và
đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, cần giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc nội dung này.
Làm cho họ hiểu được nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình
hiện nay không chỉ là bảo vệ vùng trời, vùng biển, biên cương lãnh thổ. Đó còn là bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị
và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu và hành
động chống phá của các thế lực thù địch. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì nhân dân mình mới ngày càng một ấm no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh
thêm”. Từ đó, mỗi người cụ thể hóa thành những hành động cách mạng trong học tập, rèn
luyện và hoạt động thực tiễn. -
Giáo dục về truyền thống yêu nước của nhân dân và truyền thống kiên cường
bất khuất của dân tộc ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó
là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh
thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và lũ cướp nước”. Cần giáo dục
cho thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất của dân tộc ta.
Qua đó, giúp thanh niên không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, tích cực học tập, rèn
luyện biến niềm vinh dự, tự hào thành hành động cách mạng thiết thực. -
Thường xuyên giáo dục cho thế hệ trẻ nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, biết
chủ động phòng ngừa, đấu tranh kiên quyết với mọi quan điểm và hành động sai trái.
Thế hệ trẻ là lực lượng năng động, ham học hỏi, thích ứng nhanh nhưng việc tiếp thu
và chọn lọc thông tin còn hạn chế. Cho nên, việc giáo dục cho họ có lập trường, bản lĩnh 14 lOMoAR cPSD| 45469857
chính trị vững vàng, nhận biết được những luận điệu của kẻ thù, không bị nhiễu khi tiếp
nhận thông tin, tạo ra sức “đề kháng” và “miễn dịch” cho thế hệ trẻ là một nội dung hết sức
quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với việc đấu tranh chống lại các quan điểm thù địch.
Qua đó, giáo dục lý tưởng cách mạng, củng cố bản chất cách mạng cho họ góp phần thực
hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội cho thế
hệ trẻ hiện nay, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Một là, phát huy vai trò cấp ủy Đảng trong giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của cấp ủy Đảng các cấp giữ vai trò quan trọng, đảm
bảo cho công tác giáo dục thế hệ trẻ đúng hướng, có mục tiêu rõ ràng, sát với nhiệm vụ thực
tiễn và đạt được hiệu quả cao. Cấp ủy, chi bộ Đảng cần tăng cường lãnh đạo, định hướng
giúp đỡ Ban Chấp hành Chi đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên trong việc bồi dưỡng lý tưởng
cách mạng của Đảng, nâng cao nhận thức chính trị, đạo đức lối sống cho thế hệ trẻ hiện nay.
Hai là, phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên, giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
Giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục trong các nhà trường là lực lượng trực tiếp thực
hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo nói chung và giáo dục lý tưởng cách mạng, ý thức bảo vệ
Tổ quốc nói riêng. Trong quá trình dạy học, giảng viên, giáo viên cần có sự lồng ghép nội
dung trên đây để bồi dưỡng, giáo dục cho thế hệ trẻ. Mặt khác, đội ngũ giảng viên, giáo viên
phải nêu tấm gương sáng, thực sự thấm nhuần lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội để người học noi theo.
Ba là, phát huy vai trò xung kích của tổ chức Đoàn trong giáo dục lý tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là trường xã hội chủ nghĩa của thanh niên,
nơi trực tiếp quản lý giáo giáo dục đoàn viên, thanh niên. Tổ chức Đoàn phải xác định, công
tác giáo dục lý tưởng cách mạng nói chung và lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã
hội nói riêng là nhiệm vụ quan trọng. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho thế hệ trẻ, tổ chức Đoàn các cấp
phải thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục cho phù hợp với đặc
điểm tâm, sinh lý của tuổi trẻ, tránh cách làm cứng nhắc, dập khuôn, máy móc. Công tác
giáo dục lý tưởng cách mạng, ý thức bảo vệ Tổ quốc phải được tiến hành thường xuyên, có
trọng tâm, trọng điểm.
Để giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho thế
hệ trẻ cần chú trọng tổ chức tốt các phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ như hoạt
động thi đua, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí… Trên cơ sở đó
định hướng tư tưởng, củng cố niềm tin, xây dựng động cơ đúng đắn cho thế hệ trẻ.
Bốn là, phát huy vai trò tự học, tự rèn của thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. 15 lOMoAR cPSD| 45469857
Để xứng đáng với vị trí, vai trò của mình, thế hệ trẻ hiện nay phải thường xuyên trau
dồi lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, ra sức học tập nâng cao trình độ
kiến thức mọi mặt, rèn luyện đạo đức lối sống, giữ gìn truyền thống của dân tộc. Qua học
tập, rèn luyện để hình thành những phẩm chất nhân cách tốt đẹp, góp phần thực hiện thắng
lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn
trongcông tác tư tưởng hiện nay, tr.7. 2.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Chính-
trị quốc gia, H.1996, tr.14. 3.
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, H.2011. 4. Hồ Chí Minh:
Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia.
5. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
6. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-bat/item/2873-mot-so-luan-diem cua-
chunghia-mac-lenin-ve-chu-nghia-xa-hoi-gia-tri-va-nhung-van-de-can-bo sung-phat-
trien.html 7. https://vksquangnam.gov.vn/index.php?
option=com_content&view=article&id=1625:t-tng-h-chi-minh-v-c-lp-dan-tc-gn lin-vi-
chngha-xa-hi&catid=72:hc-tp-lam-theo-li-bac&Itemid=91&lang=vi 8.
https://caodangcsnd2.edu.vn/Content/ImagesUpload/9/10/2015/10.pdf
9.http://baolamdong.vn/hosotulieu/202004/ky-niem-150-nam-ngay-sinh-vilenin
22418702242020-tu-tu-tuong-cua-lenin-den-quan-diem-doc-lap-dan-toc-gan-lien voi-chu-
nghia-xahoi-cua-chu-tich-ho-chi-minh-2999633/index.htm 16