Chứng minh tính chất yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Là độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Chứng minh tính chất yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Là độc lập dân tộc phải gắn liền với  CNXH |  Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
11 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Chứng minh tính chất yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Là độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Chứng minh tính chất yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Là độc lập dân tộc phải gắn liền với  CNXH |  Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

26 13 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45469857
BÀI TẬP LỚN
MÔN: TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI:
CHỨNG MINH TÍNH TẤT YẾU TRONG
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH: LÀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
PHẢI GẮN LIỀN VỚI CNXH.
Tên sinh viên : Phan Tạ Nguyên Anh
Lớp sinh viên : QTKDQT tiên tiến 63C
Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
lOMoARcPSD| 45469857
MỤC LỤC
I. CÁCH TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ........................3
II. TÍNH THIẾT YẾU CỦA ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ ĐỊNH HƯỚNG LÊN CHỦ NGHĨA ......6
XÃ HỘI ...........................................................................................................................................6
III. QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ KẾT LUẬN ..............................................................................9
DANH MỤC THAM KHẢO: .......................................................................................................11
lOMoARcPSD| 45469857
I. CÁCH TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Trước hết, về bản chất, Chủ nghĩa hội (CNXH) một trong ba ý thức hệ
chính trị lớn hình thành trong thế kỷ 19 bên cạnh chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo
thủ. Những người theo chủ nghĩa xã hội thường nhấn mạnh giá trị cơ bản của bình
đẳng, công bằng đoàn kếtđề cao mối quan hệ chặt chẽ giữa những phong trào
xã hội thiết thực và phê phán xã hội lý thuyết, họ theo đuổi mục tiêu nhằm hòa hợp
một trật tự hội kinh tế công bằng hội. Độc lập dân tộc quyền bất khả xâm
phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân tộc bởi chính người dân sinh sống
đó, nghĩa chủ quyền tối cao. Độc lập còn thể hiểu "sự không phthuộc"
từ nhân, tập thể, hội, quốc gia hay dân tộc nào vào nhân, tập thể, hội,
quốc gia hay dân tộc khác. Trong thời đại ngày nay - thời đại loài người quá độ từ
chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội trên phạm vi toàn thế giới, được đánh dấu
bằng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại thì việc đấu
tranh lật đổ ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập cho
dân tộc mục tiêu trước mắt của mọi quốc gia dân tộc bị áp bức, của các dân tộc
thuộc địa. Song việc xác định mục tiêu lâu dài, con đường phát triển tiếp theo của
mỗi nước, của mỗi dân tộc không hoàn toàn thống nhất, tùy thuộc vào quan điểm,
lập trường của giai cấp, nhà nước cầm quyền. Trên thực tế, nhiều nước sau khi kiên
trì đấu tranh giành được độc lập dân tộc lại tiếp tục đưa đất nước đi theo con đường
bản chủ nghĩa, đồng thời nhiều dân tộc quyết định tiến thẳng lên chủ nghĩa
hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, trong số đó có Việt Nam.
Lịch sử đã chứng minh, tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách
mạng của Đảng và nhân dân ta, trong đó tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội
là một bộ phận đặc biệt quan trọng. Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa
học và cách mạng của giai cấp vô sản nhằm xoá bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa,
thực hiện lý tưởng giải phóng giai cấp và giải phóng toàn thể xã hội loài người.
Chủ nghĩa xã hội còn được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện nó như một
quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu.
Cái mới sự sáng tạo của Hồ CMinh khi nói về bản chất của chủ nghĩa xã hội
chỗ Người phát hiện thấy tưởng hội chủ nghĩa đã chung đúc tất cả tưởng,
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giải phóng xã hội. Hồ Chí Minh còn thấy
một điểm rất quan trọng thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội muốn đạt tới lý
tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên chống lại chủ nghĩa nhân.
Người nhìn nhận chủ nghĩa hội một chế độ hội bảo đảm sự phát triển hài
hoà giữa nhân và xã hội. Hồ Chí Minh làm phong phú thêm hướng tiếp cận chủ
nghĩa xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm sáng tỏ bản chất
chủ nghĩa hội từ những kiến giải về kinh tế, chính trị hội. Ngoài những kiến
giải ấy, Hồ Chí Minh còn nhìn nhận bản chất chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo
đức, văn hoá. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa hội đối lập, xa lạ với chủ nghĩa
nhân, nhưng không hề phủ nhận nhân, trái lại, tôn trọng con người, phát triển mọi
năng lực cá nhân vì phát triển xã hội và hạnh phúc của con người. Đây là chiều sâu
lOMoARcPSD| 45469857
trong tư duy biện chứng, trong nhãn quan văn hoá, đạo đức của Hồ Chí Minh. Theo
Hồ Chí Minh, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới mong
hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa
hội. Đđạo đức cách mạng thì phải loại trừ mặt trái của nó chủ nghĩa
nhân. Đó là một kẻ thù nguy hiểm ngăn cản chúng ta đấu tranh cho sự nghiệp cách
mạng, tự mình phá huỷ sự nghiệp của mình. Đây chính nỗi lo toan thường trực
của Người. Từ tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927) cho đến Di chúc để lại cho
toàn Đảng, toàn dân (1969), Hồ Chí Minh không lúc nào xa rời điều quan tâm lớn
lao đó. Qua c tác phẩm “Tư cách của người Kách mệnh”, Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa nhân” Người nhấn mạnh rằng: “Không có đạo đức thì
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân
tộc, giải phóng cho loài người một công việc to tát tự mình không có đạo đức,
không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”. Từ đó, Người
đưa ra lời khẳng định: “tư tưởng hội chủ nghĩa chống tưởng nhân chủ
nghĩa”.
Theo tưởng Hồ Chí Minh, cần phải chống chủ nghĩa nhân, thực hiện sự n
trọng đề cao nhân cách, bảo đảm cho mỗi nhân phát triển lành mạnh nhân cách
của mình trong sự hài hoà giữa nhân hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan
trọng này, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm, chủ nghĩa xã hội là hội trong đó mình
mọi người, mọi người vì mình. Do đó, một trong những nét nổi bật của con người
xã hội chủ nghĩa là phải đạt tới trình độ phát triển cao về đạo đức, về nhân cách, đủ
sức chiến thắng chủ nghĩa cá nhân. Xã hội xã hội chủ nghĩa vừa đòi hỏi, vừa tạo ra
những con người như thế và chăm lo giáo dục, phát triển con người chiến lược
quan trọng bậc nhất của chủ nghĩa hội. Điều cần lưu ý là, mặc rất chú trọng
nhân tố đạo đức trong sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và coi đạo đức xã hội chủ
nghĩa là thuộc về bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội, song H
Chí Minh không bao giờ xem đạo đức là hiện tượng nằm ngoài tác nhân khác, gây
nên sự chia cắt, đối lập giữa kinh tế với đạo đức. Người đề cao sức mạnh tinh thần
đạo đức, nhưng không rơi vào duy ý chí, chủ quan hoặc chủ nghĩa trừu tượng. Tư
tưởng HChí Minh về chủ nghĩa hội luôn luôn nhất quán tính thống nhất biện
chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và đạo đức.
Từ cách tiếp cận đó về chủ nghĩa hội, thông qua hoạt động luận thực tiễn
hết sức phong phú, Hồ Chí Minh đã rút ra những kết luận rất sâu sắc về bản chất của
chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội có khả năng thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Hồ Chí Minh đã nói về chủ nghĩa hội một cách sâu sắc và khoa học, nhưng lại
giản dịsức cảm hoá rất lớn đối với nhân dân. Với câu hỏi chủ nghĩa xã hội gì?
Người trả lời rất sáng tỏ: “Xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần
ngày càng tốt, đó chủ nghĩa hội”. Luận đtổng quát đó được Người cụ thể
thêm “Chủ nghĩa xã hội nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con
cháu chúng ta ngày càng sung sướng”. “Chủ nghĩa xã hội làm sao cho dân giàu,
nước mạnh “.
Bản chất của chủ nghĩa hội còn được làm sáng tỏ khi Người nói tới trọng trách
của Đảng với nhân dân, nhất khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Hồ Chí
lOMoARcPSD| 45469857
Minh luôn luôn lấy cuộc sống hạnh phúc của nhân dân làm thước đo hiệu quả, làm
căn cứ đánh giá công việc của Đảng Nhà nước ta. Bản chất tính ưu việt của
chủ nghĩa hội được bộc lộ ra không, được phản ánh đúng đắn không
đó. Người viết: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến
đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng
và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng
và Chính phủ có lỗi”.
Qua đó, chúng ta thấy rằng, Người đòi hỏi cao như thế nào sự tận tụy, hy sinh, sự
mẫu mực trong sáng của Đảng Nhà nước, biểu hiện không những tổ chức
thể chế, còn từng người, từng cán bộ, đảng viên của Đảng, những công chức
của bộ máy chính quyền, những công bộc của n. Người thấu hiểu sâu sắc rằng, s
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi như vậy. Chính điều này làm sáng tỏ biết
bao sự nhạy cảm và tinh tế của Hồ Chí Minh khi Người đặt lý luận về Đảng và Nhà
nước của dân, do dân, dân vào vị trí cốt yếu của luận về chủ nghĩa xã hội
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cũng như vậy, Người xác định đạo đức và tư
cách của Người cách mạng vị trí quan trọng hàng đầu quyết định thành bại của
công cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội. Mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí
Minh không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, trước
hết là nhân dân lao động. Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là một trong những
vấn đề quan trọng mà Người đặc biệt quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của
quý báu nhất của nhân dân, chế độ ta chế độ dân chủ, tức nhân dân người
chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và
lực lượng đều nơi dân; dân chủ chìa khoá của mọi tiến bộ phát triển. Quan
niệm này đã đặt nền tảng giữ vai trò chỉ đạo trong hoạt động của Đảng Nhà
nước ta.
Cùng với chế độ mới, nền kinh tế mới, Hồ CMinh còn nhấn mạnh tới nền văn hoá
mới con người mới hội chủ nghĩa trong mục tiêu của chủ nghĩa hội. Bao
quát mục tiêu đó, Người nhắc nhở chúng ta: “Cuộc cách mạng hội chủ nghĩa
một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất... chúng ta phải biến một nước dốt
nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao đời sống tươi vui hạnh phúc”. Về động
lực, nhất động lực bên trong, nguồn nội lực thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ
nghĩa hội, Hồ Chí Minh đã đưa ra những chỉ dẫn thiết thực quý báu. Người
khẳng định nhân tố, động lực quan trọng quyết định nhất con người “Muốn
xây dựng chủ nghĩa hội trước hết cần những con người hội chủ nghĩa”.
Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự cố kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của
nhân dân sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của chủ nghĩa hội.
Người luôn luôn xây đắp khối đoàn kết dân tộc nhấn mạnh: đoàn kết, đại đoàn
kết toàn dân là nguồn sức mạnh địch. Cùng với động lực tinh thần, Hồ Chí Minh
rất coi trọng động lực kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản
xuất ích nước, lợi nhà. Người còn chủ trương áp dụng “Tân kinh tế chính sách”
của Lênin khi Người khởi thảo điều lệ “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
hội”. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh văn hoá, giáo dục, khoa học động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội. Người quan tâm đến vai trò
của văn hoá ngày càng tăng trong sự phát triển, văn hoá phải soi đường cho quốc
lOMoARcPSD| 45469857
dân đi; phải xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ mới. Đó
là nguồn vốn, là của cải quý báu nhất của quốc gia.
Ngoài các động lực bên trong, những nhân tố nội sinh hết sức quan trọng, theo
Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải kết hợp được với
các nhân tố bên ngoài (ngoại sinh). Một trong những động lực bên ngoài sức mạnh
thời đại, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Bước vào thời kquá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đứng trước một thực tế là trở
thành Đảng cầm quyền.
Hồ Chí Minh quan niệm thống nhất luận với thực tiễn, gắn luận với thực tiễn
là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Lý luận hoá thực tiễn từ sự nghiên
cứu, tổng kết thực tiễn một cách khoa học và thực tiễn hoá luận từ sự vận dụng
phát triển luận trong thực tiễn một cách sáng tạo - đó nét nổi bật thuộc về
nội dung, phương pháp tưởng Hồ Chí Minh nói chung cũng như tưởng của
Người về chủ nghĩa xã hội nói riêng.
II. TÍNH THIẾT YẾU CỦA ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ ĐỊNH HƯỚNG LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
Độc lập dân tộc quyền tự chủ, tự quyết của một dân tộc, quốc gia trong việc tổ
chức các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại… trong phạm vi lãnh thổ của mình, không chịu sự tác động, ép buộc, chi
phối, thao túng của nước ngoài. Độc lập dân tộc phải trên sở bảo đảm chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng trong quan hệ quốc tế, được luật pháp quốc
tế thừa nhận trên thực tế phải được khẳng định. Độc lập dân tộc là thành quả của
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở lý luận cách mạng
đó con đường cứu nước đúng đắn: “gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp, giải phóng hội giải phóng con người, tức phải đi tới chủ nghĩa
hội”. Sự gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin là sự gặp gỡ tất yếu
giữa chủ nghĩa yêu nước với htưởng khoa học và cách mạng của thời đại. Hồ
Chí Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, gieo hạt giống chủ nghĩa hội vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ nghiên cứu lý luận
khảo nghiệm thực tiễn của các nước, Hồ Chí Minh khẳng định: “chủ nghĩa xã hội
hoàn toàn thể thực hiện được Châu Á nói chung Đông Dương nói riêng,
trong đó có Việt Nam”.
Đối với Việt Nam, độc lập dân tộc không chỉ dừng lại độc lập dân tộc dưới chế
độ phong kiến, vị trí của người lao động vẫn không thay đổi. Độc lập dân tộc
theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một nền độc lập thật sự. Người nhấn mạnh: phải đấu
tranh giành cho được độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải thứ "độc
lập giả hiệu", "độc lập nửa vời", "độc lập hình thức". Người đã kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân chủ nghĩa thực dân mới để giành độc lập thật sự
cho dân tộc, cho đất nước. tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh bao giờ cũng
gắn với tự do, dân chủ và ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động; gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó đã trở thành mục tiêu của cách mạng, lý
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
lOMoARcPSD| 45469857
Hồ Chí Minh đã khẳng định tưởng về dân tộc và giải phóng dân tộc là một trong
những vấn đề bản chất nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã nêu mối
quan hệ biện chứng giữa cách mạng giải phóng dân tộc cách mạng hội chủ
nghĩa, đặt nền tảng cho sự quá độ từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách
mạng hội chủ nghĩa. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi Đảng đến nay đã
chứng minh sự đúng đắn của mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với ch
nghĩa hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội phản ánh tính triệt để
cách mạng của tưởng Hồ Chí Minh. tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con
người, hạnh phúc của con người mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng.
Theo Người, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân cách mạng hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân
chủ hai nhiệm vụ chiến lược bản, trong đó giải phóng dân tộc nhiệm vụ
hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước phục tùng nhiệm
vụ giải phóng dân tộc. thế, giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập
dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách. Kết luận này được Chủ tịch Hồ
Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế những mâu thuẫn khách quan
tồn tại của hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến. Đó con đường duy nhất
đúng, một tất yếu lịch sử của đất nước ta, không thể con đường khác, càng
không thể con đường bản chủ nghĩa. Bởi lẽ, để đánh đổ chế độ thực dân, phong
kiến, giành độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi áp bức bóc lột, đưa nhân dân
ta từ thân phận lệ thành người làm chủ đất nước ước mơ, khát vọng cháy
bỏng của nhân dân ta bao đời nay, suốt mấy chục năm trời, đã biết bao đảng viên
trung kiên, quần chúng nhân dân, cán bộ, chiến lực lượng vũ trang hy sinh xương
máu mới thực hiện được. vậy, sau khi giành được độc lập dân tộc, Đảng ta không
thể đưa đất nước đi theo con đường bản chủ nghĩa, không thể lại đưa giai cấp
bóc lột quay trở lại địa vị thống trị, đưa dân ta trở lại con đường lầm than, cơ cực,
tiếp tục chịu thân phận ngựa trâu, không thể tự tước đoạt, tự hủy hoại thành quả
cách mạng với bao sự hy sinh xương máu. Chính vì thế sau khi giành được độc lập
dân tộc, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa
đối với nước ta sự lựa chọn hợp quy luật phát triển của nhân loại, đồng thời cũng
phù hợp với đặc điểm của dân tộc ta, nguyện vọng, ý chí của nhân dân ta. Việc lựa
chọn mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Đảng
ta, nhân dân ta dựa trên sở khoa học của chủ nghĩa Mác -Lênin, được tổng kết
từ thực tiễn cách mạng thế giới lịch sử dân tộc Việt Nam, hội đủ các nhân tố
khách quan chủ quan, dân tộc thời đại, hoàn toàn không phải dựa vào cảm
tính, thuần túy dựa trên nguyện vọng mong muốn chủ quan của Đảng và nhân dân
ta.
Độc lập dân tộc chủ nghĩa hội không chỉ tưởng, mục tiêu còn trở
thành động lực mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam. Khát vọng độc lập cho dân tộc,
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp, đoàn kết mọi
giai cấp, tầng lớp thành phần trong dân tộc, tạo nên lực lượng cách mạng rộng
lớn sức mạnh to lớn. Mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội khơi dậy
mạnh mẽ tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội tốt đẹp của mọi người Việt Nam.
lOMoARcPSD| 45469857
Gắn với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, tinh thần độc lập, tự chủ, tự tôn dân
tộc luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam phát huy với quy mô và chất lượng mới.
Vượt qua những hạn chế của lập trường phong kiến, lập trường sản, chủ nghĩa
xã hội đã đưa đến những nội dung mới và triệt để trong việc giải quyết vấn đề độc
lập dân tộc. Đó là: Độc lập dân tộc trên cơ sở độc lập thực sự về kinh tế, chính trị,
văn hóa, ngoại giao; độc lập dân tộc phải bảo đảm xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc
lột dịch của dân tộc này với dân tộc khác cả về kinh tế, chính trị tinh thần;
quan hệ giữa các nước dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng lợi, tôn trọng chủ
quyền dân tộc, cùng đóng góp vào lợi ích chung của các dân tộc, hòa bình thế
giới, vì sự tiến bộ của loài người. Những giá trị đó chỉ có thể đạt được ở chủ nghĩa
xã hội. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt được chân giá trị của nó,
đưa dân tộc tới sự phồn vinh về kinh tế, phong phú về tinh thần, dân chủ được bảo
đảm. Chỉ với chủ nghĩa hội, dân tộc mới phát huy cao độ sức mạnh của mình,
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, trong xây dựng đất ớc, nâng cao sức mạnh
tổng hợp quốc gia, củng cvững chắc độc lập n tộc. Độc lập n tộc và chủ nghĩa
hội yếu tố quan trọng khơi dậy sức mạnh của dân tộc, ý nghĩa quyết định
đến thắng lợi to lớn của dân tộc ta.
Tóm lại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội tưởng chỉ đạo toàn bộ
tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc xây dựng đất nước của nhân dân Việt
Nam. Không phải ngẫu nhiên ngay từ đầu thập niên 20 của thế kỷ XX, nhân
dân ta đã từ chối lập trường cứu nước theo hệ tưởng sản, với xu hướng đưa
đất nước đi theo con đường bản chủ nghĩa - con đường không đem lại độc lập
thực sự cho Tổ quốc, cuộc sống ấm no, tự do cho người dân lao động. Gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Đảng đã huy động được lực lượng to lớn nhất trong
dân tộc là các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh vì độc lập
dân tộc. Giành được độc lập dân tộc không tiếp tục định hướng hội chủ nghĩa
phản bội lại các lớp người đã chiến đấu hi sinh vì lý tưởng này ngay từ trong quá
trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, đồng thời độc lập dân tộc cũng không được
bảo đảm vững chắc
Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì: Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ
chủ nghĩa hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt đcác dân tộc bị áp
bức khỏi ách lệ; chỉ cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền
độc lập thật sự, chân chính. Thứ nhất, vì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước
hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con đường cách mạng Việt Nam
hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng hội chủ
nghĩa. Ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì độc lập dân tộc là mục
tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách, nhưng không phải mục tiêu cuối cùng của cách
mạng Việt Nam. Thứ hai, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động
tự quyết định con đường đi lên chủ nghĩa hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Trong thời đại mới, chủ nghĩa hội xu hướng phát triển tất yếu của cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Thứ ba, chủ nghĩa hội con đường củng cố
vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Về
lOMoARcPSD| 45469857
luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một quá trình
cách mạng. Cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội
chủ nghĩa, cách mạng hội chủ nghĩa khẳng định bảo vvững chắc nền độc lập
dân tộc.
III. QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ KẾT LUẬN
Ngày nay, Tổ quốc ta hoàn toàn độc lập thì dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một. Chỉ
hội hội chủ nghĩa mới thực hiện được ước lâu đời của nhân dân lao
động nh viễn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu. Đó điều kiện
tiên quyết để xây dựng một hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, n
minh; do nhân dân làm chủ; nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc văn hóa dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, n
trọng và giúp nhau cùng phát triển; Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới, quán triệt tư tưởng đặt lên hàng đầu
lợi ích quốc gia, dân tộc với mục tiêu xuyên suốt giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chế độ chính trị hội chủ nghĩa, kết hợp
chặt chẽ với nhiệm vụ tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội tạo
sở cả về luận thực tiễn để chúng ta vận dụng sáng tạo các bài học về kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với hội
nhập quốc tế; triển khai các hoạt động đối ngoại một cách đồng bộ toàn diện.
Theo đó, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới
thể phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội sinh nhằm giữ vững độc lập,
tự chủ trên mọi lĩnh vực đối với sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Đó là chăm
lo xây dựng “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng
dân phải yên, chính trị - hội ổn định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất”.
Do vậy, cho thế giới ngày nay và trong những năm tới thể có nhiều đổi thay,
nhưng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội mãi mãi là mục tiêu, con đường
duy nhất đúng, là tất yếu lịch sử của dân tộc ta trên con đường xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Đối với chúng ta, chủ nhân của đất nước có hòa bình, độc lập, đang ra sức xây dựng
bảo vTổ quốc hội chủ nghĩa, tuy cương vị, chức trách, nhiệm vụ của mỗi
người khác nhau, song chúng ta đều thấm nhuần sâu sắc: chỉ đi theo con đường
chủ nghĩa hội thì chúng ta mới xóa bỏ được tệ nạn người áp bức, bóc lột người,
mới thực hiện được tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người; chỉ chủ nghĩa hội mới cái bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phát
triển tự do, toàn diện của mỗi người và mọi người.
lOMoARcPSD| 45469857
Thực tiễn trên thế giới, nhiều nước sau khi giành được độc lập đưa đất nước đi theo
con đường bản chủ nghĩa đang rơi vào tình trạng nghèo đói, khó khăn, chiến
tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái. Sự nghèo đói, chậm phát triển làm cho
quốc gia đó không thể có độc lập thật sự. Nhiều nước trước đây chủ nghĩa xã hội,
trong công cuộc cải tổ, cải cách đã mắc sai lầm bản về đường lối cách mạng,
thậm chí phản bội lại chủ nghĩa hội, muốn đưa đất nước đi theo con đường bản
chủ nghĩa hay “xã hội dân chủ” với ảo tưởng mong chờ vào sự giúp đỡ của thế giới
tư bản nhưng hiện nay đang rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế -
xã hội, về con đường phát triển của đất nước; nhiều định hướng giá trị của xã hội bị
đảo lộn; xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái gia tăng; đời sống của người lao động
ngày càng khó khăn, tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng; đặc biệt tác
động của đại dịch COVID-19 đến kinh tế, đời sống của người dân cách giải quyết
của các nước làm cho vị thế của các nước đó trên trường quốc tế ngày càng giảm
sút; đồng thời, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong tình hình thế giới phức tạp hiện nay, các thế lực thù địch của chủ nghĩa hội
tiếp lục tìm mọi cách đbài bác, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin. Luận điệu họ
thường nêu lên một cách sai lầm họ đem đồng nhất sự sụp đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông âu với sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác-Lênin, sự đổ vỡ của
hệ tư tưởng mác xít. Điều cần lưu ý là có một số người vốn là mácxít, nay dao động
do những động sai lầm khác nhau, dẫn tới sự hoài nghi học thuyết MácLênin,
hoài nghi con đường đi tới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thậm chí chống lại đường
lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ định con đường đi tới chủ nghĩa
xã hội mà nhân dân ta đã lựa chọn.
Là một sinh viên, em cảm thấy bản thân phải có trách nhiệm phát huy truyền thống
dựng nước giữ nước của dân tộc; xung ch, sáng tạo, đi đầu trong công cuộc đổi
mới, xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa. Sẵn sàng bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ độc lập, giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ; đảm nhận công việc khó khăn, gian khổ, cấp bách khi Tổ quốc yêu cầu.
Đấu tranh với các âm mưu, hoạt động gây phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
Gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện nghĩa vụ công dân. Tham
gia giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia. Chủ động đề xuất
ý tưởng, sáng kiến trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật; tham gia quản lý
nhà nước và hội. Tích cực tham gia tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện
Hiến pháp pháp luật. Xây dựng các hình sản xuất, kinh doanh tạo việc làm;
tham gia bảo vệ môi trường và các hoạt động vì lợi ích của cộng đồng, xã hội. Đặc
biệt luôn trau dồi đạo đức tri thức vđộc lập dân tộc, chủ nghĩa hội cũng
như luôn tâm niệm về tính tất yếu, tin tưởng con đường Đảng và nhà nước đã
hướng đất nước đi theo.
Kết luận lại, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập bao giờ cũng gắn liền với đời
sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên
thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc,
để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo, lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ thể đi
lên chủ nghĩa hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng
cố những thành quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện
lOMoARcPSD| 45469857
để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc. Những thành tựu quan trọng mà nhân
dân đã đạt được trong thời gian qua, đặc biệt trong hơn 17 năm đổi mới một
thực tế không ai có thể phủ nhận được. Con đường đi tới của cách mạng nước ta có
nhiều thuận lợi, nhưng không ít khó khăn. Dưới ánh ng của chnghĩa Mác- Lênin
tưởng Hồ Chí Minh, với sự lãnh đạo ng tạo, đúng đắn của Đảng ta, nhân dân
ta sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa. tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn cờ soi
sáng con đường cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi.
DANH MỤC THAM KHẢO:
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng
lớntrong công tác tư tưởng hiện nay, tr.7.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII,Nxb.Chính trị quốc gia, H.1996, tr.14.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 10, tr. 64.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 10, tr. 97.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 12, tr. 267.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000, t.11, tr.372.
(7). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, Phần 1, tr. 25
(8). Đảng Công sản Việ t Nam, Văn kiệ n Đại hộ i đại biểu toàn quốc lần thứ XII củạ
Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 2016
(9) Đảng Công sản Việ t Nam, Văn kiệ n Đại hi đại biểu toàn quốc lần thứ XIII củạ
Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 2021.
| 1/11

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45469857
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP LỚN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: CHỨNG MINH TÍNH TẤT YẾU TRONG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH: LÀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
PHẢI GẮN LIỀN VỚI CNXH.
Tên sinh viên : Phan Tạ Nguyên Anh Mã sinh viên :11210727
Lớp sinh viên : QTKDQT tiên tiến 63C
Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2022 lOMoAR cPSD| 45469857 MỤC LỤC
I. CÁCH TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ........................3
II. TÍNH THIẾT YẾU CỦA ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ ĐỊNH HƯỚNG LÊN CHỦ NGHĨA ......6
XÃ HỘI ...........................................................................................................................................6
III. QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ KẾT LUẬN ..............................................................................9
DANH MỤC THAM KHẢO: .......................................................................................................11 lOMoAR cPSD| 45469857
I. CÁCH TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Trước hết, về bản chất, Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là một trong ba ý thức hệ
chính trị lớn hình thành trong thế kỷ 19 bên cạnh chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo
thủ. Những người theo chủ nghĩa xã hội thường nhấn mạnh giá trị cơ bản của bình
đẳng, công bằng và đoàn kết và đề cao mối quan hệ chặt chẽ giữa những phong trào
xã hội thiết thực và phê phán xã hội lý thuyết, họ theo đuổi mục tiêu nhằm hòa hợp
một trật tự xã hội và kinh tế công bằng xã hội. Độc lập dân tộc là quyền bất khả xâm
phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân tộc bởi chính người dân sinh sống ở
đó, có nghĩa là có chủ quyền tối cao. Độc lập còn có thể hiểu là "sự không phụ thuộc"
từ cá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay dân tộc nào vào cá nhân, tập thể, xã hội,
quốc gia hay dân tộc khác. Trong thời đại ngày nay - thời đại loài người quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, được đánh dấu
bằng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại thì việc đấu
tranh lật đổ ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập cho
dân tộc là mục tiêu trước mắt của mọi quốc gia dân tộc bị áp bức, của các dân tộc
thuộc địa. Song việc xác định mục tiêu lâu dài, con đường phát triển tiếp theo của
mỗi nước, của mỗi dân tộc không hoàn toàn thống nhất, tùy thuộc vào quan điểm,
lập trường của giai cấp, nhà nước cầm quyền. Trên thực tế, nhiều nước sau khi kiên
trì đấu tranh giành được độc lập dân tộc lại tiếp tục đưa đất nước đi theo con đường
tư bản chủ nghĩa, đồng thời nhiều dân tộc quyết định tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, trong số đó có Việt Nam.
Lịch sử đã chứng minh, tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách
mạng của Đảng và nhân dân ta, trong đó tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội
là một bộ phận đặc biệt quan trọng. Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa
học và cách mạng của giai cấp vô sản nhằm xoá bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa,
thực hiện lý tưởng giải phóng giai cấp và giải phóng toàn thể xã hội loài người.
Chủ nghĩa xã hội còn được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện nó như một
quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu.
Cái mới và là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh khi nói về bản chất của chủ nghĩa xã hội
là ở chỗ Người phát hiện thấy lý tưởng xã hội chủ nghĩa đã chung đúc tất cả lý tưởng,
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Hồ Chí Minh còn thấy
một điểm rất quan trọng thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội là muốn đạt tới lý
tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên chống lại chủ nghĩa cá nhân.
Người nhìn nhận chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội bảo đảm sự phát triển hài
hoà giữa cá nhân và xã hội. Hồ Chí Minh làm phong phú thêm hướng tiếp cận chủ
nghĩa xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm sáng tỏ bản chất
chủ nghĩa xã hội từ những kiến giải về kinh tế, chính trị và xã hội. Ngoài những kiến
giải ấy, Hồ Chí Minh còn nhìn nhận bản chất chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo
đức, văn hoá. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá
nhân, nhưng không hề phủ nhận cá nhân, trái lại, tôn trọng con người, phát triển mọi
năng lực cá nhân vì phát triển xã hội và hạnh phúc của con người. Đây là chiều sâu lOMoAR cPSD| 45469857
trong tư duy biện chứng, trong nhãn quan văn hoá, đạo đức của Hồ Chí Minh. Theo
Hồ Chí Minh, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới mong
hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Để có đạo đức cách mạng thì phải loại trừ mặt trái của nó là chủ nghĩa cá
nhân. Đó là một kẻ thù nguy hiểm ngăn cản chúng ta đấu tranh cho sự nghiệp cách
mạng, tự mình phá huỷ sự nghiệp của mình. Đây chính là nỗi lo toan thường trực
của Người. Từ tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927) cho đến Di chúc để lại cho
toàn Đảng, toàn dân (1969), Hồ Chí Minh không lúc nào xa rời điều quan tâm lớn
lao đó. Qua các tác phẩm “Tư cách của người Kách mệnh”, “Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” Người nhấn mạnh rằng: “Không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân
tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo đức,
không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”. Từ đó, Người
đưa ra lời khẳng định: “tư tưởng xã hội chủ nghĩa là chống tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phải chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện sự tôn
trọng và đề cao nhân cách, bảo đảm cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân cách
của mình trong sự hài hoà giữa cá nhân và xã hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan
trọng này, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm, chủ nghĩa xã hội là xã hội trong đó mình
vì mọi người, mọi người vì mình. Do đó, một trong những nét nổi bật của con người
xã hội chủ nghĩa là phải đạt tới trình độ phát triển cao về đạo đức, về nhân cách, đủ
sức chiến thắng chủ nghĩa cá nhân. Xã hội xã hội chủ nghĩa vừa đòi hỏi, vừa tạo ra
những con người như thế và chăm lo giáo dục, phát triển con người là chiến lược
quan trọng bậc nhất của chủ nghĩa xã hội. Điều cần lưu ý là, mặc dù rất chú trọng
nhân tố đạo đức trong sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và coi đạo đức xã hội chủ
nghĩa là thuộc về bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội, song Hồ
Chí Minh không bao giờ xem đạo đức là hiện tượng nằm ngoài tác nhân khác, gây
nên sự chia cắt, đối lập giữa kinh tế với đạo đức. Người đề cao sức mạnh tinh thần
đạo đức, nhưng không rơi vào duy ý chí, chủ quan hoặc chủ nghĩa trừu tượng. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội luôn luôn nhất quán tính thống nhất biện
chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và đạo đức.
Từ cách tiếp cận đó về chủ nghĩa xã hội, thông qua hoạt động lý luận và thực tiễn
hết sức phong phú, Hồ Chí Minh đã rút ra những kết luận rất sâu sắc về bản chất của
chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội có khả năng thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Hồ Chí Minh đã nói về chủ nghĩa xã hội một cách sâu sắc và khoa học, nhưng lại
giản dị có sức cảm hoá rất lớn đối với nhân dân. Với câu hỏi chủ nghĩa xã hội là gì?
Người trả lời rất sáng tỏ: “Xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần
ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”. Luận đề tổng quát đó được Người cụ thể
thêm “Chủ nghĩa xã hội nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con
cháu chúng ta ngày càng sung sướng”. “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh “.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội còn được làm sáng tỏ khi Người nói tới trọng trách
của Đảng với nhân dân, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Hồ Chí lOMoAR cPSD| 45469857
Minh luôn luôn lấy cuộc sống hạnh phúc của nhân dân làm thước đo hiệu quả, làm
căn cứ đánh giá công việc của Đảng và Nhà nước ta. Bản chất và tính ưu việt của
chủ nghĩa xã hội có được bộc lộ ra không, có được phản ánh đúng đắn không là ở
đó. Người viết: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến
đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng
và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng
và Chính phủ có lỗi”.
Qua đó, chúng ta thấy rằng, Người đòi hỏi cao như thế nào sự tận tụy, hy sinh, sự
mẫu mực trong sáng của Đảng và Nhà nước, biểu hiện không những ở tổ chức và
thể chế, mà còn ở từng người, từng cán bộ, đảng viên của Đảng, những công chức
của bộ máy chính quyền, những công bộc của dân. Người thấu hiểu sâu sắc rằng, sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi như vậy. Chính điều này làm sáng tỏ biết
bao sự nhạy cảm và tinh tế của Hồ Chí Minh khi Người đặt lý luận về Đảng và Nhà
nước của dân, do dân, vì dân vào vị trí cốt yếu của lý luận về chủ nghĩa xã hội và
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cũng như vậy, Người xác định đạo đức và tư
cách của Người cách mạng ở vị trí quan trọng hàng đầu quyết định thành bại của
công cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội. Mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí
Minh là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước
hết là nhân dân lao động. Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là một trong những
vấn đề quan trọng mà Người đặc biệt quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của
quý báu nhất của nhân dân, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người
chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến bộ và phát triển. Quan
niệm này đã đặt nền tảng và giữ vai trò chỉ đạo trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta.
Cùng với chế độ mới, nền kinh tế mới, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh tới nền văn hoá
mới và con người mới xã hội chủ nghĩa trong mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Bao
quát mục tiêu đó, Người nhắc nhở chúng ta: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là
một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất... chúng ta phải biến một nước dốt
nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Về động
lực, nhất là động lực bên trong, nguồn nội lực thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã đưa ra những chỉ dẫn thiết thực và quý báu. Người
khẳng định nhân tố, động lực quan trọng và quyết định nhất là con người “Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự cố kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của
nhân dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội.
Người luôn luôn xây đắp khối đoàn kết dân tộc và nhấn mạnh: đoàn kết, đại đoàn
kết toàn dân là nguồn sức mạnh vô địch. Cùng với động lực tinh thần, Hồ Chí Minh
rất coi trọng động lực kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản
xuất vì ích nước, lợi nhà. Người còn chủ trương áp dụng “Tân kinh tế chính sách”
của Lênin khi Người khởi thảo điều lệ “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
hội”. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh văn hoá, giáo dục, khoa học là động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người quan tâm đến vai trò
của văn hoá ngày càng tăng trong sự phát triển, văn hoá phải soi đường cho quốc lOMoAR cPSD| 45469857
dân đi; phải xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ mới. Đó
là nguồn vốn, là của cải quý báu nhất của quốc gia.
Ngoài các động lực bên trong, những nhân tố nội sinh là hết sức quan trọng, theo
Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải kết hợp được với
các nhân tố bên ngoài (ngoại sinh). Một trong những động lực bên ngoài là sức mạnh
thời đại, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đứng trước một thực tế là trở thành Đảng cầm quyền.
Hồ Chí Minh quan niệm thống nhất lý luận với thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn
là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Lý luận hoá thực tiễn từ sự nghiên
cứu, tổng kết thực tiễn một cách khoa học và thực tiễn hoá lý luận từ sự vận dụng
và phát triển lý luận trong thực tiễn một cách sáng tạo - đó là nét nổi bật thuộc về
nội dung, phương pháp tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung cũng như tư tưởng của
Người về chủ nghĩa xã hội nói riêng.
II. TÍNH THIẾT YẾU CỦA ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ ĐỊNH HƯỚNG LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Độc lập dân tộc là quyền tự chủ, tự quyết của một dân tộc, quốc gia trong việc tổ
chức các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại… trong phạm vi lãnh thổ của mình, không chịu sự tác động, ép buộc, chi
phối, thao túng của nước ngoài. Độc lập dân tộc phải trên cơ sở bảo đảm chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng trong quan hệ quốc tế, được luật pháp quốc
tế thừa nhận và trên thực tế phải được khẳng định. Độc lập dân tộc là thành quả của
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở lý luận cách mạng
đó con đường cứu nước đúng đắn: “gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, tức là phải đi tới chủ nghĩa xã
hội”
. Sự gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin là sự gặp gỡ tất yếu
giữa chủ nghĩa yêu nước với hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của thời đại. Hồ
Chí Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, gieo hạt giống chủ nghĩa xã hội vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ nghiên cứu lý luận và
khảo nghiệm thực tiễn của các nước, Hồ Chí Minh khẳng định: “chủ nghĩa xã hội
hoàn toàn có thể thực hiện được ở Châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng,
trong đó có Việt Nam”.

Đối với Việt Nam, độc lập dân tộc không chỉ dừng lại ở độc lập dân tộc dưới chế
độ phong kiến, vì vị trí của người lao động vẫn không thay đổi. Độc lập dân tộc
theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một nền độc lập thật sự. Người nhấn mạnh: phải đấu
tranh giành cho được độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ "độc
lập giả hiệu", "độc lập nửa vời", "độc lập hình thức". Người đã kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới để giành độc lập thật sự
cho dân tộc, cho đất nước. Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh bao giờ cũng
gắn với tự do, dân chủ và ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động; gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó đã trở thành mục tiêu của cách mạng, lý
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. lOMoAR cPSD| 45469857
Hồ Chí Minh đã khẳng định tư tưởng về dân tộc và giải phóng dân tộc là một trong
những vấn đề bản chất nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã nêu rõ mối
quan hệ biện chứng giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ
nghĩa, đặt nền tảng cho sự quá độ từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng đến nay đã
chứng minh sự đúng đắn của mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh tính triệt để
cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con
người, hạnh phúc của con người ở mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng.
Theo Người, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân
chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ
hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm
vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập
dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách. Kết luận này được Chủ tịch Hồ
Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu thuẫn khách quan
tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến. Đó là con đường duy nhất
đúng, là một tất yếu lịch sử của đất nước ta, không thể có con đường khác, càng
không thể là con đường tư bản chủ nghĩa. Bởi lẽ, để đánh đổ chế độ thực dân, phong
kiến, giành độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi áp bức bóc lột, đưa nhân dân
ta từ thân phận nô lệ thành người làm chủ đất nước là ước mơ, là khát vọng cháy
bỏng của nhân dân ta bao đời nay, suốt mấy chục năm trời, đã có biết bao đảng viên
trung kiên, quần chúng nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang hy sinh xương
máu mới thực hiện được. Vì vậy, sau khi giành được độc lập dân tộc, Đảng ta không
thể đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, không thể lại đưa giai cấp
bóc lột quay trở lại địa vị thống trị, đưa dân ta trở lại con đường lầm than, cơ cực,
tiếp tục chịu thân phận ngựa trâu, không thể tự tước đoạt, tự hủy hoại thành quả
cách mạng với bao sự hy sinh xương máu. Chính vì thế sau khi giành được độc lập
dân tộc, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
đối với nước ta là sự lựa chọn hợp quy luật phát triển của nhân loại, đồng thời cũng
phù hợp với đặc điểm của dân tộc ta, nguyện vọng, ý chí của nhân dân ta. Việc lựa
chọn mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Đảng
ta, nhân dân ta dựa trên cơ sở khoa học của chủ nghĩa Mác -Lênin, được tổng kết
từ thực tiễn cách mạng thế giới và lịch sử dân tộc Việt Nam, hội đủ các nhân tố
khách quan và chủ quan, dân tộc và thời đại, hoàn toàn không phải dựa vào cảm
tính, thuần túy dựa trên nguyện vọng mong muốn chủ quan của Đảng và nhân dân ta.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ là lý tưởng, mục tiêu mà còn trở
thành động lực mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam. Khát vọng độc lập cho dân tộc,
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp, đoàn kết mọi
giai cấp, tầng lớp và thành phần trong dân tộc, tạo nên lực lượng cách mạng rộng
lớn và sức mạnh to lớn. Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội khơi dậy
mạnh mẽ tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội tốt đẹp của mọi người Việt Nam. lOMoAR cPSD| 45469857
Gắn với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, tinh thần độc lập, tự chủ, tự tôn dân
tộc luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam phát huy với quy mô và chất lượng mới.
Vượt qua những hạn chế của lập trường phong kiến, lập trường tư sản, chủ nghĩa
xã hội đã đưa đến những nội dung mới và triệt để trong việc giải quyết vấn đề độc
lập dân tộc. Đó là: Độc lập dân tộc trên cơ sở độc lập thực sự về kinh tế, chính trị,
văn hóa, ngoại giao; độc lập dân tộc phải bảo đảm xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc
lột và nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác cả về kinh tế, chính trị và tinh thần;
quan hệ giữa các nước dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng chủ
quyền dân tộc, cùng đóng góp vào lợi ích chung của các dân tộc, vì hòa bình thế
giới, vì sự tiến bộ của loài người
. Những giá trị đó chỉ có thể đạt được ở chủ nghĩa
xã hội. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt được chân giá trị của nó,
đưa dân tộc tới sự phồn vinh về kinh tế, phong phú về tinh thần, dân chủ được bảo
đảm. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, dân tộc mới phát huy cao độ sức mạnh của mình,
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, trong xây dựng đất nước, nâng cao sức mạnh
tổng hợp quốc gia, củng cố vững chắc độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội là yếu tố quan trọng khơi dậy sức mạnh của dân tộc, có ý nghĩa quyết định
đến thắng lợi to lớn của dân tộc ta.
Tóm lại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chỉ đạo toàn bộ
tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước của nhân dân Việt
Nam. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ đầu thập niên 20 của thế kỷ XX, nhân
dân ta đã từ chối lập trường cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản, với xu hướng đưa
đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa - con đường không đem lại độc lập
thực sự cho Tổ quốc, cuộc sống ấm no, tự do cho người dân lao động. Gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Đảng đã huy động được lực lượng to lớn nhất trong
dân tộc là các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh vì độc lập
dân tộc. Giành được độc lập dân tộc mà không tiếp tục định hướng xã hội chủ nghĩa
là phản bội lại các lớp người đã chiến đấu hi sinh vì lý tưởng này ngay từ trong quá
trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, đồng thời độc lập dân tộc cũng không được bảo đảm vững chắc
Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì: Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp
bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền
độc lập thật sự, chân chính. Thứ nhất, vì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước
hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con đường cách mạng Việt Nam
có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì độc lập dân tộc là mục
tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách, nhưng không phải là mục tiêu cuối cùng của cách
mạng Việt Nam. Thứ hai, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động
tự quyết định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Trong thời đại mới, chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Thứ ba, chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố
vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Về lý lOMoAR cPSD| 45469857
luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một quá trình
cách mạng. Cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội
chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
III. QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ KẾT LUẬN
Ngày nay, Tổ quốc ta hoàn toàn độc lập thì dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một. Chỉ
có xã hội xã hội chủ nghĩa mới thực hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân lao
động là vĩnh viễn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu. Đó là điều kiện
tiên quyết để xây dựng một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc văn hóa dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới, quán triệt tư tưởng đặt lên hàng đầu
lợi ích quốc gia, dân tộc với mục tiêu xuyên suốt là giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, kết hợp
chặt chẽ với nhiệm vụ tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội tạo cơ
sở cả về lý luận và thực tiễn để chúng ta vận dụng sáng tạo các bài học về kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với hội
nhập quốc tế; triển khai các hoạt động đối ngoại một cách đồng bộ và toàn diện.
Theo đó, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới có
thể phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội sinh nhằm giữ vững độc lập,
tự chủ trên mọi lĩnh vực đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là chăm
lo xây dựng “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng
dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất”.
Do vậy, cho dù thế giới ngày nay và trong những năm tới có thể có nhiều đổi thay,
nhưng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mãi mãi là mục tiêu, con đường
duy nhất đúng, là tất yếu lịch sử của dân tộc ta trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đối với chúng ta, chủ nhân của đất nước có hòa bình, độc lập, đang ra sức xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tuy cương vị, chức trách, nhiệm vụ của mỗi
người có khác nhau, song chúng ta đều thấm nhuần sâu sắc: chỉ có đi theo con đường
chủ nghĩa xã hội thì chúng ta mới xóa bỏ được tệ nạn người áp bức, bóc lột người,
mới thực hiện được lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người; chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là cái bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phát
triển tự do, toàn diện của mỗi người và mọi người. lOMoAR cPSD| 45469857
Thực tiễn trên thế giới, nhiều nước sau khi giành được độc lập đưa đất nước đi theo
con đường tư bản chủ nghĩa đang rơi vào tình trạng nghèo đói, khó khăn, chiến
tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái. Sự nghèo đói, chậm phát triển làm cho
quốc gia đó không thể có độc lập thật sự. Nhiều nước trước đây là chủ nghĩa xã hội,
trong công cuộc cải tổ, cải cách đã mắc sai lầm cơ bản về đường lối cách mạng,
thậm chí phản bội lại chủ nghĩa xã hội, muốn đưa đất nước đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa hay “xã hội dân chủ” với ảo tưởng mong chờ vào sự giúp đỡ của thế giới
tư bản nhưng hiện nay đang rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế -
xã hội, về con đường phát triển của đất nước; nhiều định hướng giá trị của xã hội bị
đảo lộn; xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái gia tăng; đời sống của người lao động
ngày càng khó khăn, tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng; đặc biệt tác
động của đại dịch COVID-19 đến kinh tế, đời sống của người dân và cách giải quyết
của các nước làm cho vị thế của các nước đó trên trường quốc tế ngày càng giảm
sút; đồng thời, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong tình hình thế giới phức tạp hiện nay, các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội
tiếp lục tìm mọi cách để bài bác, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin. Luận điệu họ
thường nêu lên một cách sai lầm là họ đem đồng nhất sự sụp đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông âu với sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác-Lênin, sự đổ vỡ của
hệ tư tưởng mác xít. Điều cần lưu ý là có một số người vốn là mácxít, nay dao động
do những động cơ sai lầm khác nhau, dẫn tới sự hoài nghi học thuyết MácLênin,
hoài nghi con đường đi tới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thậm chí chống lại đường
lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ định con đường đi tới chủ nghĩa
xã hội mà nhân dân ta đã lựa chọn.
Là một sinh viên, em cảm thấy bản thân phải có trách nhiệm phát huy truyền thống
dựng nước và giữ nước của dân tộc; xung kích, sáng tạo, đi đầu trong công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sẵn sàng bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ độc lập, giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ; đảm nhận công việc khó khăn, gian khổ, cấp bách khi Tổ quốc yêu cầu.
Đấu tranh với các âm mưu, hoạt động gây phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
Gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện nghĩa vụ công dân. Tham
gia giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia. Chủ động đề xuất
ý tưởng, sáng kiến trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật; tham gia quản lý
nhà nước và xã hội. Tích cực tham gia tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện
Hiến pháp và pháp luật. Xây dựng các mô hình sản xuất, kinh doanh tạo việc làm;
tham gia bảo vệ môi trường và các hoạt động vì lợi ích của cộng đồng, xã hội. Đặc
biệt là luôn trau dồi đạo đức và tri thức về độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội cũng
như luôn tâm niệm về tính tất yếu, tin tưởng con đường mà Đảng và nhà nước đã
hướng đất nước đi theo.
Kết luận lại, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập bao giờ cũng gắn liền với đời
sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên
thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc,
để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo, lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể đi
lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng
cố những thành quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện lOMoAR cPSD| 45469857
để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc. Những thành tựu quan trọng mà nhân
dân đã đạt được trong thời gian qua, đặc biệt là trong hơn 17 năm đổi mới là một
thực tế không ai có thể phủ nhận được. Con đường đi tới của cách mạng nước ta có
nhiều thuận lợi, nhưng không ít khó khăn. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, với sự lãnh đạo sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta, nhân dân
ta sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn cờ soi
sáng con đường cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi. DANH MỤC THAM KHẢO:
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng
lớntrong công tác tư tưởng hiện nay, tr.7.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII,Nxb.Chính trị quốc gia, H.1996, tr.14.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 10, tr. 64.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 10, tr. 97.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 12, tr. 267.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000, t.11, tr.372.
(7). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, Phần 1, tr. 25
(8). Đảng Công sản Việ t Nam, Văn kiệ n Đại hộ i đại biểu toàn quốc lần thứ XII củạ
Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 2016̣
(9) Đảng Công sản Việ t Nam, Văn kiệ n Đại hộ i đại biểu toàn quốc lần thứ XIII củạ
Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 2021.̣