Chứng minh tính tất yếu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong tư tưởng | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chứng minh tính tất yếu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong tư tưởng | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45568214
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
Môn học: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài:
CHỨNG MINH TÍNH TẤT YẾU ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GẮN LIỀN VỚI CNXH TRONG TƯ TƯỞNG HCM
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Hoài Mã sinh viên: 11192041 GVHD: TS. Lê Thị Hoa
Lớp học phần: TTHCM - 12 Hà Nội, Tháng 3/2022 lOMoAR cPSD| 45568214 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................2
NỘI DUNG.................................................................................................................3
CHƯƠNG I. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
LÀ SỰ LỰA CHỌN TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ XÃ HỘI VIỆT NAM...............3
1.1. Tính tất yếu của việc thiết lập độc lập dân tộc ở Việt Nam – Đòi hỏi khách
quan của cách mạng Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.....................3
1.1.1. Thực dân Pháp xâm lược nước ta từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX..........3
1.1.2. Nhân dân ta nổi dậy chống thực dân Pháp, đòi độc lập dân tộc thời kỳ cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX...........................................................................................4
1.2. Tính tất yếu của sự tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam..........5
1.2.1. Đòi hỏi mới về con đường cứu nước của Việt Nam ở đầu thế kỷ XX.................5
1.2.2. Kinh nghiệm cách mạng thế giới........................................................................6
1.2.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin soi đường cho cách mạng Việt Nam.............................7
CHƯƠNG II. NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI...................9
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc...........................................9
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.......................................11
2.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất tổng quát của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.....................................................................................................11
2.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam....12
2.2.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam....12
2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội............13
2.3.1. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết và là cơ sở tiền đề để tiến lên
chủ nghĩa xã hội...................................................................................................13
2.3.2. Chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu của độc lập dân tộc và là con đường
củng cố vững chắc độc lập dân tộc......................................................................14
CHƯƠNG III. THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ KHI CÓ ĐẢNG
LÃNH ĐẠO CHỨNG MÌNH TÍNH ĐÚNG ĐẮN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI..................................................................................................................16
3.1. Giai đoạn 1930 – 1945....................................................................................16
3.2. Giai đoạn 1945 – 1954....................................................................................17
3.3. Giai đoạn 1954 – 1975....................................................................................18
KẾT LUẬN...............................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................21 1 lOMoAR cPSD| 45568214 LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Người được thế giới tôn
vinh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tư tưởng của người,
là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi
đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Năm 1858, khi thực dân Pháp xâm lược và đặt ách thống trị ở nước ta cho đến đầu
thế kỷ XX, nhân dân ta đã chiến đấu rất quyết liệt và anh dũng dưới sự lãnh đạo các
cuộc kháng chiến là các sỹ phu, văn thân. Thực tiễn lịch sử các cuộc đấu tranh chống
thực dân Pháp của nhân dân ta đến đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ rằng, không thể giải
quyết vấn đề dân tộc, giành độc lập dân tộc dựa trên những quan điểm phong kiến, hay
tư sản. Vì vậy đòi hỏi cần có một lực lượng lãnh đạo đất nước với một con đường cứu
nước mới, có khả năng tập hợp và phát huy sức mạnh toàn dân tộc để đưa dân tộc ta
đến độc lập tự do thực sự. Trong điều kiện ấy, sự lựa chọn con đường cứu nước cứu
dân theo con đường cách mạng vô sản của Hồ Chí Minh là duy nhất đúng. Nó có cơ sở
thực tiễn của cách mạng Việt Nam và cơ sở lý luận về cách mạng vô sản của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Sự lựa chọn này là bước ngoặt cực kỳ to lớn trong lịch sử cách mạng Việt
Nam. Lần đầu tiên sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc được nâng lên trình độ một
cuộc cách mạng xã hội, kết hợp trong bản thân tiến trình cách mạng cả hai sự nghiệp
giải phóng dân tộc và giải phóng 3 giai cấp để đi đến giải phóng con người. Điều đó tự
nó tạo thành định hướng xã hội chủ nghĩa một cách khách quan, cố kết tự nhiên giữa
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội, đã vận dụng và phát triển một cách
sáng tạo, đưa ra nhiều kiến giải mới nhằm bổ sung vào lý luận Mác-Lênin, phù hợp với thực tế Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn
bộ tư tưởng Hồ Chí Minh; thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động
thực tiễn của Người. Từ khi trở thành người cộng sản cho đến khi trở thành lãnh tụ,
nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là gắn độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam. 2 lOMoAR cPSD| 45568214 NỘI DUNG
CHƯƠNG I. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ
SỰ LỰA CHỌN TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ XÃ HỘI VIỆT NAM
1.1. Tính tất yếu của việc thiết lập độc lập dân tộc ở Việt Nam – Đòi hỏi khách
quan của cách mạng Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1.1.1. Thực dân Pháp xâm lược nước ta từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
Cho đến khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một nước phong kiến độc lập,
nhưng với chính sách cai trị hà khắc của triều đình Nhà Nguyễn, nhân dân ta vẫn bị áp
bức bóc lột, vẫn chưa thực sự có tự do và hạnh phúc. Đầu thế kỷ XIX, sau khi lật đổ
triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã lập nên triều đình phong kiến nhà Nguyễn, tự xưng
hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long, đặt tên nước là Việt Nam. Kể từ đó, các vua quan
triều Nguyễn đã thi hành những chính sách đối nội và đối ngoại phản động, bảo thủ
làm suy yếu sức mạnh quốc gia về kinh tế, quân sự.
Về đối nội, tăng cường đàn áp bóc lột nhân dân, cự tuyệt mọi cải cách về chính
trị, kinh tế, quân sự thậm chí còn đàn áp cả những người dám đứng lên kiến nghị cải
cách. Với những chính sách đó của nhà Nguyễn, đã khiến cho đời sống của người dân
vô cùng khó khăn, đói kém.
Về đối ngoại, thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”, đóng cửa không quan hệ
với bên ngoài làm mất đi cơ hội tiếp xúc với sự phát triển bên ngoài, đặc biệt là đối với
các nước phương Tây. Nhà Nguyễn đã không mở ra khả năng nào cho Việt Nam cơ hội
tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới, với cuộc cách mạng kỹ thuật ở châu
Âu. Không tập trung được nhân dân, ngược lại luôn đối đầu với nhân dân làm giảm
sức mạnh truyền thống của dân tộc.
Trong số các nước tư bản phương Tây có ý định nhòm ngó Việt Nam, thì thực
dân Pháp là nước có ý đồ quyết tâm xâm lược nước ta. Chính sách đóng cửa, không
giao lưu với bên ngoài của triều đình nhà Nguyễn, nhất là chính sách cấm đạo và giết
đạo không những không bảo vệ được nền độc lập dân tộc trước nguy cơ từ bên ngoài
mà còn tạo lý do cho thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, bắt đầu từ bán đảo Sơn lOMoAR cPSD| 45568214
Trà, Đà Nẵng vào ngày 1-9-1858. Sự kiện này đã đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử
Việt Nam, lúc ấy vận mệnh lịch sử nước ta đứng trước hai ngã rẽ:
Một là, triều Nguyễn sẽ bị lật đổ và thay vào đó là một triều đại khác tiến theo
xu hướng Tư bản chủ nghĩa có khả năng duy tân đất nước và bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Hai là, nước Việt Nam sẽ bị mất vào tay thực dân Pháp và trở thành nước thuộc địa của Pháp.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, việc thiết lập độc lập dân tộc xuất phát từ điều
kiện thực tế của Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trước sự
xâm lược của thực dân Pháp, triều Nguyễn, trong nước thì sợ nhân dân, bên ngoài thì
bạc nhược trước kẻ thù, lúc đầu có chống cự yếu ớt, nhưng sau đó đã từng bước nhân
nhượng, cầu hòa và cuối cùng đã đầu hàng giặc Pháp và biến nước ta thành một nước
phong kiến nửa thuộc địa, nhân dân ta một lần nữa lâm vào cảnh nô lệ, lầm than.
1.1.2. Nhân dân ta nổi dậy chống thực dân Pháp, đòi độc lập dân tộc thời kỳ
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp, với việc ký Hiệp
ước Patơnốt (Patenôtre) năm 1884. Nhân dân ta đã không cam chịu sự áp bức bóc lột
của thực dân Pháp đã nổi dậy chống lại thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn.
• Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
Nửa cuối thế kỷ XIX, những phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra mạnh mẽ.
Đặc biệt là sau khi vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương (7-1885). Tiêu biểu là các
cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), khởi
nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và khởi nghĩa Hương Khê của
Phan Đình Phùng (1885-1895), khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám
lãnh đạo. Tuy nhiên những cuộc khởi nghĩa này đã thất bại hoàn toàn.
• Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
Sang đầu thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện của giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư
sản, thì những tư tưởng mới, tư tưởng cách tân lúc bấy giờ cũng được truyền bá vào
Việt Nam. Như tư tưởng của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, chủ nghĩa Tam Dân của
Tôn Trung Sơn. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến phong trào yêu nước ở Việt Nam. Do lOMoAR cPSD| 45568214
đó, đã xuất hiện những phong trào yêu nước theo xu hướng dân chủ tư sản. Tiêu biểu
như phong trào Đông Du, Đông kinh Nghĩa thục, Duy Tân, Việt Nam quang phục hội
Tuy nhiên, do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước theo khuynh hướng
dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính
xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển,
những phong trào này đều đi đến kết cục thất bại.
• Nguyên nhân thất bại của những phong trào yêu nước thời kỳ này
- Khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản không còn phù hợp với thời đại mới.
- Các phong trào này diễn ra lẻ tẻ và không thống nhất nên dễ dàng bị thực dân Pháp đàn áp.
- Các phong trào này quá phụ thuộc vào người lãnh đạo. Sau khi người lãnh đạo bị bắt
hoặc bị hy sinh thì các phong trào này đều thất bại.
- Chỉ hô hào cổ động không quan tâm đến vận động quần chúng, không chủ động xây
dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang.
Như vậy, đến đầu thế kỷ XX, với sự thất bại của các phong trào yêu nước, công
cuộc cứu nước lâm vào ngõ cụt, bị khủng hoảng về đường lối. Nói về khuynh hướng tư
tưởng thì đó là sự bất lực và thất bại của tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản trước
các nhiệm vụ lịch sử. Dân tộc Việt Nam đứng trước tình trạng, khủng hoảng, bế tắc về
đường lối cứu nước.
1.2. Tính tất yếu của sự tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước
phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản”
1.2.1. Đòi hỏi mới về con đường cứu nước của Việt Nam ở đầu thế kỷ XX
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản đều
thất bại. Điều đó cho thấy công cuộc cứu nước đang đứng trước sự khủng
hoảng về đường lối cứu nước và thực tiễn lịch sử đặt ra yêu cầu phải có đường lOMoAR cPSD| 45568214
lối cứu nước đúng đắn để thực hiện thành công nhiệm vụ lịch sử lúc này là
chiến thắng thực dân Pháp, giành lại độc lập tự do cho dân tộc.
Tóm lại, xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam và sự thất bại của những phong
trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam
thời kỳ này, là cần phải có một cong đường cứu nước mới, một ý thức hệ mới đủ sức
tạo ra sức mạnh mới để đem lại những thắng lợi trong sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.
1.2.2. Kinh nghiệm cách mạng thế giới
Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản
Trước yêu cầu cấp bách phải tìm một con đường cứu nước mới, bằng thiên tài trí
tuệ và nhãn quan chính trị sắc bén, tháng 6-1911, Nguyễn Ái Quốc, với tên gọi Văn
Ba, đã lên đường sang các nước phương Tây, nơi có khoa học - kỹ thuật phát triển và
những tư tưởng dân chủ tự do, để xem họ làm như thế nào, để rồi trở về nước giúp
đồng bào cởi ách xiềng xích nô lệ.
Người đã qua nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước tư bản phát triển như
Mỹ, Pháp, Anh. Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm của các cuộc
cách mạng điển hình trên thế giới như cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789),
đồng thời tham gia lao động và đấu tranh trong hàng ngũ giai cấp công nhân và nhân
dân lao động ở các nước tư bản cũng như các nước thuộc địa.
Khi nghiên cứu cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết
luận rằng: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản,
cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”.
Như vậy, kinh nghiệm của cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp đã không đáp ứng
được mục tiêu mà Nguyễn Ái Quốc đang ấp ủ là độc lập dân tộc và tự do hạnh phúc
cho nhân dân. Nhưng với lòng yêu nước và ý chí quyết tâm tìm đường cứu nước,
Người đã tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu cách mạng vô sản lOMoAR cPSD| 45568214
Khi nghiên cứu về Công xã Paris (1871), Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét rằng, Công
xã thất bại là bởi vì tổ chức không khéo, lại không liên lạc với dân cày, và do tư bản
Pháp khi đó lại được tư bản Đức giúp đỡ cho nên thất bại.
Vào cuối năm 1917, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất sắp kết thúc, Nguyễn Ái
Quốc trở lại nước Pháp. Trong những ngày Người hoạt động cách mạng tại Pháp, thì
cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ làm chấn động toàn cầu. Với sự
nhạy cảm chính trị đặc biệt, Người hướng đến ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười
và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của cuộc cách mạng vĩ đại đó.
Nghiên cứu Cách máng Tháng Mười Nga năm 1917, Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét
rằng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công
đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không
phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”.
Từ những kinh nghiệm khi nghiên cứu các cuộc cách mạng, đặc biệt là cách mạng
Tháng Mười Nga, Người đã khẳng định rằng: Việt Nam muốn giành được độc lập dân
tộc, muốn đánh đuổi thực dân Pháp thì phải đi theo con đường của cách mạng Nga. Và
“cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mênh thành công thì phải có dân
chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, thống nhất. Hay nói
cách khác là phải theo chủ nghĩa Mác và Lê nin.
Như vậy, trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Hồ Chí
Minh đã nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản và vô sản trên thế giới. Từ đó, Người
rút ra bài học kinh nghiệm, cũng như vạch ra con đường cho cách mạng Việt Nam là
phải đi theo con đường của cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác – Lênin.
1.2.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin soi đường cho cách mạng Việt Nam
• Nguyễn Ái Quốc từ người yêu nước trở thành người cộng sản
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã Hội
Pháp. Tháng 3-1919, Lê nin sáng lập Quốc tế Cộng sản và tuyên bố kiên quyết ủng hộ
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc
tham gia vào tổ chức nghiên cứu Quốc tế III của Đảng Xã Hội Pháp. lOMoAR cPSD| 45568214
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Bản Luận cương đó đã đáp ứng đúng
nguyện vọng tha thiết mà Nguyễn Ái Quốc đang ấp ủ: độc lập cho Tổ quốc, tự do cho
đồng bào. Sau này, Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn
khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình
trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào
bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lê nin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Nhận thức này đã dẫn tới quyết định của Nguyễn Ái Quốc ở đại hội lần 8 của Đảng
Xã hội Pháp (12-1920). Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba và
tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết định
trong cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản; mở
đường giải quyết đúng đắn về đường lối giải phóng dân tộc của Việt Nam. Bằng thiên
tài trí tuệ và hoạt động cách mạng của mình, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời đáp ứng nhu
cầu bức thiết của lịch sử. Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà
cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với học thuyết cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản.
• Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu lý luận cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác– Lênin
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin,
Người cũng đã thực hiện những nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Cũng trong thời gian này, Người đã xúc tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận
giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin để
truyền bá vào nước ta, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc
thành lập chính đảng cộng sản ở Việt Nam.
Tiếp thu và nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc hiểu được rằng:
chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Trong quá trình tiếp thu lý luận Mác –
Lênin, Nguyễn Ái Quốc rất chú trọng tới lý luận về cách mạng không ngừng của Các
Mác và Lênin. Phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Các
Mác chủ trương thực hiện cuộc cách mạng không ngừng. Lê Nin đã phát triển lý luận
cách mạng không ngừng này của Mác, trong điều kiện mới là thời đại đế quốc chủ lOMoAR cPSD| 45568214
nghĩa. Lênin đã chỉ rõ rằng: Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, một dân tộc thực hành
cách mạng dân tộc dân chủ mà có cương lĩnh đầy đủ, lại có một đảng cách mạng chân
chính lãnh đạo, thì khi giành thắng lợi có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Nguyễn Ái Quốc đã nắm vững những đòi hỏi khách quan của Cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, đồng thời tiếp thu những kinh nghiệm của cách mạng
thế giới và thực tiễn lý luận của cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Người
xác định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”.
Tóm lại, sau khi nghiên cứu lý luận cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra rằng: để mưu cầu độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho
nhân dân thì không có lựa chọn nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản, đi theo
chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là con đường giải phóng dân tộc một cách triệt để, con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là kết quả tất yếu quá trình
tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng, phù hợp với
đòi hỏi và nguyện vọng của dân tộc, nhân dân Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại mới. Điều này đã cho thấy tính tất yếu của độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội trong cách mạng Việt Nam.
CHƯƠNG II. NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong thời đại cách mạng vô
sản được thể hiện trên những luận điểm cơ bản sau đây:
Một là, độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn với
đầy đủ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh,
quốc phòng. Quyền độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Đối với
một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân
dân. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được
tự do, Tổ quốc tôi được độc lập Hồ Chí Minh là người đã đưa ra chân lý bất hủ, có giá
trị cho mọi thời đại: “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Đó không chỉ là lý tưởng mà lOMoAR cPSD| 45568214
còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, là lý do chiến đấu, là nguồn
sức mạnh làm nên chiến thắng, nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế
giới. Nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia Việt
Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Nhân dân Việt Nam không chấp nhận sự
can thiệp dưới bất cứ hình thức nào. Theo Hồ Chí Minh, quyền độc lập dân tộc là
quyền thiêng liêng, là trên hết, dù có phải hy sinh đến đâu cũng phải giành và giữ cho
được quyền độc lập ấy.
Hai là, giá trị thực sự của độc lập dân tộc phải được thể hiện ở các quyền tự do
và hạnh phúc mà nhân dân được hưởng. Người từng nói: “Nếu nước được độc lập, mà
dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Độc
lập dân tộc phải được đặt trong khối thống nhất bền vững, đoàn kết chặt chẽ của các
tộc người, các miền tổ quốc, giữa các tôn giáo và tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân
yêu nước, đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài.
Ba là, độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính. Người chỉ rõ: chỉ có độc lập
dân tộc thực sự trong một nền hòa bình chân chính và chỉ có hòa bình mới có độc lập
dân tộc. Và độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do của nhân dân. Trong thực tiễn cách
mạng, Hồ Chí Minh luôn tiêu biểu cho ý chí độc lập tự do của dân tộc, và Người luôn
tìm cách đẩy lùi chiến tranh, cứu vãn hòa bình. Năm 1946 Hồ Chí Minh cùng Trung
ương Đảng chủ động ký hiệp định sơ bộ ngày 6–3, rồi chính Người ký tạm ước 14–9
với chính phủ Pháp với mong muốn giải quyết cuộc tranh chấp bằng con đường hoà
bình. Khi thực dân Pháp khiêu khích gây xung đột, Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân
Việt Nam kiên trì thi hành những điều khoản đã ký trong tạm ước. Đồng thời Người
cũng kêu gọi những người Pháp vì lợi ích của hai dân tộc Việt – Pháp mà chấm dứt
những hành động khiêu khích. Khi chiến tranh nổ ra trên cơ sở kiên quyết kháng chiến
đến cùng để bảo vệ chủ quyền quốc gia, Hồ Chí Minh luôn bày tỏ mong muốn sẵn
sàng đàm phán với chính phủ Pháp để kết thúc cuộc chiến tranh, lập lại hòa bình, tránh
làm tổn hại tiền của, xương máu của hai dân tộc.
Bốn là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Chủ nghĩa yêu nước với tinh
thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước. Xuất phát từ vị trí của người dân thuộc
địa bị mất nước, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức lOMoAR cPSD| 45568214
mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực
lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để rơi vào tay giai cấp
nào khác, phải nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản. Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này vừa phản ánh quy luật khách quan của
sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan
hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc và mục tiêu giải phóng giai cấp và giải
phóng con người. Đến Hồ Chí Minh chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển
thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc
lập dân cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng
định: quyền tự do, độc lập là bất khả xâm phạm của các dân tộc. Là một chiến sĩ quốc
tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn
đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa yêu nước chân chính
luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh.
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, khái niệm chủ nghĩa xã hội hết sức dễ hiều, đơn
giản, gắn liền với thực tiễn... nhưng lại sâu sắc và mang tính khoa học.
2.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất tổng quát của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Một là, chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, nhà nước phải phát
huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân
dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ về công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Ba là, chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá đạo đức, trong đó
người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát
triển hết mọi khả năng sẵn có của mình. lOMoAR cPSD| 45568214
Bốn là, chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi.
Năm là, chủ nghĩa xã hội là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự
xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của đảng.
2.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Về chế độ chính trị: Xây dựng chế độ chính trị phải do nhân dân lao động làm chủ,
Nhà nước là của dân, do dân và vì dân.
- Về kinh tế: Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại,
khoa học - kỹ thuật tiên tiến trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.
- Về văn hóa: phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc, đồng thời học tập văn hóa tiên
tiến của thế giới. Văn hóa phải gắn liền với lao động sản xuất.
- Về quan hệ xã hội: Xây dựng cho được mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người.
Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, thống nhất hai mặt “đức” và “tài”.
2.2.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: động lực của chủ nghĩa xã hội là sự kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, sức mạnh thời đại tạo thành sức mạnh tổng hợp. Cụ thể bao gồm:
• Nội lực: con người; kinh tế; văn hóa, khoa học, giáo dục. Trong đó, con người là
động lực quan trọng nhất và quyết định
• Ngoại lực: sức mạnh của thời đại, đoàn kết quốc tế; những thành tựu khoa học - kĩ thuật.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện một hệ thống
giá trị về độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, hòa bình - phản ánh khát vọng tha thiết của loài người. lOMoAR cPSD| 45568214
2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
2.3.1. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết và là cơ sở tiền đề để tiến
lên chủ nghĩa xã hội
• Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết
Con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ có hai
nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm
vụ dân chủ được thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì
thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách.
• Độc lập dân tộc là tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội
Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là xây dựng
hoàn toàn mới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, văn hóa và xã hội. Và đi lên chủ nghĩa
xã hội là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn đấu tranh cho độc lập dân tộc. Bởi thế, thực
hiện độc lập dân tộc là chuẩn bị điều kiện tiên quyết để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết trong cách mạng dân tộc dân
chủ, cũng là khởi điểm của con đường cách mạng Việt Nam nên thực hiện độc lập dân
tộc là quá trình tạo tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội, cụ thể là:
Về mặt chính trị: Xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp
công nhân lãnh đạo. Xây dựng và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và cũng là quá trình
xác lập và xây dựng đảng chính trị của giai cấp, của dân tộc. Đấu tranh giành chính
quyền, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân - đưa đảng của giai cấp, của dân
tộc thành Đảng cầm quyền. Đây là điều kiện để dân tộc đi vào giai đoạn cách mạng xã
hội chủ nghĩa mà không bắt đầu bằng một cuộc cách mạng xã hội.
Về mặt kinh tế: Bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội chủ
nghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Trong đấu tranh giành độc lập dân tộc
cũng có nội dung đấu tranh về kinh tế và cũng là quá trình hình thành đường lối, chính
sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, mà mục đích là bồi dưỡng sức dân, nâng cao đời
sống nhân dân về mọi mặt. lOMoAR cPSD| 45568214
Về mặt văn hóa - xã hội: Ngay trong cách mạng dân tộc dân chủ, Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản do Người sáng lập đã đưa ra đường lối xây dựng nền vãn hóa mới, nền
văn hóa cách mạng, và giải quyết những vấn đề xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Vì cách mạng độc lập dân tộc là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thoát khỏi
ách áp bức của thực dân. Qua đó, xây dựng chủ nghĩa xã hội đem lại hạnh phúc, tự do
thực sự cho nhân dân. Như lời Người từng nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho
tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi mong muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Tóm lại lý luận và thực tiễn cách mạng nước ta đã làm sáng tỏ mối quan hệ giữa độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải phát triển
thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi cụ thể.
2.3.2. Chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu của độc lập dân tộc và là
con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc
Chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu của độc lập dân tộc
Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa
mục tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng. Lô-gíc lịch sử khách quan cho thấy: thực
hiện mục tiêu trước mắt là điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực
hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để.
Vận dụng tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện của cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh chi rõ: tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất
yếu khi dân tộc đã giành được độc lập dân tộc. Nhưng làm cách mạng độc lập dân tộc
mới chỉ làm cho nhân dân ta thoát khỏi ách nô lệ. Độc lập rồi, tự do rồi mà dân cử chết
đói, chết rét thì độc lập, tự do cũng chẳng để làm gì. Đất nước độc lập, tự do song nhân
dân ta còn phải được giải phóng triệt để về mặt xã hội, giai cấp, đói nghèo, ngu dốt.
Hồ Chí Minh đã nêu rõ, sự nghiệp này là của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa
xã hội là con đường duy nhất có thể giải phóng triệt để dân tộc khỏi thân phận nô lệ,
bất công xã hội, bất bình đẳng giai cấp, đói nghèo và ngu dốt, giải phóng triệt để con
người, đem lại tự do hạnh phúc cho toàn dân. lOMoAR cPSD| 45568214
Do vậy, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu tất yếu của cách mạng Việt Nam, như chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng thái phóng dân tộc
là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vỉ toàn thế giới, cách
mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới
giành được thắng lợi hoàn toàn”.
Chủ nghĩa xã hội là cơ sở để củng cố và giữ vững độc lập dân tộc
Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ nguyên nhân sâu xa của tình trạng người bóc lột
người. Với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thủ tiêu chế độ tư hữu tư liệu sản xuất
thì chủ nghĩa xã hội đã thực sự xóa bỏ nguồn gốc căn bản của xã hội người bóc lột
người, đã triệt để giải phóng con người, phát triển lực lượng sản xuất, tạo bước phát
triển lớn chưa từng có cho dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật cao, văn hóa phát triển, vì thực
chất cách mạng xã hội chủ nghĩa là tạo ra các điều kiện thực hiện cuộc các mạng về
kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây
dựng tiềm lực phát triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội. Tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều kiện
củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng phòng thủ.
Chủ nghĩa xã hội lớn mạnh sẽ là bệ đỡ của hoà bình thế giới, hạn chế và ngăn
chặn các cuộc chiến tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng dân tộc này
đi áp bức dân tộc khác. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng chế độ xã hội dân chủ,
chế độ do nhân dân là chủ và làm chủ. Đây là chìa khóa vạn năng để nhân dân ta mở ra
một xã hội mới với sức mạnh to lớn để củng cố và giữ vững nền độc lập dân tộc. Kết
hợp những yếu tố trên tạo ra sức mạnh tổng hợp để nhân dân ta củng cố và giữ vững
độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có
mối quan hệ biện chứng với nhau, gắn liền nhau, phản ánh mối quan hệ cách mạng
không ngừng, một quá trình vận động liên tục của lịch sử cách mạng Việt Nam, gồm
hai giai đoạn, mỗi giai đoạn ứng với mỗi nhiệm vụ nhất định của tiến trình phát triển.
Điều này đã được Hồ Chí Minh khẳng định trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng:
Việt Nam làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng lOMoAR cPSD| 45568214
sản” nhằm “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến” ,“làm cho nước Nam
hoàn toàn độc lập”, “dựng ra chính phủ công nông binh” để đi lên chủ nghĩa xã hội.
CHƯƠNG III. THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ KHI CÓ ĐẢNG
LÃNH ĐẠO CHỨNG MÌNH TÍNH ĐÚNG ĐẮN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ mối liên hệ biện chứng giữa đấu tranh giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này là cơ sở quá độ từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chính cách mạng xã
hội chủ nghĩa đã kế thừa, khẳng định và bảo đảm vững chắc thành quả của cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sự phát triển này là quy luật tất yếu của lịch sử. Các
giai đoạn của tiến trình cách mạng là những bước đi không thể tách rời nhau dù mỗi
giai đoạn có những mục tiêu cụ thể riêng. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng và
thực tiễn cách mạng nước ta là minh chứng lịch sử cho mối liên hệ biện chứng trên:
3.1. Giai đoạn 1930 – 1945
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thông qua cương lĩnh vắn tắt, sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Trong đó:
- Xác định tính chất cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc bằng con đường cách
mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, nhân dân lao động, với
toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
- Xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, đấu tranh xây dựng một xã
hội tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ cập giáo dục.
- Xác định đối tượng của cuộc đấu tranh là đế quốc xâm lược, phong kiến tay sai,
tầng lớp tư sản và địa chủ chống lại độc lập dân tộc.
- Xác định rõ lực lượng cách mạng là toàn thể nhân dân, trong đó nòng cốt là liên minh công - nông.
- Xác định đúng đắn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng vô sản thế giới, có mối quan hệ khăng khít với cách mạng vô sản “chính lOMoAR cPSD| 45568214
quốc”, có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản “chính quốc", tác động tích cực
tới cách mạng “chính quốc".
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, đỉnh cao là cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám
1945 thành công, chấm dứt chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, chấm dứt sự
đô hộ của thực dân Pháp sau gần một thế kỷ. Thắng lợi vĩ đại này của dân tộc Việt
Nam đã đưa nước ta bước sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
3.2. Giai đoạn 1945 – 1954
Đảng lãnh đạo toàn dân tiến hành “kháng chiến và kiến quốc”. Cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch lịch sử Điện
Biên Phủ chấn động địa cầu.
Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con đường cách
mạng Việt Nam. Ngoài ra còn giải quyết những khó khăn về đời sống kinh tế, văn hóa
và xã hội: nạn đói; nạn dốt; tổ chức tổng tuyển cử, xóa bỏ hủ tục, xây dựng đời sống
văn hóa mới, đạo đức cách mạng; cắt giảm thuế quan; thực hiện tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết.
Mục tiêu của giai đoạn này là tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, giành độc lập, tự do, cụ thể hóa tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, mục tiêu này mới đạt được ở miền Bắc. Sau
hiệp định Giơnevơ (20/7/1954) nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc.
Sau khi hòa bình lập lại, miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, trở thành
hậu phương lớn cho cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam. Đường lối độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn này là hai chiến lược cách mạng:
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam.
3.3. Giai đoạn 1954 – 1975
Đảng tập trung xây dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. lOMoAR cPSD| 45568214
Đảng tiếp tục hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Biến đau thương
thành hành động cách mạng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quán triệt sâu sắc quan
điểm của Người tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam
thống nhất tổ quốc. Thông qua chiến dịch mang tên Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách
mạng đó đã giành thắng lợi trọn vẹn vào ngày 30-4-1975.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước dốc lòng cho sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc đã khơi dậy truyền
thống dựng nước và giữ nước của ông cha, truyền thống chiến thắng giặc ngoại xâm
của dân tộc. Cả nước xuống đường, cả nước hướng về miền Nam ruột thịt theo lời kêu
gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta "Tất cả cho tiền tuyến". Lịch sử Việt Nam
chưa lúc nào được chứng kiến sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi, quy mô lớn như thời điểm này của cách mạng. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh
trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, miền Nam được hoàn toàn giải
phóng, đất nước thống nhất, cả nước bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước - kỷ nguyên của độc lập, tự do, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam và
nhà văn hóa lớn của thế giới. Cả cuộc đời của Người là tấm gương sáng ngời về đạo
đức cách mạng, về phẩm chất, phong cách của người chiến sỹ cộng sản, luôn lo trước
nỗi lo của nhân dân, vui sau niềm vui của nhân dân. Di sản của Người - tư tưởng Hồ
Chí Minh là kho tàng quý báu của Đảng và dân tộc Việt Nam. Được hình thành và phát
triển, đáp ứng đòi hỏi tất yếu khách quan của dân tộc và thời đại, của với thực tiễn
ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn luôn có giá trị bền vững và đúng đắn.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu, lý tưởng mà còn là
động lực của cách mạng Việt Nam, Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nguyên tắc
chỉ đạo tiến trình cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta kiên
định, quán triệt trong Cương lĩnh, đường lối, chủ trương; Nhà nước thể hiện nguyên
tắc này trong chính sách, pháp luật. Toàn thể hệ thống chính trị, mọi cán bộ, đảng viên
phải nắm vững và thực hiện đúng nguyên tắc, mục tiêu này. Đây là lý tưởng, định