Chứng minh tính thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chứng minh tính thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45568214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN CHẤT LƯỢNG CAO -------***------- BÀI TẬP LỚN MÔN:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: .Chứng minh tính thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Họ và tên SV: BÙI QUỲNH CHI
Lớp tín chỉ: Quản trị Marketing 63C Mã SV: 11211040
GVHD: T.S Lê Thị Hoa
.................................................................................... HÀ NỘI, NĂM 2022 1 lOMoAR cPSD| 45568214 MỤC LỤC A. Phần mở đầu
……………………………………………………………………..3 B. Nội dung chính
Phần I: Lý luận về độc lập dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước, độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh
1.1. Bối cảnh lịch sử ………………………………………………………4
1.2. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh đối với vấn đề độc lập dân tộc ….4
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc …...…...……………4
2.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả
dân tộc ……………………………………………………..……………..6
2.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no áo ấm và hạnh
phúc của toàn nhân dân ……………………………….……………….. ……………7
2.3. Độc lập dân tộc là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để …….9
2.4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ……9
Phần II: Lý luận về sự thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ……………...….. ……………..11
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự
nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh ……………...…..
……………………………14
C. Kết luận …………………………………………….…………...……….……18
D. Tài liệu tham khảo ……………………….……………...…….………….…19 A. PHẦN MỞ ĐẦU
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là vô cùng quan trọng. Tư tưởng
này như một sợi chỉ đổ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam. Đối với những người dân 2 lOMoAR cPSD| 45568214
mất quê hương, mong ước lớn nhất của người dân thuộc địa là độc lập của Tổ quốc, tự
do cho nhân dân. Đây là lẽ sống, là động lực to lớn thúc đẩy cuộc đấu tranh của các
dân tộc bị áp bức trên thế giới giành độc lập dân tộc. Trong quá trình ra đi tìm đường
cứu nước, Hồ Chí Minh đã học hỏi và tiếp thu những nhân tố nhân quyền được nêu
trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con người và quyền
công dân của Cách mạng Pháp 1791 như quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc. “Đó là những lẽ không ai chối cãi được.” Xuất phát từ
quyền con người, Hồ Chí Minh đã đúc kết chân lý muôn thuở về quyền cơ bản của mọi
dân tộc: “Tất cả các dân tộctrên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất
của nhân dân thuộc địa. Vì vậy, trong trường hợp không có độc lập thì phải kiên quyết
đấu tranh giành độc lập dân tộc. B. NỘI DUNG CHÍNH
Phần 1: Lý luận về tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
1. Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước, độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh 1.1.
Bối cảnh lịch sử
Giữa thế kỉ XIX, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập nhưng lại lạc
hậu đã bị chủ nghĩa tư bản là thuộc địa Pháp xâm lược, trở thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến khiến xã hội Việt Nam hình thành hai giai cấp là tư sản và vô sản.Trong thời
kỳ ấy, thực dân Pháp rêu rao đã thi hành nhiều chính sách bóc lột, thực hiện chính sách
ngu dân khiến đời sống nhân dân ngày càng lầm than. Dưới ách thống trị nặng nề của thực
dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã phải chịu nhiều áp bức, bóc lột sức lao động đến cùng
cực, chính vì vậy mà nhân dân ta không ngừng đứng lên khởi nghĩa, đấu tranh chống lại
thực dân Pháp. Không những vậy, chính vì sự nhu nhược mà triều đình nhà Nguyễn đã kí
hiệp ước Pa-tơ-nốt (Giáp Thân năm 1884) để chịu sự bảo hộ của Pháp, làm tay sai cho
giặc, trước những đả kích đó, nhân dân Việt Nam nói chung và tầng lớp yêu nước nói riêng
không ngừng phẫn nộ, mở ra những cuộc đấu tranh chống lại thực dân. 1.2.
Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh đối với vấn đề độc lập dân tộc
Hồ Chí Minh sinh năm 1890 tại xã Nam Liên tỉnh Nghệ An, tên khai sinh 3 lOMoAR cPSD| 45568214
là Nguyễn Sinh Cung và trong những năm tháng hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn
Ái Quốc. Người sinh ra vào thời điểm An Nam đã hoàn toàn thuộc Pháp, suốt thời niên
thiếu, chứng kiến đồng bào phải chịu khổ sở, tủi nhục dưới ách thống trị của thực dân cũng
như những phong trào của thanh niên yêu nước đứng lên đấu tranh, Nguyễn Ái Quốc càng
thấu hiểu sâu sắc sự thống khổ cũng như sớm có ý chí giành độc lập, đem lại tự do, hạnh
phúc cho dân tộc, đất nước.
Chứng kiến sự sai lầm trong phòng trào yêu nước của Phan Bội Châu và
Phan Châu Trinh, Hồ Chí Minh sớm nhận thức được nguyên nhân thất bại của chủ trương
cứu nước là do dựa vào sự giúp đỡ của Trung Quốc, Nhật Bản. Chính vì vậy, Người hiểu
rõ sự bất cập và quyết định ra đi tìm đường cứu nước bằng cách đến nước Pháp, cái nôi
của chủ nghĩa tư bản để tìm ra đường lối sáng tỏ con đường cách mạng của mình.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc
Độc lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân tộc bởi chính
người dân sinh sống ở đó. Độc lập dân tộc là quyền tự chủ, tự quyết của một dân tộc, quốc
gia trong việc tổ chức các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại… trong phạm vi lãnh thổ của mình, không chịu sự tác động, ép buộc, chi
phối, thao túng của nước ngoài. Độc lập dân tộc phải trên cơ sở bảo đảm chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng trong quan hệ quốc tế, được luật pháp quốc tế thừa nhận
và trên thực tế phải được khẳng định. Độc lập dân tộc là thành quả của cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc. Đối với Việt Nam, độc lập dân tộc không chỉ dừng lại ở độc lập dân
tộc dưới chế độ phong kiến, vì vị trí của người lao động vẫn không thay đổi. Độc lập dân
tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một nền độc lập thật sự. Người nhấn mạnh: phải đấu
tranh giành cho được độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ "độc lập
giả hiệu", "độc lập nửa vời", "độc lập hình thức". Người đã kiên quyết đấu tranh chống
chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới để giành độc lập thật sự cho dân tộc, cho
đất nước. Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ
và ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động; gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình đầy dấu mốc lịch sử, Hồ Chí Minh đã từng tuyên
bố trước đồng bào cả nước: “Nước Việt Nam có quyền hướng tự do và độc lập, và sự thật
đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. 4 lOMoAR cPSD| 45568214 2.1.
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả dân tộc
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Điều này đã được ghi trang trọng trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền cách mạng
Pháp năm 1791 và đã được Hồ Chí Minh nhắc lại trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1945 rằng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có
quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Theo
Bác, độc lập dân tộc là khi đất nước thực sự thoát khỏi cảnh nô lệ xiềng xích, được tự do,
có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhân dân được sống trong hòa bình, công bằng và bình
đẳng. Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa, chính vì lẽ đó mà khi
chưa có độc lập thì phải quyết tâm đấu tranh để giành lại độc lập dân tộc. Hơn ai hết, nhân
dân ta thấu hiểu sự thiêng liêng của Chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc cũng như có ý
thức sâu bền về quyền tự chủ quốc gia qua hơn 1000 năm phong kiến bị đô hộ, mất chủ
quyền của gia, mất độc lập dân tộc chính là chấp nhận mất tất cả. Quá trình dựng và giữ
nước đã tạo dựng và phát triển cho dân tộc Việt Nam một nền văn hoá tư tưởng rực rỡ,
trong đó chủ nghĩa dân tộc, ý chí độc lập và khát vọng tự do là dòng chứ lưu của lịch sử.
Đó là nền tảng văn hoá tư tưởng của sự hội tụ và đoàn kết dân tộc, là động lực vĩ đại và
duy nhất của nhân dân Việt Nam trong lịch sử xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Năm 1919, nghe tin các nước Đồng minh thắng trận trong Thế chiến thứ nhất về
họp tại hội nghị Vécxay, Hồ Chí Minh đã gửi bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” tới
hội nghị bao gồm 8 điểm cùng 2 nội dung chính bao gồm: đòi quyền bình đẳng về mặt
pháp lý và đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Đầu năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, người xác định mục tiêu của
Đảng và Cách mạng Việt Nam gồm có 3 điều quan trọng, trước hết là đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và phong kiến, tiếp theo là làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập và cuối
cùng là dựng ra chính phủ công nông binh.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước
toàn thể đồng bào Việt Nam cũng như thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. 5 lOMoAR cPSD| 45568214
Độc lập dân tộc là khát vọng lớn nhất của mỗi dân tộc thuộc địa, là vấn đề sống còn
đối với mỗi quốc gia. Sự tồn vong và phát triển của mỗi quốc gia đều gắn liền với việc giữ
vững nền độc lập và chủ quyền của quốc gia dân tộc ấy, đó là nguyện vọng chính đáng của
mỗi người sống trong dân tộc, là mục tiêu, động lực của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
khỏi thống trị, áp bức. Tóm lại, khồn có gì quý hơn độc lập toàn dân, đó không chỉ là tư
tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, là nguồn sức mạnh
làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, toàn dân của cẩ dân tộc Việt Nam,
đồng thời đó cũng là nguồn động viên với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Độc lập
dân tộc chính là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no áo ấm và hạnh phúc của toàn nhân dân
Vì muốn cứu nước giải phóng dân tộc mà Bác Hồ đã rời tổ quốc bôn ba tìm
đường cứu nước, Người đã nghiên cứu, khảo nghiệm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đã
lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn theo kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười
Nga: con đường cách mạng vô sản. Theo Người, hạnh phúc thật sự là độc lập, tự do, ấm
no hạnh phúc cho tất cả mọi người. Độc lập, tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người và
con người được giải phóng hoàn toàn để vươn tới cấc tất yếu của tự do chính là đích đến
của chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, Người đã từng khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng
sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc
sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì
mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc.
Ngay từ khi ra đời, ngọn cờ độc lập, tự do đã được Đảng cộng sản giương
cao khi khẳng định trong Chánh cương vắn tắt của Đảng: “Chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.”, làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập, dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, thủ tiêu hết
các thứ quốc trái, thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân
cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ. Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công, một lần nữa Bác đã khẳng định độc lập phải gắn với
tự do “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”. Vì lẽ đó, ngay sau khi Cách mạng thắng lợi, trong hoàn cảnh nhân dân đói
rét, mù chữ, Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải thực hiện ngay bốn điều cần thiết bậc nhất: 6 lOMoAR cPSD| 45568214
thứ nhất, phải làm cho dân có ăn; thứ hai là làm cho dân có mặc, thứ ba là làm cho dân
có chỗ ở và cuối cùng là làm cho dân có học hành.
Nhiệm vụ hàng đầu của công cuộc xây dựng đất nước là chống giặc đói khi
nạn đói năm 1945 đã cướp đi mạng sống của hơn hai triệu đồng bào vì chính sách hà
khắc của chế độ thực dân. Không thể để nạn đói lặp lại, Bác đề nghị chính phủ phát động
chiến dịch tăng gia sản xuất, trong khi chờ ngô khoai chín ngày 28/9/1945, Người viết
bài “Sẻ cơm nhường áo” kêu gọi đồng bào và chính Bác là người làm trước, mỗi tháng
nhịn ăn ba bữa, mỗi bữa một bơ để lấy gạo cứu đói dân nghèo. Trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn coi độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo
ấm cho nhân dân. Người luôn đau đáu, nỗ lực xóa đói giảm nghèo với những việc làm
cấp bách mới đề ra. “Dân đủ ăn đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ
đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay
mấy cũng không thực hiện được. Nét nổi bật trong tư tưởng của Người về xóa đói giảm
nghèo, đó là, đẩy mạnh tăng gia sản xuất phải đi liền với thực hành tiết kiệm, làm nhiều
tiêu ít, có vậy mới bảo đảm chắc chắn lâu dài công cuộc xóa đói giảm nghèo.Theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, chỉ có phát triển sản xuất mới có thể xóa đói giảm nghèo một cách có
hiệu quả. Người đánh giá cao sức mạnh của dân và yêu cầu “đem tài sản, sức dân mà giải phóng cho dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho rằng, ăn no mặc ấm là phải đi cùng với học
hành. Sự sâu xa trong tư tưởnh xóa đói giảm nghèo là không chỉ dừng lại ở khía cạnh vật
chất mà còn là về vấn đề tinh thần. Chính sách ngu dân của thực dân Pháp khiến hơn
90% dân số nước ta mù chữ. Thống kê năm 1945, trong 100 người thì có 3 trẻ em từ 8
đến 16 tuổi đi học và 2 người lớn biết chữ, còn 95 người thất học. Có những làng không
một người nào biết chữ. Bác nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị
mở một chiến dịch chống nạn mù chữ”. Hồ Chủ tịch ra bản hiệu triệu đồng bào tham gia
chống nạn mù chữ, khuyên người chưa biết chữ phải thi đua đi học, những người đã biết
phải thi đua dạy học; kêu gọi mọi người, kẻ giúp của, người giúp công để tiêu diệt giặc
dốt. Ngày 8-9-1945, thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ
Nguyên Giáp ký ban hành Sắc lệnh quy định việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và
không mất tiền cho tất cả mọi người. Cùng ngày, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà ban hành Sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ để "trông nom việc học của nhân dân". 7 lOMoAR cPSD| 45568214
2.3. Độc lập dân tộc là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến với toàn nhân loại. Với
dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu
xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc
bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn
toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Người
nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao, không có quân
đội riêng, không có nền tài chính riêng..., thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần
đó và trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn,
nhất là nạn thù trong giặc ngoài bao vây, để bảo vệ nền độc lập thực sự mới giành được,
Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 6 –
3 – 1946, theo đó: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một
quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính
của mình” Độc lập, tự chủ tức là dựa vào sức mình là chính, có tham khảo, chọn lọc kinh
nghiệm, bài học của quốc tế nhưng phải tự mình suy nghĩ, tìm tòi định ra chủ trương,
chính sách biện pháp nhằm giải quyết công việc của đất nước, không chịu sức ép nào từ
bên ngoài. Độc lập tự chủ là đặc trưng của bản lĩnh chính trị, đối ngoại của dân tộc Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng các giá trị ấy, vạch ra đường lối đối ngoại phù
hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam trong bối cảnh thời đại.
2.4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Độc lập dân tộc gắn chặt với bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của đất
nước là tư tưởng chủ đạo, chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Tư tưởng lớn này đã được thể hiện rõ trong Tuyên ngôn Độc lập mà cách đây 73
năm, ngày 2/9/1945, Người đã thông báo trước thế giới: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy”. Chủ quyền và lãnh thổ quốc gia Việt Nam (bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và
hải đảo) được hình thành và xác lập trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước
của dân tộc, là những giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Lịch sử dân tộc Việt Nam
luôn gắn liền với những cuộc kháng chiến bền bỉ, kiên cường để bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chính ý thức độc lập dân tộc, sự vẹn toàn của
một đất nước thống nhất đã giúp cho Người tỉnh táo, sáng suốt lãnh đạo Đảng ta, khơi dậy 8 lOMoAR cPSD| 45568214
tư tưởng, tình cảm, ý thức dân tộc của nhân dân ta, vượt qua các cuộc trường chinh gian
khổ, giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc.
Bảo vệ toàn vẹn chủ quyền là nguyên tắc bất biến. Bảo vệ độc lập, chủ
quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề hệ trọng, xuyên suốt mọi thời kỳ. Việt Nam
luôn coi trọng hòa hiếu với các nước trên thế giới, các quốc gia trong khu vực, nhất là với
các nước láng giềng, các nước lớn, đồng thời kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ khi bị xâm phạm, thực hiện ngoại giao “tâm công”, lấy đại nghĩa thắng hung
tàn; kiên trì các vấn đề nguyên tắc, bảo vệ lợi ích dân tộc song cũng linh hoạt trong sách
lược đấu tranh, biết giành thắng lợi từng bước để đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Trong nhiều thập kỷ qua, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta với tầm nhìn
chiến lược đã có nhiều quyết sách quan trọng nhằm giữ vững chủ quyền, lãnh thổ đất nước
và giữ hòa hiếu với các nước láng giềng.Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Biên giới quốc
gia là địa bàn chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam, gắn liền với sự nghiệp đấu
tranh, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, trong
xu thế mở cửa, hội nhập, cùng phát triển, biên giới vừa là vị trí hiểm yếu, phên dậu bảo vệ
của một quốc gia, vừa bảo đảm lưu thông hàng hóa, phát triển kinh tế, thắt chặt mối quan
hệ hữu nghị hợp tác với các nước bạn. Tuy nhiên, biên giới luôn là nơi mà kẻ thù thường
xuyên để mắt nhòm ngó. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc chỉ đạo bảo vệ chủ
quyền an ninh biên giới là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của công cuộc xây dựng
đất nước. Nhiều lần Người căn dặn, nhắc nhở các địa phương, các lực lượng quân đội,
công an phải luôn coi trọng và làm tốt công tác bảo vệ biên giới, chủ quyền lãnh thổ quốc
gia. Bất luận lúc nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn coi trọng đoàn kết quốc tế, giữ
vững mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các nước, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị
là nguyên tắc bất di bất dịch.
Phần II: Lý luận về sự thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Độc lập chính là cơ sở tiền đề để đi tới chủ nghĩa xã hội. Trong phương
thức tiếp cận chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có nhiều định nghĩa khác nhau với các tiếp
cận ở nhiều góc độ và phương diện khác nhau song tất cả đều hướng đến mục tiêu cơ bản
và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho 9 lOMoAR cPSD| 45568214
nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Hồ Chí Minh ý thức được
rõ ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội về mặt lý luận là quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng
hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá trị này, đảm bảo cho người dân không bị
phân biệt chủng tộc và nguồn gốc là sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết ấm no, hướng
tới bảo đảm các giá trị làm người chân chính trong quá trình phát triển các quan hệ xã hội
mang đúng bản chất người cao quý.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xã hội xã hội chủ nghĩa luôn là sự thống nhất
biện chứng của các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Người nói: “xã hội ngày càng
tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội''. Cụ thể hơn,
Bác cho rằng chủ nghĩa xã hội phải “có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa
và khoa học tiên tiến”. Còn về chính trị, xã hội xã hội chủ nghĩa là do nhân dân làm chủ,
bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng
đều ở mọi người dân, mọi cán bộ, công chức nhà nước đều là công bộc của dân. Hồ Chí
Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân dân.
Đó là sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân, muốn nâng cao đời sống nhân dân thì phải
tiến lên đời sống xã hội.
Những điều kiện đảm bảo cách mạng thành công, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội trên đất nước ta, điều quan trọng nhất, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, truớc hết
phải có Đảng. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng,
của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm
nền tảng tư tưởng. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới công tác xây dựng
Đảng; yêu cầu Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trí tuệ, vận dụng một cách
sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào
hoàn cảnh thực tiễn nước ta; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên
phải “xứng đáng là nguời lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của
toàn dân, do đó cần phát huy tính tích cực, chủ động của toàn dân cũng như của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì con người là yếu tố quan trọng hàng đầu, vậy nên Bác luôn chú trọng vào
việc tuyên truyền, vận động, giáo dục đào tạo cũng như bồi dưỡng con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. 10 lOMoAR cPSD| 45568214
1.2. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
Thời kỳ quá độ là thời kì lịch sử mà bất kì quốc gia nào đi lên xã hội chủ
nghĩa cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với các nước có nền kinh tế phát triển bởi tuy có
lực lượng sản xuất phát triển cao thì vẫn cần cải tạo và xây dựng những quan hệ sản xuất
mới, xây dựng nền văn hóa mới. Còn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta bỏ qua chế độ tư bản là một tất yếu lịch sử Toàn thế giới đã bước
vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã khẳng định chủ
nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được
thay bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam
sau khi nước ta độc lập theo con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới là nguồn gốc của tự do, bình đẳng, xóa bỏ những bước tường dài ngăn
cản con người đoàn kết, yêu thương nhau.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu của lịch sử,
đáp ứng được những khát vọng của lực lượng tiến bộ trong quá trình đấu tranh tự giải phóng mình.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.3.1. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao
gồm cả vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và xây dựng con người.
Mục tiêu về chính trị là phải xây dựng được chế độ dân chủ, quyền hành
và lực lượng đều được dân quyết định, do dân làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội theo nguyên tắc của Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động lãnh đạo, thực hiện nhất nguyên về chính trị. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ
của mình bằng các hình thức trực tiếp và gián tiếp, thông qua các tổ chức trong hệ thống
chính trị trong đó nòng cốt là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Mục tiêu về kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh xác
định phải xây dựng được nền kinh tế phát triển triển cao gắn bó mật thiết với mục tiêu về
chính trị. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta chủ trương phát
triển trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng 11 lOMoAR cPSD| 45568214
bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế hiện đại và
hội nhập quốc tế có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo; nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Mục tiêu về văn hóa là phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân
tộc, khoa học, đại chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Hồ Chí Minh nêu văn hóa
là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra với phương thức sử
dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc sống loài
người. Theo Hồ Chí Minh, nền văn hóa dân tộc phải được xây dựng trên tinh thần độc lập
tự cường, biết hy sinh, làm lợi cho quần chúng, xây dựng xã hội trong việc mọi sự nghiệp
liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
Mục tiêu của việc xây dựng con người là yêu cầu khách quan, cấp bách
và lâu dài của cách phải đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, Xã hội xã hội chủ nghĩa
là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn
xã hội hài hoà với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội
cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều
kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ
giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân
dân làm mục tiêu phấn đấu.
1.3.2. Động lực của xây dựng xã hội chủ nghĩa
Hồ Chí Minh chỉ rõ, yếu tố quyết định nhất chính là con người, là nhân
dân lao động, nòng cốt là công nông trí thức. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa cá nhân
(sức mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng); coi trọng động lực kinh tế, phát triển
kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Phải quan tâm tới văn
hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
Cần kết hợp nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại; nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng.
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự
nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh 12 lOMoAR cPSD| 45568214
2.1. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề tiến lên cách mạng
xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn
bao gồm giai đoạn gắn bó chặt chẽ với nhau đó là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
cách mạng xã hội chủ nghĩa mang nhiệm vụ chiến lược chống thực dân xâm lược và chống
địa chủ phong kiến, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên trên hết, nhiệm vụ dân
chủ cần thực hiện từng bước và phục vụ quá trình giải phóng dân tộc. Ở giai đoạn cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp
bách nhưng không phải là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí
Minh, không phải bất kì độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở tiền đề tiến lên xã hội chủ
nghĩa mà cần cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải thực hiện một cách triệt để, đến nơi đến chốn.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi
đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành
độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc
lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước
hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện
hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế
tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì
những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề
của cách mạng dân tộc dân chủ được thể hiện:
2.2. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện đảm bảo cho nền độc lập dân tộc vững chắc
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục
tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một quá trình
cách mạng. Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục tiêu trước mắt là điều kiện
tiên quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục
tiêu trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn
cách mạng không có bức tường ngăn cách, cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền
đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ
vững chắc nền độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm 13 lOMoAR cPSD| 45568214
no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của
cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ
thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Do
những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành
được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc.
Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc,
triệt để: độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá
trị nêu trên, mà còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện
thực hoá các nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng
xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xoá bỏ
mọi áp bức, bóc lột; công bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không
làm không hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi; một xã hội có nền sản xuất
phát triển gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn
minh trong đó người với người là bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người được phát triển hết
khả năng của mình; hòa bình hữu nghị, làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao
động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
2.3. Điều kiện đảm bảo cho độc lập cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Nhưng
để hiện thực hóa tính tất yếu này, theo Hồ Chí Minh cần phải có những điều kiện cơ bản sau đây:
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không thể vận
động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ
của các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng sản đánh mất vai trò lãnh đạo
thì chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị phản bội và hoàn toàn chệch hướng.
Thực tiễn ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng 14 lOMoAR cPSD| 45568214
tỏ điều đó. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, với tư cách là điều kiện cơ bản bảo đảm để độc lập
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thể hiện trên
các mặt chủ yếu sau đây: Trước hết là hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để
đưa sự nghiệp của dân tộc phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp đó, lãnh đạo
xã hội, trước hết là lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi cương lĩnh độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội bằng cách thông qua tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên của
mình. Cuối cùng, thông qua công tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng và lãnh
đạo công tác kiểm tra trong các tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo toàn dân giành
độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng
phải trong sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực
hiện xây dựng Đảng về mọi mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán bộ
bao giờ cũng là vấn đề cốt tử.
Hai là, xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông
dân và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc. Quan niệm của Hồ Chí Minh về
lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá trình thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết sức sáng tạo. Người xác định: công - nông là gốc, là
chủ lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất
nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội Người đòi hỏi công nông trí thức đoàn kết lại.
Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Ba là, Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng Việt
Nam và cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng
của mình, Hồ Chí Minh luôn có những chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để
tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam Tháng Tám 1945, trong những năm chống Pháp, chống
Mỹ, trong thời kỳ hoà bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế. C. KẾT LUẬN
Tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là quá trình hợp quy luật, phù hợp vớp
khát vọng của nhân dân Việt Nam, là sự lựa chọn đúng đắn của Hồ Chí Minh và sự khẳng 15 lOMoAR cPSD| 45568214
định của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực cho các thế hệ
noi theo.Tư tưởng của Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng,
là kim chỉ nam cho hành đô—ng của Đảng và nhân dân ta, tiếp tục soi sáng cho sự nghiệp
đổi mới của nhân dân ta trong thời đại ngày nay. Nghiên cứu và làm rõ tư tưởng độc lập,
tự do của Hồ Chí Minh giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về một khía cạnh trong tư tưởng
chân thật mà vĩ đại của Người, đồng thời có cái nhìn toàn diện hơn về hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh. Để từ đó xác định mục tiêu phát triển đất nước với những chính sách xây
dựng kinh tế xã hội đúng đắn, giữ vững độc lập chủ quyền, đưa nước ta trở thành quốc gia
ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, ngày càng có vị thế trên trường châu lục và quốc
tế.Đúng như lời Bác căn dặn chúng ta là Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết, cho nên giữ
gìn được hòa bình, độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Quốc gia lúcnày là
mệnh lệnh tối cao, thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân. Chúng ta phải vận dụng tư tưởng
của Bác để giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ bằng chính sức mạnh của mình cũng như sự đồng
thuận của cộng đồng thế giới. Theo quan điểm của Bác, trước đâychúng ta chỉ có rừng và
bóng đêm, bây giờ cách mạng thành công ta có trời, có đất, có biển, có ánh sáng, chính vì
vậy một tấc đất ông cha ta để lại cũng không được mất. Để bảo vệ và phát triển nền độc
lập dân tộc, chúng ta phải phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, vì có thực lực thì mới
khẳng định được với thế giới. Cùng với đó, chúng ta cần mở mang mối quan hệ với các
nước trên thế giới mà Đảng ta nói làhợp tác đa phương và hợp tác song phương. Một điều
quan trọng và mấu chốt là Đảng cầm quyền phải trong sạch, vững mạnh, Nhà nước phải
do dân và vì dân và nhân dân các dân tộc Việt Nam phải đoàn kết một lòng dưới lá cờ
Đảng để thực hiện ý niệm mà Hồ Chí
Minh mong muốn xây dựng là “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hồ Chí Minh: Toàn tập. NXB Chính trị quốc gia.
- GS.TS. Hoàng Chí Bảo. (2018). Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội 16 lOMoAR cPSD| 45568214
- PGS.TS Hoàng Phúc Lâm. (2021). Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trong tình hình mới
- PGS.TS Phạm Ngọc Anh. (2011). Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- PGS.TS Đỗ Thị Thạch. (2021). Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH
- Trương Thị Thu Hà. Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang. (2016). Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Chủ nghĩa xã hội và định hướng xây dựng Chủ nghĩa xã hội theo tinh thần
Đại hội XII của Đảng.
- Tài liệu hỏi – đáp về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh do Ban Tuyên
giáo Trung Ương biên soạn
- Ban Tuyên giáo thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. (2021). Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội – Sự lựa chọn phù hợp xu thế phát triển thời đại, khát vọng
thiêng liêng của dân tộc. 17