




Preview text:
1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản
xuất thông qua việc nhà đầu tư ở 1 nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư,
đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu
thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý... nhằm mục đích thu lợi nhuận. - Các đặc trưng:
• Về vốn góp: Các chủ đầu tư nước ngoài đóng một lượng vốn tối thiểu
theo quy định của nước nhận đầu tư để họ có quyền trực tiếp tham gia
điều phối, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh. Ở Việt Nam luật đầu tư
nước ngoài đưa ra điều kiện: phần vốn góp của bên nước ngoài không
dưới 30% vốn pháp định, trừ những trường hợp do chính phủ quy định.
• Về quyền điều hành quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ
thuộc vào mức vốn góp. Nếu nhà đầu tư thành lập công ty 100% vốn
nước ngoài thì quyền điều hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước
ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý.
• Về phân chia lợi nhuận: dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ đều
được phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định.
- Đặc điểm: Với nước tiếp nhận đầu tư, đặc điểm của FDI có nhiều mặt tích cực,
đồng thời cũng có những mặt hạn chế, bất lợi riêng.
2. Phân loại các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI khi hoạt động sẽ được phân loại dựa vào vô số hình thức khác nhau như:
xâm nhập, quan hệ ngành nghề, định hướng quốc gia nhận đầu tư, định hướng chủ FDI, theo pháp lý.
- Cách thức xâm nhập của FDI khi hoạt động sẽ biểu hiện như sau:
• Đầu tư mới: là hình thức công ty đó sẽ đầu tư cơ sở làm việc mới để sản
xuất hay quảng cáo hoặc làm trung tâm hành chính.
• Mua lại: là hình thức công ty đầu tư hoặc mua lại một đơn vị đang hoạt
động hay xưởng sản xuất kinh doanh để giảm thiểu chi phí.
• Sát nhập: là một hình thức đặc biệt của kiểu công ty đầu tư khi sẽ mua
lại và sau đó 2 đơn vị sẽ góp chung vốn thành lập ra doanh nghiệp mới lớn mạnh hơn.
- FDI cũng có thể dùng định hướng của đầu tư để hoạt động như sau:
• Thay thế nhập khẩu: FDI sẽ tiến hành sản xuất và xuất ra thị trường các
nước đầu tư toàn bộ sản phẩm mà quốc gia đó trước kia phải nhập khẩu.
• Tích cực xuất khẩu: FDI đang nhắm tới nhiều thị trường hơn thay vì chỉ
chú trọng ở nước nhận đầu tư.
• Theo định hướng chính phủ.
- Ở hình thức pháp lý, FDI sẽ được đầu tư hoạt động như sau:
• Hợp tác kinh doanh bằng giấy tờ văn bản ký kết.
• Doanh nghiệp liên doanh (doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do
hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp
đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp
do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp
Viêt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước
ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh)
• Doanh nghiệp có vốn toàn bộ từ nước ngoài.
• BTO - BOT - BT trong đó BTO: Hợp đồng xây dựng - chuyển giao -
kinh doanh, BOT: Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, BT:
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao.
3. Tình hình đầu tư trực tiếp vào Việt Nam những năm gần đây
- Sau hơn 30 năm Việt Nam mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn
vốn FDI đã đóng góp vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Do
ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 trên phạm vi toàn cầu, dòng vốn FDI có xu
hướng giảm sút cả về vốn đăng ký và dự án cấp mới sau khi đạt đỉnh vào năm 2019.
- Nguyên nhân là do tác động của dịch Covid-19, hoạt động tìm hiểu cơ hội đầu
tư của các nhà đầu tư tiềm năng đang bị trì hoãn, bao gồm các hoạt động tìm
hiểu cơ hội đầu tư, các hội thảo, các diễn đàn doanh nghiệp, diễn đàn xúc tiến đầu tư...
- Tuy nhiên, dòng vốn FDI có dấu hiệu tăng trưởng trở lại vào năm 2021 do
Chính phủ và các cơ quan chức năng đã kịp thời vào cuộc, ban hành nhiều giải
pháp, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp
cũng như các quy định, hướng dẫn thích ứng với tình hình mới, các doanh
nghiệp đang dần khôi phục hoạt động sản xuất - kinh doanh. Cụ thể:
- Năm 2020, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn, mua cổ
phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 28,53 tỷ USD, bằng 75% so với cùng kỳ
năm 2019. Vốn thực hiện của dự án FDI ước đạt 19,98 tỷ USD, bằng 98% so
với cùng kỳ năm 2019. Do tác động của đại dịch Covid-19, hoạt động sản xuất
- kinh doanh bị ảnh hưởng. Điểm nhấn trong năm 2020 là vốn đầu tư điều
chỉnh đạt trên 6,4 tỷ USD, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2019; có 1.140 lượt
dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư, giảm 17,5% so với cùng kỳ.
- Năm 2021, kết quả thu hút vốn FDI đã có sự tăng trưởng trở lại, được đánh giá
là “điểm sáng” trong bức tranh kinh tế vốn chịu nhiều tác động của dịch
Covid19. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (2021), tổng vốn FDI đăng ký vào Việt
Nam tính đến ngày 20/12/2021 đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm 2020.
- Trong đó, vốn FDI thực hiện tại Việt Nam năm 2021 ước đạt 19,74 tỷ USD,
giảm 1,2% so với năm 2020. Đây có thể coi là một con số “ấn tượng” trong bối
cảnh dòng vốn đầu tư toàn cầu đang sụt giảm và có nhiều điều chỉnh do tác
động từ đại dịch Covid-19. Điều đó không chỉ cho thấy sức hấp dẫn của môi
trường đầu tư Việt Nam mà còn là thành quả của quá trình nỗ lực “vượt dịch”
của Chính phủ và của các địa phương trên cả nước.
- Dòng vốn FDI được giữ vững và gia tăng còn là động lực quan trọng để Việt
Nam tiếp tục nỗ lực thực hiện tốt mục tiêu “kép”, vừa khôi phục sản xuất, phát
triển kinh tế, vừa phòng, chống dịch Covid-19 có hiệu quả.
- Số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh và số lượt góp vốn mua cổ phần đều giảm
so với năm 2020. Sự suy giảm các dự án đầu tư mới chủ yếu tập trung vào
nhóm dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD và dưới 1 triệu USD). Việc tăng
vốn đầu tư cấp mới, vốn đầu tư điều chỉnh và giảm số lượng dự án cho thấy
quy mô vốn đầu tư bình quân/dự án đầu tư mới cũng như điều chỉnh đều tăng
lên so với cùng kỳ năm 2020.
- Tính lũy kế đến ngày 20/12/2021, cả nước có 34.527 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký gần 408,1 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư
nước ngoài ước đạt 251,6 tỷ USD, bằng 61,7% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.
- Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Cơ cấu vốn FDI có thể được nghiên cứu theo các tiêu thức: hình thức đầu tư,
đối tác đầu tư, theo ngành và lĩnh vực chủ yếu, theo địa phương và vùng kinh tế. Cụ thể:
• Cơ cấu FDI theo đối tác đầu tư
Tính đến ngày 20/12/2021, đã có 106 quốc gia và vùng lãnh thổ
đầu tư FDI vào Việt Nam trong năm 2021. Trong đó, Singapore
là quốc gia dẫn đầu với tổng vốn đầu tư với trên 10,7 tỷ USD,
chiếm 34,4% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, tăng 19,1% so với
cùng kỳ 2020; Hàn Quốc đứng thứ hai với 4,95 tỷ USD, chiếm
16% tổng vốn đầu tư, tăng 25,4% so với cùng kỳ. Nhật Bản đứng
thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 3,9 tỷ USD, chiếm 13%
tổng vốn đầu tư, tăng 64,6% so với cùng kỳ. Tiếp theo là Trung
Quốc, Hồng Kông, Đài Loan…
Trong năm 2021, vốn đầu tư của Singapore gấp gần 2,2 lần vốn
đầu tư của Hàn Quốc và gấp hơn 2,7 lần vốn đầu tư của Nhật Bản
do Singapore có 01 dự án đầu tư mới và 01 trường hợp góp vốn
mua cổ phần có vốn đầu tư lớn. Riêng hai dự án này đã chiếm
trên 49% tổng vốn đầu tư của Singapore. Hàn Quốc mặc dù chỉ
xếp thứ hai về vốn đầu tư song lại là đối tác dẫn đầu về số dự án
đầu tư mới (361 dự án), số lượt dự án điều chỉnh vốn cũng như số
lượt góp vốn mua cổ phần. Như vậy, nếu xét về số lượng dự án,
Hàn Quốc là đối tác có nhiều nhà đầu tư quan tâm và đưa ra các
quyết định đầu tư mới cũng như mở rộng dự án đầu tư nhất trong năm 2021.
Tính lũy kế đến ngày 20/12/2022, hiện có 140 quốc gia, vùng
lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó,
đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký gần 74,7 tỷ USD
(chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư); Nhật Bản đứng thứ hai với gần
64,4 tỷ USD (chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là
Singapore và Đài Loan, Hồng Kông.
• Cơ cấu FDI theo ngành và lĩnh vực chủ yếu
Tính đến ngày 20/12/2021, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư
vào 18/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân.
Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với 533
dự án cấp mới và tổng vốn đầu tư đạt trên 18,120 tỷ USD, chiếm
58,17% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù thu hút được số lượng dự
án mới, điều chỉnh cũng như góp vốn mua cổ phần không nhiều
(23 dự án), song có dự án có quy mô vốn lớn nên đứng thứ hai
với tổng vốn đầu tư trên 5,7 tỷ USD, chiếm 18,33% tổng vốn đầu
tư đăng ký. Tiếp theo lần lượt là các ngành kinh doanh bất động
sản, bán buôn - bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy với tổng vốn
đăng ký đạt lần lượt là trên 2,63 tỷ USD và trên 1,4 tỷ USD...
Nếu xét về số lượng dự án mới thì công nghiệp chế biến - chế
tạo; bán buôn - bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và hoạt động
chuyên môn, khoa học công nghệ là các ngành thu hút được
nhiều dự án nhất, lần lượt là 533; 488 và 291 dự án cấp mới
Tính lũy kế đến ngày 20/12/2021, các nhà đầu tư nước ngoài đã
đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc
dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến - chế tạo chiếm tỷ
trọng cao nhất với trên 241,9 tỷ USD, chiếm 59,3% tổng vốn đầu
tư. Tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với gần
61,8 tỷ USD (chiếm 15,1% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối
điện với gần 33,9 tỷ USD (chiếm 8,3% tổng vốn đầu tư).
4. Những mặt tích cực
So với những hình thức đầu tư nước ngoài khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu điểm:
- FDI không để lại gánh nặng nợ cho Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư như ODA
hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài…
- Các nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực tiếp điều hành sản
xuất kinh doanh, hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Nước tiếp nhận
FDI ít phải chịu những điều kiện ràng buộc kèm theo của người cung ứng vốn như của ODA.
- Thực hiện liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp
trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính, trong tình huống xấu nhất khi
gặp rủi ro thì các đối tác nước ngoài sẽ là người cùng chia sẻ rủi ro với các
công ty của nước sở tại.
- Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít
rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư
- FDI không đơn thuần chỉ là vốn, mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ thuật,
phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra những sản phẩm mới, mở ra thị
trường mới… cho nước tiếp nhận đầu tư.
- Đây là điểm hấp dẫn quan trọng của FDI, bởi vì hầu hết các nước đang phát
triển có trình độ khoa học và công nghệ thấp, trong khi phần lớn những kỹ
thuật mới xuất phát chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển, do đó để rút
ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước công nghiệp phát triển, các nước này
rất cần nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật mới. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể
của mình, mỗi nước có cách đi riêng để nâng cao trình độ công nghệ, nhưng
thông qua FDI là cách tiếp cận nhanh, trực tiếp và thuận lợi. Thực tế đã cho
thâý FDI là 1 kênh quan trọng đối với việc chuyển giao công nghệ cho các
nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động mạnh đến quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận, thúc đẩy quá trình này trên
nhiều phương diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ
cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động….
- Thông qua tiếp nhận FDI, nước tiễp nhận đầu tư có điều kiện thuận lợi để gắn
kết nền kinh tế trong nước với hệ thống sản xuất, phân phối, trao đổi quốc tế,
thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước này.
- Thông qua tiếp nhận đầu tư, các nước sở tại có điều kiện thuận lợi để tiếp cận
và thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, thích nghi
nhanh hơn với các thay đổi trên thị trường thế giới… FDI có vai trò làm cầu
nối và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, một nhân tố đẩy nhanh quá
trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới.
- FDI có lợi thế là có thể được duy trì sử dụng lâu dài, từ khi một nền kinh tế còn
ở mức phát triển thấp cho đến khi đạt được trình độ phát triển rất cao. Vốn
ODA thường được dành chủ yếu cho những nước kém phát triển, sẽ giảm đi và
chấm dứt khi nước đó trở thành nước công nghiệp, tức là bị giới hạn trong một
thời kỳ nhất định. FDI không phải chịu giới hạn này, nó có thể được sử dụng rất
lâu dài trong suốt quá trình phát triển của mỗi nền kinh tế.
- Với những ưu thế quan trọng như trên ngày càng có nhiều nước coi trọng FDI
hoặc ưu tiên, khuyến khích tiếp nhận FDI hơn các hình thức đầu tư nước ngoài khác.