



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58933639
TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC ĐẠI HỌC
CHƯƠNG 1: TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC ĐẠI HỌC
Tâm lý học sư phạm là một trong những ngành ứng dụng được phát triển
sớm nhất của khoa học tâm lý. Đối tượng của tâm lý học sư phạm là những quy
luật tâm lý của việc dạy học và giáo dục đối với trẻ từ mẫu giáo đến học sinh
và sinh viên. Cụ thể tâm lý học sư phạm tìm cơ chế tâm lý của qúa trình học
sinh lĩnh hội nền văn hoá vật chất, tinh thần của xã hội và biến nó thành vốn
riêng của mình; tìm mối quan hệ giữa tri thức tiếp thu được với sự phát triển
các chức năng tâm lý cấp cao của học sinh, sinh viên; tìm cơ chế lĩnh hội của
từng lứa tuổi khác nhau, tổ chức các hoạt động phù hợp với sự phát triển trí tuệ
và sự phát triển tâm lý. Việc nghiên cứu những vấn đề này thể hiện mối liên hệ
chặt chẽ của ngành tâm lý học lứa tuổi và ngành tâm lý học sư phạm.
Tâm lý học sư phạm xuất hiện từ bao giờ? Năm 1889, Đại hội đầu tiên
của các nhà tâm lý học trên thế giới đã họp ở Pari, một trong những hướng ứng
dụng đầu tiên của khoa học tâm lý là việc vận dụng tri thức tâm lý học vào công
tác giảng dạy và giáo dục ở nhà trường.
Ví dụ như những kết quả thực nghiệm trong tâm lý học đại cương về quy
luật tâm sinh lý của Weber, Faisner, quy luật nhớ của Ebingauz, nghiên cứu cảm
giácvận động của Weent... Nhưng việc ứng dụng trực tiếp từ kết quả nghiên
cứucủa tâm lý học đại cương đã rất hạn chế và mâu thuẫn với kinh nghiệm của
giáo viên. Ví dụ: Ebingauz nghiên cứu sự ghi nhớ những từ vô nghĩa thì ít giúp
ích cho giáo viên là những người cần biết quy luật nhớ những tài liệu có ý
nghĩacủa học sinh. Nhà giáo dục nổi tiếng người Nga K.D.Usinxki trong tác
phẩm “con người là đối tượng của giáo dục” đã có cống hiến lớn cho sự phát
triển tư tưởng tâm lý sư phạm. Ông cho rằng muốn giáo dục con người thì trước
hết phải hiểu biết con người về tất cả mọi mặt, và đã kêu gọi tất cả các nhà giáo
dục: “Các bạn hãy nghiên cứu những quy luật của các hiện tượng tâm lý mà
các bạn muốn điều khiển và các bạn hãy hành động căn cứ trên những quy luật
này và những hoàn cảnh mà các bạn muốn vận dụng chúng vào đó”; Nhà tâm
lý học người Mỹ W. James, trong tác phẩm “Nói chuyện với các giáo viên về
tâm lý học” đã cho rằng: khi biết được những quy luật tâm sinh lý hay những
hình thức và tốc độ phản ứng vận động thì lOMoAR cPSD| 58933639
người giáo viên sẽ hiểu được đời sống tinh thần của trẻ và những quy luật lĩnh
hội tài liệu học tập.
Do đó, những hiện tượng tâm lý trẻ em và thanh niên diễn ra trong quá
trình giảng dạy và giáo dục ở nhà trường cần phải được nghiên cứu riêng và trở
thành đối tượng của ngành tâm lý học sư phạm.
Trong hội nghị tâm lý học sư phạm đầu tiên ở nước Nga được tổ chức
vào đầu thế kỷ XX, các nhà tâm lý học đã khẳng định rằng chỉ có thể gắn tâm
lý học với thực tiễn sư phạm bằng cách nghiên cứu thực nghiệm trong chính
quá trình dạy học và giáo dục. Do vậy, cần giải quyết đúng đắn vấn đề lý luận
và phương pháp luận của tâm lý học sư phạm và tâm lý học lứa tuổi mà trước
hết là nhuồn gốc phát triển tâm lý có quan hệ với lý luận dạy học. Việc xác định
các nguyên tắc, các con đường, các biện pháp dạy học và giáo dục phụ thuộc
vào quan niệm về nguồn gốc phát triển tâm lý trẻ.
Các nhà tâm lý học Mácxít cho rằng yếu tố bẩm sinh di truyền là tiền đề
của sự phát triển tâm lý, giáo dục có vai trò chủ đạo và hoạt động cá nhân có
tính chất quyết định trực tiếp đến sự phát triển của mỗi cá nhân. Trong những
điều kiện giáo dục thuận lợi như nhau thì trẻ nào có được những ưu thế về bẩm
sinh di truyền thì sẽ phát triển tốt hơn. Ngược lại những trẻ có yếu tố bẩm sinh
di truyền tương đối ngang bằng nhau thì trẻ nào được sống trong điều kiện giáo
dục thuận lợi hơn sẽ phát triển tốt hơn. Sức mạnh của giáo dục là khả năng tăng
tốc sự phát triển theo định hướng xã hội đúng đắn, là phát hiện tiềm năng tâm
lý làm cho mỗi cá nhân có diều kiện bộc lộ tự do và phát triển tối ưu năng lực và nhân cách của mình.
Từ những kiến giải trên, ta thấy rằng những lĩnh vực của tâm lý học sư
phạm bao trùm hai khoa học: Tâm lý học và Giáo dục học.
Những mục đích của Tâm lý học sư phạm: Tâm lý học sư phạm quan
tâm trước hết đến việc ứng dụng các tri thức khoa học về tư duy của con người
và nhân cách của họ vào quá trình sư phạm, bao gồm những vấn đề như: động
cơ, định hướng, kiểm tra, đánh giá... Tâm lý học sư phạm cũng có mục đích tìm
hiểu về người học và quá trình hướng dẫn, đào tạo họ, nhờ quá trình đó mà
người học được định hướng phát triển và trưởng thành. Vì vậy, Tâm lý học sư
phạm có nhiệm vụ chọn lọc, tổ chức, giải thích, kết hợp các sự kiện, tài liệu, kỹ
thuật, nguyên tắc từ lâu đài đồ sộ của tâm lý học để ứng dụng thực tiễn vào lOMoAR cPSD| 58933639
quá trình giáo dục. Như vậy, Tâm lý học sư phạm có mục đích cung cấp cho
giáo viên những hiểu biết tâm lý học đúng đắn, khoa học về trẻ em và thanh
thiếu niên; một cái nhìn sâu sắc về bản chất của sự học; một nhận thức đúng
đắn về ý nghĩa của sự khác biệt cá thể, tri thức về sự trưởng thành và phát triển
của trẻ em, hiểu biết về những vấn đề hành vi của trẻ em, thanh thiếu niên và
khả năng ứng xử với chúng. Nhờ đó, người làm công tác giảng dạy, giáo dục
nắm được những nguyên lý cơ bản để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong
quá trình sư phạm và học có thể đánh giá các biện pháp được sử dụng nhằm đạt
được mục tiêu đào tạo.
1.1. Sự ra đời của Tâm lý học dạy học đại học
1.1.1. Nguyên nhân khách quan
a. Sự phát triển của đào tạo đại học trên thế giới và ở Việt Nam
Hệ thống giáo dục đại học của các nước trên thế giới có một lịch sử phát
triển khá lâu đời và không ngừng phát triển. Số trường đại học và cao đẳng của
Nhật Bản (tính đến 1994) là 1.208 với tổng số sinh viên là 3.266.275. Nước Mỹ
có trên 3.000 trường đại học; Hàn Quốc có 314 trường đại học và cao đẳng, với
2.196.940 sinh viên và 54.135 giáo chức. Thái Lan có 53 trường đại học với
872.630 sinh viên và có 23.121 giáo chức (năm 1995). Các nước thuộc Liên Xô
trước đây có khoảng 870 trường đại học, với 5,2 triệu sinh viên và có trên
70.000 phó tién sĩ và 19.000 tiến sĩ khoa học tham gia công tác đào tạo đại học
và trên đại học (số liệu của những năm 80); Các nước á Phi, Mỹ La Tinh, Brazin
có 6.260.000 sinh viên (những năm 80 ).
Giáo dục đại học Việt Nam có một lịch sử phát triển lâu đời. “Quốc Tử
Giám” được mở năm 1076 tại Hà Nội có thể được xem là trường đại học đầu
tiên của Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, kiểu đại học phương Tây du nhập vào nước
ta. Năm 1902, Đại học Y-Dược được thành lập. Một số trường cao đẳng và đại
học khác được thành lập từ năm 1906 đến 1939 và được tập hợp lại thành Đại
học Đông Dương đặt tại Hà Nội, chung cho cả Việt Nam, Lào, Campuchia. Số
lượng sinh viên của trường này đạt quy mô cao nhất là 1.200 vào năm 1942.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954) hình thành ba trung
tâm đại học mới tại Việt Bắc, Liên khu IV và Nam Ninh (Trung Quốc). Đấy là
cơ sở đại học đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, dạy hoàn toàn bằng tiếng Việt. Sau giải lOMoAR cPSD| 58933639
phóng (1954), các trường đại học di chuyển về Hà Nội. Năm 1956 ở Hà Nội có
các trường Tổng hợp, Sư phạm, Bách khoa, Y-Dược, Nông nghiệp, Kinh tế- tài
chính và nghệ thuật. Cho đến năm 1975 ở miền Bắc đã có 30 trường đại học
với 8.400 giảng viên và 56.000 sinh viên. Cũng trong thời gian đó, ở miền Nam
có 4 viện đại học công lập, 3 đại học cộng đồng và 11 đại học tư, có tổng số
sinh viên là 166.000. Sau ngày Việt Nam thống nhất (1975), các trường đại học,
cao đẳng (hiện nay, do sát nhập một số trường để thành lập các đại học quốc
gia nên số trường đại học chỉ còn 199, trong đó có 91 trường công lập và 18
trường dân lập và một số cao đẳng cộng đồng) với khoảng 36.500 giảng viên,
trong đó 31% là nữ, 14% có học vị Phó tiến sĩ, Tiến sĩ và gần 930.000 sinh viên,
trong đó có khoảng 589.000 sinh viên chính quy.
Như vậy, số trường đại học trong nước và trên thế giới tăng rất nhanh, số
lượng sinh viên có tới hàng chục triệu và số lượng cán bộ khoa học giảng dạy
đại học cũng không ngừng tăng lên và đặc biệt là chất lượng đội ngũ cán bộ
giảng dạy thay đổi theo chiều hướng tăng nhanh các cán bộ có trình độ học vị,
học hàm cao, có năng lực đào tạo đại học và trên đại học. Thực tiễn đó đã lôi
cuốn sự chú ý đặc biệt của các nhà tâm lý học, giáo dục học và các nhà phương
pháp vào việc nghiên cứu các cơ sở khoa học cho công tác giảng dạy và giáo
dục đại học nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo các chuyên gia có trình độ chuyên môn cao .
b. Nhu cầu xã hội đối với chuyên gia
Do sự thúc đẩy phát triển xã hội và đặc biệt là ảnh hưởng của cách mạng
khoa học kỹ thuật, nhu cầu của xã hội đối với chuyên gia đã có nhiều thay đổi.
Trong xã hội cũ, tính chất bảo thủ và lạc hậu của nhà trường đại học so với xã
hội đã luôn luôn tồn tại. Việc giảng dạy của nhà trường đại học cũ là hướng vào
quá khứ. Tức là, xã hội yêu cầu người chuyên gia tích luỹ càng nhiều tri thức
càng tốt bằng tri thức của mình , có quan niệm ai nhớ giỏi là người uyên bác, là
nhà bác học. Nội dung tri thức, cách sắp xếp , tổ chức và chuyền đạt thông tin
do thầy giáo quy định. Phương pháp giảng dạy là thầy giải thích tài liệu, củng
cố tài liệu, rồi kiểm tra, còn sinh viên tiếp nhận tài liệu, ghi nhớ chúng.
Xã hội ngày nay có nhu cầu khác hẳn đối với các chuyên gia, nền sản xuất
hiện đại đòi hỏi chuyên gia trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng phải có kỹ năng tư
duy sáng tạo, biết đặt ra những nhiệm vụ mới một cách độc lập, có nguyên tắc,
năng động, có khả năng thích ứng lOMoAR cPSD| 58933639
với những điều kiên biến đổi không ngừng. Do sự bùng nổ về thông tin, khoảng
cách vốn có giữa giảng đường đại học với xã hội càng bị đẩy xa hơn. Người
sinh viên không thể chỉ chông đợi vào những tri thức mà nhà trường cung cấp
cho họ và càng không thể hy vọng vào vốn tri thức ấy như một thứ “cẩm nang”
có thể dùng nó trong suốt cuộc đời nghề nghiệp của mình. Bởi vì, chỉ sau một
thời gian ngắn, một bộ phận các tri thức lĩnh hội được trong nhà trường sẽ trở
nên bất cập, và hiển nhiên là sau khi họ tốt nghiệp đại học, bao nhiêu phát minh
mới sẽ ra đời và đòi hỏi họ phải tham gia phát triển chúng một cách hiệu quả.
Có thể ví von không quá đáng rằng “người mù chữ ngày mai sẽ là người không
biết học việc học tập”. Điều này cũng có nghĩa “học như thế nào” trở thành một
tiêu chí đánh giá người học.
c. Nhu cầu tự hoàn thiện của sinh viên và người tốt nghiệp đại học
Với những lý do trên, ngày nay quá trình đào tạo ở đại học ngày càng trở
lên phức tạp về nội dung, phương pháp cũng như phương tiện được sử dụng
trong quá trình đó. Để đáp ứng nhu cầu mới của quá trình đào tạo đại học, sinh
viên phải tự hoàn thiện nhân cách của mình, đặc biệt những phẩm chất và năng
lực “tự đào tạo” theo hướng “nghiên cứu phát triển” để trở thành chuyên gia
giỏi trong xã hội hiện đại. Người tốt nghiệp đại học cũng có nhu cầu tự hoàn
thiện như phần trên đã trình bày, nhưng giảng đường đại học phải từng bước
chuẩn bị kỹ năng này cho họ. Chính tính phức tạp và những đặc điểm mới trong
tâm lý sinh viên hiện đại sẽ trở thành một xu thế mới, một đối tượng hấp dẫn
của khoa học Tâm lý sư phạm đại học.
1.1.2. Nguyên nhân chủ quan
a. Tâm lý học là khoa học cơ bản có tính ứng dụng cao
Việc ra đời ngành Tâm lý học sư phạm nói chung, Tâm lý học sư phạm đại
học nói riêng còn do chính nguyên nhân chủ quan rất đặc trưng của Tâm lý học:
một khoa học luôn luôn hướng vào thực tiễn. Tâm lý học hiện đại ngày nay có
trên năm mươi ngành Tâm lý học ứng dụng, điều đó cho thấy rõ ý nghĩa của
Tâm lý học trong việc giải quyết các vấn đề của thực tiễn xã hội .
b. Sự vận động của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư
phạm dẫn đến sự ra đời một chuyên ngành mới: Tâm lý học sư phạm đại học. lOMoAR cPSD| 58933639
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm một thời gian dài đã chỉ giới
hạn phạm vi nghiên cứu của mình vào các vấn đề tâm lý học sinh, mãi đến
những năm 60 của thế kỷ XX, hai ngành tâm lý học này đã ngày càng quan tâm
nhiều hơn đến các vấn đề giảng dạy và giáo dục người lớn mà trước hết là sinh viên.
Từ các điều kiện nói trên, đã nảy sinh ngành Tâm lý học sư phạm đại học,
như một nhánh của Tâm lý học sư phạm trong điều kiện đặc trưng của trường
đại học. Trường đại học làm thế nào để khai thác hết khả năng tiềm tàng ở sinh
viên, làm tối ưu hoá các hoạt động của cá nhân và tập thể, để khi ra trường họ
trở thành những chuyên gia biết làm việc. Vai trò và vị trí của Tâm lý học sư
phạm đại học trong hệ thống chung của Tâm lý học không chỉ xuất phát từ quan
điểm sử dụng các tri thức tâm lý trong thực tiễn mà nó còn là một khâu củng cố
những nhiệm vụ nhận thức của Tâm lý học như nghiên cứu và giải thích các
hiện tượng tâm lý với vấn đề điều khiển và tự điều khiển hoạt động của cá nhân
và tập thể. Về điều này, Viện sĩ B.Ph.Lomốp đã viết: “Tham gia tích cực vào
giải quyết các nhiệm vụ nảy sinh trong thực tiễn xã hội là những điều kiện cần
thiết để phát triển tiếp theo của bản thân Tâm lý học như một khoa học. Chỉ
bằng cách liên hệ chặt chẽ với thực tiễn mới có khả năng mở ra triển vọng thực
tế của khoa học tâm lý, hoàn thiện những phương pháp của nó và phát triển lý
luận”. Sự ra đời muộn mằn của Tâm lý học sư phạm đại học cho phép nó thừa
hưởng thành tựu phong phú của các ngành Tâm lý ra đời trước nó, đặc biệt là
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm.
1.2. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp của Tâm lý học dạy học đại học
1.2.1. Đối tượng của Tâm lý học dạy học đại học:
- Những quy luật tâm lý của việc dạy học và giáo dục ở đại học
- Vai trò, vị trí của các biểu hiện, sự phát triển và quy luật vận hành của các
hiện tượng tâm lý cá nhân và xã hội diễn ra trong hoạt động của sinh viên
và hoạt động của giảng viên
- Các biện pháp tâm lý tác động đến sinh viên và giảng viên nhằm giải quyết
những nhiệm vụ của giáo dục đại học đạt kết quả cao.
1.2.2. Nhiệm vụ của Tâm lý học dạy học đại học: lOMoAR cPSD| 58933639
- Phân tích về phương diện tâm lý các hoạt động của sinh viên, giảng viên,
trên cơ sở đó vạch ra những cơ sở tâm lý cho việc nâng cao hiệu quả đào tạo
đại học. Điều khiển về mặt tâm lý học quá trình giảng dạy, hình thành nhận
thức từ tri giác đến tư duy độc lập sáng tạo cho sinh viên, vạch ra các chuẩn
phát triển trí tuệ và dự đoán sự phát triển đó trong quy trình đào tạo.
- Nghiên cứu tâm lý tập thể sinh viên và ảnh hưởng của nó đến hoạt động học
tập, hoạt động xã hội, hoạt động nghiên cứu khoa học của họ.
- Vạch ra các quy luật hình thành nhân cách sinh viên và những phẩm chất
nghề nghiệp quan trọng của người chuyên gia tương lai.
- Nghiên cứu nhân cách và hoạt động của người cán bộ giảng dạy; những cơ
sở tâm lý của nghiệp vụ sư phạm và sự sáng tạo sư phạm của họ.
- Phân tích mối quan hệ- giao tiếp giữa giảng viên và sinh viên.
- Phân tích quá trình thích ứng đối với việc học tập ở đại học của học sinh
mới vào đại học và với điều kiện hoạt động nghề nghiệp của sinh viên mới ra trường.
- Luận chứng về mặt tâm lý học cho quan điểm hệ thống đối với việc đào tạo
chuyên gia của các trường đại học.
(Dựa trên quan điểm của Diachencô và Kandưbivich “Tâm lý học đại học”
Minscơ 1981 tr. 16. Tiếng Nga)
1.3. Bản chất và quy luật của sự phát triển tâm lý người
1.3.1. Bản chất của sự phát triển tâm lý người
Để tìm hiểu được sự hình thành và phát triển của trẻ diễn ra theo cơ chế
nào, trước tiên chúng ta cần hiểu khái niệm Trưởng thành và Phát triển là gì.
Trưởng thành là sự hiện thực hoá các yếu tố của cơ thể, được mã hoá
trong các gen, dưới tác động của các yếu tố ngoại cảnh. Sự trưởng thành của cơ
thể dường như được lập trình sẵn và ít phụ thuộc vào sự học của cá thể (sự
trưởng thành của hệ thần kinh, của các giác quan, khả năng vận động của cơ thể của trẻ v.v…).
Phát triển là sự thay đổi có tính hệ thống của cá nhân do sự học mang
lại. Đó là sự hình thành cái mới của cá nhân, trong một hoàn cảnh xã hội cụ
thể (ví dụ, lúc đầu trẻ khóc do bị đói và phải thỏa mãn nhu cầu cá nhân, sau
này trẻ khóc thể hiện cảm xúc buồn, vui hay thái độ của mình với người khác –
những biểu hiện này là sự hình thành những cấu lOMoAR cPSD| 58933639
trúc tâm lý mới về mặt xã hội – tình cảm trong đời sống tinh thần của trẻ). Nói
cách khác, phát triển là sự thay đổi các hành động bên ngoài dẫn đến sự thay
đổi các cấu trúc bên trong, tạo ra cấu trúc mới trên cơ sở tiềm năng đã có của
bản thân và những điều kiện của môi trường xã hội, tạo ra bản sắc riêng của
mỗi cá nhân. Mục đích của sự phát triển giúp cho việc đảm bảo sự thích ứng
của cơ thể với môi trường đồng thời là quá trình lĩnh hội và sáng tạo của con người.
Sự phát triển tâm lý của con người do chính hoạt động và giao tiếp của
họ trong cuộc sống hàng ngày tạo ra. Ngoài việc tạo ra cái riêng của mỗi con
người cũng có những cơ chế hình thành phát triển tâm lý chung của nhiều người,
và tâm lý chung này đều có nguồn gốc từ bên ngoài, từ nền văn hóa xã hội và
quan hệ xã hội. Cơ chế hình thành phát triển tâm lý trẻ được xem như cơ chế
hình thành các cấu trúc tâm lý (hiểu theo J. Piaget), hay là cơ chế hình thành
các chức năng tâm lý cấp cao (hiểu theo L. S. Vygotsky). Tuy vậy, cơ chế hình
thành các cấu trúc tâm lý có những đặc điểm sau:
- Sự phát triển tâm lý của trẻ là quá trình lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử
- xã hội, biến những kinh nghiệm đó thành kinh nghiệm của cá nhân. Để con
người tồn tại và phát triển phải cần đến hai loại kinh nghiệm. Kinh nghiệm
loài đã được mã hóa trong gen, kinh nghiệm xã hội do con người có được
qua quá trình học tập, lĩnh hội thông qua hoạt động và giao tiếp. Đặc điểm
này đều được các thuyết đề cập đến (các kích thích ‘S’ trong thuyết hành vi;
kích thích tâm trí trong học thuyết của J.Piaget; các quan hệ xã hội trong
thuyết phân tâm; các công cụ kí hiệu trong thuyết lịch sử văn hóa của L. S.
Vygotsky v.v…). Như vậy, tâm lý trẻ em có nguồn gốc từ bên ngoài và được
chuyển vào bên trong trẻ.
- Quá trình lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội – lịch sử của trẻ em được thực
hiện thông qua sự tương tác giữa trẻ với thế giới bên ngoài, mà trước hết là
tương tác xã hội. Trẻ tương tác với thế giới đồ vật để hình thành những kinh
nghiệm về thuộc tính vật lý của sự vật và phương pháp sáng tạo ra sự vật
đó. Tuy vậy, ngay cả khi tương tác với đồ vật cũng có sự hiện diện của người
lớn (trẻ học cách sử dụng đồ vật - các công cụ kí hiệu mà con người sáng
tạo ra và được mã hóa trong đồ vật). Vì vậy, ở góc độ này hay góc độ khác,
tương tác là sự tất yếu trong sự phát triển tâm lý của trẻ. Quá trình hình
thành và phát triển các cấu trúc tâm lí trẻ em thực chất là quá trình lOMoAR cPSD| 58933639
chuyển những kinh nghiệm xã hội - lịch sử từ bên ngoài vào bên trong của trẻ
theo cơ chế nhập tâm. Có hai cách lý giải cơ chế chuyển vào trong là các nhà
tâm lý học nhận thức và các nhà tâm lý học hoạt động. J. Piaget cho rằng quá
trình chuyển hóa này là quá trình cơ thể thích nghi. Chủ thể thực hiện quá trình
đồng hóa và điều ứng các kích thích bên ngoài để làm tăng trưởng các cấu trúc
đã có (đồng hóa) hoặc hình thành cấu trúc mới (điều ứng) nhằm giúp cho cơ thể
cân bằng, thích ứng với môi trường. Các nhà tâm lý học hoạt động (L. S.
Vygotsky, A.N. Leochev, P.Ia. Galperin v.v…) cho rằng cơ chế chuyển vào
trong có ba điểm cơ bản: (a) cơ chế chuyển bắt nguồn từ vật thật qua các bước:
Hành động vật thật hành động với lời nói to hành động với lời nói thầm
không thành tiếng hành động với lời nói thầm bên trong. Trong đó, hành động
với vật thật, hành động thực tiễn, là nguồn gốc của mọi sự phát triển tâm lí; (b)
trong quá trình chuyển hóa các hành động từ bên ngoài vào bên trong theo các
bước, thường xuyên diễn ra hai hành động: hành động với đối tượng (hành động
của chủ thể theo lôgic của đối tượng) và hành động chủ ý của chủ thể đến đối
tượng và đến hành động với đối tượng. Hai hành động này ở mức độ sau sẽ kết
hợp với nhau tạo thành một cấu trúc tâm lý gồm nghĩa khách quan của đối tượng
và ý nghĩa chủ quan của chủ thể về đối tượng đó; (c) quá trình chuyển hành
động từ bên ngoài vào bên trong của cá nhân được định hướng theo nhiều cách,
cách định hướng khái quát có hiệu quả hơn thể hiện qua việc định hướng về
phương pháp học, phương pháp làm việc v.v…
1.3.2. Các quy luật của sự phát triển tâm lý người
Sự hình thành và phát triển tâm lý người chịu sự chi phối của nhiều yếu
tố ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, mỗi yếu tố đều có giá trị, tác động ở
mặt này hay mặt khác đồng thời các yếu tố đều thống nhất với nhau để tác động
một cách phù hợp đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
a. Sự phát triển tâm lý phụ thuộc vào yếu tố môi trường (tự nhiên, xã hội)
Mỗi cá nhân muốn tồn tại và phát triển bao giờ cũng cần có một môi
trường hiện thực với nhiều lực tác động trực tiếp và gián tiếp, chi phối và quy
định sự phát triển tâm lý cá nhân. Cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội
đều tác động đến sự phát triển tâm lý của trẻ nhưng môi trường văn hóa xã hội
là chủ yếu (ngay cả môi trường tự nhiên cũng mang tính văn hóa – xã hội). lOMoAR cPSD| 58933639
Môi trường sống của xã hội loài người là nguồn gốc làm nảy sinh tâm lý
người. Sự phát triển là quá trình trẻ em lĩnh hội kinh nghiệm loài người trong
nền văn hoá - xã hội lịch sử. Các nhà tâm lí học macxit khẳng định rằng, sự
phát triển tâm lí không diễn ra theo quy luật di truyền sinh học mà diễn ra theo
quy luật di truyền xã hội. Nghĩa là, trong quá trình hoạt động và giao lưu, cá
nhân tiếp thu kinh nghiệm xã hội lịch sử, và biến nó thành kinh nghiệm của bản
thân, nhờ đó mà đời sống tâm lí của cá nhân ấy được phát triển. Như vậy nền
văn hoá xã hội lịch sử là nguồn gốc và nội dung của sự phát triển tâm lí.
Trình độ phát triển xã hội khác nhau góp phần tạo nên sự khác nhau trong
sự phát triển tâm lý. Nếu đứa trẻ được sống trong một nền văn hoá lành mạnh
thì sự phát triển tâm lí, nhân cách sẽ diễn ra thuận lợi và ngược lại. Tuy nhiên,
để phát triển tâm lí đứa trẻ phải hoạt động, giao lưu để tiếp thu, lĩnh hội kinh
nghiệm của nền văn hoá xã hội lịch sử.
Trong môi trường xã hội, giáo dục giữ vai trò trọng yếu, chủ đạo đối với
sự phát triển tâm lý. Giáo dục là sự tác động tới con người của toàn bộ xã hội
và của thực tiễn xung quanh. Đó là quá trình mà thế hệ trước truyền lại kinh
nghiệm xã hội - lịch sử cho các thế hệ mới nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc
sống và lao động để đảm bảo sự phát triển hơn nữa của xã hội và cá nhân.
Bàn về vai trò của giáo dục đối với sự phát triển tâm lí trẻ em, các nhà
tâm lí học, giáo dục học macxít khẳng định rằng, giáo dục giữ vai trò chủ đạo,
định hướng sự phát triển tâm lí trẻ em. Song để giáo dục mang lại hiệu quả,
theo L. S. Vygotsky, giáo dục phải hướng vào vùng phát triển gần nhất của trẻ,
giáo dục phải đi trước sự phát triển, kéo theo sự phát triển, chứ không chạy
theo sự phát triển. Chất lượng giáo dục tạo ra chất lượng của sự phát triển tâm
lý. Các mức độ giáo dục khác nhau tạo nên sự hình thành phát triển nhân cách khác nhau.
Đối với trẻ thơ, giai đoạn đầu tiên của cuộc đời (từ 0 - 6 tuổi), giáo dục
giữ vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển các chức năng tâm lí, hình
thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con người, chuẩn bị cho những giai
đoạn phát triển sau được thuận lợi. Trẻ em không một mình đối diện với thế
giới xung quanh nó. Những mối quan hệ của nó với thế giới xung quanh bao
giờ cũng thông qua người lớn. Người lớn là trung tâm của mọi tình huống mà
đứa trẻ ở trong đó. Các nhà tâm lí học macxít khẳng định rằng, người lớn - nhà
giáo dục là cầu nối giữa trẻ em và thế giới xung quanh. Chỉ có thông qua người lOMoAR cPSD| 58933639
lớn và nhờ có người lớn trẻ mới lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội - lịch sử
chứa đựng trong đồ dùng, đồ chơi, trong giao tiếp ứng xử. Mối quan hệ giữa trẻ
em với người lớn nhà giáo dục ngày càng sâu sắc và trở nên tinh tế hơn, đa dạng
hơn trong tiến trình phát triển tâm lí trẻ em.
Yếu tố môi trường cũng đã từng được coi như là yếu tố duy nhất, quyết
định sự phát triển tâm lý của trẻ và chỉ cần nghiên cứu môi trường con người
sinh sống có thể biết được nhân cách con người đó. Đây là một cách hiểu siêu
hình về môi trường, cho rằng môi trường là bất biến, quyết định trước tâm lý
của con người, con người thụ động trước môi trường. Quan niệm này coi trẻ em
như “tấm bảng sạch” hay “tờ giấy trắng” và người lớn muốn viết gì lên đó thì
viết. Sự phát triển tâm lí của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào tác động bên ngoài.
Quan niệm như vậy sẽ không giải thích được vì sao trong môi trường như nhau
lại có những nhân cách rất khác nhau.
Để xem xét yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển
nhân cách con người như thế nào, chúng ta cùng đề cập đến các nội dung sau:
a.1. Tác động của môi trường tự nhiên đến quá trình phát triển tâm lý người
Môi trường tự nhiên bao gồm toàn bộ những gì không phải là con người
và do con người tạo ra cũng như cộng đồng xã hội người nhưng nó có liên quan
đến con người như một chủ thể và tác động đến cuộc sống, đến tâm - sinh lý
của con người như đất đai, sông núi, nắng mưa, hạn hán lũ lụt, bão từ, hiệu ứng
nhà kính v.v… Môi trường tự nhiên tác động đến con người ở các mặt sau:
- Môi trường tự nhiên là điều kiện khách quan, tác động tới việc tổ chức
sản xuất và tổ chức đời sống cộng đồng, tạo ra bản sắc văn hoá của mỗi
cộng đồng (bên cạnh dòng sông Hồng tạo nên văn hóa nông nghiệp).
- Môi trường tự nhiên trực tiếp tác động đến các hành động nhận thức và
sinh hoạt của các cá nhân sống trong nó. Người sống ở vùng biển, đồng
bằng hay miền núi có những đặc điểm tâm lý khác biệt nhau v.v…
a.2. Tác động của môi trường xã hội đến quá trình phát triển tâm lý người
Môi trường xã hội là một hệ thống các quan hệ hiện hữu giữa con người
với con người và giữa con người với thế giới đồ vật do con người chế tạo ra.
Môi trường xã hội bao hàm hai yếu tố: (a) các quan hệ xã hội hiện thực, hiện
hữu, công khai (ví dụ, cách ứng lOMoAR cPSD| 58933639
xử của vợ chồng); (b) yếu tố văn hóa ngầm ẩn (quan niệm về vợ chồng). Từ khi
sinh ra đến khi từ giã cõi đời, mỗi cá nhân luôn luôn tồn tại và phát triển trong
một môi trường văn hóa nhất định. Như vậy, môi trường văn hóa – xã hội tác
động trực tiếp đến quan hệ cá nhân tham gia vào và các “khuôn mẫu văn hóa”
tác động đến quan hệ đó và tác động trực tiếp đến đời sống tâm lý cá nhân (tương tác văn hóa).
Môi trường xã hội là một tổng thể rộng lớn có tác động trực tiếp đến sự
hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Tác động của môi trường
xã hội có thể được xem xét ở các khía cạnh sau đây:
Gia đình và sự phát triển tâm lý của trẻ : Đây là môi trường đầu tiên
có tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển tâm lý trẻ. Những
đặc điểm của môi trường gia đình tác động đến trẻ như: (a) truyền thống văn
hóa của gia đình, đây được xem là yếu tố cốt lõi, quan trọng đối với sự tồn tại
của mỗi gia đình; (b) cách ứng xử của các thành viên trong gia đình với nhau
(phong cách giao tiếp trong gia đình); (c) quan điểm và lối sống của mỗi thành
viên trong gia đình; (d) số lượng và thế hệ của các thành viên trong gia đình;
(e) tình yêu thương, tình cảm của gia đình v.v… Đứa trẻ sẽ bị tác động tâm lý
ngay từ khi người mẹ mang thai, được quyết định bởi trạng thái, tâm lý của
người mẹ do cách tác động từ gia đình. Ví dụ, gia đình có kiểu quan hệ nồng
ấm - chấp nhận và yêu cầu cao đối với con thường phát triển ở các con xúc cảm
và tình cảm tích cực đối với cha, mẹ và người thân; phát triển ở chúng khả năng
trí tuệ, sự ham hiểu biết và năng lực học tập, thái độ và hành vi vị tha, nhu cầu
cao và khả năng thiết lập các quan hệ rộng rãi với người khác; phát triển khả
năng tự đánh giá bản thân mình; dễ dàng chấp nhận và tuân theo những quy tắc
hành vi của cha mẹ và cô giáo đặt ra v.v…
Nhóm bạn trong quá trình phát triển tâm lí cá nhân. Giao tiếp với bạn
bè, với người xung quanh vẫn là tác nhân quan trọng trong quá trình xã hội hoá
trẻ em. Bạn ngang hàng được hiểu là những người tại cùng thời điểm nhất định
có sự tương đồng cơ bản về cấu trúc nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử. Như
vậy, trẻ khác tuổi vẫn có thể được coi là bạn ngang hàng khi có sự điều chỉnh
nhận thức và hành vi cho phù hợp với bạn cùng chơi. Gia đình tạo cho trẻ sự an
toàn và các điều kiện để học hỏi, khám phá và tìm tòi thì bạn bè ngang hàng
giúp phát triển ở trẻ em các mô hình kĩ năng xã hội cơ bản, phát triển các ứng
xử của trẻ em với bạn và người xung quanh. Bạn bè ảnh hưởng đến sự lOMoAR cPSD| 58933639
phát triển tâm lý cá nhân ở các khía cạnh sau: (a) bạn bè là những mô hình xã
hội để trẻ em thực hiện hành vi của mình nghĩa là trẻ có thể bắt chước các hành
vi, khuôn mẫu của bạn bè, kể cả hành vi tốt hay không tốt; (b) bạn bè là những
tác nhân củng cố hành vi xã hội được lặp lại ở trẻ em nghĩa là những tác động
của bạn bè (hành vi yêu thương, hành vi bạo lực v.v…) sẽ được cá nhân tiếp
nhận, được củng cố và thể hiện ở những đối tượng khác (cũng thể hiện hành vi
yêu thương với người khác hay hành vi bạo lực với người khác); (c) bạn là
chuẩn mực để so sánh hành vi xã hội của trẻ. Học sinh có thể kém hơn thầy giáo
nhưng khó có thể chấp nhận kém bạn, “thua thầy một vạn không bằng kém bạn
một ly”. Đây có thể là động lực (tích cực hay tiêu cực) đối với sự phát triển tâm
lý trẻ; (d) bạn là tấm gương phản chiếu và điều chỉnh hành vi của trẻ em. Trong
quá trình tương tác với bạn, các hành vi của trẻ được bạn tiếp nhận và phản ứng
lại theo sự cảm nhận của bạn, nhờ quan sát các phản ứng đáp lại của bạn, trẻ
em nhận ra hiệu quả tác động của mình, từ đó điều chỉnh hành vi theo hướng
tăng cường hoặc làm mất nó.
Trong giao tiếp nhóm bạn, yếu tố văn hóa đóng vai trò vô cùng quan
trọng. Đây là yếu tố khó xác định nhưng nó lại là yếu tố điều chỉnh trực tiếp
đến hành vi của mỗi cá nhân trong nhóm. Vì vậy, để có sự tác động tích cực từ
nhóm bạn đến sự phát triển tâm lý cá nhân, nhà giáo dục cần quan tâm đến việc
xây dựng được các giá trị văn hóa tích cực trong mỗi nhóm người học.
Vai tr ò của nhà tr ường đối với sự ph át tr iển tâm lí cá nh ân . Nhà
trường giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển tâm lý cá nhân vì nó
tác động đến giai đoạn phát triển quan trọng nhất của đời sống tâm lý cá nhân
(20 năm đầu của cá nhân), giai đoạn hình thành những nét nhân cách đầu tiên
và quyết định sự phát triển tương lai của cá nhân. Vai trò và chức năng của nhà
trường đối với quá trình phát triển cá nhân được thể hiện ở các điểm sau: (a)
nhà trường là một thiết chế xã hội, có chức năng đặc thù là xã hội hóa cá nhân
vì vậy có nhiệm vụ xác định mục tiêu phát triển của cá nhân trong cả cuộc đời
cũng như trong từng giai đoạn; (b) nhà trường có khả năng tổ chức các hoạt
động của cá nhân để thực hiện có kết quả mục tiêu phát triển đó, thông qua nội
dung, phương thức giáo dục của nhà trường; (c) nhà trường có quyền pháp lý
và các điều kiện thực tế để tổ chức các lực lượng xã hội trở thành lực lượng
giáo dục và được giáo dục.
Sự tác động từ phía nhà trường được thể hiện cụ thể ở các nội dung: (a) dạy học lOMoAR cPSD| 58933639
bao giờ cũng đi trước sự phát triển của trẻ, kéo theo và định hướng cho sự phát
triển của trẻ (dạy học tác động vào vùng phát triển gần của L. S. Vygotsky); (b)
dạy học dựa trên cơ chế và quy luật hình thành phát triển trẻ em.
Để làm được điều này có hiệu quả, nhà trường cần phải tiến hành các nội
dung: (a) xây dựng nội dung và phương pháp dạy học khoa học; (b) xây dựng
một môi trường văn hóa trong trường học (văn hóa giao tiếp, ứng xử, đoàn kết,
yêu thương, cùng phấn đấu v.v…); (c) không ngừng nâng cao phẩm chất nhân
cách của người giáo viên.
Ảnh hưởng c ủa truyền hình, má y tính và cá c ph ương tiện truyền th
ông k hác đế n sự ph át triển cá nhân . Đây là một lực lượng tác động vô
cùng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân, nó tác động
hàng ngày, hàng giờ đến nhận thức, tình cảm và hành vi của con người. Điều
quan trọng của sự tác động này là sự đa dạng của các nguồn thông tin mà nhà
giáo dục không kiểm soát được (những thông tin tích cực và tiêu cực, thông tin
thuận chiều và trái chiều, thông tin đúng và thông tin sai lệch v.v…). Sự tác
động của các loại phương tiện thông tin đã thực sự trở thành một lực lượng xã
hội độc lập, can thiệp mạnh mẽ và sâu sắc tới quá trình xã hội hoá cá nhân và
sự phát triển của xã hội. Chúng đã và đang làm thay đổi căn bản cuộc sống của
cá nhân, gia đình và xã hội.
Sự tác động của nguồn thông tin này đến sự phát triển tâm lý của mỗi cá
nhân thể hiện ở các nội dung sau: (a) cá nhân có xu hướng càng ngày càng dành
nhiều thời gian sử dụng cho xem ti vi, máy tính, các phương tiện truyền thanh,
truyền hình; (b) mang đến nguồn tư liệu vô tận để cá nhân có thể khai thác thông
tin hữu ích; (c) cung cấp cho trẻ các khuôn mẫu xã hội đa dạng; (d) là một công
cụ giáo dục đắc lực; (e) ảnh hưởng tiêu cực của truyền hình, máy tính và các
phương tiện truyền thông hiện đại khác - xu hướng bạo lực và sự suy giảm tính
nhạy cảm đối với hành vi bạo lực ở trẻ em.
Tóm lại, giáo dục giữ vai trò chủ đạo, định hướng sự phát triển tâm lí trẻ
em. Giáo dục có thể tác động đến mọi yếu tố bên trong cũng như bên ngoài của
các điều kiện đối với sự phát triển tâm lí trẻ em. Tuy nhiên, giáo dục không phải
là vạn năng. Sự phát triển tâm lí trẻ em còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều
kiện sinh học, môi trường, và khả năng hoạt động của trẻ
b. Sự phát triển tâm lý phụ thuộc vào yếu tố di truyền và sự trưởng thành lOMoAR cPSD| 58933639
Yếu tố di truyền đã từng được coi là yếu tố quyết định sự hình thành và
phát triển tâm lý con người (thuyết tiền định). Theo từng giai đoạn trưởng thành,
các đặc điểm tâm lý được mã hóa vào trong gen và cứ như vậy bộc lộ và phát
triển, môi trường chỉ được coi như yếu tố có tính chất điều chỉnh. Điển hình cho
cách hiểu này là nhà tâm lý học người Mỹ E. Toocđai cho rằng tự nhiên ban
cho mỗi con người một vốn nhất định, giáo dục cần phải bộc lộ vốn đó là vốn
gì và sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất. Ở phương Đông từng có quan niệm:
Cha mẹ sinh con trời sinh tính, hay người quân tử vốn sẽ là người quân tử còn
kẻ tiểu nhân mãi mãi là tiểu nhân (Khổng Tử) v.v… Cách hiểu này đã tạo ra sự
phân hóa xã hội, tạo ra sự bất bỉnh đẳng, phân chia giai cấp trong xã hội.
Để xem xét yếu tố di truyền ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển
nhân cách con người như thế nào, chúng ta cùng đề cập đến các nội dung sau:
b.1. Bẩm sinh, di truyền là gì?
Di truyền được hiểu là sự truyền lại của thế hệ trước cho thế hệ sau những
đặc tính sinh học. Sự di truyền này được thực hiện theo cơ chế mã hóa và giải
mã các gen. Yếu tố di truyền được thể hiện ở: (a) kiểu di truyền là tập hợp các
đặc tính được di truyền, được kế thừa từ một cá thể ở thế hệ trước, là khả năng
tiềm tàng của cá thể như giới hạn về chiều cao, màu mắt, màu da v.v...; (b) kiểu
ngoại hình là tập hợp các đặc tính di truyền được mỗi người thực sự thể hiện ra
trong suốt cuộc đời. Kiểu ngoại hình là sự kết hợp giữa kiểu di truyền với những
trải nghiệm của chính cá nhân trong cuộc sống, làm biến đổi kiểu di truyền. Do
đó kiểu ngoại hình thường không trùng khớp với kiểu di truyền (hai đứa trẻ có
kiểu di truyền giống nhau về chiều cao và cân nặng, nhưng một trẻ được luyện
tập thể thao nhiều hơn sẽ có chiều cao cao hơn trẻ không được luyện tập. Ngược
lại, hai trẻ có nhiều điểm bề ngoài giống nhau (kiểu ngoại hình giống nhau),
nhưng thực ra chúng có hai kiểu di truyền khác nhau. Quá trình di truyền có thể
bị biến đổi (biến dạng), do sự tham gia của quá nhiều hoặc quá ít nhiễm sắc thể
(NST) và thường dẫn đến gen bị hỏng. Gen hỏng có thể gây ra các bệnh bẩm
sinh ở thế hệ sau như Hội chứng Down (bất thường NST thứ 21), gây chậm
phát triển trí tuệ và kém khả năng miễn dịch. Hội chứng Turner (chỉ có một
NST giới tính X). Người phụ nữ mắc chứng Turner sẽ bị lùn, chậm trí tuệ v.v...
Hiện nay, một số bệnh trong các bệnh do lỗi gen có thể chẩn đoán sớm và có thể khắc phục được. lOMoAR cPSD| 58933639
Bẩm sinh là những đặc tính của cá thể có ngay từ khi mới sinh và tồn tại tương đối