lOMoARcPSD| 58933639
TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC ĐẠI HỌC
lOMoARcPSD| 58933639
CHƯƠNG 1: TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC ĐẠI HỌC
Tâm lý học sư phạm một trong những ngành ứng dụng được phát triển sớm nhất
của khoa học tâm lý. Đối tượng của tâm lý học sư phạm là những quy luật tâm lý của việc
dạy học và giáo dục đối với trẻ từ mẫu giáo đến học sinh và sinh viên. Cụ thể tâm lý học sư
phạm tìm cơ chế tâm của qúa trình học sinh lĩnh hội nền văn hoá vật chất, tinh thần của
hội biến nó thành vốn riêng của mình; tìm mối quan hệ giữa tri thức tiếp thu được với
sự phát triển các chức năng tâm lý cấp cao của học sinh, sinh viên; tìm cơ chế lĩnh hội của
từng lứa tuổi khác nhau, tổ chức các hoạt động phù hợp với sự phát triển trí tuệ và sự phát
triển tâm lý. Việc nghiên cứu những vấn đề này thể hiện mối liên hchặt chẽ của ngành
tâm lý học lứa tuổi và ngành tâm lý học sư phạm.
Tâm lý học phạm xuất hiện từ bao giờ? Năm 1889, Đại hội đầu tiên của các nhà
tâm lý học trên thế giới đã họp ở Pari, một trong những hướng ứng dụng đầu tiên của khoa
học tâm việc vận dụng tri thức tâm học vào công tác giảng dạy giáo dục nhà
trường.
dụ như những kết quả thực nghiệm trong tâm học đại ơng vquy luật m
sinh của Weber, Faisner, quy luật nhớ của Ebingauz, nghiên cứu cảm giácvận động của
Weent... Nhưng việc ứng dụng trực tiếp từ kết quả nghiên cứucủa tâm lý học đại cương đã
rất hạn chế mâu thuẫn với kinh nghiệm của giáo viên. Ví dụ: Ebingauz nghiên cứu sự
ghi nhớ những từ nghĩa thì ít giúp ích cho giáo viên những người cần biết quy luật
nhớ những tài liệu có ý nghĩacủa học sinh. Nhà giáo dục nổi tiếng người Nga K.D.Usinxki
trong tác phẩm “con người là đối tượng của giáo dục” đã có cống hiến lớn cho sự phát triển
tưởng tâm phạm. Ông cho rằng muốn giáo dục con người thì trước hết phải hiểu
biết con người về tất cả mọi mặt, đã kêu gọi tất cả các nhà giáo dục: Các bạn hãy nghiên
cứu những quy luật của các hiện tượng tâm lý mà các bạn muốn điều khiển và các bạn hãy
hành động căn cứ trên những quy luật này những hoàn cảnh các bạn muốn vận dụng
chúng vào đó”; Nhà tâm học người Mỹ W. James, trong tác phẩm Nói chuyện với các
giáo viên về tâm học” đã cho rằng: khi biết được những quy luật m sinh lý hay những
hình thức và tốc độ phản ứng vận động thì người giáo viên sẽ hiểu được đời sống tinh thần
của trẻ và những quy luật lĩnh hội tài liệu học tập.
lOMoARcPSD| 58933639
Do đó, những hiện tượng tâm trẻ em thanh niên diễn ra trong quá trình giảng
dạy giáo dục nhà trường cần phải được nghiên cứu riêng trthành đối tượng của
ngành tâm lý học sư phạm.
Trong hội nghtâm học phạm đầu tiên nước Nga được tổ chức vào đầu thế
kỷ XX, các nhà tâm học đã khẳng định rằng chỉ thể gắn tâm học với thực tiễn
phạm bằng cách nghiên cứu thực nghiệm trong chính quá trình dạy học giáo dục. Do
vậy, cần giải quyết đúng đắn vấn đề luận phương pháp luận của tâm học phạm
tâm học lứa tuổi trước hết nhuồn gốc phát triển tâm quan hệ với luận
dạy học. Việc xác định các nguyên tắc, các con đường, các biện pháp dạy học giáo dục
phụ thuộc vào quan niệm về nguồn gốc phát triển tâm lý trẻ.
Các nhà tâm lý học Mácxít cho rằng yếu tố bẩm sinh di truyền tiền đề của sự phát
triển tâm lý, giáo dục có vai trò chủ đạo và hoạt động cá nhân có tính chất quyết định trực
tiếp đến sự phát triển của mỗi cá nhân. Trong những điều kiện giáo dục thuận lợi như nhau
thì trẻ nàođược những ưu thế về bẩm sinh di truyền thì sẽ phát triển tốt hơn. Ngược lại
những trẻ yếu tố bẩm sinh di truyền tương đối ngang bằng nhau thì trẻ nào được sống
trong điều kiện giáo dục thuận lợi hơn sẽ phát triển tốt hơn. Sức mạnh của giáo dục khả
năng tăng tốc sự phát triển theo định hướng xã hội đúng đắn, là phát hiện tiềm năng tâm lý
làm cho mỗi nhân diều kiện bộc lộ tự do phát triển tối ưu năng lực nhân cách
của mình.
Từ những kiến giải trên, ta thấy rằng những lĩnh vực của tâm học phạm bao
trùm hai khoa học: Tâm lý học và Giáo dục học.
Những mục đích của Tâm lý học sư phạm: Tâm lý học sư phạm quan tâm trước hết
đến việc ứng dụng các tri thức khoa học về tư duy của con người và nhân cách của họ vào
quá trình sư phạm, bao gồm những vấn đề như: động cơ, định hướng, kiểm tra, đánh giá...
Tâm lý học sư phạm cũng có mục đích tìm hiểu về người học và quá trình hướng dẫn, đào
tạo họ, nhờ quá trình đó mà người học được định hướng phát triển và trưởng thành. Vì vậy,
Tâm lý học sư phạm có nhiệm vụ chọn lọc, tổ chức, giải thích, kết hợp các sự kiện, tài liệu,
kỹ thuật, nguyên tắc từ lâu đài đồ sộ của tâm lý học để ứng dụng thực tiễn vào
quá trình giáo dục. Như vậy, Tâm học phạm mục đích cung cấp cho giáo viên
những hiểu biết tâm lý học đúng đắn, khoa học về trẻ em và thanh thiếu niên; một cái nhìn
lOMoARcPSD| 58933639
sâu sắc về bản chất của sự học; một nhận thức đúng đắn về ý nghĩa của sự khác biệt cá thể,
tri thức về sự trưởng thành và phát triển của trẻ em, hiểu biết về những vấn đề hành vi của
trẻ em, thanh thiếu niên và khả năng ứng xử với chúng. Nhờ đó, người làm công tác giảng
dạy, giáo dục nắm được những nguyên lý cơ bản để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong
quá trình sư phạm và học có thể đánh giá các biện pháp được sử dụng nhằm đạt được mục
tiêu đào tạo.
1.1. Sự ra đời của Tâm lý học dạy học đại học
1.1.1. Nguyên nhân khách quan
a. Sự phát triển của đào tạo đại học trên thế giới và ở Việt Nam
Hệ thống giáo dục đại học của các nước trên thế giới có một lịch sử phát triển khá lâu
đời không ngừng phát triển. Số trường đại học cao đẳng của Nhật Bản (tính đến 1994)
1.208 với tổng số sinh viên 3.266.275. Nước Mỹ trên 3.000 trường đại học; Hàn
Quốc 314 trường đại học cao đẳng, với 2.196.940 sinh viên 54.135 giáo chức. Thái
Lan 53 trường đại học với 872.630 sinh viên có 23.121 giáo chức (năm 1995). Các
nước thuộc Liên Xô trước đây có khoảng 870 trường đại học, với 5,2 triệu sinh viên và có
trên 70.000 phó tién sĩ và 19.000 tiến sĩ khoa học tham gia công tác đào tạo đại học và trên
đại học (số liệu của những năm 80); Các nước á Phi, Mỹ La Tinh, Brazin có 6.260.000 sinh
viên (những năm 80 ).
Giáo dục đại học Việt Nam một lịch sử phát triển lâu đời. Quốc Tử Giám” được mở
năm 1076 tại Hà Nội có thể được xem là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Đầu thế kỷ
XX, kiểu đại học phương Tây du nhập vào ớc ta. Năm 1902, Đại học Y-Dược được thành
lập. Một số trường cao đẳng và đại học khác được thành lập từ năm 1906 đến 1939 được
tập hợp lại thành Đại học Đông Dương đặt tại Nội, chung cho cả Việt Nam, Lào,
Campuchia. Số lượng sinh viên của trường này đạt quy cao nhất là 1.200 vào năm 1942.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954) hình thành ba trung tâm đại học
mới tại Việt Bắc, Liên khu IV Nam Ninh (Trung Quốc). Đấy sở đại học đầu tiên
của ớc Việt Nam độc lập, dạy hoàn toàn bằng tiếng Việt. Sau giải phóng (1954), các
trường đại học di chuyển về Nội. Năm 1956 Nội các trường Tổng hợp,
phạm, Bách khoa, Y-Dược, Nông nghiệp, Kinh tế- tài chính nghệ thuật. Cho đến năm
lOMoARcPSD| 58933639
1975 ở miền Bắc đã có 30 trường đại học với 8.400 giảng viên 56.000 sinh viên. Cũng
trong thời gian đó, miền Nam 4 viện đại học công lập, 3 đại học cộng đồng 11 đại
học tư, có tổng số sinh viên 166.000. Sau ngày Việt Nam thống nhất (1975), c trường
đại học, cao đẳng (hiện nay, do sát nhập một số trường để thành lập các đại học quốc gia
nên số trường đại học chỉ còn 199, trong đó có 91 trường công lập và 18 trường dân lập và
một số cao đẳng cộng đồng) với khoảng 36.500 giảng viên, trong đó 31% nữ, 14%
học vị Phó tiến sĩ, Tiến sĩ và gần 930.000 sinh viên, trong đó có khoảng 589.000 sinh viên
chính quy.
Như vậy, số trường đại học trong ớc trên thế giới tăng rất nhanh, số lượng sinh
viên tới hàng chục triệu số lượng cán bộ khoa học giảng dạy đại học ng không
ngừng tăng lên và đặc biệt chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy thay đổi theo chiều hướng
tăng nhanh các cán bộ có trình độ học vị, học hàm cao, có năng lực đào tạo đại học và trên
đại học. Thực tiễn đó đã lôi cuốn sự chú ý đặc biệt của các nhà tâm lý học, giáo dục học và
các nhà phương pháp vào việc nghiên cứu các sở khoa học cho công tác giảng dạy
giáo dục đại học nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo các chuyên gia trình độ chuyên môn
cao .
b. Nhu cầu xã hội đối với chuyên gia
Do sự thúc đẩy phát triển hội đặc biệt ảnh hưởng của cách mạng khoa học kỹ
thuật, nhu cầu của xã hội đối với chuyên gia đã nhiều thay đổi. Trong hội cũ, tính chất
bảo thủ và lạc hậu của nhà trường đại học so với xã hội đã luôn luôn tồn tại. Việc giảng dạy
của nhà trường đại họchướng vào quá khứ. Tức là, xã hội yêu cầu người chuyên gia
tích luỹ càng nhiều tri thức càng tốt bằng tri thức của mình , quan niệm ai nhớ giỏi
người uyên bác, nhà bác học. Nội dung tri thức, cách sắp xếp , tổ chức chuyền đạt
thông tin do thầy giáo quy định. Phương pháp giảng dạy là thầy giải thích tài liệu, củng cố
tài liệu, rồi kiểm tra, còn sinh viên tiếp nhận tài liệu, ghi nhớ chúng.
Xã hội ngày nay có nhu cầu khác hẳn đối với các chuyên gia, nền sản xuất hiện đại đòi
hỏi chuyên gia trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng phải có kỹ năng tư duy sáng tạo, biết đặt ra
những nhiệm vụ mới một cách độc lập, có nguyên tắc, năng động, có khả năng thích ứng
với những điều kiên biến đổi không ngừng. Do sự bùng nổ về thông tin, khoảng cách vốn
có giữa giảng đường đại học với xã hội càng bị đẩy xa hơn. Người sinh viên không thể chỉ
lOMoARcPSD| 58933639
chông đợi vào những tri thức mà nhà trường cung cấp cho họ và càng không thể hy vọng
vào vốn tri thức ấy như một thứ “cẩm nang” có thể dùng nó trong suốt cuộc đời nghề
nghiệp của mình. Bởi vì, chỉ sau một thời gian ngắn, một bộ phận các tri thức lĩnh hội
được trong nhà trường sẽ trở nên bất cập, và hiển nhiên là sau khi họ tốt nghiệp đại học,
bao nhiêu phát minh mới sẽ ra đời và đòi hỏi họ phải tham gia phát triển chúng một cách
hiệu quả. Có thể ví von không quá đáng rằng “người mù chữ ngày mai sẽ là người không
biết học việc học tập”. Điều này cũng có nghĩa “học như thế nào” trở thành một tiêu chí
đánh giá người học.
c. Nhu cầu tự hoàn thiện của sinh viên và người tốt nghiệp đại học
Với những do trên, ngày nay quá trình đào tạo đại học ngày càng trở lên phức tạp
về nội dung, phương pháp cũng như phương tiện được sử dụng trong quá trình đó. Để đáp
ứng nhu cầu mới của quá trình đào tạo đại học, sinh viên phải tự hoàn thiện nhân cách của
mình, đặc biệt những phẩm chất năng lực “tự đào tạo” theo hướng “nghiên cứu phát
triển” để trở thành chuyên gia giỏi trong xã hội hiện đại. Người tốt nghiệp đại học cũng có
nhu cầu tự hoàn thiện như phần trên đã trình bày, nhưng giảng đường đại học phải từng
bước chuẩn bị kỹ năng này cho họ. Chính tính phức tạp và những đặc điểm mới trong tâm
lý sinh viên hiện đại sẽ trở thành một xu thế mới, một đối tượng hấp dẫn của khoa học Tâm
lý sư phạm đại học.
1.1.2. Nguyên nhân chủ quan
a. Tâm lý học là khoa học cơ bản có tính ứng dụng cao
Việc ra đời ngành Tâm học phạm nói chung, Tâm học phạm đại học nói riêng
còn do chính nguyên nhân chủ quan rất đặc trưng của Tâm lý học: một khoa học luôn luôn
hướng vào thực tiễn. Tâm học hiện đại ngày nay trên năm ơi ngành Tâm học
ứng dụng, điều đó cho thấy rõ ý nghĩa của Tâm lý học trong việc giải quyết các vấn đề của
thực tiễn xã hội .
b. Sự vận động của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm dẫn
đến sự ra đời một chuyên ngành mới: Tâm lý học sư phạm đại học.
Tâm học lứa tuổi và Tâm học phạm một thời gian dài đã chgiới hạn phạm vi
nghiên cứu của mình vào các vấn đề tâm học sinh, mãi đến những năm 60 của thế kỷ
lOMoARcPSD| 58933639
XX, hai ngành tâm lý học này đã ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề giảng dạy
và giáo dục người lớn mà trước hết là sinh viên.
Từ các điều kiện nói trên, đã nảy sinh ngành Tâm học phạm đại học, như một
nhánh của Tâm học phạm trong điều kiện đặc trưng của trường đại học. Trường đại
học làm thế nào để khai thác hết khả năng tiềm tàng sinh viên, làm tối ưu hoá các hoạt
động của cá nhân và tập thể, để khi ra trường họ trở thành những chuyên gia biết làm việc.
Vai trò vị trí của Tâm học phạm đại học trong hệ thống chung của Tâm học
không chỉ xuất phát từ quan điểm sử dụng các tri thức tâm trong thực tiễn còn
một khâu củng cố những nhiệm vụ nhận thức của Tâm lý học như nghiên cứu và giải thích
các hiện tượng tâm lý với vấn đề điều khiển và tự điều khiển hoạt động của cá nhân và tập
thể. Về điều này, Viện sĩ B.Ph.Lomốp đã viết: Tham gia tích cực vào giải quyết các nhiệm
vụ nảy sinh trong thực tiễn hội những điều kiện cần thiết để phát triển tiếp theo của
bản thân Tâm học nmột khoa học. Chbằng cách liên hệ chặt chẽ với thực tiễn mới
có khả năng mở ra triển vọng thực tế của khoa học tâm lý, hoàn thiện những phương pháp
của phát triển luận”. Sự ra đời muộn mằn của Tâm học phạm đại học cho
phép nó thừa hưởng thành tựu phong phú của các ngành Tâm lý ra đời trước nó, đặc biệt là
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm.
1.2. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp của Tâm lý học dạy học đại học
1.2.1. Đối tượng của Tâm lý học dạy học đại học:
- Những quy luật tâm lý của việc dạy học và giáo dục ở đại học
- Vai trò, vị trí của các biểu hiện, sự phát triển quy luật vận hành của các hiện tượng
tâm lý nhân hội diễn ra trong hoạt động của sinh viên hoạt động của giảng
viên
- Các biện pháp tâm tác động đến sinh viên giảng viên nhằm giải quyết những nhiệm
vụ của giáo dục đại học đạt kết quả cao.
1.2.2. Nhiệm vụ của Tâm lý học dạy học đại học:
- Phân tích về phương diện tâm lý các hoạt động của sinh viên, giảng viên, trên cơ sở đó
vạch ra những sở tâm cho việc nâng cao hiệu quả đào tạo đại học. Điều khiển về
mặt tâm lý học quá trình giảng dạy, hình thành nhận thức từ tri giác đến tư duy độc lập
lOMoARcPSD| 58933639
sáng tạo cho sinh viên, vạch ra các chuẩn phát triển trí tuệ dự đoán sự phát triển đó
trong quy trình đào tạo.
- Nghiên cứu tâm tập thể sinh viên ảnh hưởng của đến hoạt động học tập, hoạt
động xã hội, hoạt động nghiên cứu khoa học của họ.
- Vạch ra các quy luật nh thành nhân cách sinh viên những phẩm chất nghề nghiệp
quan trọng của người chuyên gia tương lai.
- Nghiên cứu nhân cách hoạt động của người cán bộ giảng dạy; những sở tâm
của nghiệp vụ sư phạm và sự sáng tạo sư phạm của họ.
- Phân tích mối quan hệ- giao tiếp giữa giảng viên và sinh viên.
- Phân tích quá trình thích ng đối với việc học tập đại học của học sinh mới vào đại
học và với điều kiện hoạt động nghề nghiệp của sinh viên mới ra trường.
- Luận chứng về mặt tâm lý học cho quan điểm hệ thống đối với việc đào tạo chuyên gia
của các trường đại học.
(Dựa trên quan điểm của Diachencô và Kandưbivich “Tâm lý học đại học” Minscơ 1981 tr.
16. Tiếng Nga)
1.3. Bản chất và quy luật của sự phát triển tâm lý người
1.3.1. Bản chất của sự phát triển tâm lý người
Để tìm hiểu được sự hình thành phát triển của trẻ diễn ra theo chế nào, trước
tiên chúng ta cần hiểu khái niệm Tởng thành và Phát triển là gì.
Trưởng thành là sự hiện thực hoá các yếu tố của cơ thể, được mã hoá trong các gen,
dưới tác động của các yếu tố ngoại cảnh. Sự trưởng thành của thể dường như được lập
trình sẵn ít phụ thuộc vào sự học của thể (sự trưởng thành của hệ thần kinh, của các
giác quan, khả năng vận động của cơ thể của trẻ v.v…).
Phát triển là sự thay đổi có tính hệ thống của cá nhân do sự học mang lại. Đó là sự
hình thành cái mới của cá nhân, trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể (ví dụ, lúc đầu trẻ khóc
do bị đói và phải thỏa mãn nhu cầu cá nhân, sau này trẻ khóc thể hiện cảm xúc buồn, vui
hay thái độ của mình với người khác – những biểu hiện này là sự hình thành những cấu
trúc tâm lý mới về mặt xã hội – tình cảm trong đời sống tinh thần của trẻ). Nói cách khác,
phát triển là sự thay đổi các hành động bên ngoài dẫn đến sự thay đổi các cấu trúc bên
trong, tạo ra cấu trúc mới trên cơ sở tiềm năng đã có của bản thân và những điều kiện của
lOMoARcPSD| 58933639
môi trường xã hội, tạo ra bản sắc riêng của mỗi cá nhân. Mục đích của sự phát triển giúp
cho việc đảm bảo sự thích ứng của cơ thể với môi trường đồng thời là quá trình lĩnh hội và
sáng tạo của con người.
Sự phát triển m của con người do chính hoạt động giao tiếp của họ trong cuộc
sống hàng ngày tạo ra. Ngoài việc tạo ra cái riêng của mỗi con người cũng có những cơ chế
hình thành phát triển tâm lý chung của nhiều người, và tâm lý chung này đều có nguồn gốc
từ bên ngoài, từ nền văn hóa xã hội và quan hệ xã hội. Cơ chế hình thành phát triển tâm lý
trẻ được xem như cơ chế hình thành các cấu trúc tâm lý (hiểu theo J. Piaget), hay là cơ chế
hình thành các chức năng tâm cấp cao (hiểu theo L. S. Vygotsky). Tuy vậy, chế hình
thành các cấu trúc tâm lý có những đặc điểm sau:
- Sự phát triển tâm lý của trẻ quá trình lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - hội,
biến những kinh nghiệm đó thành kinh nghiệm của nhân. Để con người tồn tại
phát triển phải cần đến hai loại kinh nghiệm. Kinh nghiệm loài đã được hóa trong
gen, kinh nghiệm xã hội do con người có được qua quá trình học tập, lĩnh hội thông qua
hoạt động giao tiếp. Đặc điểm này đều được các thuyết đề cập đến (các kích thích ‘S’
trong thuyết hành vi; kích thích tâm trí trong học thuyết của J.Piaget; các quan hệ xã hội
trong thuyết phân tâm; các công cụ hiệu trong thuyết lịch sử văn hóa của L. S.
Vygotsky v.v…). Như vậy, tâm trẻ em nguồn gốc từ bên ngoài được chuyển
vào bên trong trẻ.
- Quá trình lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội – lịch sử của trẻ em được thực hiện thông
qua sự tương tác giữa trẻ với thế giới bên ngoài, trước hết tương tác hội. Trẻ
tương tác với thế giới đồ vật để hình thành những kinh nghiệm về thuộc tính vật của
sự vật và phương pháp sáng tạo ra sự vật đó. Tuy vậy, ngay cả khi tương tác với đồ vật
cũng sự hiện diện của người lớn (trẻ học cách sử dụng đồ vật - các công cụ hiệu
con người sáng tạo ra được hóa trong đồ vật). vậy, góc độ này hay góc
độ khác, tương tác là sự tất yếu trong sự phát triển tâm lý của trẻ. Quá trình hình thành
và phát triển các cấu trúc tâm lí trẻ em thực chất là quá trình
chuyển những kinh nghiệm xã hội - lịch sử từ bên ngoài vào bên trong của trẻ theochế
nhập tâm. hai cách giải cơ chế chuyển vào trongcác nhà tâmhọc nhận thức và
các nhà tâm học hoạt động. J. Piaget cho rằng quá trình chuyển a này quá trình
lOMoARcPSD| 58933639
thể thích nghi. Chủ thể thực hiện quá trình đồng hóa điều ứng các kích thích bên ngoài
để làm tăng trưởng các cấu trúc đã có (đồng hóa) hoặc hình thành cấu trúc mới (điều ứng)
nhằm giúp cho thể cân bằng, thích ng với môi trường. Các nhà tâm học hoạt động
(L. S. Vygotsky, A.N. Leochev, P.Ia. Galperin v.v…) cho rằng chế chuyển vào trong
ba điểm cơ bản: (a) cơ chế chuyển bắt nguồn từ vật thật qua các bước: Hành động vật thật
hành động với lời nói to hành động với lời nói thầm không thành tiếng hành động với
lời nói thầm bên trong. Trong đó, hành động với vật thật, hành động thực tiễn, là nguồn gốc
của mọi sự phát triển tâm lí; (b) trong quá trình chuyển hóa các hành động từ bên ngoài vào
bên trong theo các bước, thường xuyên diễn ra hai hành động: hành động với đối ợng
(hành động của chủ thể theo lôgic của đối tượng) hành động chủ ý của chủ thể đến đối
tượng đến hành động với đối tượng. Hai hành động này mức độ sau sẽ kết hợp với
nhau tạo thành một cấu trúc tâm gồm nghĩa khách quan của đối tượng ý nghĩa chủ
quan của chủ thể về đối tượng đó; (c) quá trình chuyển hành động từ bên ngoài vào bên
trong của cá nhân được định hướng theo nhiều cách, cách định hướng khái quát có hiệu quả
hơn thể hiện qua việc định hướng về phương pháp học, phương pháp làm việc v.v…
1.3.2. Các quy luật của sự phát triển tâm lý người
Sự hình thành phát triển tâm người chịu sự chi phối của nhiều yếu tố nhiều
góc độ khác nhau. Tuy nhiên, mỗi yếu tố đều giá trị, tác động mặt này hay mặt khác
đồng thời các yếu tố đều thống nhất với nhau để tác động một cách phù hợp đến sự hình
thành và phát triển nhân cách con người.
a. Sự phát triển tâm lý phụ thuộc vào yếu tố môi trường (tự nhiên, xã hội)
Mỗi nhân muốn tồn tại phát triển bao giờ cũng cần có một môi trường hiện
thực với nhiều lực tác động trực tiếp và gián tiếp, chi phối và quy định sự phát triển tâm lý
nhân. Cmôi trường tự nhiên môi trường hội đều tác động đến sự phát triển tâm
lý của trẻ nhưng môi trường văn hóa xã hội chủ yếu (ngay cả môi trường tự nhiên ng
mang tính văn hóa – xã hội).
Môi trường sống của hội loài người là nguồn gốc làm nảy sinh tâm lý người. Sự
phát triển quá trình trẻ em lĩnh hội kinh nghiệm loài người trong nền văn hoá - hội
lịch sử. Các nhà tâm lí học macxit khẳng định rằng, sự phát triển tâm lí không diễn ra theo
quy luật di truyền sinh học diễn ra theo quy luật di truyền hội. Nghĩa là, trong quá
lOMoARcPSD| 58933639
trình hoạt động giao lưu, nhân tiếp thu kinh nghiệm hội lịch sử, biến nó thành
kinh nghiệm của bản thân, nhờ đó mà đời sống tâm lí của cá nhân ấy được phát triển. Như
vậy nền văn hoá xã hội lịch sử là nguồn gốc và nội dung của sự phát triển tâm lí.
Trình độ phát triển hội khác nhau góp phần tạo nên sự khác nhau trong sự phát
triển tâm lý. Nếu đứa trẻ được sống trong một nền văn hoá lành mạnh thì sự phát triển tâm
lí, nhân cách sẽ diễn ra thuận lợi ngược lại. Tuy nhiên, để phát triển tâm đứa trẻ phải
hoạt động, giao lưu để tiếp thu, lĩnh hội kinh nghiệm của nền văn hoá xã hội lịch sử.
Trong môi trường hội, giáo dục giữ vai trò trọng yếu, chủ đạo đối với sự phát
triển tâm lý. Giáo dục là sự tác động tới con người của toàn bộ xã hội và của thực tiễn xung
quanh. Đó quá trình mà thế hệ trước truyền lại kinh nghiệm hội - lịch sử cho các thế
hệ mới nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống lao động để đảm bảo sự phát triển
hơn nữa của xã hội và cá nhân.
Bàn về vai trò của giáo dục đối với sự phát triển tâm trẻ em, c nhà tâm học,
giáo dục học macxít khẳng định rằng, giáo dục giữ vai trò chủ đạo, định hướng sự phát
triển tâm lí trẻ em. Song để giáo dục mang lại hiệu quả, theo L. S. Vygotsky, giáo dục phải
hướng vào vùng phát triển gần nhất của trẻ, giáo dục phải đi trước sphát triển, kéo theo
sự phát triển, chứ không chạy theo sự phát triển. Chất lượng giáo dục tạo ra chất lượng của
sự phát triển tâm lý. Các mức độ giáo dục khác nhau tạo nên sự hình thành phát triển nhân
cách khác nhau.
Đối với trẻ thơ, giai đoạn đầu tiên của cuộc đời (từ 0 - 6 tuổi), giáo dục giữ vai trò
cùng quan trọng trong sự phát triển các chức năng m lí, hình thành những sở ban
đầu của nhân cách con người, chuẩn bị cho những giai đoạn phát triển sau được thuận lợi.
Trẻ em không một mình đối diện với thế giới xung quanh nó. Những mối quan hệ của
với thế giới xung quanh bao giờ cũng thông qua người lớn. Người lớn là trung tâm của mọi
tình huống đứa trẻ ở trong đó. Các nhà tâm học macxít khẳng định rằng, người lớn -
nhà giáo dục là cầu nối giữa trẻ em và thế giới xung quanh. Chỉ có thông qua người lớn và
nhờ có người lớn trẻ mới lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội - lịch sử chứa đựng trong đồ
dùng, đồ chơi, trong giao tiếp ứng xử. Mối quan hệ giữa trẻ em với người lớn nhà giáo dục
ngày càng sâu sắc trnên tinh tế hơn, đa dạng hơn trong tiến trình phát triển m trẻ
em.
lOMoARcPSD| 58933639
Yếu tố môi trường cũng đã từng được coi như là yếu tố duy nhất, quyết định sự phát
triển tâm lý của trẻ và chỉ cần nghiên cứu môi trường con người sinh sống có thể biết được
nhân cách con người đó. Đây một cách hiểu siêu hình về môi trường, cho rằng môi trường
bất biến, quyết định trước tâm của con người, con người thụ động trước môi trường.
Quan niệm này coi trẻ em như “tấm bảng sạch” hay “tờ giấy trắng” và người lớn muốn viết
gì lên đó thì viết. Sự phát triển tâm của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào tác động bên ngoài.
Quan niệm như vậy sẽ không giải thích được vì sao trong môi trường như nhau lại những
nhân cách rất khác nhau.
Để xem xét yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
con người như thế nào, chúng ta cùng đề cập đến các nội dung sau:
a.1. Tác động của môi trường tự nhiên đến quá trình phát triển tâm lý người
Môi trường tự nhiên bao gồm toàn bộ những không phải con người do con
người tạo ra cũng như cộng đồng hội người nhưng liên quan đến con người như
một chủ thvà tác động đến cuộc sống, đến tâm - sinh lý của con người như đất đai, sông
núi, nắng mưa, hạn hán lũ lụt, bão từ, hiệu ứng nhà kính v.v… Môi trường tự nhiên tác động
đến con người ở các mặt sau:
- Môi trường tự nhiên điều kiện khách quan, tác động tới việc tổ chức sản xuất và
tổ chức đời sống cộng đồng, tạo ra bản sắc văn hoá của mỗi cộng đồng (bên cạnh
dòng sông Hồng tạo nên văn hóa nông nghiệp).
- Môi trường tự nhiên trực tiếp tác động đến các hành động nhận thức sinh hoạt
của các nhân sống trong nó. Người sống ở vùng biển, đồng bằng hay miền núi
những đặc điểm tâm lý khác biệt nhau v.v…
a.2. Tác động của môi trường xã hội đến quá trình phát triển tâm lý người
Môi trường hội một hệ thống các quan hệ hiện hữu giữa con người với con
người và giữa con người với thế giới đồ vật do con người chế tạo ra. Môi trường xã hội bao
hàm hai yếu tố: (a) các quan hệ hội hiện thực, hiện hữu, công khai (ví dụ, cách ứng xử
của vợ chồng); (b) yếu tố văn hóa ngầm ẩn (quan niệm về vợ chồng). Từ khi sinh ra đến
khi từ giã cõi đời, mỗi cá nhân luôn luôn tồn tại và phát triển trong một môi trường văn hóa
nhất định. Nvậy, môi trường văn hóa hội tác động trực tiếp đến quan hệ nhân
lOMoARcPSD| 58933639
tham gia vào các “khuôn mẫu văn hóa” tác động đến quan hệ đó tác động trực tiếp
đến đời sống tâm lý cá nhân (tương tác văn hóa).
Môi trường hội một tổng thể rộng lớn tác động trực tiếp đến sự hình thành
và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Tác động của môi trường xã hội có thể được xem
xét ở các khía cạnh sau đây:
Gia đình sự phát triển tâm lý của trẻ : Đây môi trường đầu tiên tác động
trực tiếp, mạnh mẽ đến sự hình thành phát triển tâm trẻ. Những đặc điểm của môi
trường gia đình tác động đến trẻ như: (a) truyền thống văn hóa của gia đình, đây được xem
yếu tố cốt lõi, quan trọng đối với sự tồn tại của mỗi gia đình; (b) cách ứng xử của các
thành viên trong gia đình với nhau (phong cách giao tiếp trong gia đình); (c) quan điểm
lối sống của mỗi thành viên trong gia đình; (d) số lượng và thế hệ ca các thành viên trong
gia đình; (e) tình yêu thương, tình cảm của gia đình v.v… Đứa trẻ sbị tác động tâm
ngay từ khi người mẹ mang thai, được quyết định bởi trạng thái, tâm của người mẹ do
cách tác động từ gia đình. Ví dụ, gia đình có kiểu quan hệ nồng ấm - chấp nhận và yêu cầu
cao đối với con thường phát triển các con xúc cảm nh cảm tích cực đối với cha, mẹ
người thân; phát triển chúng khả năng trí tuệ, sự ham hiểu biết năng lực học tập,
thái độ và hành vi vị tha, nhu cầu cao và khả năng thiết lập các quan hệ rộng rãi với người
khác; phát triển khả ng tự đánh giá bản thân mình; dễ dàng chấp nhận tuân theo những
quy tắc hành vi của cha mẹ và cô giáo đặt ra v.v…
Nhóm bạn trong quá trình phát triển tâm lí cá nhân. Giao tiếp với bạn bè, với người
xung quanh vẫn tác nhân quan trọng trong quá trình hội hoá trẻ em. Bạn ngang hàng
được hiểu những người tại cùng thời điểm nhất định có sự tương đồng bản về cấu trúc
nhận thức, thái đ hành vi ứng xử. Như vậy, trẻ khác tuổi vẫn thể được coi bạn
ngang hàng khi có sự điều chỉnh nhận thức và hành vi cho phù hợp với bạn cùng chơi. Gia
đình tạo cho trẻ sự an toàn các điều kiện để học hỏi, khám ptìm tòi thì bạn ngang
hàng giúp phát triển ở trẻ em các mô hình kĩ năng xã hội cơ bản, phát triển các ứng xử của
trẻ em với bạn và người xung quanh. Bạn bè ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý cá nhân ở
các khía cạnh sau: (a) bạn bè là những hình hội để trẻ em thực hiện hành vi của mình
nghĩa trẻ thể bắt chước các hành vi, khuôn mẫu của bạn bè, kcả hành vi tốt hay
không tốt; (b) bạn bè là những tác nhân củng cố hành vi xã hội được lặp lại ở trẻ em nghĩa
lOMoARcPSD| 58933639
là những tác động của bạn bè (hành vi yêu thương, hành vi bạo lực v.v…) sẽ được cá nhân
tiếp nhận, được củng cố thể hiện những đối tượng khác (cũng thể hiện hành vi yêu
thương với người khác hay hành vi bạo lực với người khác); (c) bạn chuẩn mực để so
sánh hành vi hội của trẻ. Học sinh có thể kém hơn thầy giáo nhưng khó có thể chấp nhận
kém bạn, “thua thầy một vạn không bằng kém bạn một ly”. Đây có thể động lực (tích cực
hay tiêu cực) đối với sự phát triển tâm lý trẻ; (d) bạn là tấm gương phản chiếu và điều chỉnh
hành vi của trẻ em. Trong quá trình tương c với bạn, các hành vi của trẻ được bạn tiếp
nhận và phản ứng lại theo sự cảm nhận của bạn, nhờ quan sát các phản ứng đáp lại của bạn,
trẻ em nhận ra hiệu quả tác động của mình, từ đó điều chỉnh hành vi theo hướng tăng cường
hoặc làm mất nó.
Trong giao tiếp nhóm bạn, yếu tố văn hóa đóng vai trò cùng quan trọng. Đây
yếu tố khó xác định nhưng nó lại là yếu tđiều chỉnh trực tiếp đến hành vi của mỗi cá nhân
trong nhóm. vậy, để sự tác động tích cực từ nhóm bạn đến sự phát triển tâm
nhân, nhà giáo dục cần quan tâm đến việc xây dựng được các giá trị văn hóa tích cực trong
mỗi nhóm người học.
Vai trò của nhà trường đối với sự phát triển tâm nhân . Nhà trường giữ
vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển tâm cá nhân vì nó tác động đến giai đoạn
phát triển quan trọng nhất của đời sống tâm lý nhân (20 năm đầu của cá nhân), giai đoạn
hình thành những nét nhân cách đầu tiên và quyết định sự phát triển tương lai của cá nhân.
Vai trò chức năng của nhà trường đối với quá trình phát triển nhân được thhiện
các điểm sau: (a) nhà trường là một thiết chế xã hội, có chức năng đặc thù là xã hội hóa
nhân vậy nhiệm vụ xác định mục tiêu phát triển của nhân trong cả cuộc đời cũng
như trong từng giai đoạn; (b) nhà trường có khả năng tổ chức các hoạt động của cá nhân để
thực hiện có kết quả mục tiêu phát triển đó, thông qua nội dung, phương thức giáo dục của
nhà trường; (c) nhà trường quyền pháp các điều kiện thực tế để tổ chức các lực
lượng xã hội trở thành lực lượng giáo dục và được giáo dục.
Sự tác động từ phía nhà trường được thể hiện cụ thể ở các nội dung: (a) dạy học
bao giờ cũng đi trước sự phát triển của trẻ, kéo theo và định hướng cho sự phát triển của trẻ
(dạy học tác động vào vùng phát triển gần của L. S. Vygotsky); (b) dạy học dựa trên chế
và quy luật hình thành phát triển trẻ em.
lOMoARcPSD| 58933639
Để làm được điều này hiệu quả, nhà trường cần phải tiến hành c nội dung: (a)
xây dựng nội dung phương pháp dạy học khoa học; (b) xây dựng một môi trường văn
hóa trong trường học (văn hóa giao tiếp, ứng xử, đoàn kết, yêu thương, cùng phấn đấu
v.v…); (c) không ngừng nâng cao phẩm chất nhân cách của người giáo viên.
Ảnh hưởng của truyền hình, máy tính các phương tiện truyền thông khác
đến sự phát triển cá nhân . Đây một lực ợng tác động cùng quan trọng đối với
sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân, nó tác động hàng ngày, hàng giờ đến nhận thức,
tình cảm và hành vi của con người. Điều quan trọng của sự tác động này là sự đa dạng của
các nguồn thông tin mà nhà giáo dục không kiểm soát được (những thông tin tích cực
tiêu cực, thông tin thuận chiều và trái chiều, thông tin đúng và thông tin sai lệch v.v…). Sự
tác động của các loại phương tiện thông tin đã thực sự trở thành một lực lượng xã hội độc
lập, can thiệp mạnh mẽ sâu sắc tới quá trình hội hoá nhân sự phát triển của
hội. Chúng đã và đang làm thay đổi căn bản cuộc sống của cá nhân, gia đình và xã hội.
Sự tác động của nguồn thông tin này đến sự phát triển tâm của mỗi nhân thể
hiện ở các nội dung sau: (a) nhân xu ớng càng ngày càng dành nhiều thời gian sử
dụng cho xem ti vi, máy tính, các phương tiện truyền thanh, truyền hình; (b) mang đến
nguồn tư liệu vô tận để cá nhân có thể khai thác thông tin hữu ích; (c) cung cấp cho trẻ các
khuôn mẫu xã hội đa dạng; (d) là một công cụ giáo dục đắc lực; (e) ảnh hưởng tiêu cực của
truyền hình, máy tính và các phương tiện truyền thông hiện đại khác - xu hướng bạo lực
sự suy giảm tính nhạy cảm đối với hành vi bạo lực ở trẻ em.
Tóm lại, giáo dục giữ vai trò chủ đạo, định hướng sự phát triển m trẻ em. Giáo
dục có thể tác động đến mọi yếu tố bên trong cũng như bên ngoài của các điều kiện đối với
sự phát triển tâm trẻ em. Tuy nhiên, giáo dục không phải vạn năng. Sự phát triển tâm
lí trẻ em còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện sinh học, môi trường, và khả năng hoạt
động của trẻ
b. Sự phát triển tâm lý phụ thuộc vào yếu tố di truyền và sự trưởng thành
Yếu tố di truyền đã từng được coi yếu tố quyết định sự hình thành phát triển
tâm lý con người (thuyết tiền định). Theo từng giai đoạn trưởng thành, các đặc điểm tâm lý
được hóa vào trong gen và cứ như vậy bộc lộ phát triển, môi trường chỉ được coi như
yếu tố có tính chất điều chỉnh. Điển hình cho cách hiểu này là nhà tâm lý học người Mỹ E.
lOMoARcPSD| 58933639
Toocđai cho rằng tự nhiên ban cho mỗi con người một vốn nhất định, giáo dục cần phải bộc
lộ vốn đó là vốn gì và sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất. Ở phương Đông từng có quan
niệm: Cha mẹ sinh con trời sinh tính, hay người quân tử vốn sẽ là người quân tử còn ktiểu
nhân mãi mãi tiểu nhân (Khổng Tử) v.v… Cách hiểu này đã tạo ra sự phân hóa hội,
tạo ra sự bất bỉnh đẳng, phân chia giai cấp trong xã hội.
Để xem xét yếu tố di truyền ảnh hưởng đến sự hình thành phát triển nhân cách
con người như thế nào, chúng ta cùng đề cập đến các nội dung sau:
b.1. Bẩm sinh, di truyền là gì?
Di truyền được hiểu sự truyền lại của thế hệ trước cho thế hệ sau những đặc tính
sinh học. Sự di truyền này được thực hiện theo chế hóa giải các gen. Yếu tố
di truyền được thể hiện ở: (a) kiểu di truyền là tập hợp các đặc tính được di truyền, được kế
thừa từ một thể thế hệ trước, khả năng tiềm tàng của thể như giới hạn về chiều
cao, màu mắt, màu da v.v...; (b) kiểu ngoại hình là tập hợp các đặc tính di truyền được mỗi
người thực sự thể hiện ra trong suốt cuộc đời. Kiểu ngoại hình là sự kết hợp giữa kiểu di
truyền với những trải nghiệm của chính nhân trong cuộc sống, làm biến đổi kiểu di
truyền. Do đó kiểu ngoại hình thường không trùng khớp với kiểu di truyền (hai đứa trẻ có
kiểu di truyền giống nhau về chiều cao và cân nặng, nhưng một trẻ được luyện tập thể thao
nhiều hơn sẽ chiều cao cao hơn trẻ không được luyện tập. Ngược lại, hai trẻ nhiều
điểm bề ngoài giống nhau (kiểu ngoại hình giống nhau), nhưng thực ra chúng hai kiểu
di truyền khác nhau. Quá trình di truyền có thể bị biến đổi (biến dạng), do sự tham gia của
quá nhiều hoặc quá ít nhiễm sắc thể (NST) và thường dẫn đến gen bị hỏng. Gen hỏng
thể gây ra các bệnh bẩm sinh ở thế hệ sau như Hội chứng Down (bất thường NST thứ 21),
gây chậm phát triển trí tuệ và kém khả năng miễn dịch. Hội chứng Turner (chỉ có một NST
giới tính X). Người phụ nữ mắc chứng Turner sẽ bị lùn, chậm trí tuệ v.v... Hiện nay, một số
bệnh trong các bệnh do lỗi gen có thể chẩn đoán sớm và có thể khắc phục được.
Bẩm sinh là những đặc tính của cá thể có ngay từ khi mới sinh và tồn tại tương đối
lOMoARcPSD| 58933639
ổn định trong suốt cuộc đời của cá thể đó. Cần phân biệt yếu tố bẩm sinh (sinh ra đã có
sẽ có do yếu tố di truyền) với các thay đổi của cơ thể do yếu tố ngoại cảnh như trẻ bị nhiễm
phóng xạ, thiếu iôt, các chấn thương trong sau khi sinh v.v… Những biến đổi đó cũng
ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của cá nhân, nhưng chúng không phải là bẩm sinh.
b.2. Bẩm sinh, di truyền đối với sự phát triển tâm lý cá nhân
Yếu tố di truyền đóng vai trò chính yếu trong sự phát triển của cơ thể người nhưng
không quy định trực tiếp nội dung tâm cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển
tâm nhân. Yếu tdi truyền được khúc xạ phát động thông qua hoạt động giao
tiếp của cá nhân. Điều này được thể hiện qua các điểm sau:
- Yếu tố bẩm sinh, di truyền không quy định sự phát triển tâm lý mà chỉ đặt ra trước chủ
thể các khả năng khác nhau việc phát triển các khả năng này tùy thuộc vào chủ thể
và hoạt động của chủ thể đó.
- Khi sinh ra trẻ được kế thừa các yếu tố sinh thần kinh tính bẩm sinh ban đầu tạo
ra sự khác biệt ban đầu của nhân về sự phát triển. Trên sở này, khi trẻ được tạo
điều kiện thuận lợi thì trẻ có thể phát triển tốt, còn ngược lại có thể bị thui chột hay phát
triển theo hướng khác. Như vậy, yếu tố sinh thần kinh không chỉ tiềm năng phát
triển còn sản phẩm của chính hoạt động của trẻ trong các môi trường sống khác
nhau.
Yếu tố bẩm sinh di truyền tạo ra tiềm năng cho sự phát triển, góp phần quy định
chiều hướng, tốc độ, hiệu quả và mức độ hoạt động của cá nhân được thể hiện qua các khía
cạnh sau:
- Bẩm sinh di truyền ảnh hưởng đến tốc độ mức độ phát triển, biểu hiện đến các lĩnh
vực liên quan đến cơ chế hoạt động thần kinh, hệ nội tiết, các chức năng sinh lý như khí
chất, cảm xúc v.v…
- Bẩm sinh di truyền ảnh hưởng đến sự tương đồng khác biệt về cá nhân trong quá
trình phát triển (về chỉ số IQ, anh em sinh đôi cùng trứng được nuôi dưỡng ở môi trường
khác nhau vẫn cho tính tương đồng cao).
- Các yếu tố di truyền (cấu trúc thần kinh, hệ nội tiết, cấu trúc thể v.v…) sẽ tạo điều
kiện thuận lợi hoặc hạn chế cho qtrình phát triển. những trẻ yếu tố di truyền
tích cực sẽ phát triển các năng khiếu trong các lĩnh vực khác nhau (thể thao, nghệ thuật,
lOMoARcPSD| 58933639
âm nhạc v.v...). trong khi đó những yếu tố di truyền hạn chế (chậm thần kinh, suy nhược
cơ thể v.v..) gây khó khăn cho sự phát triển tâm lý cá nhân.
- Yếu tố di truyền không tác động trực tiếp riêng rẽ tới sự phát triển của nhân
bao giờ cũng tác động gián tiếp thông qua hoạt động của cá nhân, trong sự tương tác
kết hợp với môi trường.
Tóm lại, điều kiện di truyền tiền đề vật chất của sự phát triển tâm lý người. Điều
kiện sinh học này sở vật chất, sở di truyền trẻ nhận được từ cha mẹ mình. Đó
cấu tạo giải phẫu sinh những đặc điểm của thể như màu da, màu mắt, hình vóc
v.v… Đặc biệt đặc điểm hệ thần kinh những đặc điểm đặc trưng của loài người như
mầm mống của duy, ngôn ngữ. Các nhà tâm lí học macxit khẳng định, điều kiện sinh học
sở vật chất của sự phát triển tâm người, quy định chiều ớng, nhịp độ, tốc độ
phát triển tâm lí trẻ em.
Yếu tố di truyền góp phần tạo ra sự thuận lợi hoặc khó khăn hơn cho quá trình phát
triển tâm lý. Những đứa trẻ có tư chất tốt sẽ khả năng phát triển thuận lợi hơn những đứa
trẻ khác (về một lĩnh vực nào đó). Song để phát triển được những yếu tố bẩm sinh di truyền
này, đứa trẻ phải có môi trường giáo dục thuận lợi.
Sự hình thành cấu trúc tâm lý mới là kết quả của chức năng phản ánh hiện thực của
chủ thể. Sự phản ánh này phụ thuộc vào hệ thần kinh, vào sự trưởng thành của thể
mức độ hoạt động của thể. Mức độ phát triển tâm phải phù hợp với sự trưởng thành
của cơ thể. Nếu sự phù hợp này bị phá vỡ sẽ dẫn đến bất bình thường trong quá trình phát
triển của cá nhân (chậm hoặc phát triển sớm về tâm lí so với sự phát triển của cơ thể).
c. Sự phát triển tâm lý phụ thuộc vào tính tích cực hoạt động của chủ thể
Tâm lý người chỉ hình thành và phát triển thông qua hoạt động tích cực của chủ thể.
Các nhà tâm lí học macxit khẳng định rằng, tâm lí con người được hình thành và phát triển
thông qua hoạt động giao u. c đối tượng, phương tiện động hoạt động cũng
như những quan hệ xã hội chứa đựng trong nó, những sản phẩm vật chất hay tinh thần đều
những vật ''mang tâm người'', nên qua hoạt động “tâm lý” này thấm vào đứa trẻ hình
thành nên bộ mặt tâm lí của nó.
Tâm lí của trẻ em phát triển đến mức nào phụ thuộc khá lớn vào tính tích cực hoạt
lOMoARcPSD| 58933639
động của trẻ, vào sự giáo dục của người lớn. Hoạt động theo xu hướng nào tạo ra xu hướng
ấy trong sự phát triển tâm lý và mức độ sâu rộng của hoạt động tạo ra mức độ sâu rộng của
sự phát triển tâm lý.
Sự hình thành phát triển tâm của con người kết quả của sự tương tác giữa
hoạt động của nhân với hai yếu tố di truyền i trường sống của nhân. Hoạt
động được xem như sự tác động qua lại giữa chủ thể - khách thể sự tác động qua lại
này để lại dấu ấn cả hai phía. Hoạt động ý nghĩa cùng quan trọng với đời sống
nhân, là yếu tố quyết định đến sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân được thể hiện qua
các nội dung sau:
- Hoạt động đơn vị của đời sống nhân, phương thức tồn tại phát triển của
nhân và xã hội. Giống như tế bào là đơn vị tạo nên cơ thể sống của thể, thì hoạt động
là đơn vị tạo nên toàn bộ đời sống tâm lý của cá nhân. Sự phát triển tâm lý của cá nhân
được đặc trưng bởi sự biến đổi liên tục chuyển hóa lẫn nhau của các hoạt động đ
đáp ứng những chức năng nhất định của nó. Trong các dòng hoạt động đó thì dòng hoạt
động chủ đạo giữ vai trò quyết định nhất.
- Hoạt động khâu trung gian giữa chủ thể với đối tượng, chức năng phương tiện
để chủ thể tác động lên đối tượng, đồng thời sự phản ánh tâm lý hướng dẫn chủ
thể trong thế giới đối tượng. Bằng hoạt động, con người tác động vào thế giới sẽ làm
diễn ra sự phản ánh tâm lý, hình thành chủ thể biểu tượng ban đầu về thuộc tính của
khách thể biểu tượng này hướng chủ thtiếp tục đi sâu vào thế giới đối tượng, làm
cho bản chất của đối ợng được bộc lộ khi đó chủ thể phán ánh, tiếp thu những
đặc tính của đối tượng biến thành tâm của chính mình (chủ thể hóa). Tuy nhiên, khi
con người đạt đến một trình độ tâm lý nhất định thì con người chuyển hóa năng lực của
mình (kiến thức, năng, xảo, thái độ v.v...) vào đối tượng làm bộc lộ bản chất của
đối tượng biến đối tượng thành vật khác, sản phẩm mới (khách thể hóa). Như vậy,
hoạt động là phương tiện để cá nhân và đối tượng tác động với nhau. Trong đó, một mặt
cá nhân cải tạo và sáng tạo ra thế giới, mặt khác, cải tạo và điều chỉnh tâm lý của chính
bản thân mình.
lOMoARcPSD| 58933639
- Hoạt động bao giờ cũng diễn ra trong sự tương tác với người khác. Hoạt động bao giờ
cũng được đặt trong các mối quan hệ giao tiếp hội với người khác, có thể là giao tiếp
trực tiếp hay giao tiếp gián tiếp và luôn chịu sự chế ước của các quan hệ đó.
Mối quan hệ của ba yếu tố trong quá trình phát triển tâm lý người
Ba yếu tố di truyền, môi trường hoạt động của chủ thể luôn sự tác động biện
chứng lẫn nhau. Mỗi yếu tố giữ một vị trí quan trọng khác nhau trong sự phát triển tâm
nhân song lại thống nhất với nhau để tạo nên sự toàn diện tâm nhân. Xét theo “chiều
dọc” của sự phát triển tâm lý của trẻ, yếu tố di truyền được xem là yếu tố nền tảng đầu tiên
cho sự phát triển, nếu yếu tố nền tảng này tốt sẽ có thể thúc đẩy cho sự phát triển nhanh và
đạt kết quả cao hơn, ngược lại sẽ làm hạn chế, kiềm chế sự phát triển tâm lý của trẻ. Yếu tố
môi trường được xem như là điều kiện cho sự phát triển. Điều kiện môi trường thuận lợi sẽ
giúp cho sự phát triển tâm nhân tốt hơn ngược lại, môi trường không thuận lợi sẽ
kiềm chế, hạn chế phát triển. Môi trường như một mảnh đất để gieo hạt giống, mảnh đất tốt
thì hạt giống nảy mầm phát triển nhanh n, còn ngược lại sẽ làm cho hạt giống chậm
nảy mầm, cây bị còi cọc hơn khi phát triển. Yếu tố hoạt động của chủ thể được xem là yếu
tố quyết định cho sự phát triển, chủ thể tích cực hoạt động theo xu hướng nào sẽ tạo ra đời
sống tâm lý theo xu hướng đó, mang tính điển hình hơn. Tuy nhiên, khi xem xét mối quan
hệ của ba yếu tố này cần chú đến các nội dung: (a) sự tương tác của ba yếu tố này trong
mỗi giai đoạn những khác nhau; (b) không được nhấn mạnh một yếu tố nào đó bỏ
qua yếu tố khác, cần phải tiến hành giáo dục, phát triển tổng hợp cả ba yếu tố trên.
d. Quy luật về tính tiệm tiến, theo trình tự và nhảy vọt theo các giai đoạn
Sự phát triển tâm diễn ra một cách tiệm tiến nghĩa dần dần tích lũy các kinh
nghiệm khi đạt đến một lượng nhất định sẽ dẫn đến sự nhảy vọt, biến đổi về chất sang
một giai đoạn cao hơn.
Trong nghiên cứu của J. Piaget, quy luật y được thể hiện trong sự đồng hóa
điều ứng (tiếp nhận thông tin vào cấu trúc đã có – thích nghi các thông tin, tạo sự cân bằng)
qua đó dẫn đến biến đổi cấu trúc đã có tạo ra cái mới (nhảy vọt) dẫn đến sự thăng bằng. Sự
phát triển các cấu trúc tâm theo cách tăng dần về số lượng (tăng trưởng) và đột biến (phát
triển, biến đổi về chất). Các nghiên cứu của S. Freud E. Erikson cho thấy sự phát triển

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58933639
TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC ĐẠI HỌC lOMoAR cPSD| 58933639
CHƯƠNG 1: TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC ĐẠI HỌC
Tâm lý học sư phạm là một trong những ngành ứng dụng được phát triển sớm nhất
của khoa học tâm lý. Đối tượng của tâm lý học sư phạm là những quy luật tâm lý của việc
dạy học và giáo dục đối với trẻ từ mẫu giáo đến học sinh và sinh viên. Cụ thể tâm lý học sư
phạm tìm cơ chế tâm lý của qúa trình học sinh lĩnh hội nền văn hoá vật chất, tinh thần của
xã hội và biến nó thành vốn riêng của mình; tìm mối quan hệ giữa tri thức tiếp thu được với
sự phát triển các chức năng tâm lý cấp cao của học sinh, sinh viên; tìm cơ chế lĩnh hội của
từng lứa tuổi khác nhau, tổ chức các hoạt động phù hợp với sự phát triển trí tuệ và sự phát
triển tâm lý. Việc nghiên cứu những vấn đề này thể hiện mối liên hệ chặt chẽ của ngành
tâm lý học lứa tuổi và ngành tâm lý học sư phạm.
Tâm lý học sư phạm xuất hiện từ bao giờ? Năm 1889, Đại hội đầu tiên của các nhà
tâm lý học trên thế giới đã họp ở Pari, một trong những hướng ứng dụng đầu tiên của khoa
học tâm lý là việc vận dụng tri thức tâm lý học vào công tác giảng dạy và giáo dục ở nhà trường.
Ví dụ như những kết quả thực nghiệm trong tâm lý học đại cương về quy luật tâm
sinh lý của Weber, Faisner, quy luật nhớ của Ebingauz, nghiên cứu cảm giácvận động của
Weent... Nhưng việc ứng dụng trực tiếp từ kết quả nghiên cứucủa tâm lý học đại cương đã
rất hạn chế và mâu thuẫn với kinh nghiệm của giáo viên. Ví dụ: Ebingauz nghiên cứu sự
ghi nhớ những từ vô nghĩa thì ít giúp ích cho giáo viên là những người cần biết quy luật
nhớ những tài liệu có ý nghĩacủa học sinh. Nhà giáo dục nổi tiếng người Nga K.D.Usinxki
trong tác phẩm “con người là đối tượng của giáo dục” đã có cống hiến lớn cho sự phát triển
tư tưởng tâm lý sư phạm. Ông cho rằng muốn giáo dục con người thì trước hết phải hiểu
biết con người về tất cả mọi mặt, và đã kêu gọi tất cả các nhà giáo dục: “Các bạn hãy nghiên
cứu những quy luật của các hiện tượng tâm lý mà các bạn muốn điều khiển và các bạn hãy
hành động căn cứ trên những quy luật này và những hoàn cảnh mà các bạn muốn vận dụng
chúng vào đó”; Nhà tâm lý học người Mỹ W. James, trong tác phẩm “Nói chuyện với các
giáo viên về tâm lý học” đã cho rằng: khi biết được những quy luật tâm sinh lý hay những
hình thức và tốc độ phản ứng vận động thì người giáo viên sẽ hiểu được đời sống tinh thần
của trẻ và những quy luật lĩnh hội tài liệu học tập. lOMoAR cPSD| 58933639
Do đó, những hiện tượng tâm lý trẻ em và thanh niên diễn ra trong quá trình giảng
dạy và giáo dục ở nhà trường cần phải được nghiên cứu riêng và trở thành đối tượng của
ngành tâm lý học sư phạm.
Trong hội nghị tâm lý học sư phạm đầu tiên ở nước Nga được tổ chức vào đầu thế
kỷ XX, các nhà tâm lý học đã khẳng định rằng chỉ có thể gắn tâm lý học với thực tiễn sư
phạm bằng cách nghiên cứu thực nghiệm trong chính quá trình dạy học và giáo dục. Do
vậy, cần giải quyết đúng đắn vấn đề lý luận và phương pháp luận của tâm lý học sư phạm
và tâm lý học lứa tuổi mà trước hết là nhuồn gốc phát triển tâm lý có quan hệ với lý luận
dạy học. Việc xác định các nguyên tắc, các con đường, các biện pháp dạy học và giáo dục
phụ thuộc vào quan niệm về nguồn gốc phát triển tâm lý trẻ.
Các nhà tâm lý học Mácxít cho rằng yếu tố bẩm sinh di truyền là tiền đề của sự phát
triển tâm lý, giáo dục có vai trò chủ đạo và hoạt động cá nhân có tính chất quyết định trực
tiếp đến sự phát triển của mỗi cá nhân. Trong những điều kiện giáo dục thuận lợi như nhau
thì trẻ nào có được những ưu thế về bẩm sinh di truyền thì sẽ phát triển tốt hơn. Ngược lại
những trẻ có yếu tố bẩm sinh di truyền tương đối ngang bằng nhau thì trẻ nào được sống
trong điều kiện giáo dục thuận lợi hơn sẽ phát triển tốt hơn. Sức mạnh của giáo dục là khả
năng tăng tốc sự phát triển theo định hướng xã hội đúng đắn, là phát hiện tiềm năng tâm lý
làm cho mỗi cá nhân có diều kiện bộc lộ tự do và phát triển tối ưu năng lực và nhân cách của mình.
Từ những kiến giải trên, ta thấy rằng những lĩnh vực của tâm lý học sư phạm bao
trùm hai khoa học: Tâm lý học và Giáo dục học.
Những mục đích của Tâm lý học sư phạm: Tâm lý học sư phạm quan tâm trước hết
đến việc ứng dụng các tri thức khoa học về tư duy của con người và nhân cách của họ vào
quá trình sư phạm, bao gồm những vấn đề như: động cơ, định hướng, kiểm tra, đánh giá...
Tâm lý học sư phạm cũng có mục đích tìm hiểu về người học và quá trình hướng dẫn, đào
tạo họ, nhờ quá trình đó mà người học được định hướng phát triển và trưởng thành. Vì vậy,
Tâm lý học sư phạm có nhiệm vụ chọn lọc, tổ chức, giải thích, kết hợp các sự kiện, tài liệu,
kỹ thuật, nguyên tắc từ lâu đài đồ sộ của tâm lý học để ứng dụng thực tiễn vào
quá trình giáo dục. Như vậy, Tâm lý học sư phạm có mục đích cung cấp cho giáo viên
những hiểu biết tâm lý học đúng đắn, khoa học về trẻ em và thanh thiếu niên; một cái nhìn lOMoAR cPSD| 58933639
sâu sắc về bản chất của sự học; một nhận thức đúng đắn về ý nghĩa của sự khác biệt cá thể,
tri thức về sự trưởng thành và phát triển của trẻ em, hiểu biết về những vấn đề hành vi của
trẻ em, thanh thiếu niên và khả năng ứng xử với chúng. Nhờ đó, người làm công tác giảng
dạy, giáo dục nắm được những nguyên lý cơ bản để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong
quá trình sư phạm và học có thể đánh giá các biện pháp được sử dụng nhằm đạt được mục tiêu đào tạo.
1.1. Sự ra đời của Tâm lý học dạy học đại học
1.1.1. Nguyên nhân khách quan
a. Sự phát triển của đào tạo đại học trên thế giới và ở Việt Nam
Hệ thống giáo dục đại học của các nước trên thế giới có một lịch sử phát triển khá lâu
đời và không ngừng phát triển. Số trường đại học và cao đẳng của Nhật Bản (tính đến 1994)
là 1.208 với tổng số sinh viên là 3.266.275. Nước Mỹ có trên 3.000 trường đại học; Hàn
Quốc có 314 trường đại học và cao đẳng, với 2.196.940 sinh viên và 54.135 giáo chức. Thái
Lan có 53 trường đại học với 872.630 sinh viên và có 23.121 giáo chức (năm 1995). Các
nước thuộc Liên Xô trước đây có khoảng 870 trường đại học, với 5,2 triệu sinh viên và có
trên 70.000 phó tién sĩ và 19.000 tiến sĩ khoa học tham gia công tác đào tạo đại học và trên
đại học (số liệu của những năm 80); Các nước á Phi, Mỹ La Tinh, Brazin có 6.260.000 sinh viên (những năm 80 ).
Giáo dục đại học Việt Nam có một lịch sử phát triển lâu đời. “Quốc Tử Giám” được mở
năm 1076 tại Hà Nội có thể được xem là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Đầu thế kỷ
XX, kiểu đại học phương Tây du nhập vào nước ta. Năm 1902, Đại học Y-Dược được thành
lập. Một số trường cao đẳng và đại học khác được thành lập từ năm 1906 đến 1939 và được
tập hợp lại thành Đại học Đông Dương đặt tại Hà Nội, chung cho cả Việt Nam, Lào,
Campuchia. Số lượng sinh viên của trường này đạt quy mô cao nhất là 1.200 vào năm 1942.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954) hình thành ba trung tâm đại học
mới tại Việt Bắc, Liên khu IV và Nam Ninh (Trung Quốc). Đấy là cơ sở đại học đầu tiên
của nước Việt Nam độc lập, dạy hoàn toàn bằng tiếng Việt. Sau giải phóng (1954), các
trường đại học di chuyển về Hà Nội. Năm 1956 ở Hà Nội có các trường Tổng hợp, Sư
phạm, Bách khoa, Y-Dược, Nông nghiệp, Kinh tế- tài chính và nghệ thuật. Cho đến năm lOMoAR cPSD| 58933639
1975 ở miền Bắc đã có 30 trường đại học với 8.400 giảng viên và 56.000 sinh viên. Cũng
trong thời gian đó, ở miền Nam có 4 viện đại học công lập, 3 đại học cộng đồng và 11 đại
học tư, có tổng số sinh viên là 166.000. Sau ngày Việt Nam thống nhất (1975), các trường
đại học, cao đẳng (hiện nay, do sát nhập một số trường để thành lập các đại học quốc gia
nên số trường đại học chỉ còn 199, trong đó có 91 trường công lập và 18 trường dân lập và
một số cao đẳng cộng đồng) với khoảng 36.500 giảng viên, trong đó 31% là nữ, 14% có
học vị Phó tiến sĩ, Tiến sĩ và gần 930.000 sinh viên, trong đó có khoảng 589.000 sinh viên chính quy.
Như vậy, số trường đại học trong nước và trên thế giới tăng rất nhanh, số lượng sinh
viên có tới hàng chục triệu và số lượng cán bộ khoa học giảng dạy đại học cũng không
ngừng tăng lên và đặc biệt là chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy thay đổi theo chiều hướng
tăng nhanh các cán bộ có trình độ học vị, học hàm cao, có năng lực đào tạo đại học và trên
đại học. Thực tiễn đó đã lôi cuốn sự chú ý đặc biệt của các nhà tâm lý học, giáo dục học và
các nhà phương pháp vào việc nghiên cứu các cơ sở khoa học cho công tác giảng dạy và
giáo dục đại học nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo các chuyên gia có trình độ chuyên môn cao .
b. Nhu cầu xã hội đối với chuyên gia
Do sự thúc đẩy phát triển xã hội và đặc biệt là ảnh hưởng của cách mạng khoa học kỹ
thuật, nhu cầu của xã hội đối với chuyên gia đã có nhiều thay đổi. Trong xã hội cũ, tính chất
bảo thủ và lạc hậu của nhà trường đại học so với xã hội đã luôn luôn tồn tại. Việc giảng dạy
của nhà trường đại học cũ là hướng vào quá khứ. Tức là, xã hội yêu cầu người chuyên gia
tích luỹ càng nhiều tri thức càng tốt bằng tri thức của mình , có quan niệm ai nhớ giỏi là
người uyên bác, là nhà bác học. Nội dung tri thức, cách sắp xếp , tổ chức và chuyền đạt
thông tin do thầy giáo quy định. Phương pháp giảng dạy là thầy giải thích tài liệu, củng cố
tài liệu, rồi kiểm tra, còn sinh viên tiếp nhận tài liệu, ghi nhớ chúng.
Xã hội ngày nay có nhu cầu khác hẳn đối với các chuyên gia, nền sản xuất hiện đại đòi
hỏi chuyên gia trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng phải có kỹ năng tư duy sáng tạo, biết đặt ra
những nhiệm vụ mới một cách độc lập, có nguyên tắc, năng động, có khả năng thích ứng
với những điều kiên biến đổi không ngừng. Do sự bùng nổ về thông tin, khoảng cách vốn
có giữa giảng đường đại học với xã hội càng bị đẩy xa hơn. Người sinh viên không thể chỉ lOMoAR cPSD| 58933639
chông đợi vào những tri thức mà nhà trường cung cấp cho họ và càng không thể hy vọng
vào vốn tri thức ấy như một thứ “cẩm nang” có thể dùng nó trong suốt cuộc đời nghề
nghiệp của mình. Bởi vì, chỉ sau một thời gian ngắn, một bộ phận các tri thức lĩnh hội
được trong nhà trường sẽ trở nên bất cập, và hiển nhiên là sau khi họ tốt nghiệp đại học,
bao nhiêu phát minh mới sẽ ra đời và đòi hỏi họ phải tham gia phát triển chúng một cách
hiệu quả. Có thể ví von không quá đáng rằng “người mù chữ ngày mai sẽ là người không
biết học việc học tập”. Điều này cũng có nghĩa “học như thế nào” trở thành một tiêu chí đánh giá người học.
c. Nhu cầu tự hoàn thiện của sinh viên và người tốt nghiệp đại học
Với những lý do trên, ngày nay quá trình đào tạo ở đại học ngày càng trở lên phức tạp
về nội dung, phương pháp cũng như phương tiện được sử dụng trong quá trình đó. Để đáp
ứng nhu cầu mới của quá trình đào tạo đại học, sinh viên phải tự hoàn thiện nhân cách của
mình, đặc biệt những phẩm chất và năng lực “tự đào tạo” theo hướng “nghiên cứu phát
triển” để trở thành chuyên gia giỏi trong xã hội hiện đại. Người tốt nghiệp đại học cũng có
nhu cầu tự hoàn thiện như phần trên đã trình bày, nhưng giảng đường đại học phải từng
bước chuẩn bị kỹ năng này cho họ. Chính tính phức tạp và những đặc điểm mới trong tâm
lý sinh viên hiện đại sẽ trở thành một xu thế mới, một đối tượng hấp dẫn của khoa học Tâm lý sư phạm đại học.
1.1.2. Nguyên nhân chủ quan
a. Tâm lý học là khoa học cơ bản có tính ứng dụng cao
Việc ra đời ngành Tâm lý học sư phạm nói chung, Tâm lý học sư phạm đại học nói riêng
còn do chính nguyên nhân chủ quan rất đặc trưng của Tâm lý học: một khoa học luôn luôn
hướng vào thực tiễn. Tâm lý học hiện đại ngày nay có trên năm mươi ngành Tâm lý học
ứng dụng, điều đó cho thấy rõ ý nghĩa của Tâm lý học trong việc giải quyết các vấn đề của thực tiễn xã hội .
b. Sự vận động của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm dẫn
đến sự ra đời một chuyên ngành mới: Tâm lý học sư phạm đại học.
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm một thời gian dài đã chỉ giới hạn phạm vi
nghiên cứu của mình vào các vấn đề tâm lý học sinh, mãi đến những năm 60 của thế kỷ lOMoAR cPSD| 58933639
XX, hai ngành tâm lý học này đã ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề giảng dạy
và giáo dục người lớn mà trước hết là sinh viên.
Từ các điều kiện nói trên, đã nảy sinh ngành Tâm lý học sư phạm đại học, như một
nhánh của Tâm lý học sư phạm trong điều kiện đặc trưng của trường đại học. Trường đại
học làm thế nào để khai thác hết khả năng tiềm tàng ở sinh viên, làm tối ưu hoá các hoạt
động của cá nhân và tập thể, để khi ra trường họ trở thành những chuyên gia biết làm việc.
Vai trò và vị trí của Tâm lý học sư phạm đại học trong hệ thống chung của Tâm lý học
không chỉ xuất phát từ quan điểm sử dụng các tri thức tâm lý trong thực tiễn mà nó còn là
một khâu củng cố những nhiệm vụ nhận thức của Tâm lý học như nghiên cứu và giải thích
các hiện tượng tâm lý với vấn đề điều khiển và tự điều khiển hoạt động của cá nhân và tập
thể. Về điều này, Viện sĩ B.Ph.Lomốp đã viết: “Tham gia tích cực vào giải quyết các nhiệm
vụ nảy sinh trong thực tiễn xã hội là những điều kiện cần thiết để phát triển tiếp theo của
bản thân Tâm lý học như một khoa học. Chỉ bằng cách liên hệ chặt chẽ với thực tiễn mới
có khả năng mở ra triển vọng thực tế của khoa học tâm lý, hoàn thiện những phương pháp
của nó và phát triển lý luận”. Sự ra đời muộn mằn của Tâm lý học sư phạm đại học cho
phép nó thừa hưởng thành tựu phong phú của các ngành Tâm lý ra đời trước nó, đặc biệt là
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm.
1.2. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp của Tâm lý học dạy học đại học
1.2.1. Đối tượng của Tâm lý học dạy học đại học:
- Những quy luật tâm lý của việc dạy học và giáo dục ở đại học
- Vai trò, vị trí của các biểu hiện, sự phát triển và quy luật vận hành của các hiện tượng
tâm lý cá nhân và xã hội diễn ra trong hoạt động của sinh viên và hoạt động của giảng viên
- Các biện pháp tâm lý tác động đến sinh viên và giảng viên nhằm giải quyết những nhiệm
vụ của giáo dục đại học đạt kết quả cao.
1.2.2. Nhiệm vụ của Tâm lý học dạy học đại học:
- Phân tích về phương diện tâm lý các hoạt động của sinh viên, giảng viên, trên cơ sở đó
vạch ra những cơ sở tâm lý cho việc nâng cao hiệu quả đào tạo đại học. Điều khiển về
mặt tâm lý học quá trình giảng dạy, hình thành nhận thức từ tri giác đến tư duy độc lập lOMoAR cPSD| 58933639
sáng tạo cho sinh viên, vạch ra các chuẩn phát triển trí tuệ và dự đoán sự phát triển đó trong quy trình đào tạo.
- Nghiên cứu tâm lý tập thể sinh viên và ảnh hưởng của nó đến hoạt động học tập, hoạt
động xã hội, hoạt động nghiên cứu khoa học của họ.
- Vạch ra các quy luật hình thành nhân cách sinh viên và những phẩm chất nghề nghiệp
quan trọng của người chuyên gia tương lai.
- Nghiên cứu nhân cách và hoạt động của người cán bộ giảng dạy; những cơ sở tâm lý
của nghiệp vụ sư phạm và sự sáng tạo sư phạm của họ.
- Phân tích mối quan hệ- giao tiếp giữa giảng viên và sinh viên.
- Phân tích quá trình thích ứng đối với việc học tập ở đại học của học sinh mới vào đại
học và với điều kiện hoạt động nghề nghiệp của sinh viên mới ra trường.
- Luận chứng về mặt tâm lý học cho quan điểm hệ thống đối với việc đào tạo chuyên gia
của các trường đại học.
(Dựa trên quan điểm của Diachencô và Kandưbivich “Tâm lý học đại học” Minscơ 1981 tr. 16. Tiếng Nga)
1.3. Bản chất và quy luật của sự phát triển tâm lý người
1.3.1. Bản chất của sự phát triển tâm lý người
Để tìm hiểu được sự hình thành và phát triển của trẻ diễn ra theo cơ chế nào, trước
tiên chúng ta cần hiểu khái niệm Trưởng thành và Phát triển là gì.
Trưởng thành là sự hiện thực hoá các yếu tố của cơ thể, được mã hoá trong các gen,
dưới tác động của các yếu tố ngoại cảnh. Sự trưởng thành của cơ thể dường như được lập
trình sẵn và ít phụ thuộc vào sự học của cá thể (sự trưởng thành của hệ thần kinh, của các
giác quan, khả năng vận động của cơ thể của trẻ v.v…).
Phát triển là sự thay đổi có tính hệ thống của cá nhân do sự học mang lại. Đó là sự
hình thành cái mới của cá nhân, trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể (ví dụ, lúc đầu trẻ khóc
do bị đói và phải thỏa mãn nhu cầu cá nhân, sau này trẻ khóc thể hiện cảm xúc buồn, vui
hay thái độ của mình với người khác – những biểu hiện này là sự hình thành những cấu
trúc tâm lý mới về mặt xã hội – tình cảm trong đời sống tinh thần của trẻ). Nói cách khác,
phát triển là sự thay đổi các hành động bên ngoài dẫn đến sự thay đổi các cấu trúc bên
trong, tạo ra cấu trúc mới trên cơ sở tiềm năng đã có của bản thân và những điều kiện của lOMoAR cPSD| 58933639
môi trường xã hội, tạo ra bản sắc riêng của mỗi cá nhân. Mục đích của sự phát triển giúp
cho việc đảm bảo sự thích ứng của cơ thể với môi trường đồng thời là quá trình lĩnh hội và
sáng tạo của con người.
Sự phát triển tâm lý của con người do chính hoạt động và giao tiếp của họ trong cuộc
sống hàng ngày tạo ra. Ngoài việc tạo ra cái riêng của mỗi con người cũng có những cơ chế
hình thành phát triển tâm lý chung của nhiều người, và tâm lý chung này đều có nguồn gốc
từ bên ngoài, từ nền văn hóa xã hội và quan hệ xã hội. Cơ chế hình thành phát triển tâm lý
trẻ được xem như cơ chế hình thành các cấu trúc tâm lý (hiểu theo J. Piaget), hay là cơ chế
hình thành các chức năng tâm lý cấp cao (hiểu theo L. S. Vygotsky). Tuy vậy, cơ chế hình
thành các cấu trúc tâm lý có những đặc điểm sau:
- Sự phát triển tâm lý của trẻ là quá trình lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội,
biến những kinh nghiệm đó thành kinh nghiệm của cá nhân. Để con người tồn tại và
phát triển phải cần đến hai loại kinh nghiệm. Kinh nghiệm loài đã được mã hóa trong
gen, kinh nghiệm xã hội do con người có được qua quá trình học tập, lĩnh hội thông qua
hoạt động và giao tiếp. Đặc điểm này đều được các thuyết đề cập đến (các kích thích ‘S’
trong thuyết hành vi; kích thích tâm trí trong học thuyết của J.Piaget; các quan hệ xã hội
trong thuyết phân tâm; các công cụ kí hiệu trong thuyết lịch sử văn hóa của L. S.
Vygotsky v.v…). Như vậy, tâm lý trẻ em có nguồn gốc từ bên ngoài và được chuyển vào bên trong trẻ.
- Quá trình lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội – lịch sử của trẻ em được thực hiện thông
qua sự tương tác giữa trẻ với thế giới bên ngoài, mà trước hết là tương tác xã hội. Trẻ
tương tác với thế giới đồ vật để hình thành những kinh nghiệm về thuộc tính vật lý của
sự vật và phương pháp sáng tạo ra sự vật đó. Tuy vậy, ngay cả khi tương tác với đồ vật
cũng có sự hiện diện của người lớn (trẻ học cách sử dụng đồ vật - các công cụ kí hiệu
mà con người sáng tạo ra và được mã hóa trong đồ vật). Vì vậy, ở góc độ này hay góc
độ khác, tương tác là sự tất yếu trong sự phát triển tâm lý của trẻ. Quá trình hình thành
và phát triển các cấu trúc tâm lí trẻ em thực chất là quá trình
chuyển những kinh nghiệm xã hội - lịch sử từ bên ngoài vào bên trong của trẻ theo cơ chế
nhập tâm. Có hai cách lý giải cơ chế chuyển vào trong là các nhà tâm lý học nhận thức và
các nhà tâm lý học hoạt động. J. Piaget cho rằng quá trình chuyển hóa này là quá trình cơ lOMoAR cPSD| 58933639
thể thích nghi. Chủ thể thực hiện quá trình đồng hóa và điều ứng các kích thích bên ngoài
để làm tăng trưởng các cấu trúc đã có (đồng hóa) hoặc hình thành cấu trúc mới (điều ứng)
nhằm giúp cho cơ thể cân bằng, thích ứng với môi trường. Các nhà tâm lý học hoạt động
(L. S. Vygotsky, A.N. Leochev, P.Ia. Galperin v.v…) cho rằng cơ chế chuyển vào trong có
ba điểm cơ bản: (a) cơ chế chuyển bắt nguồn từ vật thật qua các bước: Hành động vật thật
 hành động với lời nói to  hành động với lời nói thầm không thành tiếng  hành động với
lời nói thầm bên trong. Trong đó, hành động với vật thật, hành động thực tiễn, là nguồn gốc
của mọi sự phát triển tâm lí; (b) trong quá trình chuyển hóa các hành động từ bên ngoài vào
bên trong theo các bước, thường xuyên diễn ra hai hành động: hành động với đối tượng
(hành động của chủ thể theo lôgic của đối tượng) và hành động chủ ý của chủ thể đến đối
tượng và đến hành động với đối tượng. Hai hành động này ở mức độ sau sẽ kết hợp với
nhau tạo thành một cấu trúc tâm lý gồm nghĩa khách quan của đối tượng và ý nghĩa chủ
quan của chủ thể về đối tượng đó; (c) quá trình chuyển hành động từ bên ngoài vào bên
trong của cá nhân được định hướng theo nhiều cách, cách định hướng khái quát có hiệu quả
hơn thể hiện qua việc định hướng về phương pháp học, phương pháp làm việc v.v…
1.3.2. Các quy luật của sự phát triển tâm lý người
Sự hình thành và phát triển tâm lý người chịu sự chi phối của nhiều yếu tố ở nhiều
góc độ khác nhau. Tuy nhiên, mỗi yếu tố đều có giá trị, tác động ở mặt này hay mặt khác
đồng thời các yếu tố đều thống nhất với nhau để tác động một cách phù hợp đến sự hình
thành và phát triển nhân cách con người.
a. Sự phát triển tâm lý phụ thuộc vào yếu tố môi trường (tự nhiên, xã hội)
Mỗi cá nhân muốn tồn tại và phát triển bao giờ cũng cần có một môi trường hiện
thực với nhiều lực tác động trực tiếp và gián tiếp, chi phối và quy định sự phát triển tâm lý
cá nhân. Cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội đều tác động đến sự phát triển tâm
lý của trẻ nhưng môi trường văn hóa xã hội là chủ yếu (ngay cả môi trường tự nhiên cũng
mang tính văn hóa – xã hội).
Môi trường sống của xã hội loài người là nguồn gốc làm nảy sinh tâm lý người. Sự
phát triển là quá trình trẻ em lĩnh hội kinh nghiệm loài người trong nền văn hoá - xã hội
lịch sử. Các nhà tâm lí học macxit khẳng định rằng, sự phát triển tâm lí không diễn ra theo
quy luật di truyền sinh học mà diễn ra theo quy luật di truyền xã hội. Nghĩa là, trong quá lOMoAR cPSD| 58933639
trình hoạt động và giao lưu, cá nhân tiếp thu kinh nghiệm xã hội lịch sử, và biến nó thành
kinh nghiệm của bản thân, nhờ đó mà đời sống tâm lí của cá nhân ấy được phát triển. Như
vậy nền văn hoá xã hội lịch sử là nguồn gốc và nội dung của sự phát triển tâm lí.
Trình độ phát triển xã hội khác nhau góp phần tạo nên sự khác nhau trong sự phát
triển tâm lý. Nếu đứa trẻ được sống trong một nền văn hoá lành mạnh thì sự phát triển tâm
lí, nhân cách sẽ diễn ra thuận lợi và ngược lại. Tuy nhiên, để phát triển tâm lí đứa trẻ phải
hoạt động, giao lưu để tiếp thu, lĩnh hội kinh nghiệm của nền văn hoá xã hội lịch sử.
Trong môi trường xã hội, giáo dục giữ vai trò trọng yếu, chủ đạo đối với sự phát
triển tâm lý. Giáo dục là sự tác động tới con người của toàn bộ xã hội và của thực tiễn xung
quanh. Đó là quá trình mà thế hệ trước truyền lại kinh nghiệm xã hội - lịch sử cho các thế
hệ mới nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống và lao động để đảm bảo sự phát triển
hơn nữa của xã hội và cá nhân.
Bàn về vai trò của giáo dục đối với sự phát triển tâm lí trẻ em, các nhà tâm lí học,
giáo dục học macxít khẳng định rằng, giáo dục giữ vai trò chủ đạo, định hướng sự phát
triển tâm lí trẻ em. Song để giáo dục mang lại hiệu quả, theo L. S. Vygotsky, giáo dục phải
hướng vào vùng phát triển gần nhất của trẻ, giáo dục phải đi trước sự phát triển, kéo theo
sự phát triển, chứ không chạy theo sự phát triển. Chất lượng giáo dục tạo ra chất lượng của
sự phát triển tâm lý. Các mức độ giáo dục khác nhau tạo nên sự hình thành phát triển nhân cách khác nhau.
Đối với trẻ thơ, giai đoạn đầu tiên của cuộc đời (từ 0 - 6 tuổi), giáo dục giữ vai trò
vô cùng quan trọng trong sự phát triển các chức năng tâm lí, hình thành những cơ sở ban
đầu của nhân cách con người, chuẩn bị cho những giai đoạn phát triển sau được thuận lợi.
Trẻ em không một mình đối diện với thế giới xung quanh nó. Những mối quan hệ của nó
với thế giới xung quanh bao giờ cũng thông qua người lớn. Người lớn là trung tâm của mọi
tình huống mà đứa trẻ ở trong đó. Các nhà tâm lí học macxít khẳng định rằng, người lớn -
nhà giáo dục là cầu nối giữa trẻ em và thế giới xung quanh. Chỉ có thông qua người lớn và
nhờ có người lớn trẻ mới lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội - lịch sử chứa đựng trong đồ
dùng, đồ chơi, trong giao tiếp ứng xử. Mối quan hệ giữa trẻ em với người lớn nhà giáo dục
ngày càng sâu sắc và trở nên tinh tế hơn, đa dạng hơn trong tiến trình phát triển tâm lí trẻ em. lOMoAR cPSD| 58933639
Yếu tố môi trường cũng đã từng được coi như là yếu tố duy nhất, quyết định sự phát
triển tâm lý của trẻ và chỉ cần nghiên cứu môi trường con người sinh sống có thể biết được
nhân cách con người đó. Đây là một cách hiểu siêu hình về môi trường, cho rằng môi trường
là bất biến, quyết định trước tâm lý của con người, con người thụ động trước môi trường.
Quan niệm này coi trẻ em như “tấm bảng sạch” hay “tờ giấy trắng” và người lớn muốn viết
gì lên đó thì viết. Sự phát triển tâm lí của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào tác động bên ngoài.
Quan niệm như vậy sẽ không giải thích được vì sao trong môi trường như nhau lại có những nhân cách rất khác nhau.
Để xem xét yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
con người như thế nào, chúng ta cùng đề cập đến các nội dung sau:
a.1. Tác động của môi trường tự nhiên đến quá trình phát triển tâm lý người
Môi trường tự nhiên bao gồm toàn bộ những gì không phải là con người và do con
người tạo ra cũng như cộng đồng xã hội người nhưng nó có liên quan đến con người như
một chủ thể và tác động đến cuộc sống, đến tâm - sinh lý của con người như đất đai, sông
núi, nắng mưa, hạn hán lũ lụt, bão từ, hiệu ứng nhà kính v.v… Môi trường tự nhiên tác động
đến con người ở các mặt sau:
- Môi trường tự nhiên là điều kiện khách quan, tác động tới việc tổ chức sản xuất và
tổ chức đời sống cộng đồng, tạo ra bản sắc văn hoá của mỗi cộng đồng (bên cạnh
dòng sông Hồng tạo nên văn hóa nông nghiệp).
- Môi trường tự nhiên trực tiếp tác động đến các hành động nhận thức và sinh hoạt
của các cá nhân sống trong nó. Người sống ở vùng biển, đồng bằng hay miền núi có
những đặc điểm tâm lý khác biệt nhau v.v…
a.2. Tác động của môi trường xã hội đến quá trình phát triển tâm lý người
Môi trường xã hội là một hệ thống các quan hệ hiện hữu giữa con người với con
người và giữa con người với thế giới đồ vật do con người chế tạo ra. Môi trường xã hội bao
hàm hai yếu tố: (a) các quan hệ xã hội hiện thực, hiện hữu, công khai (ví dụ, cách ứng xử
của vợ chồng); (b) yếu tố văn hóa ngầm ẩn (quan niệm về vợ chồng). Từ khi sinh ra đến
khi từ giã cõi đời, mỗi cá nhân luôn luôn tồn tại và phát triển trong một môi trường văn hóa
nhất định. Như vậy, môi trường văn hóa – xã hội tác động trực tiếp đến quan hệ cá nhân lOMoAR cPSD| 58933639
tham gia vào và các “khuôn mẫu văn hóa” tác động đến quan hệ đó và tác động trực tiếp
đến đời sống tâm lý cá nhân (tương tác văn hóa).
Môi trường xã hội là một tổng thể rộng lớn có tác động trực tiếp đến sự hình thành
và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Tác động của môi trường xã hội có thể được xem
xét ở các khía cạnh sau đây:
Gia đình và sự phát triển tâm lý của trẻ : Đây là môi trường đầu tiên có tác động
trực tiếp, mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển tâm lý trẻ. Những đặc điểm của môi
trường gia đình tác động đến trẻ như: (a) truyền thống văn hóa của gia đình, đây được xem
là yếu tố cốt lõi, quan trọng đối với sự tồn tại của mỗi gia đình; (b) cách ứng xử của các
thành viên trong gia đình với nhau (phong cách giao tiếp trong gia đình); (c) quan điểm và
lối sống của mỗi thành viên trong gia đình; (d) số lượng và thế hệ của các thành viên trong
gia đình; (e) tình yêu thương, tình cảm của gia đình v.v… Đứa trẻ sẽ bị tác động tâm lý
ngay từ khi người mẹ mang thai, được quyết định bởi trạng thái, tâm lý của người mẹ do
cách tác động từ gia đình. Ví dụ, gia đình có kiểu quan hệ nồng ấm - chấp nhận và yêu cầu
cao đối với con thường phát triển ở các con xúc cảm và tình cảm tích cực đối với cha, mẹ
và người thân; phát triển ở chúng khả năng trí tuệ, sự ham hiểu biết và năng lực học tập,
thái độ và hành vi vị tha, nhu cầu cao và khả năng thiết lập các quan hệ rộng rãi với người
khác; phát triển khả năng tự đánh giá bản thân mình; dễ dàng chấp nhận và tuân theo những
quy tắc hành vi của cha mẹ và cô giáo đặt ra v.v…
Nhóm bạn trong quá trình phát triển tâm lí cá nhân. Giao tiếp với bạn bè, với người
xung quanh vẫn là tác nhân quan trọng trong quá trình xã hội hoá trẻ em. Bạn ngang hàng
được hiểu là những người tại cùng thời điểm nhất định có sự tương đồng cơ bản về cấu trúc
nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử. Như vậy, trẻ khác tuổi vẫn có thể được coi là bạn
ngang hàng khi có sự điều chỉnh nhận thức và hành vi cho phù hợp với bạn cùng chơi. Gia
đình tạo cho trẻ sự an toàn và các điều kiện để học hỏi, khám phá và tìm tòi thì bạn bè ngang
hàng giúp phát triển ở trẻ em các mô hình kĩ năng xã hội cơ bản, phát triển các ứng xử của
trẻ em với bạn và người xung quanh. Bạn bè ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý cá nhân ở
các khía cạnh sau: (a) bạn bè là những mô hình xã hội để trẻ em thực hiện hành vi của mình
nghĩa là trẻ có thể bắt chước các hành vi, khuôn mẫu của bạn bè, kể cả hành vi tốt hay
không tốt; (b) bạn bè là những tác nhân củng cố hành vi xã hội được lặp lại ở trẻ em nghĩa lOMoAR cPSD| 58933639
là những tác động của bạn bè (hành vi yêu thương, hành vi bạo lực v.v…) sẽ được cá nhân
tiếp nhận, được củng cố và thể hiện ở những đối tượng khác (cũng thể hiện hành vi yêu
thương với người khác hay hành vi bạo lực với người khác); (c) bạn là chuẩn mực để so
sánh hành vi xã hội của trẻ. Học sinh có thể kém hơn thầy giáo nhưng khó có thể chấp nhận
kém bạn, “thua thầy một vạn không bằng kém bạn một ly”. Đây có thể là động lực (tích cực
hay tiêu cực) đối với sự phát triển tâm lý trẻ; (d) bạn là tấm gương phản chiếu và điều chỉnh
hành vi của trẻ em. Trong quá trình tương tác với bạn, các hành vi của trẻ được bạn tiếp
nhận và phản ứng lại theo sự cảm nhận của bạn, nhờ quan sát các phản ứng đáp lại của bạn,
trẻ em nhận ra hiệu quả tác động của mình, từ đó điều chỉnh hành vi theo hướng tăng cường hoặc làm mất nó.
Trong giao tiếp nhóm bạn, yếu tố văn hóa đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đây là
yếu tố khó xác định nhưng nó lại là yếu tố điều chỉnh trực tiếp đến hành vi của mỗi cá nhân
trong nhóm. Vì vậy, để có sự tác động tích cực từ nhóm bạn đến sự phát triển tâm lý cá
nhân, nhà giáo dục cần quan tâm đến việc xây dựng được các giá trị văn hóa tích cực trong mỗi nhóm người học.
Vai trò của nhà trường đối với sự phát triển tâm lí cá nhân . Nhà trường giữ
vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển tâm lý cá nhân vì nó tác động đến giai đoạn
phát triển quan trọng nhất của đời sống tâm lý cá nhân (20 năm đầu của cá nhân), giai đoạn
hình thành những nét nhân cách đầu tiên và quyết định sự phát triển tương lai của cá nhân.
Vai trò và chức năng của nhà trường đối với quá trình phát triển cá nhân được thể hiện ở
các điểm sau: (a) nhà trường là một thiết chế xã hội, có chức năng đặc thù là xã hội hóa cá
nhân vì vậy có nhiệm vụ xác định mục tiêu phát triển của cá nhân trong cả cuộc đời cũng
như trong từng giai đoạn; (b) nhà trường có khả năng tổ chức các hoạt động của cá nhân để
thực hiện có kết quả mục tiêu phát triển đó, thông qua nội dung, phương thức giáo dục của
nhà trường; (c) nhà trường có quyền pháp lý và các điều kiện thực tế để tổ chức các lực
lượng xã hội trở thành lực lượng giáo dục và được giáo dục.
Sự tác động từ phía nhà trường được thể hiện cụ thể ở các nội dung: (a) dạy học
bao giờ cũng đi trước sự phát triển của trẻ, kéo theo và định hướng cho sự phát triển của trẻ
(dạy học tác động vào vùng phát triển gần của L. S. Vygotsky); (b) dạy học dựa trên cơ chế
và quy luật hình thành phát triển trẻ em. lOMoAR cPSD| 58933639
Để làm được điều này có hiệu quả, nhà trường cần phải tiến hành các nội dung: (a)
xây dựng nội dung và phương pháp dạy học khoa học; (b) xây dựng một môi trường văn
hóa trong trường học (văn hóa giao tiếp, ứng xử, đoàn kết, yêu thương, cùng phấn đấu
v.v…); (c) không ngừng nâng cao phẩm chất nhân cách của người giáo viên.
Ảnh hưởng của truyền hình, máy tính các phương tiện truyền thông khác
đến sự phát triển cá nhân . Đây là một lực lượng tác động vô cùng quan trọng đối với
sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân, nó tác động hàng ngày, hàng giờ đến nhận thức,
tình cảm và hành vi của con người. Điều quan trọng của sự tác động này là sự đa dạng của
các nguồn thông tin mà nhà giáo dục không kiểm soát được (những thông tin tích cực và
tiêu cực, thông tin thuận chiều và trái chiều, thông tin đúng và thông tin sai lệch v.v…). Sự
tác động của các loại phương tiện thông tin đã thực sự trở thành một lực lượng xã hội độc
lập, can thiệp mạnh mẽ và sâu sắc tới quá trình xã hội hoá cá nhân và sự phát triển của xã
hội. Chúng đã và đang làm thay đổi căn bản cuộc sống của cá nhân, gia đình và xã hội.
Sự tác động của nguồn thông tin này đến sự phát triển tâm lý của mỗi cá nhân thể
hiện ở các nội dung sau: (a) cá nhân có xu hướng càng ngày càng dành nhiều thời gian sử
dụng cho xem ti vi, máy tính, các phương tiện truyền thanh, truyền hình; (b) mang đến
nguồn tư liệu vô tận để cá nhân có thể khai thác thông tin hữu ích; (c) cung cấp cho trẻ các
khuôn mẫu xã hội đa dạng; (d) là một công cụ giáo dục đắc lực; (e) ảnh hưởng tiêu cực của
truyền hình, máy tính và các phương tiện truyền thông hiện đại khác - xu hướng bạo lực và
sự suy giảm tính nhạy cảm đối với hành vi bạo lực ở trẻ em.
Tóm lại, giáo dục giữ vai trò chủ đạo, định hướng sự phát triển tâm lí trẻ em. Giáo
dục có thể tác động đến mọi yếu tố bên trong cũng như bên ngoài của các điều kiện đối với
sự phát triển tâm lí trẻ em. Tuy nhiên, giáo dục không phải là vạn năng. Sự phát triển tâm
lí trẻ em còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện sinh học, môi trường, và khả năng hoạt động của trẻ
b. Sự phát triển tâm lý phụ thuộc vào yếu tố di truyền và sự trưởng thành
Yếu tố di truyền đã từng được coi là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển
tâm lý con người (thuyết tiền định). Theo từng giai đoạn trưởng thành, các đặc điểm tâm lý
được mã hóa vào trong gen và cứ như vậy bộc lộ và phát triển, môi trường chỉ được coi như
yếu tố có tính chất điều chỉnh. Điển hình cho cách hiểu này là nhà tâm lý học người Mỹ E. lOMoAR cPSD| 58933639
Toocđai cho rằng tự nhiên ban cho mỗi con người một vốn nhất định, giáo dục cần phải bộc
lộ vốn đó là vốn gì và sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất. Ở phương Đông từng có quan
niệm: Cha mẹ sinh con trời sinh tính, hay người quân tử vốn sẽ là người quân tử còn kẻ tiểu
nhân mãi mãi là tiểu nhân (Khổng Tử) v.v… Cách hiểu này đã tạo ra sự phân hóa xã hội,
tạo ra sự bất bỉnh đẳng, phân chia giai cấp trong xã hội.
Để xem xét yếu tố di truyền ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
con người như thế nào, chúng ta cùng đề cập đến các nội dung sau:
b.1. Bẩm sinh, di truyền là gì?
Di truyền được hiểu là sự truyền lại của thế hệ trước cho thế hệ sau những đặc tính
sinh học. Sự di truyền này được thực hiện theo cơ chế mã hóa và giải mã các gen. Yếu tố
di truyền được thể hiện ở: (a) kiểu di truyền là tập hợp các đặc tính được di truyền, được kế
thừa từ một cá thể ở thế hệ trước, là khả năng tiềm tàng của cá thể như giới hạn về chiều
cao, màu mắt, màu da v.v...; (b) kiểu ngoại hình là tập hợp các đặc tính di truyền được mỗi
người thực sự thể hiện ra trong suốt cuộc đời. Kiểu ngoại hình là sự kết hợp giữa kiểu di
truyền với những trải nghiệm của chính cá nhân trong cuộc sống, làm biến đổi kiểu di
truyền. Do đó kiểu ngoại hình thường không trùng khớp với kiểu di truyền (hai đứa trẻ có
kiểu di truyền giống nhau về chiều cao và cân nặng, nhưng một trẻ được luyện tập thể thao
nhiều hơn sẽ có chiều cao cao hơn trẻ không được luyện tập. Ngược lại, hai trẻ có nhiều
điểm bề ngoài giống nhau (kiểu ngoại hình giống nhau), nhưng thực ra chúng có hai kiểu
di truyền khác nhau. Quá trình di truyền có thể bị biến đổi (biến dạng), do sự tham gia của
quá nhiều hoặc quá ít nhiễm sắc thể (NST) và thường dẫn đến gen bị hỏng. Gen hỏng có
thể gây ra các bệnh bẩm sinh ở thế hệ sau như Hội chứng Down (bất thường NST thứ 21),
gây chậm phát triển trí tuệ và kém khả năng miễn dịch. Hội chứng Turner (chỉ có một NST
giới tính X). Người phụ nữ mắc chứng Turner sẽ bị lùn, chậm trí tuệ v.v... Hiện nay, một số
bệnh trong các bệnh do lỗi gen có thể chẩn đoán sớm và có thể khắc phục được.
Bẩm sinh là những đặc tính của cá thể có ngay từ khi mới sinh và tồn tại tương đối lOMoAR cPSD| 58933639
ổn định trong suốt cuộc đời của cá thể đó. Cần phân biệt yếu tố bẩm sinh (sinh ra đã có và
sẽ có do yếu tố di truyền) với các thay đổi của cơ thể do yếu tố ngoại cảnh như trẻ bị nhiễm
phóng xạ, thiếu iôt, các chấn thương trong và sau khi sinh v.v… Những biến đổi đó cũng
ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của cá nhân, nhưng chúng không phải là bẩm sinh.
b.2. Bẩm sinh, di truyền đối với sự phát triển tâm lý cá nhân
Yếu tố di truyền đóng vai trò chính yếu trong sự phát triển của cơ thể người nhưng
không quy định trực tiếp nội dung tâm lý cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển
tâm lý cá nhân. Yếu tố di truyền được khúc xạ và phát động thông qua hoạt động và giao
tiếp của cá nhân. Điều này được thể hiện qua các điểm sau:
- Yếu tố bẩm sinh, di truyền không quy định sự phát triển tâm lý mà chỉ đặt ra trước chủ
thể các khả năng khác nhau và việc phát triển các khả năng này tùy thuộc vào chủ thể
và hoạt động của chủ thể đó.
- Khi sinh ra trẻ được kế thừa các yếu tố sinh lý thần kinh có tính bẩm sinh ban đầu tạo
ra sự khác biệt ban đầu của cá nhân về sự phát triển. Trên cơ sở này, khi trẻ được tạo
điều kiện thuận lợi thì trẻ có thể phát triển tốt, còn ngược lại có thể bị thui chột hay phát
triển theo hướng khác. Như vậy, yếu tố sinh lý thần kinh không chỉ là tiềm năng phát
triển mà còn là sản phẩm của chính hoạt động của trẻ trong các môi trường sống khác nhau.
Yếu tố bẩm sinh di truyền tạo ra tiềm năng cho sự phát triển, góp phần quy định
chiều hướng, tốc độ, hiệu quả và mức độ hoạt động của cá nhân được thể hiện qua các khía cạnh sau:
- Bẩm sinh di truyền ảnh hưởng đến tốc độ và mức độ phát triển, biểu hiện đến các lĩnh
vực liên quan đến cơ chế hoạt động thần kinh, hệ nội tiết, các chức năng sinh lý như khí chất, cảm xúc v.v…
- Bẩm sinh di truyền ảnh hưởng đến sự tương đồng và khác biệt về cá nhân trong quá
trình phát triển (về chỉ số IQ, anh em sinh đôi cùng trứng được nuôi dưỡng ở môi trường
khác nhau vẫn cho tính tương đồng cao).
- Các yếu tố di truyền (cấu trúc thần kinh, hệ nội tiết, cấu trúc cơ thể v.v…) sẽ tạo điều
kiện thuận lợi hoặc hạn chế cho quá trình phát triển. Có những trẻ có yếu tố di truyền
tích cực sẽ phát triển các năng khiếu trong các lĩnh vực khác nhau (thể thao, nghệ thuật, lOMoAR cPSD| 58933639
âm nhạc v.v...). trong khi đó những yếu tố di truyền hạn chế (chậm thần kinh, suy nhược
cơ thể v.v..) gây khó khăn cho sự phát triển tâm lý cá nhân.
- Yếu tố di truyền không tác động trực tiếp và riêng rẽ tới sự phát triển của cá nhân mà
bao giờ cũng tác động gián tiếp thông qua hoạt động của cá nhân, trong sự tương tác và
kết hợp với môi trường.
Tóm lại, điều kiện di truyền là tiền đề vật chất của sự phát triển tâm lý người. Điều
kiện sinh học này là cơ sở vật chất, cơ sở di truyền mà trẻ nhận được từ cha mẹ mình. Đó
là cấu tạo giải phẫu sinh lí và những đặc điểm của cơ thể như màu da, màu mắt, hình vóc
v.v… Đặc biệt là đặc điểm hệ thần kinh và những đặc điểm đặc trưng của loài người như
mầm mống của tư duy, ngôn ngữ. Các nhà tâm lí học macxit khẳng định, điều kiện sinh học
là cơ sở vật chất của sự phát triển tâm lí người, nó quy định chiều hướng, nhịp độ, tốc độ
phát triển tâm lí trẻ em.
Yếu tố di truyền góp phần tạo ra sự thuận lợi hoặc khó khăn hơn cho quá trình phát
triển tâm lý. Những đứa trẻ có tư chất tốt sẽ có khả năng phát triển thuận lợi hơn những đứa
trẻ khác (về một lĩnh vực nào đó). Song để phát triển được những yếu tố bẩm sinh di truyền
này, đứa trẻ phải có môi trường giáo dục thuận lợi.
Sự hình thành cấu trúc tâm lý mới là kết quả của chức năng phản ánh hiện thực của
chủ thể. Sự phản ánh này phụ thuộc vào hệ thần kinh, vào sự trưởng thành của cơ thể và
mức độ hoạt động của cơ thể. Mức độ phát triển tâm lí phải phù hợp với sự trưởng thành
của cơ thể. Nếu sự phù hợp này bị phá vỡ sẽ dẫn đến bất bình thường trong quá trình phát
triển của cá nhân (chậm hoặc phát triển sớm về tâm lí so với sự phát triển của cơ thể).
c. Sự phát triển tâm lý phụ thuộc vào tính tích cực hoạt động của chủ thể
Tâm lý người chỉ hình thành và phát triển thông qua hoạt động tích cực của chủ thể.
Các nhà tâm lí học macxit khẳng định rằng, tâm lí con người được hình thành và phát triển
thông qua hoạt động và giao lưu. Các đối tượng, phương tiện và động cơ hoạt động cũng
như những quan hệ xã hội chứa đựng trong nó, những sản phẩm vật chất hay tinh thần đều
là những vật ' mang tâm lí người'', nên qua hoạt động “tâm lý” này thấm vào đứa trẻ hình
thành nên bộ mặt tâm lí của nó.
Tâm lí của trẻ em phát triển đến mức nào phụ thuộc khá lớn vào tính tích cực hoạt lOMoAR cPSD| 58933639
động của trẻ, vào sự giáo dục của người lớn. Hoạt động theo xu hướng nào tạo ra xu hướng
ấy trong sự phát triển tâm lý và mức độ sâu rộng của hoạt động tạo ra mức độ sâu rộng của sự phát triển tâm lý.
Sự hình thành và phát triển tâm lý của con người là kết quả của sự tương tác giữa
hoạt động của cá nhân với hai yếu tố là di truyền và môi trường sống của cá nhân. Hoạt
động được xem như là sự tác động qua lại giữa chủ thể - khách thể và sự tác động qua lại
này để lại dấu ấn ở cả hai phía. Hoạt động có ý nghĩa vô cùng quan trọng với đời sống cá
nhân, là yếu tố quyết định đến sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân được thể hiện qua các nội dung sau:
- Hoạt động là đơn vị của đời sống cá nhân, là phương thức tồn tại và phát triển của cá
nhân và xã hội. Giống như tế bào là đơn vị tạo nên cơ thể sống của cá thể, thì hoạt động
là đơn vị tạo nên toàn bộ đời sống tâm lý của cá nhân. Sự phát triển tâm lý của cá nhân
được đặc trưng bởi sự biến đổi liên tục và chuyển hóa lẫn nhau của các hoạt động để
đáp ứng những chức năng nhất định của nó. Trong các dòng hoạt động đó thì dòng hoạt
động chủ đạo giữ vai trò quyết định nhất.
- Hoạt động là khâu trung gian giữa chủ thể với đối tượng, có chức năng là phương tiện
để chủ thể tác động lên đối tượng, đồng thời là sự phản ánh tâm lý và hướng dẫn chủ
thể trong thế giới đối tượng. Bằng hoạt động, con người tác động vào thế giới sẽ làm
diễn ra sự phản ánh tâm lý, hình thành ở chủ thể biểu tượng ban đầu về thuộc tính của
khách thể và biểu tượng này hướng chủ thể tiếp tục đi sâu vào thế giới đối tượng, làm
cho bản chất của đối tượng được bộc lộ rõ và khi đó chủ thể phán ánh, tiếp thu những
đặc tính của đối tượng biến thành tâm lý của chính mình (chủ thể hóa). Tuy nhiên, khi
con người đạt đến một trình độ tâm lý nhất định thì con người chuyển hóa năng lực của
mình (kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ v.v...) vào đối tượng làm bộc lộ bản chất của
đối tượng và biến đối tượng thành vật khác, sản phẩm mới (khách thể hóa). Như vậy,
hoạt động là phương tiện để cá nhân và đối tượng tác động với nhau. Trong đó, một mặt
cá nhân cải tạo và sáng tạo ra thế giới, mặt khác, cải tạo và điều chỉnh tâm lý của chính bản thân mình. lOMoAR cPSD| 58933639
- Hoạt động bao giờ cũng diễn ra trong sự tương tác với người khác. Hoạt động bao giờ
cũng được đặt trong các mối quan hệ giao tiếp xã hội với người khác, có thể là giao tiếp
trực tiếp hay giao tiếp gián tiếp và luôn chịu sự chế ước của các quan hệ đó.
Mối quan hệ của ba yếu tố trong quá trình phát triển tâm lý người
Ba yếu tố di truyền, môi trường và hoạt động của chủ thể luôn có sự tác động biện
chứng lẫn nhau. Mỗi yếu tố giữ một vị trí quan trọng khác nhau trong sự phát triển tâm lý
cá nhân song lại thống nhất với nhau để tạo nên sự toàn diện tâm lý cá nhân. Xét theo “chiều
dọc” của sự phát triển tâm lý của trẻ, yếu tố di truyền được xem là yếu tố nền tảng đầu tiên
cho sự phát triển, nếu yếu tố nền tảng này tốt sẽ có thể thúc đẩy cho sự phát triển nhanh và
đạt kết quả cao hơn, ngược lại sẽ làm hạn chế, kiềm chế sự phát triển tâm lý của trẻ. Yếu tố
môi trường được xem như là điều kiện cho sự phát triển. Điều kiện môi trường thuận lợi sẽ
giúp cho sự phát triển tâm lý cá nhân tốt hơn và ngược lại, môi trường không thuận lợi sẽ
kiềm chế, hạn chế phát triển. Môi trường như một mảnh đất để gieo hạt giống, mảnh đất tốt
thì hạt giống nảy mầm và phát triển nhanh hơn, còn ngược lại sẽ làm cho hạt giống chậm
nảy mầm, cây bị còi cọc hơn khi phát triển. Yếu tố hoạt động của chủ thể được xem là yếu
tố quyết định cho sự phát triển, chủ thể tích cực hoạt động theo xu hướng nào sẽ tạo ra đời
sống tâm lý theo xu hướng đó, mang tính điển hình hơn. Tuy nhiên, khi xem xét mối quan
hệ của ba yếu tố này cần chú đến các nội dung: (a) sự tương tác của ba yếu tố này trong
mỗi giai đoạn có những khác nhau; (b) không được nhấn mạnh một yếu tố nào đó mà bỏ
qua yếu tố khác, cần phải tiến hành giáo dục, phát triển tổng hợp cả ba yếu tố trên.
d. Quy luật về tính tiệm tiến, theo trình tự và nhảy vọt theo các giai đoạn
Sự phát triển tâm lý diễn ra một cách tiệm tiến nghĩa là dần dần tích lũy các kinh
nghiệm và khi đạt đến một lượng nhất định sẽ dẫn đến sự nhảy vọt, biến đổi về chất sang một giai đoạn cao hơn.
Trong nghiên cứu của J. Piaget, quy luật này được thể hiện trong sự đồng hóa và
điều ứng (tiếp nhận thông tin vào cấu trúc đã có – thích nghi các thông tin, tạo sự cân bằng)
qua đó dẫn đến biến đổi cấu trúc đã có tạo ra cái mới (nhảy vọt) dẫn đến sự thăng bằng. Sự
phát triển các cấu trúc tâm lí theo cách tăng dần về số lượng (tăng trưởng) và đột biến (phát
triển, biến đổi về chất). Các nghiên cứu của S. Freud và E. Erikson cho thấy sự phát triển