Chương 1: Tổng quan về thương mại điện tử | Thương mại điện tử | Đại học Thương mại

Chương 1: Tổng quan về thương mại điện tử | Thương mại điện tử | Đại học Thương mại được trình bày khoa học, chi tiết giúp cho các bạn sinh viên chuẩn bị bài một cách nhanh chóng và đầy đủ. Các bạn xem, tải về ở bên dưới.

lOMoARcPSD|4053484 8
Chương 1. Tổng quan về thương mại điện tử
1.1. Sự hình thành phát triển của thương mại điện tử
1.1.1. Quá trình hình thành thương mại điện tử
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, việc trao đổi dữ liệu điện tử và thư tín điện tử (e-
mail) đã được nhiều doanh nghiệp trên thế giới thực hiện trên các mạng nội bộ
(intranet) của mình. Cũng trong khoảng thời gian này, việc tự động hoá trong ngành
công nghiệp dịch vụ tài chính bắt đầu hình thành phát triển, chẳng hạn như quá
trình xử séc ra đời vào những năm 60 của thế kỷ XX, tiếp theo quá trình xử thẻ
tín dụng chuyển tiền điện tử. Tiếp đó sự ra đời của các trạm giao dịch tự động
cho phép khách hàng thể thực hiện giao dịch truy cập trực tiếp tới các thông tin
về tài khoản của mình. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều hệ thống giao dịch tự
động được đưa vào hoạt động với việc sử dụng các thiết bị giao dịch tự động (ATMs -
Automatic Teller Machines) các thiết bị điểm bán hàng (Point-of-Sale machines).
Khái niệm chuyển tiền số hoá hay chuyển tiền điện tử giữa các ngân hàng các tổ
chức tài chính ra đời và phát triển cho đến ngày nay.
Tuy nhiên, khi nói tới sự hình thành phát triển của TMĐT, trước hết người ta
gắn với sự ra đời phát triển của Internet. Internet mạng lưới máy tính rộng lớn
gồm nhiều mạng máy tính nằm trải rộng khắp toàn cầu; từ các mạng lớn chính
thống như mạng của các trường đại học, các viện nghiên cứu, các công ty như
Microsoft, AT&T, Digital Equipment,... đến các mạng nhỏ không chính thống khác
(của các nhóm hoặc của một nhân nào đó). Ngày càng nhiều mạng máy tính
mọi nơi trên thế giới được kết nối với Internet.
Internet bắt nguồn từ một dự án do quan quản các dự án nghiên cứu cao cấp
(ARPA - Advanced Research Projects Agency) thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ khởi xướng
năm 1969, với mục tiêu tạo ra một mạng máy tính tin cậy kết nối giữa Bộ Quốc phòng
Mỹ với các nhà thầu nghiên cứu khoa học quân sự (bao gồm một số lớn các trường
đại học, nơi tiến hành các hoạt động nghiên cứu quân sự).
Mục tiêu hình thành mạng máy tính tin cậy này bao gồm việc thiết lập hệ thống
đường dẫn năng động, đảm bảo rằng trong trường hợp nếu một liên kết mạng nào đó
bị phá huỷ do các cuộc tấn công thì lưu thông trên mạng thể tự động chuyển sang
những liên kết khác. Cho đến nay, Internet hiếm khi bị tấn công, nhưng những sự cố
do cáp bị cắt đứt lại thường xảy ra. Do đó, đối với Internet, việc quan trọng cần đề
phòng cáp bị đứt.
Đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX, dự án trên thành công mạng ARPANET - tiền
thân của mạng Internet - ra đời. Thành công của mạng ARPANET khiến cho nhiều
1
lOMoARcPSD|4053484 8
trường đại học của Mỹ muốn gia nhập mạng này. Năm 1974, do nhiều mạng của các
trường đại học các quan nghiên cứu được kết nối với ARPANET nên người ta
gọi "Internet" (liên mạng), vậy, vẫn được gọi ARPANET. Cho đến năm
1980, do số lượng các địa điểm trường đại học trên mạng quá lớn ngày càng tăng
lên khiến cho trở nên khó quản lý, Bộ Quốc phòng Mỹ quyết định tách thành hai
mạng: MILNET cho quân sự một mạng ARPANET mới, nhỏ hơn dành cho các địa
điểm phi quân sự. Tuy nhiên, hai mạng này vẫn được liên kết với nhau nhờ một
chương trình kỹ thuật gọi giao thức Internet (IP - Internet Protocol) cho phép lưu
thông được dẫn từ mạng này sang mạng kia khi cần thiết. Tuy lúc đó chỉ hai mạng
nhưng kỹ thuật IP được thiết kế cho phép khoảng 10.000 mạng hoạt động. Các mạng
được kết nối dựa trên kỹ thuật IP đều thể sử dụng để giao tiếp, nên các mạng
này đều thể trao đổi các thông điệp với nhau.
Đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, để phục vụ hoạt động nghiên cứu trong cả nước,
Quỹ Khoa học quốc gia Mỹ (NSF - National Science Foundation) quyết định thành
lập năm trung tâm siêu máy tính để các nhà nghiên cứu trên khắp đất nước thể gửi
chương trình của họ tới đó tính toán rồi gửi kết quả trở lại thông qua ARPANET.
Song, kế hoạch sử dụng ARPANET cho mục đích này không thực hiện được một
số do kỹ thuật chính trị. vậy, NSF đã thiết lập một mạng riêng NSFNET -
để kết nối với các trung tâm siêu tính toán. Sau đó, NSF dàn xếp, thiết lập một chuỗi
các mạng khu vực nhằm liên kết những người sử dụng trong từng khu vực với
NSFNET với các khu vực khác. Ngay lập tức, NSFNET đã phát huy tác dụng. Trên
thực tế, cho đến năm 1990, rất nhiều doanh nghiệp đã chuyển từ ARPANET sang
NSFNET. ARPANET ngày càng trở nên không còn hữu ích nữa đã bị loại bỏ sau
gần 20 năm hoạt động.
Cùng thời gian này, các mạng sử dụng kỹ thuật IP cũng xuất hiện tại nhiều nước,
đặc biệt sự ra đời của mạng EUnet kết nối trực tiếp giữa Lan, Đan Mạch, Thụy
Điển, Anh.
Năm 1985, mạng NSFNET được kết nối với hệ thống máy tính cao tốc xuyên quốc
gia dẫn tới sự bùng nổ sử dụng Internet. Năm 1989, mạng EUnet (châu Âu) mạng
AUSSIBnet (Úc) cũng được kết nối với Internet. tới năm 1995, với 3,2 triệu máy
tính, 42 triệu người từ 42.000 mạng máy tính của 84 nước trên thế giới được kết nối
với Internet, Internet chính thức được công nhận mạng máy tính toàn cầu (mạng của
các mạng). Đây cũng mốc đánh dấu sự ra đời của TMĐT. Cuối năm 1997, mạng
máy tính Việt Nam được kết nối thành công với mạng Internet. Sự kiện này thể
được coi thời điểm ra đời của thương mại điện tử Việt Nam.
1.2.1. Một số thuật ngữ, cách hiểu khái niệm thương mại điện tử
2
lOMoARcPSD|4053484 8
Từ khi các ứng dụng của Internet được khai thác nhằm phục vụ cho mục đích
thương mại, nhiều thuật ngữ khác nhau đã xuất hiện để chỉ các hoạt động kinh doanh
điện tử trên Internet như: “thương mại điện tử” (electronic commerce hay e-
commerce); "thương mại trực tuyến" (online trade); "thương mại điều khiển học"
(cyber trade); "thương mại không giấy tờ" (paperless commerce hoặc paperless trade);
“thương mại Internet” (Internet commerce) hay “thương mại số hoá” (digital
commerce). Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ sử dụng thống nhất một thuật ngữ
“thương mại điện tử(electronic commerce), thuật ngữ được dùng phổ biến trong tài
liệu của các tổ chức trong ngoài nước cũng như trong các tài liệu nghiên cứu khác.
Ban đầu, khi thuật ngữ “thương mại điện tử” xuất hiện đã nhiều cách hiểu theo
các góc độ nghiên cứu khác nhau như sau:
Công nghệ thông tin: Từ góc độ công nghệ thông tin, TMĐT quá trình phân
phối hàng hóa, dịch vụ, thông tin hoặc các thanh toán thông qua các mạng máy tính
hoặc bằng các phương tiện điện tử khác.
Thương mại: Từ góc độ thương mại, TMĐT cung cấp những khả năng mua, bán
hàng hóa, dịch vụ thông tin thông qua Internet các dịch vụ trực tuyến khác.
Quá trình kinh doanh: Từ góc độ quá trình kinh doanh, TMĐT đang thực hiện
kinh doanh điện tử bằng cách hoàn thành quá trình kinh doanh thông qua mạng điện
tử và với cách ấy sẽ dần thay thế cách thức kinh doanh vật thể thông thường.
Dịch vụ: Từ góc độ dịch vụ, TMĐT công cụ thông qua đó thể đáp ứng
được những mong muốn của chính phủ, các doanh nghiệp, người tiêu dùng, các nhà
quản để cắt giảm giá dịch vụ trong khi vẫn không ngừng nâng cao chất lượng phục
vụ khách hàng và gia tăng tốc độ phân phối dịch vụ.
Giáo dục: Từ góc độ giáo dục, TMĐT tạo khả năng đào tạo giáo dục trực
tuyến các trường phổ thông, đại học các tổ chức khác bao gồm cả các doanh
nghiệp.
Hợp tác: Từ góc độ hợp tác, TMĐT khung cho sự hợp tác bên trong bên
ngoài tổ chức.
Cộng đồng: Từ góc độ cộng đồng, TMĐT cung cấp một địa điểm hợp nhất cho
những thành viên của cộng đồng để học hỏi, trao đổi và hợp tác.
Hiện nay, nhiều định nghĩa về TMĐT. Dưới đây giới thiệu một số định nghĩa
TMĐT phổ biến.
Theo Emmanuel Lallana, Rudy Quimbo, Zorayda Ruth Andam, (ePrimer: Giới
thiệu về TMĐT, Philippines: DAI-AGILE, 2000) TMĐT việc sử dụng các phương
tiện truyền thông điện tử công nghệ xử thông tin số trong giao dịch kinh doanh
3
lOMoARcPSD|4053484 8
nhằm tạo ra, chuyển tải định nghĩa lại mối quan hệ để tạo ra các giá trị giữa các
tổ chức và giữa các tổ chức và các nhân”.
Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về TMĐT: TMĐT được hiểu việc thực hiện
hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. dựa trên việc xử truyền
dữ liệu điện tử dưới dạng văn bản, âm thanh hình ảnh”.
Theo Anita Rosen, (Hỏi đáp về TMĐT USA: American Management
Association, 2000), “TMĐT bao hàm một loạt hoạt động kinh doanh trên mạng đối
với các sản phẩm dịch vụ” hoặc Thomas L. (Mesenbourg, Kinh doanh điện tử:
Định nghĩa, khái niệm kế hoạch thực hiện), đưa ra định nghĩa: TMĐT thường
đồng nghĩa với việc mua bán qua Internet, hoặc tiến hành bất cứ giao dịch nào liên
quan đến việc chuyển đổi quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hoá hoặc dịch vụ
qua mạng máy tính”. Định nghĩa này chỉ hẹp cho những giao dịch qua mạng máy
tính hoặc mạng Internet.
Tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế của Liên Hợp quốc (OECD) đưa ra định
nghĩa TMĐT: TMĐT được định nghĩa bộ các giao dịch thương mại dựa trên
truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet”.
Tổ chức Thương mại thế giới WTO định nghĩa: TMĐT bao gồm việc sản xuất,
quảng cáo, bán hàng phân phối sản phẩm được mua bán thanh toán trên mạng
Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được giao nhận
cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet”.
Như vậy, khái niệm “thương mại điện tử” được hiểu theo nghĩa rộng nghĩa hẹp.
Nghĩa rộng hẹp đây phụ thuộc vào cách tiếp cận rộng hẹp của hai thuật ngữ
"thương mại" và "điện tử".
Bảng 1.4: TMĐT theo nghĩa rộng nghĩa hẹp
TMĐT
Phương tiện điện tử (PTĐT)
Nghĩa rộng
Nghĩa hẹp
Thương
mại
Nghĩa
rộng
1- TMĐT toàn bộ các giao
dịch mang tính thương mại
được tiến hành bằng các
PTĐT
3- TMĐT toàn bộ các giao dịch mang
tính thương mại được tiến hành bằng
các PTĐT chủ yếu các mạng
truyền thông, mạng máy tính Internet
Nghĩa
hẹp
2- TMĐT các giao dịch
mua bán được tiến hành bằng
các PTĐT
4- TMĐT các giao dịch mua bán
được tiến hành bằng mạng Internet
Theo định nghĩa này, khái niệm “Thương mại Internet” khái niệm nội m hẹp hơn
khái niệm “TMĐT”.
4
lOMoARcPSD|4053484 8
Từ các định nghĩa trên sau khi xem xét khái niệm TMĐT theo nghĩa rộng hẹp,
thể đưa ra một định nghĩa mang tính tổng quát về thương mại điện tử, được sử dụng chính
thức trong giáo trình này, theo đó Thương mại điện tử việc tiến hành các giao dịch
thương mại thông qua mạng Internet, các mạng truyền thông các phương tiện điện tử
khác”
đây, giao dịch thương mại cần hiểu theo nghĩa rộng được đưa ra trong Luật mẫu về
TMĐT của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL): Thuật ngữ
Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi
quan hệ mang tính chất thương mại hay không hợp đồng. Các quan hệ mang nh
thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: Bất cứ giao dịch nào về thương mại nào về cung
cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại thương
mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; vấn; kỹ thuật công
trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc nhượng; liên
doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa
hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ”.
Luật mẫu không định nghĩa TMĐT trực tiếp nhưng theo cách hiểu trên thì phạm vi của
TMĐT rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa
dịch vụ chỉ một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của TMĐT. Hoạt động các giao dịch
thương mại được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin liên lạc đã tồn tại hàng chục
năm nay đạt tới doanh số hàng tỷ USD mỗi ngày. Về bản chất, TMĐT không khác TMTT
nhưng được dựa trên chủ yếu các PTĐT.
1.2.2. Đặc điểm của thương mại điện tử
Thương mại điện tử một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, TMĐT một phương thức thương mại sử dụng các PTĐT
1
để tiến hành các
giao dịch thương mại. Việc sử dụng các PTĐT cho phép các bên thực hiện các hoạt động
mua, bán, chuyển giao, trao đổi các thông tin” về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ… dễ dàng.
Các thông tin” được hiểu bất cứ thể truyền tải bằng kỹ thuật điện tử như thư điện tử,
thông điệp điện tử, các tập tin văn bản, các sở dữ liệu, các bảng tính (spreadsheet), các bản
vẽ thiết kế bằng máy tính điện tử (computer-aid design: CAD), các hình đồ họa (graphical
image), quảng cáo, chào hàng, hóa đơn, biểu giá, hợp đồng, hình ảnh động (flash), video, âm
thanh, v.v... Việc trao đổi thông tinqua mạng máy tính Internet giúp các bên giao dịch
cung cấp, truyền tải các nội dung giao dịch không cần phải in ra giấy trong bất kỳ công
đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch. dụ: Amazon.com kinh doanh rất nhiều sản phẩm
như đồ điện tử, băng đĩa nhạc... chủ yếu các loại sách, trụ sở đặt tại Seattle,
1 Các PTĐT các phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số,
từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự. Hiện nay các
PTĐT được sử dụng trong TMĐT gồm: Điện thoại, máy điện báo (Telex) máy fax, phát
thanh, truyền hình, thiết bị thuật số… đặc biệt chủ yếu nhất các Mạng máy tính
Internet (www).
5
lOMoARcPSD|4053484 8
Washington (Mỹ) nhưng không có bất cứ một cửa hàng vật nào. Việc bán sách của công ty
được thực hiện trực tiếp qua mạng Internet, hoạt động cung ứng được thực hiện trên sở
phối hợp trực tiếp giữa công ty với các nhà xuất bản.
Thứ hai, TMĐT liên quan mật thiết đến TMTT phụ thuộc sự phát triển mạng máy
tính Internet. TMĐT liên quan mật thiết với TMTT, các giao dịch TMĐT được thực
hiện trên sở các giao dịch TMTT, nhiều công việc quá trình giao dịch TMĐT liên
quan đến TM truyền thống. Tuy nhiên, khác với các giao dịch TMTT được tiến hành trên
giấy, qua điện thoại, những người đưa tin, bằng xe tải, máy bay các phương tiện khác, các
giao dịch TMĐT chủ yếu được tiến hành trên các mạng máy tính điện tử. thế, giao dịch
TMĐT phụ thuộc sự phát triển mạng máy tính Internet. Tuy nhiên, khi xây dựng các
hình giao dịch trên mạng máy tính Internet, một số yếu tố, chủ thể, quy trình kinh doanh
trong TMTT thể được điều chỉnh, những ưu điểm lợi ích của CNTT được ứng dụng
trong TMĐT cho phép giao dịch TMĐT linh hoạt hơn (có thể thực hiện 24/7, phản hồi nhanh
chóng…) đồng thời loại bỏ những hạn chế của TMTT (cản trở vật lý, địa lý, thông tin).
Thứ ba, TMĐT được nghiên cứu gồm bốn nhóm hoạt động chủ yếu mua, bán, chuyển
giao trao đổi các đối tượng sản phẩm, dịch vụ thông tin. Ngoài ra, còn bao gồm các
hoạt động hỗ trợ các hoạt động trên như: marketing, quảng cáo, xúc tiến trên mạng, thanh
toán điện tử, an toàn mạng giao dịch, đấu giá, dịch vụ hỗ trợ CNTT… hỗ trợ việc chào bán,
cung cấp các dịch vụ khách hàng hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thông tin, liên lạc
giữa các đối tác kinh doanh.
Thứ , “Thương mại điện tử” thuật ngữ mang tính lịch sử. Không thể định nghĩa
duy nhất về TMĐT bởi các công nghệ mới thường xuyên ra đời được khai thác trong kinh
doanh. ngay đối với những công nghệ hiện tại, chúng ta cũng chưa chắc đã khai thác
ứng dụng hết những khả năng nó mang lại.
1.2.3. TMĐT kinh doanh điện tử (KDĐT)
Hai khái niệm TMĐT KDĐT trong nhiều trường hợp bị sử dụng lẫn lộn, thay thế cho
nhau. Về bản chất, giữa chúng sự khác nhau nhất định. Theo Andrew Bartel
2
, TMĐT bao
gồm các trao đổi giữa các khách hàng, đối tác doanh nghiệp người bán hàng, dụ giữa
nhà cung ứng nhà sản xuất, giữa khách hàng với đại diện bán hàng, giữa nhà cung ứng vận
tải nhà phân phối hàng hoá. KDĐT bao hàm tất cả các yếu tố trên, ngoài ra, KDĐT còn
bao hàm các hoạt động xảy ra bên trong doanh nghiệp, dụ: sản xuất, nghiên cứu phát triển,
quản trị sản phẩm, quản trị nguồn nhân lực sở hạ tầng. bao gồm bất cứ quá trình nào
một tổ chức kinh doanh (hoặc phi lợi nhuận, hoặc tổ chức chính phủ, hoặc lợi
nhuận) thực hiện qua mạng máy tính. ba quá trình chính được tăng cường trong KDĐT:
Quá trình sản xuất, bao gồm việc mua hàng, đặt hàng cung cấp hàng vào kho, quá
trình thanh toán, các mối liên kết điện tử với nhà cung cấp quá trình quản sản xuất.
Quá trình tập trung vào khách hàng, bao gồm việc phát triển marketing, bán hàng qua
Internet, xử đơn đặt hàng của khách hàng thanh toán, hỗ trợ khách hàng
2 H.M. Deitel and others (2001), E-business & E-Commerce for managers, Prentice Hall, Tr.8
6
lOMoARcPSD|4053484 8
Quá trình quản nội bộ, bao gồm các dịch vụ tới nhân viên, đào tạo, chia sẻ thông tin
nội bộ, họp qua video tuyển dụng. Các ứng dụng điện tử tăng cường luồng thông tin giữa
việc sản xuất lực lượng bán hàng nhằm tăng sản lượng bán hàng. Việc trao đổi giữa các
nhóm làm việc việc đưa ra những thông tin kinh doanh nội bộ sẽ tạo được hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, trong các tài liệu cũng như trong thực tế ứng dụng, người ta thường đồng nhất
hai khái niệm trên sử dụng chúng thay thế cho nhau.
1.2.6. Phân loại TMĐT theo bản chất của các giao dịch hoặc các mối tương tác
Cách phân loại chung nhất của TMĐT theo bản chất của giao dịch hoặc mối quan hệ
giữa các bên tham gia. Người ta phân biệt các loại hình TMĐT bản như sau:
TMĐT giữa các doanh nghiệp (B2B): Tất cả những bên tham gia trong TMĐT giữa các
doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp, hoặc các tổ chức. dụ, các giao dịch giữa công
ty Dell Marks & Spencer các nhà cung ứng của họ. Ngày nay, hơn 85% khối lượng
TMĐT trên thế giới B2B
3
Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp người tiêu dùng (B2C): TMĐT B2C bao gồm
các giao dịch bán lẻ hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp đến khách hàng nhân
các hộ gia đình, những người tiêu dùng cuối cùng. Nội dung chủ yếu của loại hình TMĐT
này bán lẻ điện tử.
Thương mại điện tử doanh nghiệp-doanh nghiệp-người tiêu dùng (B2B2C): Một trường
hợp đặc biệt của B2B. Một doanh nghiệp cung cấp một số sản phẩm hoặc dịch vụ cho một
khách hàng một doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp khách hàng tiếp theo sẽ cung cấp những
hàng hóa hoặc dịch vụ đó cho khách hàng của họ, cũng thể nhân viên của họ không
bổ sung giá trị. Một dụ cho hình thức này một công ty s trả cho AOL để tất cả các
nhân viên của công ty thể truy cập được vào Internet thay mỗi công nhân phải tự trả cho
AOL. Một dụ khác, các hãng hàng không du lịch chuyên cung cấp các dịch vụ du lịch
như máy bay, phòng nghỉ khách sạn sẽ bán cho các đối tác kinh doanh như các đại du
lịch, để rồi sau đó, các đại này sẽ bán các dịch vụ đó cho khách hàng. Một dụ cuối cùng,
công ty Godiva bán la cho các doanh nghiệp khách hàng. Các doanh nghiệp này sẽ biến
những thanh la đó thành những món quà cho nhân viên của mình hoặc cho các doanh
nghiệp khác. Như vậy, thuật ngữ B2B còn bao hàm cả B2B2C.
Người tiêu dùng-doanh nghiệp (C2B): Người tiêu dùng đây thể sử dụng Internet tiến
hành bán sản phẩm hoặc dịch vụ của mình cho các doanh nghiệp hoặc các nhân thông qua
hình thức đấu giá sản phẩm hoặc dịch vụ. Price.com dụ của loại giao dịch C2B.
Người tiêu dùng-người tiêu dùng (C2C): Người tiêu dùng này giao dịch trực tiếp với
người tiêu dùng khác. dụ về loại này một số nhân muốn bán một số tài sản riêng của
họ như bất động sản, ô tô, tranh nghệ thuật, đồ cổ v.v.. thì họ quảng cáo chúng trên những
trang web chuyên dụng. Quảng cáo các dịch vụ nhân thông qua trang web hay việc bán
kiến thức kinh nghiệm chuyên môn dụ khác về C2C. Ngoài ra nhiều trang web đấu
giá cho phép các nhân đưa đồ của mình lên để đấu giá.
3 Cunningham 2001
7
lOMoARcPSD|4053484 8
Các ứng dụng ngang hàng (P2P): Công nghệ ngang hàng thể được sử dụng trong
C2C, B2B B2C. Công nghệ này cho phép những máy tính ngang hàng đã được kết nối
thể chia sẻ các thư mục dữ liệu và xử trực tiếp với các máy khác. dụ, trong việc ứng
dụng ngang hàng C2C, mọi người thể trao đổi âm nhạc, video, phần mềm, các sản
phẩm số hóa khác bằng phương tiện điện tử.
Thương mại di động (Mobile Commerce): Giao dịch TMĐT các hoạt động được thực
hiện hoàn toàn hoặc một phần trong một môi trường không dây được xem như thương mại
di động. dụ, người ta thể sử dụng điện thoại di động kết nối Internet để giao dịch với
ngân hàng, đặt mua một cuốn sách Amazon.com. Rất nhiều ứng dụng của thương mại di
động liên quan đến các thiết bị di động. Nếu các giao dịch như vậy được hướng đến những
nhân những vị trí cụ thể, tại thời điểm cụ thể thì chúng được xem như thương mại trên
sở định vị. Một số người định nghĩa thương mại di động như những giao dịch được thực
hiện khi không nhà hay quan. Những giao dịch như vậy thể được thực hiện trên cả
hệ thống không dây hay dây.
TMĐT nội bộ doanh nghiệp: TMĐT bên trong doanh nghiệp bao gồm tất cả những hoạt
động bên trong tổ chức liên quan đến trao đổi hàng hóa, dịch vụ, thông tin nhiều đơn vị
các nhân trong tổ chức đó. Các hoạt động thể từ việc bán các nhóm sản phẩm tới các
nhân viên của công ty, tới các nỗ lực thiết kế hợp tác đào tạo trực tuyến. TMĐT trong
doanh nghiệp được thực hiện thông qua các mạng nội bộ hoặc cổng công ty (cổng để truy cập
vào website).
Doanh nghiệp-nhân viên (B2E): Loại hình TMĐT doanh nghiệp nhân viên một hệ
thống phụ của loại hình TMĐT nội bộ doanh nghiệp, trong đó tổ chức tiến hành phân phát
các dịch vụ, thông tin hay sản phẩm tới từng nhân viên như công ty. Một bộ phận lớn nhân
viên nhân viên di động, họ làm đại diện của doanh nghiệp tại các tổ chức doanh nghiệp
khác. TMĐT hỗ trợ cho các nhân viên như vậy được gọi B2ME (doanh nghiệp tới nhân
viên di động).
Thương mại hợp tác: Khi các nhân hoặc các nhóm trao đổi hoặc hợp tác trực tuyến, họ
đã tham gia trong thương mại hợp tác. dụ, các đối tác kinh doanh các địa điểm khác
nhau thể cùng nhau thiết kế sản phẩm, sử dụng cầu truyền hình, quản hàng tồn kho trực
tuyến n trong trường hợp của Dell Computers, hoặc cùng nhau dự đoán nhu cầu sản
phẩm như Marks & Spencer làm với nhà cung ứng của họ.
TMĐT phi kinh doanh: Số lượng các tổ chức phi kinh doanh đang dần tăng lên như các
viện hàn lâm, các tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức hội các đơn
vị chính phủ đang sử dụng TMĐT để giảm chi phí của họ hoặc để thúc đẩy các hoạt động
chung hoặc dịch vụ khách hàng.
Sẽ nhiều dụ về các loại giao dịch TMĐT được giới thiệu trong cuốn sách này.
1.2.7. Bản chất liên ngành của TMĐT
TMĐT một lĩnh vực mới, hiện đang phát triển các nền tảng luận khoa học của nó.
Từ những cái nhìn tổng quan về khung kết cấu phân loại TMĐT, chúng ta thể nhận
thấy rằng TMĐT liên quan đến nhiều ngành khác. Những ngành chính liên quan đến
8
lOMoARcPSD|4053484 8
TMĐT bao gồm: khoa học máy tính, hệ thống thông tin, toán học, kinh tế học, kinh doanh
học thương mại học.
1.3. Phạm vi chức năng của thương mại điện tử
1.3.1. Phạm vi của TMĐT
Phạm vi của TMĐT bao trùm nhiều lĩnh vực rộng lớn khác nhau. Một số lĩnh vực
bản liên quan trực tiếp đến TMĐT, theo ER&DCI
4
, được thể hiện trong hình sau:
Hình 1.3. Phạm vi của thương mại điện tử.
Trong nghiên cứu, học tập ứng dụng TMĐT đòi hỏi nhân phải những hiểu
biết nhất định về từng lĩnh vực, tuỳ vào điều kiện cụ thể đi sâu vào nghiên cứu một
lĩnh vực nào đó. dụ, việc thiết kế web TMĐT đòi hỏi nhân viên thiết kế phải
kiến thức về máy tính, an toàn bảo mật, kinh doanh học (hiểu biết kiến thức kinh
doanh)…
1.3.2. Chức năng của thương mại điện tử
Thương mại điện tử một số chức năng bản sau:
a) Chức năng truyền thông. Chức năng truyền thông nhằm mục đích phân phối
thông tin liệu phục vụ các giao dịch kinh doanh. dụ nhất về chức năng
4 Nguồn: ER&DCI (Electronic Commerce: State of the Art)
9
lOMoARcPSD|4053484 8
truyền thông thư điện tử. Thư điện tử phân phối thông tin liệu phục vụ các
giao dịch kinh doanh.
b) Chức năng quản trị quá trình. Chức năng quản trị quá trình bao gồm việc tự
động hoá cải thiện các quá trình kinh doanh, dụ nối mạng hai máy tính với nhau
sao cho chúng thể chia sẻ truyền dữ liệu tốt hơn lấy dữ liệu từ máy này
chuyển sang máy kia.
c) Chức năng quản trị dịch vụ. Đây việc ứng dụng công nghệ để cải thiện chất
lượng dịch vụ. dụ về chức năng này thể bất kỳ website của một công ty vận
tải nào. Website này cho phép khách hàng theo dõi hàng chuyên chở, lập thời gian
biểu thông tin về định vị hàng chuyên chở trên phạm vi toàn thế giới 24 giờ trong
ngày không cần tiếp xúc với đại diện của khách hàng. Dịch vụ khách hàng được
cải thiện rất nhiều nhờ các khả năng của site.
d) Chức năng giao dịch. Chức năng này cung cấp khả năng mua bán hoặc thực
hiện một số dịch vụ khác qua mạng Internet. Các website bán lẻ của Amazon.com
Drugstore.com những dụ tốt. Mục đích ban đầu của các site này bán các sản
phẩm của công ty, mặc họ kết hợp cả các chức năng khác như truyền thông
quản trị dịch vụ. Các ví dụ này cho thấy bốn chức năng không loại trừ lẫn nhau.
1.4. Lợi ích trở ngại của ứng dụng thương mại điện tử
Rất ít những sáng tạo nào trong lịch sử nhân loại lại đem lại nhiều lợi ích như
TMĐT. Bản chất toàn cầu của công nghệ, khả năng tiếp cận tới được hàng trăm triệu
người, tính tương tác, tính đa dạng trong khả năng sử dụng, nguồn lực phát triển
phong phú tốc độ phát triển nhanh của sở hạ tầng hỗ trợ, đặc biệt web, đem
đến nhiều lợi ích tiềm tàng cho các tổ chức, các nhân hội. Các lợi ích này mới
bắt đầu được vật chất hoá, nhưng chúng sẽ tăng lên nhanh chóng khi TMĐT được mở
rộng. Một số người cho rằng cuộc cách mạng TMĐT cũng sâu sắc như các biến đổi đã
xảy ra trong cuộc Cách mạng công nghiệp.
1.4.1. Lợi ích của ứng dụng TMĐT
Lợi ích của ứng dụng TMĐT được xem xét trên ba góc độ: lợi ích đối với tổ chức
(chủ yếu các doanh nghiệp), lợi ích đối với người tiêu dùng lợi ích đối với
hội.
a) Lợi ích của TMĐT đối với các tổ chức
- Tiếp cận toàn cầu: TMĐT mở rộng thị trường đến phạm vi quốc gia quốc tế.
Với một lượng đầu vốn không lớn, một công ty thể dễ dàng nhanh chóng xác
định các nhà cung ứng tốt nhất, nhiều khách hàng hơn, các đối tác kinh doanh phù hợp
nhất trên thế giới. Việc mở rộng sở khách hàng nhà cung ứng cho phép tổ chức
mua được rẻ hơn và bán được nhiều hơn.
10
lOMoARcPSD|4053484 8
- Giảm chi phí:
+ Chi phí tạo lập, xử lý, phân phối, bảo quản hiển thị thông tin: TMĐT tạo khả
năng giảm chi phí tạo lập, xử lý, phân phối, bảo quản hiển thị thông tin vốn
trước đây dựa trên sở giấy tờ. Các chi phí cao của việc in, gửi qua bưu chính được
giảm thiểu hoặc loại bỏ. Chi phí truyền thông trên sở Internet cũng rẻ hơn nhiều so
với chi phí truyền thông qua các mạng giá trị gia tăng.
+ Chi phí xây dựng, duy trì quản các cửa hàng vật lý: Tác động lớn nhất về
chi phí khi áp dụng TMĐT cho phép doanh nghiệp thể thay thế hàng loạt các cửa
hàng vật bằng những cửa hàng ảo-website TMĐT. Các cửa hàng ảo hoạt động liên
tục 24 giờ/ngày, 7 ngày/tuần cho phép doanh nghiệp thể phục vụ một lượng lớn
khách hàng toàn cầu không đòi hỏi chi phí quản ngoài giờ của nhân viên bán
hàng, chi phí kiểm kê hàng hoá.
+ Chi phí xử quản trị đơn hàng: Một tác động khác của TMĐT tới chi phí
tiêu thụ làm tăng tính hiệu quả trong cấu trúc các đơn đặt hàng. Điển hình trường
hợp của hai công ty lớn trên thế giới, General Electric (GE) Cisco Systems. Trước
khi áp dụng hình thức đặt hàng qua website, cả hai công ty này đều tới gần 1/4 các
đơn đặt hàng của họ phải sửa lại các lỗi, cụ thể đối với GE, số lượng này trên
1.00.00 đơn hàng. Từ khi cho phép khách hàng đặt hàng trực tiếp qua website, tỷ lệ
các đơn đặt hàng lỗi của cả hai công ty đều giảm xuống đáng kể, như của Cisco, tỷ lệ
này khoảng 2%
1
.
+ Tiết kiệm chi phí thông qua việc áp dụng các hình thức thanh toán trực tiếp qua
web cũng con số đáng kể đối với các doanh nghiệp KDĐT. Mặc khoản phí dịch
vụ ngân hàng cho việc thanh toán bằng séc giấy giữa các ngân hàng người bán
khá nhỏ, trung bình khoảng 1,20 USD cho một giao dịch thanh toán, thanh toán bằng
thẻ tín dụng thẻ ghi nợ trung bình chỉ khoảng 0,40 USD đến 0,60 USD, song chi
phí cho quá trình thanh toán qua Internet thể giảm xuống còn khoảng 0,01 USD
hoặc thấp hơn.
- Hoàn thiện chuỗi cung ứng: Một số khâu kém hiệu quả của chuỗi cung ứng, như
tồn kho quá mức, sự chậm trễ trong phân phối… thể được tối thiểu hoá với TMĐT.
dụ, bằng việc trưng bày catalog nhận đơn đặt hàng ô qua mạng thay cho
phòng giới thiệu sản phẩm của các đại lý, ngành công nghiệp ô thể tiết kiệm mỗi
năm hàng tỷ đô la chi phí tồn kho.
- Đáp ứng nhu cầu biệt của khách hàng: TMĐT cho phép nắm bắt nhu cầu, sản
xuất hàng hoá dịch vụ theo đơn đặt hàng của khách hàng với chi phí không cao
1 Xem: PriceWaterhouse Coopers: E-Business technology forecast, PriceWaterhouse
Coopers Technology Centre, California, 1999.
11
lOMoARcPSD|4053484 8
hoặc cao hơn không đáng kể so với sản xuất hàng loạt, qua đó tạo nên lợi thế cạnh
tranh của các doanh nghiệp theo đuổi chiến lược này (Ví dụ Công ty Dell).
- Xây dựng các hình kinh doanh mới: TMĐT tạo điều kiện ra đời các hình
kinh doanh sáng tạo, tạo nên các lợi thế chiến lược hoặc lợi ích cho doanh nghiệp.
- Chuyên môn hoá người bán hàng: TMĐT cho phép chuyên môn hoá mức độ
cao, điều đó về mặt kinh tế bất khả thi trong thế giới vật lý. dụ, một cửa hàng
chuyên bán đồ chơi cho chó (Dogtoys.com) thể tồn tại trong không gian ảo (mạng
Internet), nhưng trong thế giới vật một cửa hàng như vậy không thể đủ khách
hàng.
- Rút ngắn thời gian triển khai ý tưởng: TMĐT làm giảm thời gian từ khi bắt đầu
một ý tưởng đến khi thương mại hoá ý tưởng đó nhờ các quá trình truyền thông
hợp tác được cải thiện.
- Tăng hiệu quả mua hàng: TMĐT tạo khả năng mua sắm điện tử (e-procurement).
Mua hàng điện tử đến lượt mình làm giảm các chi phí hành chính đến 80% hoặc hơn
nữa, giảm giá mua từ 5 đến 10%, giảm chu trình thời gian mua hàng tới 50%.
- Cải thiện quan hệ khách hàng: TMĐT đem lại khả năng cho các công ty tương
tác chặt chẽ hơn với các khách hàng, kể cả trong trường hợp phải thông qua các trung
gian. Điều này cho phép nhân hoá truyền thông, sản phẩm dịch vụ, cải thiện
quản trị quan hệ khách hàng (CRM) tăng lòng trung thành của khách hàng.
- Cập nhật hoá liệu công ty: Bất kỳ liệu nào trên Web, như giá cả trong các
catalog đều thể điều chỉnh trong giây lát. Thông tin về công ty luôn được duy trì
một cách cập nhật.
- Các lợi ích khác: Các lợi ích khác thể cải thiện hình ảnh công ty, cải thiện
dịch vụ khách hàng, dễ dàng tìm kiếm các đối tác mới, đơn giản hoá các quá trình,
nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu công việc giấy tờ, tăng cường tiếp cận thông
tin, giảm thiểu các chi phí vận tải, tăng cường tính mềm dẻo trong tác nghiệp…
b) Lợi ích của TMĐT đối với người tiêu dùng
TMĐT đem lại các lợi ích sau đối với người tiêu dùng:
- Tính rộng khắp: TMĐT cho phép người tiêu dùng thể mua hoặc thực hiện các
giao dịch khác suốt cả năm, tất cả các giờ trong ngày từ bất cứ một địa điểm nào.
- Nhiều sự lựa chọn: TMĐT cho phép người tiêu dùng sự lựa chọn từ nhiều người
bán hàng, nhiều sản phẩm và dịch vụ hơn.
- Sản phẩm dịch vụ theo yêu cầu riêng biệt: Người tiêu dùng điều kiện đặt
mua hàng hoá dịch vụ với chủng loại đa dạng, (từ quyển sách đến chiếc ô tô) theo
các yêu cầu riêng của mình với giá cả không cao hơn hoặc không chênh lệch đáng kể
so với hàng hoá dịch vụ đại trà.
12
lOMoARcPSD|4053484 8
- Sản phẩm dịch vụ rẻ hơn: TMĐT mang đến cho người tiêu dùng khả năng
mua hàng hoá dịch vụ rẻ hơn người tiêu dùng thể tìm mua tiến hành so sánh
nhanh chóng hàng hoá và dịch vụ ở nhiều người bán khác nhau.
- Phân phối nhanh chóng: Trong trường hợp sản phẩm số, thời gian phân phối
không đáng kể.
- Thông tin sẵn tìm: Người tiêu dùng thể định vị thông tin sẵn chi tiết về
hàng hoá dịch vụ trong giây lát, khác với trong môi trường truyền thống phải mất
hàng ngày, hàng tuần lễ.
- Tham gia đấu giá: TMĐT đem đến cho người tiêu dùng khả năng tham gia trong
các hoạt động đấu giá ảo. Điều này cho phép người bán bán nhanh hàng hoá, người
mua thể xác định các sưu tập hàng hoá cần tìm kiếm.
- Cộng đồng điện tử: TMĐT cho phép các khách hàng này tương tác với các khách
hàng khác trong cộng đồng điện tử, chia sẻ các ý tưởng cũng như các kinh nghiệm.
- Bán hàng chưa phải nộp thuế: Tại nhiều nước, mua (bán) hàng qua mạng được
miễn thuế VAT.
c) Lợi ích của TMĐT đối với hội
- Thông tin liên lạc được cải thiện, nhờ vậy ngày càng nhiều người thể làm việc
tại nhà, giảm việc đi lại tới nơi công sở đi đến các cửa hàng mua sắm, giảm ách tắc
giao thông và ô nhiễm không khí.
- Góp phần tạo mức sống cao hơn: Một số loại hàng hoá thể bán với giá thấp
hơn, cho phép những người thu nhập thấp mua được nhiều hàng hoá, dịch vụ hơn, nhờ
vậy nâng cao mức sống. Những người sống nông thôn, với thu nhập thấp, nhờ
TMĐT thể tiếp cận thụ hưởng các loại hàng hoá dịch vụ trước kia chưa thể
nơi họ sống. Các hàng hoá dịch vụ này bao hàm cả các chương trình đào tạo
kiến thức bản và chuyên nghiệp.
- Nâng cao an ninh trong nước: Công nghệ TMĐT nâng cao an ninh nội địa nhờ
hoàn thiện truyền thông, sự phối hợp thông tin hành động…
- Tiếp cận các dịch vụ công: Các dịch vụ công như chăm sóc sức khoẻ, đào tạo,
các dịch vụ hành chính của chính phủ thể được thực hiện cung ứng với chi phí
thấp, chất lượng được cải thiện. dụ, TMĐT mang đến cho các bác sỹ, y nông
thôn khả năng tiếp cận các thông tin công nghệ mới, nhờ đó họ thể chữa bệnh
tốt hơn.
1.4.2. Các trở ngại của ứng dụng TMĐT
Các trở ngại đối với ứng dụng TMĐT được phân loại thành các trở ngại công nghệ
các trở ngại phi công nghệ.
a) Các trở ngại công nghệ
13
lOMoARcPSD|4053484 8
Hiện một số các trở ngại công nghệ phổ biến sau: Thiếu các tiêu chuẩn chung
về chất lượng, an ninh độ tin cậy; Băng thông viễn thông không đủ, đặc biệt cho
TMĐT di động; Sự phát triển các công cụ phần mềm mới bắt đầu triển khai; Khó tích
hợp Internet các phần mềm TMĐT với một số ứng dụng sẵn sở dữ liệu
(đặc biệt liên quan đến luật); Cần thiết một số máy chủ web bổ sung cho các máy
chủ mạng, điều này làm tăng chi phí ứng dụng TMĐT; Việc thực hiện các đơn đặt
hàng B2C trên quy lớn đòi hỏi các kho hàng tự động hoá chuyên dùng;
b) Các trở ngại phi công nghệ
Ngoài các trở ngại công nghệ, các trở ngại phi công nghệ cũng đặc biệt quan trọng
trong ứng dụng TMĐT. Các trở ngại phi công nghệ phổ biến là: các vấn đề an ninh
mật riêng hạn chế khách hàng thực hiện việc mua hàng; thiếu niềm tin vào
TMĐT; các vấn đề pháp luật chính sách công, bao gồm cả vấn đề đánh thuế trong
TMĐT chưa được giải quyết; Các quy định về quản quốc gia quốc tế đối với
TMĐT nhiều khi trong trình trạng không thống nhất; Khó đo đạc được lợi ích (hiệu
quả) của TMĐT, dụ hiệu quả của quảng cáo trực tuyến. Các công nghệ đo lường
chín muồi chưa được thiết lập; Nhiều khách hàng còn tâm muốn nhìn thấy, sờ thấy
trực tiếp sản phẩm, ngại thay đổi thói quen từ mua hàng các cửa hàng “vữa hồ
gạch”; Sự lừa đảo trên mạng xu hướng tăng; Khó tìm kiếm được bản đầu rủi
ro do nhiều công ty dot.com bị phá sản. Người dân còn chưa tin tưởng lắm vào môi
trường phi giấy tờ, giao dịch không theo phương thức mặt đối mặt. Trong một số
trường hợp số lượng người mua-bán trong TMĐT còn chưa đủ, hạn chế hiệu quả ứng
dụng TMĐT;
Theo một nghiên cứu năm 2000 của hãng CommerceNet (commerce.net), 10 hạn
chế bản nhất đối với TMĐT Mỹ, xếp theo thứ tự độ quan trọng giảm dần, tính
an toàn, độ tin cậy rủi ro, thiếu nhân lực trình độ chuyên môn cần thiết, thiếu các
hình kinh doanh, văn hoá, xác thực người sử dụng thiếu hạ tầng khoá công
cộng. Trong TMĐT thế giới, các vấn đề về văn hoá, luật pháp, ngôn ngữ, các chuẩn
công nghệ kỹ thuật được xem các trở ngại hàng đầu.
Mặc những hạn chế nhất định, TMĐT vẫn phát triển mạnh mẽ. dụ, số
lượng người mua bán chứng khoán qua PTĐT Mỹ tăng từ 300.000 người năm 1996
lên 25 triệu người vào quí I năm 2002 (emarketer.com). Tại Hàn Quốc, gần 60% các
giao dịch trên thị trường chứng khoán được thực hiện qua Internet vào quí II năm
2004 (Korean Times, 17/9/2004). Theo nghiên cứu của IDC (2000), số lượng các
khách hàng môi giới trực tuyến trên toàn thế giới đạt khoảng 122,3 triệu vào năm
2004, so với 76,7 triệu năm 2002. Khi kinh nghiệm TMĐT công nghệ được cải
thiện, tương quan chi phí/lợi nhuận sẽ tốt lên, thể hiện mức độ chấp nhận ứng dụng
TMĐT ngày càng cao.
14
| 1/14

Preview text:

lOMoARcPSD|40534848
Chương 1. Tổng quan về thương mại điện tử
1.1. Sự hình thành và phát triển của thương mại điện tử
1.1.1. Quá trình hình thành thương mại điện tử
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, việc trao đổi dữ liệu điện tử và thư tín điện tử (e-
mail) đã được nhiều doanh nghiệp trên thế giới thực hiện trên các mạng nội bộ
(intranet) của mình. Cũng trong khoảng thời gian này, việc tự động hoá trong ngành
công nghiệp dịch vụ tài chính bắt đầu hình thành và phát triển, chẳng hạn như quá
trình xử lý séc ra đời vào những năm 60 của thế kỷ XX, tiếp theo là quá trình xử lý thẻ
tín dụng và chuyển tiền điện tử. Tiếp đó là sự ra đời của các trạm giao dịch tự động
cho phép khách hàng có thể thực hiện giao dịch và truy cập trực tiếp tới các thông tin
về tài khoản của mình. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều hệ thống giao dịch tự
động được đưa vào hoạt động với việc sử dụng các thiết bị giao dịch tự động (ATMs -
Automatic Teller Machines) và các thiết bị điểm bán hàng (Point-of-Sale machines).
Khái niệm chuyển tiền số hoá hay chuyển tiền điện tử giữa các ngân hàng và các tổ
chức tài chính ra đời và phát triển cho đến ngày nay.
Tuy nhiên, khi nói tới sự hình thành và phát triển của TMĐT, trước hết người ta
gắn nó với sự ra đời và phát triển của Internet. Internet là mạng lưới máy tính rộng lớn
gồm nhiều mạng máy tính nằm trải rộng khắp toàn cầu; từ các mạng lớn và chính
thống như mạng của các trường đại học, các viện nghiên cứu, các công ty như
Microsoft, AT&T, Digital Equipment,... đến các mạng nhỏ và không chính thống khác
(của các nhóm hoặc của một cá nhân nào đó). Ngày càng có nhiều mạng máy tính ở
mọi nơi trên thế giới được kết nối với Internet.
Internet bắt nguồn từ một dự án do Cơ quan quản lý các dự án nghiên cứu cao cấp
(ARPA - Advanced Research Projects Agency) thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ khởi xướng
năm 1969, với mục tiêu tạo ra một mạng máy tính tin cậy kết nối giữa Bộ Quốc phòng
Mỹ với các nhà thầu nghiên cứu khoa học và quân sự (bao gồm một số lớn các trường
đại học, nơi tiến hành các hoạt động nghiên cứu quân sự).
Mục tiêu hình thành mạng máy tính tin cậy này bao gồm việc thiết lập hệ thống
đường dẫn năng động, đảm bảo rằng trong trường hợp nếu một liên kết mạng nào đó
bị phá huỷ do các cuộc tấn công thì lưu thông trên mạng có thể tự động chuyển sang
những liên kết khác. Cho đến nay, Internet hiếm khi bị tấn công, nhưng những sự cố
do cáp bị cắt đứt lại thường xảy ra. Do đó, đối với Internet, việc quan trọng là cần đề phòng cáp bị đứt.
Đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX, dự án trên thành công và mạng ARPANET - tiền
thân của mạng Internet - ra đời. Thành công của mạng ARPANET khiến cho nhiều 1 lOMoARcPSD|40534848
trường đại học của Mỹ muốn gia nhập mạng này. Năm 1974, do nhiều mạng của các
trường đại học và các cơ quan nghiên cứu được kết nối với ARPANET nên người ta
gọi nó là "Internet" (liên mạng), dù vậy, nó vẫn được gọi là ARPANET. Cho đến năm
1980, do số lượng các địa điểm trường đại học trên mạng quá lớn và ngày càng tăng
lên khiến cho nó trở nên khó quản lý, Bộ Quốc phòng Mỹ quyết định tách thành hai
mạng: MILNET cho quân sự và một mạng ARPANET mới, nhỏ hơn dành cho các địa
điểm phi quân sự. Tuy nhiên, hai mạng này vẫn được liên kết với nhau nhờ một
chương trình kỹ thuật gọi là giao thức Internet (IP - Internet Protocol) cho phép lưu
thông được dẫn từ mạng này sang mạng kia khi cần thiết. Tuy lúc đó chỉ có hai mạng
nhưng kỹ thuật IP được thiết kế cho phép khoảng 10.000 mạng hoạt động. Các mạng
được kết nối dựa trên kỹ thuật IP đều có thể sử dụng nó để giao tiếp, nên các mạng
này đều có thể trao đổi các thông điệp với nhau.
Đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, để phục vụ hoạt động nghiên cứu trong cả nước,
Quỹ Khoa học quốc gia Mỹ (NSF - National Science Foundation) quyết định thành
lập năm trung tâm siêu máy tính để các nhà nghiên cứu trên khắp đất nước có thể gửi
chương trình của họ tới đó tính toán rồi gửi kết quả trở lại thông qua ARPANET.
Song, kế hoạch sử dụng ARPANET cho mục đích này không thực hiện được vì một
số lý do kỹ thuật và chính trị. Vì vậy, NSF đã thiết lập một mạng riêng – NSFNET -
để kết nối với các trung tâm siêu tính toán. Sau đó, NSF dàn xếp, thiết lập một chuỗi
các mạng khu vực nhằm liên kết những người sử dụng trong từng khu vực với
NSFNET và với các khu vực khác. Ngay lập tức, NSFNET đã phát huy tác dụng. Trên
thực tế, cho đến năm 1990, rất nhiều doanh nghiệp đã chuyển từ ARPANET sang
NSFNET. ARPANET ngày càng trở nên không còn hữu ích nữa và đã bị loại bỏ sau gần 20 năm hoạt động.
Cùng thời gian này, các mạng sử dụng kỹ thuật IP cũng xuất hiện tại nhiều nước,
đặc biệt là sự ra đời của mạng EUnet kết nối trực tiếp giữa Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển, Anh.
Năm 1985, mạng NSFNET được kết nối với hệ thống máy tính cao tốc xuyên quốc
gia dẫn tới sự bùng nổ sử dụng Internet. Năm 1989, mạng EUnet (châu Âu) và mạng
AUSSIBnet (Úc) cũng được kết nối với Internet. Và tới năm 1995, với 3,2 triệu máy
tính, 42 triệu người từ 42.000 mạng máy tính của 84 nước trên thế giới được kết nối
với Internet, Internet chính thức được công nhận là mạng máy tính toàn cầu (mạng của
các mạng). Đây cũng là mốc đánh dấu sự ra đời của TMĐT. Cuối năm 1997, mạng
máy tính Việt Nam được kết nối thành công với mạng Internet. Sự kiện này có thể
được coi là thời điểm ra đời của thương mại điện tử Việt Nam.
1.2.1. Một số thuật ngữ, cách hiểu và khái niệm thương mại điện tử 2 lOMoARcPSD|40534848
Từ khi các ứng dụng của Internet được khai thác nhằm phục vụ cho mục đích
thương mại, nhiều thuật ngữ khác nhau đã xuất hiện để chỉ các hoạt động kinh doanh
điện tử trên Internet như: “thương mại điện tử” (electronic commerce hay e-
commerce); "thương mại trực tuyến" (online trade); "thương mại điều khiển học"
(cyber trade); "thương mại không giấy tờ" (paperless commerce hoặc paperless trade);
“thương mại Internet” (Internet commerce) hay “thương mại số hoá” (digital
commerce). Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ sử dụng thống nhất một thuật ngữ
“thương mại điện tử” (electronic commerce), thuật ngữ được dùng phổ biến trong tài
liệu của các tổ chức trong và ngoài nước cũng như trong các tài liệu nghiên cứu khác.
Ban đầu, khi thuật ngữ “thương mại điện tử” xuất hiện đã có nhiều cách hiểu theo
các góc độ nghiên cứu khác nhau như sau:
Công nghệ thông tin: Từ góc độ công nghệ thông tin, TMĐT là quá trình phân
phối hàng hóa, dịch vụ, thông tin hoặc các thanh toán thông qua các mạng máy tính
hoặc bằng các phương tiện điện tử khác.
Thương mại: Từ góc độ thương mại, TMĐT cung cấp những khả năng mua, bán
hàng hóa, dịch vụ và thông tin thông qua Internet và các dịch vụ trực tuyến khác.
Quá trình kinh doanh: Từ góc độ quá trình kinh doanh, TMĐT đang thực hiện
kinh doanh điện tử bằng cách hoàn thành quá trình kinh doanh thông qua mạng điện
tử và với cách ấy sẽ dần thay thế cách thức kinh doanh vật thể thông thường.
Dịch vụ: Từ góc độ dịch vụ, TMĐT là công cụ mà thông qua đó có thể đáp ứng
được những mong muốn của chính phủ, các doanh nghiệp, người tiêu dùng, các nhà
quản lý để cắt giảm giá dịch vụ trong khi vẫn không ngừng nâng cao chất lượng phục
vụ khách hàng và gia tăng tốc độ phân phối dịch vụ.
Giáo dục: Từ góc độ giáo dục, TMĐT là tạo khả năng đào tạo và giáo dục trực
tuyến ở các trường phổ thông, đại học và các tổ chức khác bao gồm cả các doanh nghiệp.
Hợp tác: Từ góc độ hợp tác, TMĐT là khung cho sự hợp tác bên trong và bên ngoài tổ chức.
Cộng đồng: Từ góc độ cộng đồng, TMĐT cung cấp một địa điểm hợp nhất cho
những thành viên của cộng đồng để học hỏi, trao đổi và hợp tác.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về TMĐT. Dưới đây giới thiệu một số định nghĩa TMĐT phổ biến.
Theo Emmanuel Lallana, Rudy Quimbo, Zorayda Ruth Andam, (ePrimer: Giới
thiệu về TMĐT, Philippines: DAI-AGILE, 2000) “TMĐT là việc sử dụng các phương
tiện truyền thông điện tử và công nghệ xử lý thông tin số trong giao dịch kinh doanh
3 lOMoARcPSD|40534848
nhằm tạo ra, chuyển tải và định nghĩa lại mối quan hệ để tạo ra các giá trị giữa các
tổ chức và giữa các tổ chức và các nhân”.

Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về TMĐT: “TMĐT được hiểu là việc thực hiện
hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền
dữ liệu điện tử dưới dạng văn bản, âm thanh và hình ảnh
”.
Theo Anita Rosen, (Hỏi và đáp về TMĐT USA: American Management
Association, 2000), “TMĐT bao hàm một loạt hoạt động kinh doanh trên mạng đối
với các sản phẩm và dịch vụ” hoặc Thomas L. (Mesenbourg, Kinh doanh điện tử:
Định nghĩa, khái niệm và kế hoạch thực hiện)
, đưa ra định nghĩa: “TMĐT thường
đồng nghĩa với việc mua và bán qua Internet, hoặc tiến hành bất cứ giao dịch nào liên
quan đến việc chuyển đổi quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hoá hoặc dịch vụ
qua mạng máy tính”. Định nghĩa này chỉ bó hẹp cho những giao dịch qua mạng máy
tính hoặc mạng Internet.

Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế của Liên Hợp quốc (OECD) đưa ra định
nghĩa TMĐT: “TMĐT được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa trên
truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet
”.
Tổ chức Thương mại thế giới WTO định nghĩa: “TMĐT bao gồm việc sản xuất,
quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng
Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được giao nhận
cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet
”.
Như vậy, khái niệm “thương mại điện tử” được hiểu theo nghĩa rộng nghĩa hẹp.
Nghĩa rộng và hẹp ở đây phụ thuộc vào cách tiếp cận rộng và hẹp của hai thuật ngữ
"thương mại" và "điện tử".
Bảng 1.4: TMĐT theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp
Phương tiện điện tử (PTĐT) TMĐT Nghĩa rộng Nghĩa hẹp Nghĩa
1- TMĐT là toàn bộ các giao 3- TMĐT là toàn bộ các giao dịch mang T rộng
dịch mang tính thương mại tính thương mại được tiến hành bằng hươ
được tiến hành bằng các các PTĐT mà chủ yếu là các mạng ng PTĐT
truyền thông, mạng máy tính và Internet mại Nghĩa
2- TMĐT là các giao dịch 4- TMĐT là các giao dịch mua bán hẹp
mua bán được tiến hành bằng được tiến hành bằng mạng Internet các PTĐT
Theo định nghĩa này, khái niệm “Thương mại Internet” là khái niệm có nội hàm hẹp hơn khái niệm “TMĐT”. 4 lOMoARcPSD|40534848
Từ các định nghĩa trên và sau khi xem xét khái niệm TMĐT theo nghĩa rộng và hẹp, có
thể đưa ra một định nghĩa mang tính tổng quát về thương mại điện tử, được sử dụng chính
thức trong giáo trình này, theo đó “Thương mại điện tử là việc tiến hành các giao dịch
thương mại thông qua mạng Internet, các mạng truyền thông và các phương tiện điện tử khác”

Ở đây, giao dịch thương mại cần hiểu theo nghĩa rộng được đưa ra trong Luật mẫu về
TMĐT của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL): “Thuật ngữ
Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi
quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng
. Các quan hệ mang tính
thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: Bất cứ giao dịch nào về thương mại nào về cung
cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương
mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công
trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên
doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa
hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ”.

Luật mẫu không định nghĩa TMĐT trực tiếp nhưng theo cách hiểu trên thì phạm vi của
TMĐT rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và
dịch vụ chỉ là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của TMĐT. Hoạt động và các giao dịch
thương mại được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin liên lạc đã tồn tại hàng chục
năm nay và đạt tới doanh số hàng tỷ USD mỗi ngày. Về bản chất, TMĐT không khác TMTT
nhưng được dựa trên chủ yếu các PTĐT.
1.2.2. Đặc điểm của thương mại điện tử
Thương mại điện tử có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, TMĐT là một phương thức thương mại sử dụng các PTĐT1 để tiến hành các
giao dịch thương mại. Việc sử dụng các PTĐT cho phép các bên thực hiện các hoạt động
mua, bán, chuyển giao, trao đổi các “thông tin” về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ… dễ dàng.
Các “thông tin” được hiểu là bất cứ gì có thể truyền tải bằng kỹ thuật điện tử như thư điện tử,
thông điệp điện tử, các tập tin văn bản, các cơ sở dữ liệu, các bảng tính (spreadsheet), các bản
vẽ thiết kế bằng máy tính điện tử (computer-aid design: CAD), các hình đồ họa (graphical
image), quảng cáo, chào hàng, hóa đơn, biểu giá, hợp đồng, hình ảnh động (flash), video, âm
thanh, v.v... Việc trao đổi “thông tin” qua mạng máy tính và Internet giúp các bên giao dịch
cung cấp, truyền tải các nội dung giao dịch và không cần phải in ra giấy trong bất kỳ công
đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch. Ví dụ: Amazon.com kinh doanh rất nhiều sản phẩm
như đồ điện tử, băng đĩa nhạc... và chủ yếu là các loại sách, có trụ sở đặt tại Seattle,
1 Các PTĐT là các phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số,
từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự. Hiện nay các
PTĐT được sử dụng trong TMĐT gồm: Điện thoại, máy điện báo (Telex) và máy fax, phát
thanh, truyền hình, thiết bị kĩ thuật số… đặc biệt và chủ yếu nhất là các Mạng máy tính và Internet (www). 5 lOMoARcPSD|40534848
Washington (Mỹ) nhưng không có bất cứ một cửa hàng vật lý nào. Việc bán sách của công ty
được thực hiện trực tiếp qua mạng Internet, hoạt động cung ứng được thực hiện trên cơ sở
phối hợp trực tiếp giữa công ty với các nhà xuất bản.
Thứ hai, TMĐT có liên quan mật thiết đến TMTT và phụ thuộc sự phát triển mạng máy
tính và Internet. TMĐT có liên quan mật thiết với TMTT, các giao dịch TMĐT được thực
hiện trên cơ sở các giao dịch TMTT, nhiều công việc và quá trình giao dịch TMĐT có liên
quan đến TM truyền thống. Tuy nhiên, khác với các giao dịch TMTT được tiến hành trên
giấy, qua điện thoại, những người đưa tin, bằng xe tải, máy bay và các phương tiện khác, các
giao dịch TMĐT chủ yếu được tiến hành trên các mạng máy tính điện tử. Vì thế, giao dịch
TMĐT phụ thuộc sự phát triển mạng máy tính và Internet. Tuy nhiên, khi xây dựng các mô
hình giao dịch trên mạng máy tính và Internet, một số yếu tố, chủ thể, quy trình kinh doanh
trong TMTT có thể được điều chỉnh, những ưu điểm và lợi ích của CNTT được ứng dụng
trong TMĐT cho phép giao dịch TMĐT linh hoạt hơn (có thể thực hiện 24/7, phản hồi nhanh
chóng…) đồng thời loại bỏ những hạn chế của TMTT (cản trở vật lý, địa lý, thông tin).
Thứ ba, TMĐT được nghiên cứu gồm bốn nhóm hoạt động chủ yếu là mua, bán, chuyển
giao và trao đổi các đối tượng sản phẩm, dịch vụ và thông tin. Ngoài ra, nó còn bao gồm các
hoạt động hỗ trợ các hoạt động trên như: marketing, quảng cáo, xúc tiến trên mạng, thanh
toán điện tử, an toàn mạng giao dịch, đấu giá, dịch vụ hỗ trợ CNTT… hỗ trợ việc chào bán,
cung cấp các dịch vụ khách hàng hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thông tin, liên lạc
giữa các đối tác kinh doanh.
Thứ tư, “Thương mại điện tử” là thuật ngữ mang tính lịch sử. Không thể có định nghĩa
duy nhất về TMĐT bởi các công nghệ mới thường xuyên ra đời và được khai thác trong kinh
doanh. Và ngay đối với những công nghệ hiện tại, chúng ta cũng chưa chắc đã khai thác và
ứng dụng hết những khả năng mà nó mang lại.
1.2.3. TMĐT và kinh doanh điện tử (KDĐT)
Hai khái niệm TMĐT và KDĐT trong nhiều trường hợp bị sử dụng lẫn lộn, thay thế cho
nhau. Về bản chất, giữa chúng có sự khác nhau nhất định. Theo Andrew Bartel2, TMĐT bao
gồm các trao đổi giữa các khách hàng, đối tác doanh nghiệp và người bán hàng, ví dụ giữa
nhà cung ứng và nhà sản xuất, giữa khách hàng với đại diện bán hàng, giữa nhà cung ứng vận
tải và nhà phân phối hàng hoá. KDĐT bao hàm tất cả các yếu tố trên, ngoài ra, KDĐT còn
bao hàm các hoạt động xảy ra bên trong doanh nghiệp, ví dụ: sản xuất, nghiên cứu phát triển,
quản trị sản phẩm, quản trị nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng. Nó bao gồm bất cứ quá trình nào
mà một tổ chức kinh doanh (hoặc là phi lợi nhuận, hoặc tổ chức chính phủ, hoặc có lợi
nhuận) thực hiện qua mạng máy tính. Có ba quá trình chính được tăng cường trong KDĐT:
Quá trình sản xuất, bao gồm việc mua hàng, đặt hàng và cung cấp hàng vào kho, quá
trình thanh toán, các mối liên kết điện tử với nhà cung cấp và quá trình quản lý sản xuất.
Quá trình tập trung vào khách hàng, bao gồm việc phát triển và marketing, bán hàng qua
Internet, xử lý đơn đặt hàng của khách hàng và thanh toán, hỗ trợ khách hàng
2 H.M. Deitel and others (2001), E-business & E-Commerce for managers, Prentice Hall, Tr.8 6 lOMoARcPSD|40534848
Quá trình quản lý nội bộ, bao gồm các dịch vụ tới nhân viên, đào tạo, chia sẻ thông tin
nội bộ, họp qua video và tuyển dụng. Các ứng dụng điện tử tăng cường luồng thông tin giữa
việc sản xuất và lực lượng bán hàng nhằm tăng sản lượng bán hàng. Việc trao đổi giữa các
nhóm làm việc và việc đưa ra những thông tin kinh doanh nội bộ sẽ tạo được hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, trong các tài liệu cũng như trong thực tế ứng dụng, người ta thường đồng nhất
hai khái niệm trên và sử dụng chúng thay thế cho nhau.
1.2.6. Phân loại TMĐT theo bản chất của các giao dịch hoặc các mối tương tác
Cách phân loại chung nhất của TMĐT là theo bản chất của giao dịch hoặc mối quan hệ
giữa các bên tham gia. Người ta phân biệt các loại hình TMĐT cơ bản như sau:
TMĐT giữa các doanh nghiệp (B2B): Tất cả những bên tham gia trong TMĐT giữa các
doanh nghiệp hoặc là các doanh nghiệp, hoặc là các tổ chức. Ví dụ, các giao dịch giữa công
ty Dell và Marks & Spencer và các nhà cung ứng của họ. Ngày nay, hơn 85% khối lượng
TMĐT trên thế giới là B2B3
Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (B2C): TMĐT B2C bao gồm
các giao dịch bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp đến khách hàng là cá nhân và
các hộ gia đình, những người tiêu dùng cuối cùng. Nội dung chủ yếu của loại hình TMĐT
này là bán lẻ điện tử.
Thương mại điện tử doanh nghiệp-doanh nghiệp-người tiêu dùng (B2B2C): Một trường
hợp đặc biệt của B2B. Một doanh nghiệp cung cấp một số sản phẩm hoặc dịch vụ cho một
khách hàng là một doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp khách hàng tiếp theo sẽ cung cấp những
hàng hóa hoặc dịch vụ đó cho khách hàng của họ, cũng có thể là nhân viên của họ mà không
có bổ sung giá trị. Một ví dụ cho hình thức này là một công ty sẽ trả cho AOL để tất cả các
nhân viên của công ty có thể truy cập được vào Internet thay vì mỗi công nhân phải tự trả cho
AOL. Một ví dụ khác, các hãng hàng không và du lịch chuyên cung cấp các dịch vụ du lịch
như vé máy bay, phòng nghỉ khách sạn sẽ bán cho các đối tác kinh doanh như các đại lý du
lịch, để rồi sau đó, các đại lý này sẽ bán các dịch vụ đó cho khách hàng. Một ví dụ cuối cùng,
công ty Godiva bán sô cô la cho các doanh nghiệp khách hàng. Các doanh nghiệp này sẽ biến
những thanh sô cô la đó thành những món quà cho nhân viên của mình hoặc cho các doanh
nghiệp khác. Như vậy, thuật ngữ B2B còn bao hàm cả B2B2C.
Người tiêu dùng-doanh nghiệp (C2B): Người tiêu dùng ở đây có thể sử dụng Internet tiến
hành bán sản phẩm hoặc dịch vụ của mình cho các doanh nghiệp hoặc các cá nhân thông qua
hình thức đấu giá sản phẩm hoặc dịch vụ. Price.com là ví dụ của loại giao dịch C2B.
Người tiêu dùng-người tiêu dùng (C2C): Người tiêu dùng này giao dịch trực tiếp với
người tiêu dùng khác. Ví dụ về loại này là một số cá nhân muốn bán một số tài sản riêng của
họ như bất động sản, ô tô, tranh nghệ thuật, đồ cổ v.v.. thì họ quảng cáo chúng trên những
trang web chuyên dụng. Quảng cáo các dịch vụ cá nhân thông qua trang web hay việc bán
kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn là ví dụ khác về C2C. Ngoài ra có nhiều trang web đấu
giá cho phép các cá nhân đưa đồ của mình lên để đấu giá. 3 Cunningham 2001 7 lOMoARcPSD|40534848
Các ứng dụng ngang hàng (P2P): Công nghệ ngang hàng có thể được sử dụng trong
C2C, B2B và B2C. Công nghệ này cho phép những máy tính ngang hàng đã được kết nối có
thể chia sẻ các thư mục dữ liệu và xử lý trực tiếp với các máy khác. Ví dụ, trong việc ứng
dụng ngang hàng C2C, mọi người có thể trao đổi âm nhạc, video, phần mềm, và các sản
phẩm số hóa khác bằng phương tiện điện tử.
Thương mại di động (Mobile Commerce): Giao dịch TMĐT và các hoạt động được thực
hiện hoàn toàn hoặc một phần trong một môi trường không dây được xem như là thương mại
di động. Ví dụ, người ta có thể sử dụng điện thoại di động có kết nối Internet để giao dịch với
ngân hàng, đặt mua một cuốn sách ở Amazon.com. Rất nhiều ứng dụng của thương mại di
động liên quan đến các thiết bị di động. Nếu các giao dịch như vậy được hướng đến những cá
nhân ở những vị trí cụ thể, tại thời điểm cụ thể thì chúng được xem như thương mại trên cơ
sở định vị. Một số người định nghĩa thương mại di động như là những giao dịch được thực
hiện khi không ở nhà hay ở cơ quan. Những giao dịch như vậy có thể được thực hiện trên cả
hệ thống không dây hay có dây.
TMĐT nội bộ doanh nghiệp: TMĐT bên trong doanh nghiệp bao gồm tất cả những hoạt
động bên trong tổ chức liên quan đến trao đổi hàng hóa, dịch vụ, thông tin ở nhiều đơn vị và
các cá nhân trong tổ chức đó. Các hoạt động có thể từ việc bán các nhóm sản phẩm tới các
nhân viên của công ty, tới các nỗ lực thiết kế hợp tác và đào tạo trực tuyến. TMĐT trong
doanh nghiệp được thực hiện thông qua các mạng nội bộ hoặc cổng công ty (cổng để truy cập vào website).
Doanh nghiệp-nhân viên (B2E): Loại hình TMĐT doanh nghiệp nhân viên là một hệ
thống phụ của loại hình TMĐT nội bộ doanh nghiệp, trong đó tổ chức tiến hành phân phát
các dịch vụ, thông tin hay sản phẩm tới từng nhân viên như công ty. Một bộ phận lớn nhân
viên là nhân viên di động, họ làm đại diện của doanh nghiệp tại các tổ chức và doanh nghiệp
khác. TMĐT hỗ trợ cho các nhân viên như vậy được gọi là B2ME (doanh nghiệp tới nhân viên di động).
Thương mại hợp tác: Khi các cá nhân hoặc các nhóm trao đổi hoặc hợp tác trực tuyến, họ
đã tham gia trong thương mại hợp tác. Ví dụ, các đối tác kinh doanh ở các địa điểm khác
nhau có thể cùng nhau thiết kế sản phẩm, sử dụng cầu truyền hình, quản lý hàng tồn kho trực
tuyến như là trong trường hợp của Dell Computers, hoặc cùng nhau dự đoán nhu cầu sản
phẩm như Marks & Spencer làm với nhà cung ứng của họ.
TMĐT phi kinh doanh: Số lượng các tổ chức phi kinh doanh đang dần tăng lên như các
viện hàn lâm, các tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức xã hội và các đơn
vị chính phủ đang sử dụng TMĐT để giảm chi phí của họ hoặc để thúc đẩy các hoạt động
chung hoặc dịch vụ khách hàng.
Sẽ có nhiều ví dụ về các loại giao dịch TMĐT được giới thiệu trong cuốn sách này.
1.2.7. Bản chất liên ngành của TMĐT
TMĐT là một lĩnh vực mới, hiện đang phát triển các nền tảng lý luận và khoa học của nó.
Từ những cái nhìn tổng quan về khung kết cấu và phân loại TMĐT, chúng ta có thể nhận
thấy rằng TMĐT có liên quan đến nhiều ngành khác. Những ngành chính liên quan đến 8 lOMoARcPSD|40534848
TMĐT bao gồm: khoa học máy tính, hệ thống thông tin, toán học, kinh tế học, kinh doanh
học và thương mại học.
1.3. Phạm vi và chức năng của thương mại điện tử
1.3.1. Phạm vi của TMĐT
Phạm vi của TMĐT bao trùm nhiều lĩnh vực rộng lớn khác nhau. Một số lĩnh vực
cơ bản liên quan trực tiếp đến TMĐT, theo ER&DCI4, được thể hiện trong hình sau:
Hình 1.3. Phạm vi của thương mại điện tử.
Trong nghiên cứu, học tập và ứng dụng TMĐT đòi hỏi cá nhân phải có những hiểu
biết nhất định về từng lĩnh vực, tuỳ vào điều kiện cụ thể mà đi sâu vào nghiên cứu một
lĩnh vực nào đó. Ví dụ, việc thiết kế web TMĐT đòi hỏi nhân viên thiết kế phải có
kiến thức về máy tính, an toàn bảo mật, kinh doanh học (hiểu biết kiến thức kinh doanh)…
1.3.2. Chức năng của thương mại điện tử
Thương mại điện tử có một số chức năng cơ bản sau:
a) Chức năng truyền thông. Chức năng truyền thông nhằm mục đích phân phối
thông tin và tư liệu phục vụ các giao dịch kinh doanh. Ví dụ rõ nhất về chức năng
4 Nguồn: ER&DCI (Electronic Commerce: State of the Art) 9 lOMoARcPSD|40534848
truyền thông là thư điện tử. Thư điện tử phân phối thông tin và tư liệu phục vụ các giao dịch kinh doanh.
b) Chức năng quản trị quá trình. Chức năng quản trị quá trình bao gồm việc tự
động hoá và cải thiện các quá trình kinh doanh, ví dụ nối mạng hai máy tính với nhau
sao cho chúng có thể chia sẻ và truyền dữ liệu tốt hơn là lấy dữ liệu từ máy này chuyển sang máy kia.
c) Chức năng quản trị dịch vụ. Đây là việc ứng dụng công nghệ để cải thiện chất
lượng dịch vụ. Ví dụ về chức năng này có thể là bất kỳ website của một công ty vận
tải nào. Website này cho phép khách hàng theo dõi hàng chuyên chở, lập thời gian
biểu thông tin về định vị hàng chuyên chở trên phạm vi toàn thế giới 24 giờ trong
ngày mà không cần tiếp xúc với đại diện của khách hàng. Dịch vụ khách hàng được
cải thiện rất nhiều nhờ các khả năng của site.
d) Chức năng giao dịch. Chức năng này cung cấp khả năng mua bán hoặc thực
hiện một số dịch vụ khác qua mạng Internet. Các website bán lẻ của Amazon.com và
Drugstore.com là những ví dụ tốt. Mục đích ban đầu của các site này là bán các sản
phẩm của công ty, mặc dù họ kết hợp cả các chức năng khác như truyền thông và
quản trị dịch vụ. Các ví dụ này cho thấy bốn chức năng là không loại trừ lẫn nhau.
1.4. Lợi ích và trở ngại của ứng dụng thương mại điện tử
Rất ít có những sáng tạo nào trong lịch sử nhân loại lại đem lại nhiều lợi ích như
TMĐT. Bản chất toàn cầu của công nghệ, khả năng tiếp cận tới được hàng trăm triệu
người, tính tương tác, tính đa dạng trong khả năng sử dụng, nguồn lực phát triển
phong phú và tốc độ phát triển nhanh của cơ sở hạ tầng hỗ trợ, đặc biệt là web, đem
đến nhiều lợi ích tiềm tàng cho các tổ chức, các cá nhân và xã hội. Các lợi ích này mới
bắt đầu được vật chất hoá, nhưng chúng sẽ tăng lên nhanh chóng khi TMĐT được mở
rộng. Một số người cho rằng cuộc cách mạng TMĐT cũng sâu sắc như các biến đổi đã
xảy ra trong cuộc Cách mạng công nghiệp.
1.4.1. Lợi ích của ứng dụng TMĐT
Lợi ích của ứng dụng TMĐT được xem xét trên ba góc độ: lợi ích đối với tổ chức
(chủ yếu là các doanh nghiệp), lợi ích đối với người tiêu dùng và lợi ích đối với xã hội.
a) Lợi ích của TMĐT đối với các tổ chức
- Tiếp cận toàn cầu: TMĐT mở rộng thị trường đến phạm vi quốc gia và quốc tế.
Với một lượng đầu tư vốn không lớn, một công ty có thể dễ dàng và nhanh chóng xác
định các nhà cung ứng tốt nhất, nhiều khách hàng hơn, các đối tác kinh doanh phù hợp
nhất trên thế giới. Việc mở rộng cơ sở khách hàng và nhà cung ứng cho phép tổ chức
mua được rẻ hơn và bán được nhiều hơn. 10 lOMoARcPSD|40534848 - Giảm chi phí:
+ Chi phí tạo lập, xử lý, phân phối, bảo quản và hiển thị thông tin: TMĐT tạo khả
năng giảm chi phí tạo lập, xử lý, phân phối, bảo quản và hiển thị thông tin vốn dĩ
trước đây dựa trên cơ sở giấy tờ. Các chi phí cao của việc in, gửi qua bưu chính được
giảm thiểu hoặc loại bỏ. Chi phí truyền thông trên cơ sở Internet cũng rẻ hơn nhiều so
với chi phí truyền thông qua các mạng giá trị gia tăng.
+ Chi phí xây dựng, duy trì và quản lý các cửa hàng vật lý: Tác động lớn nhất về
chi phí khi áp dụng TMĐT là cho phép doanh nghiệp có thể thay thế hàng loạt các cửa
hàng vật lý bằng những cửa hàng ảo-website TMĐT. Các cửa hàng ảo hoạt động liên
tục 24 giờ/ngày, 7 ngày/tuần cho phép doanh nghiệp có thể phục vụ một lượng lớn
khách hàng toàn cầu và không đòi hỏi chi phí quản lý ngoài giờ của nhân viên bán
hàng, chi phí kiểm kê hàng hoá.
+ Chi phí xử lý và quản trị đơn hàng: Một tác động khác của TMĐT tới chi phí
tiêu thụ là làm tăng tính hiệu quả trong cấu trúc các đơn đặt hàng. Điển hình là trường
hợp của hai công ty lớn trên thế giới, General Electric (GE) và Cisco Systems. Trước
khi áp dụng hình thức đặt hàng qua website, cả hai công ty này đều có tới gần 1/4 các
đơn đặt hàng của họ phải sửa lại vì các lỗi, cụ thể đối với GE, số lượng này là trên
1.00.00 đơn hàng. Từ khi cho phép khách hàng đặt hàng trực tiếp qua website, tỷ lệ
các đơn đặt hàng lỗi của cả hai công ty đều giảm xuống đáng kể, như của Cisco, tỷ lệ này là khoảng 2%1.
+ Tiết kiệm chi phí thông qua việc áp dụng các hình thức thanh toán trực tiếp qua
web cũng là con số đáng kể đối với các doanh nghiệp KDĐT. Mặc dù khoản phí dịch
vụ ngân hàng cho việc thanh toán bằng séc giấy giữa các ngân hàng và người bán là
khá nhỏ, trung bình khoảng 1,20 USD cho một giao dịch thanh toán, thanh toán bằng
thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ trung bình chỉ khoảng 0,40 USD đến 0,60 USD, song chi
phí cho quá trình thanh toán qua Internet có thể giảm xuống còn khoảng 0,01 USD hoặc thấp hơn.
- Hoàn thiện chuỗi cung ứng: Một số khâu kém hiệu quả của chuỗi cung ứng, như
tồn kho quá mức, sự chậm trễ trong phân phối… có thể được tối thiểu hoá với TMĐT.
Ví dụ, bằng việc trưng bày catalog và nhận đơn đặt hàng ô tô qua mạng thay cho
phòng giới thiệu sản phẩm của các đại lý, ngành công nghiệp ô tô có thể tiết kiệm mỗi
năm hàng tỷ đô la chi phí tồn kho.
- Đáp ứng nhu cầu cá biệt của khách hàng: TMĐT cho phép nắm bắt nhu cầu, sản
xuất hàng hoá và dịch vụ theo đơn đặt hàng của khách hàng với chi phí không cao
1 Xem: PriceWaterhouse Coopers: E-Business technology forecast, PriceWaterhouse
Coopers Technology Centre, California, 1999. 11 lOMoARcPSD|40534848
hoặc cao hơn không đáng kể so với sản xuất hàng loạt, qua đó tạo nên lợi thế cạnh
tranh của các doanh nghiệp theo đuổi chiến lược này (Ví dụ Công ty Dell).
- Xây dựng các mô hình kinh doanh mới: TMĐT tạo điều kiện ra đời các mô hình
kinh doanh sáng tạo, tạo nên các lợi thế chiến lược hoặc lợi ích cho doanh nghiệp.
- Chuyên môn hoá người bán hàng: TMĐT cho phép chuyên môn hoá ở mức độ
cao, mà điều đó về mặt kinh tế là bất khả thi trong thế giới vật lý. Ví dụ, một cửa hàng
chuyên bán đồ chơi cho chó (Dogtoys.com) có thể tồn tại trong không gian ảo (mạng
Internet), nhưng trong thế giới vật lý một cửa hàng như vậy không thể có đủ khách hàng.
- Rút ngắn thời gian triển khai ý tưởng: TMĐT làm giảm thời gian từ khi bắt đầu
một ý tưởng đến khi thương mại hoá ý tưởng đó nhờ các quá trình truyền thông và
hợp tác được cải thiện.
- Tăng hiệu quả mua hàng: TMĐT tạo khả năng mua sắm điện tử (e-procurement).
Mua hàng điện tử đến lượt mình làm giảm các chi phí hành chính đến 80% hoặc hơn
nữa, giảm giá mua từ 5 đến 10%, và giảm chu trình thời gian mua hàng tới 50%.
- Cải thiện quan hệ khách hàng: TMĐT đem lại khả năng cho các công ty tương
tác chặt chẽ hơn với các khách hàng, kể cả trong trường hợp phải thông qua các trung
gian. Điều này cho phép cá nhân hoá truyền thông, sản phẩm và dịch vụ, cải thiện
quản trị quan hệ khách hàng (CRM) và tăng lòng trung thành của khách hàng.
- Cập nhật hoá tư liệu công ty: Bất kỳ tư liệu nào trên Web, như giá cả trong các
catalog đều có thể điều chỉnh trong giây lát. Thông tin về công ty luôn được duy trì một cách cập nhật.
- Các lợi ích khác: Các lợi ích khác có thể là cải thiện hình ảnh công ty, cải thiện
dịch vụ khách hàng, dễ dàng tìm kiếm các đối tác mới, đơn giản hoá các quá trình,
nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu công việc giấy tờ, tăng cường tiếp cận thông
tin, giảm thiểu các chi phí vận tải, tăng cường tính mềm dẻo trong tác nghiệp…
b) Lợi ích của TMĐT đối với người tiêu dùng
TMĐT đem lại các lợi ích sau đối với người tiêu dùng:
- Tính rộng khắp: TMĐT cho phép người tiêu dùng có thể mua hoặc thực hiện các
giao dịch khác suốt cả năm, tất cả các giờ trong ngày và từ bất cứ một địa điểm nào.
- Nhiều sự lựa chọn: TMĐT cho phép người tiêu dùng sự lựa chọn từ nhiều người
bán hàng, nhiều sản phẩm và dịch vụ hơn.
- Sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu riêng biệt: Người tiêu dùng có điều kiện đặt và
mua hàng hoá và dịch vụ với chủng loại đa dạng, (từ quyển sách đến chiếc ô tô) theo
các yêu cầu riêng của mình với giá cả không cao hơn hoặc không chênh lệch đáng kể
so với hàng hoá dịch vụ đại trà. 12 lOMoARcPSD|40534848
- Sản phẩm và dịch vụ rẻ hơn: TMĐT mang đến cho người tiêu dùng khả năng
mua hàng hoá và dịch vụ rẻ hơn vì người tiêu dùng có thể tìm mua tiến hành so sánh
nhanh chóng hàng hoá và dịch vụ ở nhiều người bán khác nhau.
- Phân phối nhanh chóng: Trong trường hợp sản phẩm số, thời gian phân phối là không đáng kể.
- Thông tin sẵn tìm: Người tiêu dùng có thể định vị thông tin sẵn có và chi tiết về
hàng hoá và dịch vụ trong giây lát, khác với trong môi trường truyền thống phải mất
hàng ngày, hàng tuần lễ.
- Tham gia đấu giá: TMĐT đem đến cho người tiêu dùng khả năng tham gia trong
các hoạt động đấu giá ảo. Điều này cho phép người bán bán nhanh hàng hoá, người
mua có thể xác định các sưu tập hàng hoá cần tìm kiếm.
- Cộng đồng điện tử: TMĐT cho phép các khách hàng này tương tác với các khách
hàng khác trong cộng đồng điện tử, chia sẻ các ý tưởng cũng như các kinh nghiệm.
- Bán hàng chưa phải nộp thuế: Tại nhiều nước, mua (bán) hàng qua mạng được miễn thuế VAT.
c) Lợi ích của TMĐT đối với xã hội
- Thông tin liên lạc được cải thiện, nhờ vậy ngày càng nhiều người có thể làm việc
tại nhà, giảm việc đi lại tới nơi công sở và đi đến các cửa hàng mua sắm, giảm ách tắc
giao thông và ô nhiễm không khí.
- Góp phần tạo mức sống cao hơn: Một số loại hàng hoá có thể bán với giá thấp
hơn, cho phép những người thu nhập thấp mua được nhiều hàng hoá, dịch vụ hơn, nhờ
vậy nâng cao mức sống. Những người sống ở nông thôn, với thu nhập thấp, nhờ
TMĐT có thể tiếp cận và thụ hưởng các loại hàng hoá và dịch vụ trước kia chưa thể
có ở nơi họ sống. Các hàng hoá và dịch vụ này bao hàm cả các chương trình đào tạo
kiến thức cơ bản và chuyên nghiệp.
- Nâng cao an ninh trong nước: Công nghệ TMĐT nâng cao an ninh nội địa nhờ
hoàn thiện truyền thông, sự phối hợp thông tin và hành động…
- Tiếp cận các dịch vụ công: Các dịch vụ công như chăm sóc sức khoẻ, đào tạo,
các dịch vụ hành chính của chính phủ có thể được thực hiện và cung ứng với chi phí
thấp, chất lượng được cải thiện. Ví dụ, TMĐT mang đến cho các bác sỹ, y tá nông
thôn khả năng tiếp cận các thông tin và công nghệ mới, nhờ đó họ có thể chữa bệnh tốt hơn.
1.4.2. Các trở ngại của ứng dụng TMĐT
Các trở ngại đối với ứng dụng TMĐT được phân loại thành các trở ngại công nghệ
và các trở ngại phi công nghệ.
a) Các trở ngại công nghệ 13 lOMoARcPSD|40534848
Hiện có một số các trở ngại công nghệ phổ biến sau: Thiếu các tiêu chuẩn chung
về chất lượng, an ninh và độ tin cậy; Băng thông viễn thông không đủ, đặc biệt cho
TMĐT di động; Sự phát triển các công cụ phần mềm mới bắt đầu triển khai; Khó tích
hợp Internet và các phần mềm TMĐT với một số ứng dụng sẵn có và cơ sở dữ liệu
(đặc biệt liên quan đến luật); Cần thiết có một số máy chủ web bổ sung cho các máy
chủ mạng, điều này làm tăng chi phí ứng dụng TMĐT; Việc thực hiện các đơn đặt
hàng B2C trên quy mô lớn đòi hỏi có các kho hàng tự động hoá chuyên dùng;
b) Các trở ngại phi công nghệ
Ngoài các trở ngại công nghệ, các trở ngại phi công nghệ cũng đặc biệt quan trọng
trong ứng dụng TMĐT. Các trở ngại phi công nghệ phổ biến là: các vấn đề an ninh và
bí mật riêng tư hạn chế khách hàng thực hiện việc mua hàng; thiếu niềm tin vào
TMĐT; các vấn đề pháp luật và chính sách công, bao gồm cả vấn đề đánh thuế trong
TMĐT chưa được giải quyết; Các quy định về quản lý quốc gia và quốc tế đối với
TMĐT nhiều khi ở trong trình trạng không thống nhất; Khó đo đạc được lợi ích (hiệu
quả) của TMĐT, ví dụ hiệu quả của quảng cáo trực tuyến. Các công nghệ đo lường
chín muồi chưa được thiết lập; Nhiều khách hàng còn tâm lý muốn nhìn thấy, sờ thấy
trực tiếp sản phẩm, ngại thay đổi thói quen từ mua hàng ở các cửa hàng “vữa hồ và
gạch”; Sự lừa đảo trên mạng có xu hướng tăng; Khó tìm kiếm được tư bản đầu tư rủi
ro do nhiều công ty dot.com bị phá sản. Người dân còn chưa tin tưởng lắm vào môi
trường phi giấy tờ, giao dịch không theo phương thức mặt đối mặt. Trong một số
trường hợp số lượng người mua-bán trong TMĐT còn chưa đủ, hạn chế hiệu quả ứng dụng TMĐT;
Theo một nghiên cứu năm 2000 của hãng CommerceNet (commerce.net), 10 hạn
chế cơ bản nhất đối với TMĐT ở Mỹ, xếp theo thứ tự độ quan trọng giảm dần, là tính
an toàn, độ tin cậy và rủi ro, thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn cần thiết, thiếu các
mô hình kinh doanh, văn hoá, xác thực người sử dụng và thiếu hạ tầng khoá công
cộng. Trong TMĐT thế giới, các vấn đề về văn hoá, luật pháp, ngôn ngữ, các chuẩn
công nghệ và kỹ thuật được xem là các trở ngại hàng đầu.
Mặc dù có những hạn chế nhất định, TMĐT vẫn phát triển mạnh mẽ. Ví dụ, số
lượng người mua bán chứng khoán qua PTĐT ở Mỹ tăng từ 300.000 người năm 1996
lên 25 triệu người vào quí I năm 2002 (emarketer.com). Tại Hàn Quốc, gần 60% các
giao dịch trên thị trường chứng khoán được thực hiện qua Internet vào quí II năm
2004 (Korean Times, 17/9/2004). Theo nghiên cứu của IDC (2000), số lượng các
khách hàng môi giới trực tuyến trên toàn thế giới đạt khoảng 122,3 triệu vào năm
2004, so với 76,7 triệu năm 2002. Khi kinh nghiệm TMĐT và công nghệ được cải
thiện, tương quan chi phí/lợi nhuận sẽ tốt lên, thể hiện ở mức độ chấp nhận ứng dụng TMĐT ngày càng cao. 14