Chương 2:Những nội dung cơ bản của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng Sản Việt Nam | Tài liệu môn Tư tưởng Hồ Chí Minh Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Chế độ chính trị của nước ta dựa trên 3 trụ cột: Đảng - Nhà nước - Nhân dân với các chức năng khác nhau là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Xây dựng Đảng đạo đức: -Cán bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. - Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác của cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chương 2:Những nội dung cơ bản của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng Sản Việt
Nam.
2.1)Đảng là đạo đức ,đảng là văn minh
Chế độ chính trị của nước ta dựa trên 3 trụ cột: Đảng - Nhà nước - Nhân dân với
các chức năng khác nhau là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Xây dựng Đảng đạo đức:
-Cán bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh.
- Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác của cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới.
-Nâng cao chuẩn mực về nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Xây Đảng văn minh:
-Đảng tiêu biểu cho trí tuệ, là lực lượng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và toàn thể dân tộc Việt Nam, là lý tưởng hướng tới những giá trị tốt đẹp của một xã
hội tiến bộ, hiện đại và không ngừng vươn lên.
Nhờ đó Đảng mới trong sạch, vững mạnh. Trong 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách
mạng, Người nhấn mạnh, Đảng là một tổ chức cách mạng chứ không phải tổ chức để
“làm quan phát tài”.Muốn chế độ vững bền phải củng cố, xây dựng tốt 3 trụ cột này:
Đảng phải trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng; Nhà nước cũng phải trong sạch, vững mạnh, chất lượng, hiệu quả, năng động trong
quản lý, điều hành; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực hoàn
thành. Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt, đó là người cán bộ đó phải
vừa có đức, vừa có tài. Trong đó, đạo đức là gốc, Người viết: “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân”.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu lịch
sử cách mạng và quy luật phát triển của dân tộc
-Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển của toàn
xã hội trên tất cả các lĩnh vực trong từng thời kỳ nhất định.
-Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
-Tất cả các đảng viên phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu trong công tác và
cuộc sống hằng ngày.
-Đảng có quan hê \ quốc tế trong sáng.
2.2)Những vấn đề cụ thể trong hoạt động của đảng
Nếu khái quát những luận điểm của Hồ Chí Minh, thể thấy Người đã đề
cập những nguyên tắc xây dựng Đảng sau đây:
a. Một là tập trung dân chủ
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và tập trung là sự kết hợp hài hòa và khoa học giữa hai
mặt tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc. Dân chủ là tập trung dân chủ
điều kiện là tiền đề của tập trung; tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được
thực hiện. dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở để tập trung, chứ không phải là dân chủ
theo kiểu phân tán, tùy tiện, vô tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ sở dân chủ, chứ
không phai tập trung quan lieu theo kiểu độc đoán chuyên quyền.
Là sự kết hợp hài hòa và khoa học giữa hai mặt tạo thành chỉnh tập trung dân chủ
thể thống nhất của một nguyên tắc. Dân chủ là điều kiện là tiền đề của tập trung; tập
trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện.
Là nguyên tắc cơ bản trong 5 nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Đảng; được xem
là nguyên tắc căn bản chi phối các nguyên tắc khác.
Nguyên tắc này chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng tổ chức và hoạt động, vừa bảo
đảm cho Đảng thống nhất ý chí và hành động, vừa phát huy dân chủ, quy tụ được sức
mạnh, trí tuệ của tập thể trong hoạt động của Đảng.
Về tập trung, Người nhấn mạnh: Phải thống nhất về tưởng, tổ chức hành
động. do đó thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng
viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng.
Còn dân chủ, như Người đã phân tích đó là “của quý báu nhất của nhân dân”,
thành quả của cách mạng. Người đã viết: “Chế độ ta chế độ dân chủ, tưởng
phải được tự do. Tự dothế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý
kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý.Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa
vụ của mọi người.
b. Hai là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Theo Hồ Chí Minh, đây nguyên tắc lãnh đạo của Đảng Trong tác phẩm . Sửa
đổi lối làm việc, Người đã phân tích rất rõ về nguyên tắc này: một người dù tài giỏi
đến mấy cũng không thể thấy hết mọi mặt của vấn đề, càng không thể thấy hết
được mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. vậy càng phải nhiều người tham
gia lãnh đạo. nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt
kia, do đó hiểu được mọi mặt, nọi vấn đề.
Về cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ
lưỡng rồi, kế hoạch định ràng rồi, thì cần phải giao cho 1 người hoặc một nhóm ít
người phụ trách theo kế hoạch đó thi hành. Nếu không cho nhân phụ trách, thì sẽ
sinh ra tệ người này ỷ lại người kia, kết quả là không ai thi hành.
Đối với việc thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng, Tập thể lãnh
đạo, nhân phụ trách nguyên tắc ý nghĩ to lớn vậy cần khắc phục tệ độc đoán
chuyên quyền, đồng thời phải chống lại cả tình trạng dựa dẫm tập thể, không dám quyết
đoán, không dám chịu trách nhiệm. Người đã kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì
sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan, kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn chính phủ.
Kết quả cũng là hỏng việc.
c. Ba là tự phê bình và phê bình
Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này. Người coi đây nguyên tắc sinh
hoạt của Đảng, là luật phát triển của Đảng Người đặt tự phê bình lên trước để mỗi.
đảng viên trước hết tự mình phải thấy mình, để phát huy ưu điểm khắc phục
nhược điểm. một người biết tự phê bình tốt thì mới đi phê bình người khác được.
Nguyên tắc tự phê bình phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nhấn
mạnh mục đích của tự phê bình và phê bìnhcốt để phát huy ưu điểm, sửa
chữa khuyết điểm, để làm cho tưởng hành động được đúng hơn tốt
hơn, để làm việc có hiệu quả hơn.
Nhưng thực hiện tự phê bình phê bình thật đúng đắn nghiêm túc thật
không phải chuyện dễ dàng. Muốn thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi người
phải trung thực, chân thành với bản than mình cũng như với người khác.
d. Bốn là kỷ luật nghiêm minh, tự giác
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh tự giác
trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng: Sức mạnh vô địch của Đảng là ở
tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ đảng viên.
Nghiêm minh thuộc về tổ chức Đảng, đó kỷ luật đối với mọi cán bộ, đảng
viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng. Tự giác thuộc về mỗi nhân cán
bộ, đảng viên đối với Đảng, một tổ chức của những người tự nguyện đứng trong
hàng ngũ để cùng chiến đấu cho độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội. Kỷ luật này
là lòng tự giác của Đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng.
Nguyên tắc tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nhấn mạnh
mục đích của tự phê bình và phê bình là cốt để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết
điểm, để làm cho tưởng hành động được đúng hơn tốt hơn, để làm việc
hiệu quả hơn.
e. Đoàn kết thống nhất trong Đảng
Trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài gian khổ, toàn Đảng phải đoàn kết
thành một khối vững chắc, toàn đảng phải thống nhất ý chí và hành động, mọi đảng
viên phải bảo vệ sự đoàn kết thống nhất của Đảng như bảo vệ con ngươi của mắt
mình. đoàn kết tốt thì mới tạo ra sở vững chắc để thống nhất ý chí hành
động, làm cho “Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”.
Để xây dựng và đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người thường nêu những yêu
cầu như: phải thực hiện mở rộng dân chủ nội bộ để cán bộ đảng viên thể
tham gia bàn bạc đến nơi đến chốn những vấn đề hệ trọng của Đảng; phải thường
xuyên thực hiện tự phê bình phê bình với tinh thần trung thực, chân thành,
thẳng thắn, tự nghiêm khắc với mình và có tình thương yêu đồng chí; phải thường
xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân với bao nhiêu thứ tệ
nạn từ chủ nghĩa nhân ra: tham ô, lãng phí, quan lieu, cánh, hội, dối
trá, chạy theo chức, quyền, danh, lợi…
f.Đảng phải thường xuyên được chỉnh đốn
Đại hội XIII đã làm rõ một số kinh nghiệm trong công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Đó là, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nghiêm các nguyên tắc
của Đảng; phải đặc biệt coi trọng sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong
toàn Đảng; thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ “then chốt”
của công tác xây dựng Đảng; xây dựng Đảng phải gắn kết chặt chẽ với lãnh đạo
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế. “Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, toàn diện, hiệu quả giữa xây dựng
chỉnh đốn Đảng, trong đó xây dựng Đảng nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài,
chỉnh đốn Đảng nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, cấp bách; đồng thời, xác
định đúng trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá” . Trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ
(3)
chức thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải quyết tâm chính trị cao, nỗ lực
lớn, hành động quyết liệt, cách làm bài bản, dân chủ, chắc chắn vàbước đi phù
hợp.
Đối với toàn Đảng, Người cũng chỉ Đảng sống trong hội, mỗi cán bộ,
đảng viên đều chịu ảnh hưởng của hội, cả cái tốt cái xấu, cái hay cái dở.
Chỉ có thể phát huy được cái tốt, cái hay lọc bỏ cái xấu, cái dở bằng việc rèn luyện
thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên, thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn
Đảng.
Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề này trước những bước chuyển của cách
mạng, đây thời điểm thường những bất cập, bên cạnh đó những chao
đảo, suy thoái có thể xảy ra.
Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh để lại những điều tâm huyết, căn dặn toàn đảng:
”Việc cần phải làm trước tiên chỉnh đốn lại đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi
đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn
tâm toàn ý phục vụ nhân dân”.
g.Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đờimột bước ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc,
Đảng ra đời không nhằm mục đích tự thânlà vì mục tiêu độc lập dân tộc, tự
do, hạnh phúc cho nhân dân. Và ngay từ khi vận động thành lập Đảng, trong quá
trình bôn ba tìm đường cứu nước, rồi đến quá trình vận động sáp nhập ba tổ
chức cộng sản để dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã luôn luôn đề cao vai trò, vị trí của nhân dân trong mọi tiến trình của
cách mạng. Nhân dân trung tâm, chủ thể của cách mạng, chủ thể của
công cuộc đổi mới, xây dựng bảo vệ Tổ quốc; do đó, mọi chủ trương, chính
sách phải xuất phát từ chính những yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhânn làm mục
tiêu phấn đấu. Không sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, thì Đảng không
thể làm tròn trách nhiệm của mình.
Trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, cùng với sự vận dụng những tư tưởng, quan điểm về trọng dân của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, thiết nghĩ, để tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân trong giai đoạn hiện nay, cần phải tập trung vào một số vấn đề sau
đây:
Thứ nhất, Đảng phải thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân. Bởi đó là quyền bất khả xâm phạm, cần tôn trọng, phát huy ở cả thể chế
và trong hoạt động thực tiễn của Đảng.
Thứ hai, phải củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ
hội chủ nghĩa. Với những kết quả đạt được tròn tiến trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng luôn được Nhân dân tin yêu
Thứ ba, phải dựa vào dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây vấn đề hết sức
quan trọng,ý nghĩa to lớn đối với sự sống còn của Đảng. Bởi, Nhân dânchỗ
dựa vững chắc, nguồn sức mạnh của Đảng.
Thứ tư, phải tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên lợi ích
chung của toàn Đảng, toàn dân; hiểu thấu, quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ
toàn diện hơn nữa những nghị quyết, quy định, kết luận, văn bản liên quan đến chỉ
đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về công tác dân vận, thực hành dân chủ.
2.3)Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên
a. Cán bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng theo
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở: “Đảng ta một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phả thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệ chính, chí công tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân”(11). vậy, cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục giáo dục, nâng cao nhận
thức cho cán bộ, đảng viên về tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, chí công tư, làm người công bộc tận tụy,
trung thành của nhân dân. Đưa việc học tập và làm theo tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh phải trở thành công việc thường xuyên, hàng ngày
của mỗi tổ chức, cá nhân, đơn vị với nhiều nội dung phong phú và thiết thực,
gắn với chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên. Đổi mới phong
cách làm việc, nói đi đôi với làm, thực hiện nghiêm túc quy định về những
điều đảng viên không được làm. Động viên, khuyến khích các tổ chức,
nhân tích cực phát hiện, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí để mỗi tổ chức đảng thực sự đạo
đức, là văn minh.
b.Cán bộ ,đảng viên phải tuyệt đối trung thành với đảng
Nhấn mạnh tầm quan trọng nội hàm của phạm trù "trung" trong quan
niệm đạo đức mới, Hồ Chí Minh trong quá trình lựa chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ
cách mạng nói chung và cán bộ Công an nói riêng, luôn đặt ra yêu cầu họ phải
những con người trung thành với sự nghiệp của Đảng, năng lực nhiệt huyết
cách mạng nhất. Về "tuyệt đối trung thành với Đảng", Người dạy lực lượng CAND
những nội dung quan trọng sau đây:
Trước hết, trung thành với Đảng là trung thành với sự nghiệp cách mạng do
Đảng lãnh đạo. Lòng trung thành không chỉ dừng lại tưởng, niềm tin đơn
thuần mà còn phải được thể hiện bằng hành động cách mạng.
Thứ hai, trung thành với Đảng còn phải được thể hiện ở việc mỗi người cán
bộ cách mạng, tùy theo vị trí công tác của mình, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ được Đảng nhân dân giao phó. Trung thành với Đảng thể hiện ý
thức tôn trọng nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. CAND phải “ra sức làm việc cho
Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của
cá nhân mình.
Thứ ba, trung thành với Đảng thể hiện ý thức rèn luyện đạo đức, phẩm
chất cách mạng, không ngừng nâng cao năng lực hành động cách mạng để thực
hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ mà Đảng giao cho; ở tình cảm nguyện vọng thiết
tha của mình ra sức phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, thực hiện
tưởng của Đảng.
c.Cán bộ,đảng viên cần chấp hành nghiêm chỉnh đường lối của đảng
Cần phát huy vai trò chủ động, tích cực tính tự giác, gương mẫu của
mỗi cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên cần tích cực, chủ động học tập,
tìm hiểu, nắm vững am hiểu sâu sắc các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, thấm nhuần đạo đức cách mạng để thực
hiện tốt nhiệm vụ quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng
nền tảng đạo đứchội. Mỗi người cần nêu gương sáng trong tuân thủ và chấp
hành pháp luật; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp pháp luật; am hiểu
pháp luật để thi hành nghiêm chỉnh pháp luật.
Học tập làm theo lời Bác Hồ dạy, Quân ủy Trung ương, cấp ủy, chỉ huy
các cấp luôn quan tâm lãnh đạo không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo toàn
diện, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng. Duy trì nghiêm túc nền nếp, chế
độ sinh hoạt đảng, thực hiện tốt nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; soát, bổ
sung và thực hiện nghiêm quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo trên các mặt công tác
trọng yếu; xác định mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với nhân phụ trách.
Phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ
quan, đơn vị; phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng hội đồng quân nhân
tham gia xây dựng Đảng
d.Cán bộ,đảng viên cương quyết chống các biểu hiện tiêu cực.
Theo Hồ Chí Minh, tham ô, lãng phí, quan liêu là kẻ thù nguy hiểm. Vì nó
không mang gươm, mang súng, ngay trong các tổ chức của ta, làm
hỏng công việc, tinh thần trong sạch và ý chí vượt khó của cán bộ ta. Những k
tham ô, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao
của cải của nhân dân, tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám. Tham
ô, lãng phí, quan liêu vẫn còn thì cách mạng vẫn chưa hoàn toàn thành công.
Vì tham nhũng là một loại hành vi tiêu cực do người có chức vụ, quyền hạn
thực hiện; một loại biểu hiện cụ thể của sự suy thoái về tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, cho nên phòng và đấu tranh chống tham nhũng luôn là một nhiệm vụ
quan trọng, được Đảng Nhà nước đặc biệt quan tâm; được đẩy mạnh trong
những nhiệm kỳ gần đây.
vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của
cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể,
tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Tuy nhiên, phải thấy rõ những khó
khăn, phức tạp của cuộc đấu tranh này, bởi đây “chốngcuộc chiến đấu khổng lồ
lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”, đòi hỏi mỗi
cán bộ, đảng viên cần phải nỗ lực, tự rèn luyện, tự vượt lên chính mình.
e. Cán bộ ,đảng viên phải tăng cường sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân
Thứ nhất, cán bộ, đảng viên từ nhân dân ra. Dân gốc của nước, của
cách mạng. Với Hồ Chí Minh, nhân dân chủ thể tích cực của lịch sử, giá trị
quý báu nhất, cao nhất. Tài dân, sức dân nguồn lực quan trọng nhất của phát
triển
Thứ hai, cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần gương mẫu, hết lòng
phụng sự Tổ quốc, phụng vụ nhân dân. Ðể duy trì mối quan hệ khăng khít giữa
đảng viên và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên
phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng để dân tin, dân yêu
Thứ ba, cán bộ, đảng viên chịu sự giám sát, phê bình của nhân dân. Tai mắt
của nhân dân khắp nơi, chính vì vậy, họ lực lượng giám sát, phê bình cán bộ,
đảng viên sát sao nhất. Cán bộ nào xấu, cán bộ nào tốt, ai làm việc hay, việc gì
dở, nhân dân đều biết rõ ràng
Thứ tư, nhân dân nghĩa vụ trách nhiệm xây dựng bảo vệ Tổ quốc
dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Không chỉ khẳng định vai trò của nhân dân trong cách
mạng, quyền lợi của người làm chủ nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đồng
thời nêu rõ, dân chủ không có nghĩa là nhân dân được ban phát những quyền lợi đó
mặc nhiên thụ hưởng; trái lại, chế độ ta chế độ dân chủ, tức nhân dân
người chủ, nhưng mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi thực thi nghĩa
vụ của mình.
Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào
Nhân dân để xây dựng Đảng là vấn đề thuộc quy luật, tính nguyên tắc, thể hiện
bản chất sức sống trường tồn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, quán triệt,
thực hiện hiệu quả nhiệm vụ, giải pháp này là thiết thực góp phần xây dựng, chỉnh
đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng trong tình hình mới.
2.4)Thực trạng
2.4.1)Thành tựu
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về nghiên cứu, phát triển sáng tạo lý luận ở Việt Nam càng mang giá trị
lý luận và thực tiễn sâu sắc.Nghiên cứu và phát triển lý luận được coi là công cụ
nền tảng để xây dựng Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng;
đồng thời, tìm ra lời giải cho những bài toán hóc búa mà thực tiễn đặt ra, hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp và dân tộc trong thời đại mới.
Thực tế cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng và không ngừng
vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm cơ sở cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối, tổ chức lực lượng
cách mạng, chỉ đạo các hoạt động thực tiễn, thực hiện các nhiệm vụ cách mạng.
Tại Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986), Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới,
bắt đầu bằng đổi mới tư duy với quan điểm: Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải
nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa di
sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trải qua
gần 35 năm đổi mới, cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
một bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của
Đảng; bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức của toàn Đảng để thực hiện thắng lợi
mọi nhiệm vụ cách mạng .Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được hình thành trong thời kỳ đổi mới và được Đảng ta nhận thức ngày càng đầy
đủ hơn. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, phát triển, cạnh tranh bình
đẳng, hợp tác cùng phát triển, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Đó là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
2.4.2)Hạn chế
Bên cạnh những thành công và những thắng lợi, thành tựu là cơ bản, phương
thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng còn một số hạn chế, bất cập, cần được nhận
diện một cách nghiêm túc, khoa học.
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong nhận thức luận về đảng cầm quyền, nội
dung, phương thức cầm quyền của Đảng.
Thứ hai, hạn chế, bất cập trong xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Thứ ba, hạn chế, bất cập trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Thứ tư, hạn chế, bất cập về cán bộ và công tác cán bộ, đảng viên của Đảng.
Thứ năm, hạn chế, bất cập trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật của Đảng.
Thêm vào đó, trong thời gian qua “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên, có cả cán
bộ cao cấp của Đảng sa vào chủ nghĩa cá nhân, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…
điều này đã và đang đe dọa sự tồn vong của Đảng, làm lung lay vai trò lãnh đạo của Đảng, vô
hình chung trở thành cái cớ để các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền tìm mọi cách xóa bỏ vai
trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” và thúc đẩy “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Trong khi đó, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó dự báo; yêu cầu ngày
càng cao của công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế; âm mưu, thủ đoạn chống phá của
các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn, nhất là thủ đoạn dùng chiêu bài đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập, hòng từng bước hạn chế, đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội... Vì vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu, làm sâu sắc, cụ thể hóa và vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
| 1/10

Preview text:

Chương 2:Những nội dung cơ bản của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2.1)Đảng là đạo đức ,đảng là văn minh

Chế độ chính trị của nước ta dựa trên 3 trụ cột: Đảng - Nhà nước - Nhân dân với
các chức năng khác nhau là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Xây dựng Đảng đạo đức:
-Cán bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
- Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác của cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
-Nâng cao chuẩn mực về nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Xây Đảng văn minh:
-Đảng tiêu biểu cho trí tuệ, là lực lượng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và toàn thể dân tộc Việt Nam, là lý tưởng hướng tới những giá trị tốt đẹp của một xã
hội tiến bộ, hiện đại và không ngừng vươn lên.
Nhờ đó Đảng mới trong sạch, vững mạnh. Trong 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách
mạng, Người nhấn mạnh, Đảng là một tổ chức cách mạng chứ không phải tổ chức để
“làm quan phát tài”.Muốn chế độ vững bền phải củng cố, xây dựng tốt 3 trụ cột này:
Đảng phải trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng; Nhà nước cũng phải trong sạch, vững mạnh, chất lượng, hiệu quả, năng động trong
quản lý, điều hành; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực hoàn
thành. Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt, đó là người cán bộ đó phải
vừa có đức, vừa có tài. Trong đó, đạo đức là gốc, Người viết: “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân”.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu lịch
sử cách mạng và quy luật phát triển của dân tộc
-Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển của toàn
xã hội trên tất cả các lĩnh vực trong từng thời kỳ nhất định.
-Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
-Tất cả các đảng viên phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu trong công tác và cuộc sống hằng ngày.
-Đảng có quan hê \ quốc tế trong sáng.
2.2)Những vấn đề cụ thể trong hoạt động của đảng
Nếu khái quát những luận điểm của Hồ Chí Minh, có thể thấy Người đã đề
cập những nguyên tắc xây dựng Đảng sau đây:
a. Một là tập trung dân chủ
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và tập trung là sự kết hợp hài hòa và khoa học giữa hai
mặt tập trungdân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc. Dân chủ là
điều kiện là tiền đề của tập trung; tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được
thực hiện. dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở để tập trung, chứ không phải là dân chủ
theo kiểu phân tán, tùy tiện, vô tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ sở dân chủ, chứ
không phai tập trung quan lieu theo kiểu độc đoán chuyên quyền.
Là sự kết hợp hài hòa và khoa học giữa hai mặt tập trungdân chủ tạo thành chỉnh
thể thống nhất của một nguyên tắc. Dân chủ là điều kiện là tiền đề của tập trung; tập
trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện.
Là nguyên tắc cơ bản trong 5 nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Đảng; được xem
là nguyên tắc căn bản chi phối các nguyên tắc khác.
Nguyên tắc này chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng tổ chức và hoạt động, vừa bảo
đảm cho Đảng thống nhất ý chí và hành động, vừa phát huy dân chủ, quy tụ được sức
mạnh, trí tuệ của tập thể trong hoạt động của Đảng.
Về tập trung, Người nhấn mạnh: Phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức hành
động. do đó thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng
viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng.
Còn dân chủ, như Người đã phân tích đó là “của quý báu nhất của nhân dân”, là
thành quả của cách mạng. Người đã viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng
phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý
kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý.Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người.
b. Hai là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. T
rong tác phẩm Sửa
đổi lối làm việc, Người đã phân tích rất rõ về nguyên tắc này: một người dù tài giỏi
đến mấy cũng không thể thấy hết mọi mặt của vấn đề, càng không thể thấy hết
được mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. vì vậy càng phải có nhiều người tham
gia lãnh đạo. nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt
kia, do đó hiểu được mọi mặt, nọi vấn đề.
Về cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ
lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho 1 người hoặc một nhóm ít
người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Nếu không cho cá nhân phụ trách, thì sẽ
sinh ra tệ người này ỷ lại người kia, kết quả là không ai thi hành.
Đối với việc thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng, Tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc có ý nghĩ to lớn vì vậy cần khắc phục tệ độc đoán
chuyên quyền, đồng thời phải chống lại cả tình trạng dựa dẫm tập thể, không dám quyết
đoán, không dám chịu trách nhiệm. Người đã kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì
sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan, kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn vô chính phủ.
Kết quả cũng là hỏng việc.
c. Ba là tự phê bình và phê bình
Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này. Người coi đây là nguyên tắc sinh
hoạt của Đảng, là luật phát triển của Đảng. Người
đặt tự phê bình lên trước để mỗi
đảng viên trước hết tự mình phải thấy rõ mình, để phát huy ưu điểm khắc phục
nhược điểm. một người biết tự phê bình tốt thì mới đi phê bình người khác được.
Nguyên tắc tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nhấn
mạnh mục đích của tự phê bình và phê bình là cốt để phát huy ưu điểm, sửa
chữa khuyết điểm, để làm cho tư tưởng và hành động được đúng hơn tốt
hơn, để làm việc có hiệu quả hơn.
Nhưng thực hiện tự phê bình và phê bình thật đúng đắn và nghiêm túc thật
không phải chuyện dễ dàng. Muốn thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi người
phải trung thực, chân thành với bản than mình cũng như với người khác.
d. Bốn là kỷ luật nghiêm minh, tự giác
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác
trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng: Sức mạnh vô địch của Đảng là ở
tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ đảng viên.
Nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, vì đó là kỷ luật đối với mọi cán bộ, đảng
viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng. Tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cán
bộ, đảng viên đối với Đảng, một tổ chức của những người tự nguyện đứng trong
hàng ngũ để cùng chiến đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kỷ luật này
là lòng tự giác của Đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng.
Nguyên tắc tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nhấn mạnh
mục đích của tự phê bình và phê bình là cốt để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết
điểm, để làm cho tư tưởng và hành động được đúng hơn tốt hơn, để làm việc có hiệu quả hơn.
e. Đoàn kết thống nhất trong Đảng
Trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ, toàn Đảng phải đoàn kết
thành một khối vững chắc, toàn đảng phải thống nhất ý chí và hành động, mọi đảng
viên phải bảo vệ sự đoàn kết thống nhất của Đảng như bảo vệ con ngươi của mắt
mình. Có đoàn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành
động, làm cho “Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”.
Để xây dựng và đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người thường nêu những yêu
cầu như: phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ để cán bộ đảng viên có thể
tham gia bàn bạc đến nơi đến chốn những vấn đề hệ trọng của Đảng; phải thường
xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình với tinh thần trung thực, chân thành,
thẳng thắn, tự nghiêm khắc với mình và có tình thương yêu đồng chí; phải thường
xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân với bao nhiêu thứ tệ
nạn từ chủ nghĩa cá nhân mà ra: tham ô, lãng phí, quan lieu, bè cánh, cơ hội, dối
trá, chạy theo chức, quyền, danh, lợi…
f.Đảng phải thường xuyên được chỉnh đốn
Đại hội XIII đã làm rõ một số kinh nghiệm trong công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Đó là, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nghiêm các nguyên tắc
của Đảng; phải đặc biệt coi trọng sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong
toàn Đảng; thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ “then chốt”
của công tác xây dựng Đảng; xây dựng Đảng phải gắn kết chặt chẽ với lãnh đạo
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế. “Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, toàn diện, hiệu quả giữa xây dựng và
chỉnh đốn Đảng, trong đó xây dựng Đảng là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài,
chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, cấp bách; đồng thời, xác
định đúng trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá”(3). Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực
lớn, hành động quyết liệt, cách làm bài bản, dân chủ, chắc chắn và có bước đi phù hợp.
Đối với toàn Đảng, Người cũng chỉ rõ là Đảng sống trong xã hội, mỗi cán bộ,
đảng viên đều chịu ảnh hưởng của xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở.
Chỉ có thể phát huy được cái tốt, cái hay lọc bỏ cái xấu, cái dở bằng việc rèn luyện
thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên, thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng.
Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề này trước những bước chuyển của cách
mạng, vì đây là thời điểm thường có những bất cập, bên cạnh đó là những chao
đảo, suy thoái có thể xảy ra.
Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh để lại những điều tâm huyết, căn dặn toàn đảng:
”Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi
đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn
tâm toàn ý phục vụ nhân dân”.
g.Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc,
Đảng ra đời không nhằm mục đích tự thân mà là vì mục tiêu độc lập dân tộc, tự
do, hạnh phúc cho nhân dân. Và ngay từ khi vận động thành lập Đảng, trong quá
trình bôn ba tìm đường cứu nước, rồi đến quá trình vận động sáp nhập ba tổ
chức cộng sản để dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã luôn luôn đề cao vai trò, vị trí của nhân dân trong mọi tiến trình của
cách mạng. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của cách mạng, là chủ thể của
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; do đó, mọi chủ trương, chính
sách phải xuất phát từ chính những yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục
tiêu phấn đấu. Không có sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, thì Đảng không
thể làm tròn trách nhiệm của mình.
Trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, cùng với sự vận dụng những tư tưởng, quan điểm về trọng dân của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, thiết nghĩ, để tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân trong giai đoạn hiện nay, cần phải tập trung vào một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, Đảng phải thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân. Bởi đó là quyền bất khả xâm phạm, cần tôn trọng, phát huy ở cả thể chế
và trong hoạt động thực tiễn của Đảng.
Thứ hai, phải củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ
xã hội chủ nghĩa. Với những kết quả đạt được tròn tiến trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng luôn được Nhân dân tin yêu
Thứ ba, phải dựa vào dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây là vấn đề hết sức
quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với sự sống còn của Đảng. Bởi, Nhân dân là chỗ
dựa vững chắc, nguồn sức mạnh của Đảng.
Thứ tư, phải tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên lợi ích
chung của toàn Đảng, toàn dân; hiểu thấu, quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và
toàn diện hơn nữa những nghị quyết, quy định, kết luận, văn bản liên quan đến chỉ
đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về công tác dân vận, thực hành dân chủ.
2.3)Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên
a. Cán bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phả thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệ chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân”(11). Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục giáo dục, nâng cao nhận
thức cho cán bộ, đảng viên về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy,
trung thành của nhân dân. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh phải trở thành công việc thường xuyên, hàng ngày
của mỗi tổ chức, cá nhân, đơn vị với nhiều nội dung phong phú và thiết thực,
gắn với chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên. Đổi mới phong
cách làm việc, nói đi đôi với làm, thực hiện nghiêm túc quy định về những
điều đảng viên không được làm. Động viên, khuyến khích các tổ chức, cá
nhân tích cực phát hiện, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và
hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí để mỗi tổ chức đảng thực sự là đạo đức, là văn minh.
b.Cán bộ ,đảng viên phải tuyệt đối trung thành với đảng
Nhấn mạnh tầm quan trọng và nội hàm của phạm trù "trung" trong quan
niệm đạo đức mới, Hồ Chí Minh trong quá trình lựa chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ
cách mạng nói chung và cán bộ Công an nói riêng, luôn đặt ra yêu cầu họ phải là
những con người trung thành với sự nghiệp của Đảng, có năng lực và nhiệt huyết
cách mạng nhất. Về "tuyệt đối trung thành với Đảng", Người dạy lực lượng CAND
những nội dung quan trọng sau đây:
Trước hết, trung thành với Đảng là trung thành với sự nghiệp cách mạng do
Đảng lãnh đạo. Lòng trung thành không chỉ dừng lại ở tư tưởng, niềm tin đơn
thuần mà còn phải được thể hiện bằng hành động cách mạng.
Thứ hai, trung thành với Đảng còn phải được thể hiện ở việc mỗi người cán
bộ cách mạng, tùy theo vị trí công tác của mình, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó. Trung thành với Đảng thể hiện ở ý
thức tôn trọng nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. CAND phải “ra sức làm việc cho
Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình.
Thứ ba, trung thành với Đảng thể hiện ở ý thức rèn luyện đạo đức, phẩm
chất cách mạng, không ngừng nâng cao năng lực hành động cách mạng để thực
hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ mà Đảng giao cho; ở tình cảm nguyện vọng thiết
tha của mình ra sức phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, thực hiện lý tưởng của Đảng.
c.Cán bộ,đảng viên cần chấp hành nghiêm chỉnh đường lối của đảng
Cần phát huy vai trò chủ động, tích cực và tính tự giác, gương mẫu của
mỗi cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên cần tích cực, chủ động học tập,
tìm hiểu, nắm vững và am hiểu sâu sắc các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, thấm nhuần đạo đức cách mạng để thực
hiện tốt nhiệm vụ quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng
nền tảng đạo đức xã hội. Mỗi người cần nêu gương sáng trong tuân thủ và chấp
hành pháp luật; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; am hiểu
pháp luật để thi hành nghiêm chỉnh pháp luật.
Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, Quân ủy Trung ương, cấp ủy, chỉ huy
các cấp luôn quan tâm lãnh đạo không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo toàn
diện, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng. Duy
trì nghiêm túc nền nếp, chế
độ sinh hoạt đảng, thực hiện tốt nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; rà soát, bổ
sung và thực hiện nghiêm quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo trên các mặt công tác
trọng yếu; xác định rõ mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách.
Phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ
quan, đơn vị; phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng và hội đồng quân nhân tham gia xây dựng Đảng
d.Cán bộ,đảng viên cương quyết chống các biểu hiện tiêu cực.
Theo Hồ Chí Minh, tham ô, lãng phí, quan liêu là kẻ thù nguy hiểm. Vì nó
không mang gươm, mang súng, mà nó ở ngay trong các tổ chức của ta, làm
hỏng công việc, tinh thần trong sạch và ý chí vượt khó của cán bộ ta. Những kẻ
tham ô, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao
của cải của nhân dân, tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám. Tham
ô, lãng phí, quan liêu vẫn còn thì cách mạng vẫn chưa hoàn toàn thành công.
Vì tham nhũng là một loại hành vi tiêu cực do người có chức vụ, quyền hạn
thực hiện; là một loại biểu hiện cụ thể của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, cho nên phòng và đấu tranh chống tham nhũng luôn là một nhiệm vụ
quan trọng, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm; được đẩy mạnh trong
những nhiệm kỳ gần đây.
Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của
cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng
, bồi dưỡng tư tưởng tập thể,
tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Tuy nhiên, phải thấy rõ những khó
khăn, phức tạp của cuộc đấu tranh này, bởi đây là cuộc chiến đấu khổng lồ “chống
lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”, đòi hỏi mỗi
cán bộ, đảng viên cần phải nỗ lực, tự rèn luyện, tự vượt lên chính mình.
e. Cán bộ ,đảng viên phải tăng cường sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân
Thứ nhất, cán bộ, đảng viên từ nhân dân mà ra. Dân là gốc của nước, của
cách mạng. Với Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ thể tích cực của lịch sử, là giá trị
quý báu nhất, cao nhất. Tài dân, sức dân là nguồn lực quan trọng nhất của phát triển
Thứ hai, cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần gương mẫu, hết lòng
phụng sự Tổ quốc, phụng vụ nhân dân. Ðể duy trì mối quan hệ khăng khít giữa
đảng viên và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên
phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng để dân tin, dân yêu
Thứ ba, cán bộ, đảng viên chịu sự giám sát, phê bình của nhân dân. Tai mắt
của nhân dân ở khắp nơi, chính vì vậy, họ là lực lượng giám sát, phê bình cán bộ,
đảng viên sát sao nhất. Cán bộ nào xấu, cán bộ nào tốt, ai làm việc gì hay, việc gì
dở, nhân dân đều biết rõ ràng
Thứ tư, nhân dân có nghĩa vụ và trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Không chỉ khẳng định vai trò của nhân dân trong cách
mạng, quyền lợi của người làm chủ nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đồng
thời nêu rõ, dân chủ không có nghĩa là nhân dân được ban phát những quyền lợi đó
và mặc nhiên thụ hưởng; trái lại, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là
người chủ, nhưng mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi và thực thi nghĩa vụ của mình.
Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào
Nhân dân để xây dựng Đảng là vấn đề thuộc quy luật, có tính nguyên tắc, thể hiện
bản chất và sức sống trường tồn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, quán triệt,
thực hiện hiệu quả nhiệm vụ, giải pháp này là thiết thực góp phần xây dựng, chỉnh
đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng trong tình hình mới. 2.4)Thực trạng 2.4.1)Thành tựu
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về nghiên cứu, phát triển sáng tạo lý luận ở Việt Nam càng mang giá trị
lý luận và thực tiễn sâu sắc.Nghiên cứu và phát triển lý luận được coi là công cụ
nền tảng để xây dựng Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng;
đồng thời, tìm ra lời giải cho những bài toán hóc búa mà thực tiễn đặt ra, hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp và dân tộc trong thời đại mới.
Thực tế cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng và không ngừng
vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm cơ sở cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối, tổ chức lực lượng
cách mạng, chỉ đạo các hoạt động thực tiễn, thực hiện các nhiệm vụ cách mạng.
Tại Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986), Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới,
bắt đầu bằng đổi mới tư duy với quan điểm: Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải
nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa di
sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trải qua
gần 35 năm đổi mới, cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
một bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của
Đảng; bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức của toàn Đảng để thực hiện thắng lợi
mọi nhiệm vụ cách mạng .Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được hình thành trong thời kỳ đổi mới và được Đảng ta nhận thức ngày càng đầy
đủ hơn. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, phát triển, cạnh tranh bình
đẳng, hợp tác cùng phát triển, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Đó là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. 2.4.2)Hạn chế
Bên cạnh những thành công và những thắng lợi, thành tựu là cơ bản, phương
thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng còn một số hạn chế, bất cập, cần được nhận
diện một cách nghiêm túc, khoa học.
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong nhận thức lý luận về đảng cầm quyền, nội
dung, phương thức cầm quyền của Đảng.
Thứ hai, hạn chế, bất cập trong xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Thứ ba, hạn chế, bất cập trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Thứ tư, hạn chế, bất cập về cán bộ và công tác cán bộ, đảng viên của Đảng.
Thứ năm, hạn chế, bất cập trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng.
Thêm vào đó, trong thời gian qua “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên, có cả cán
bộ cao cấp của Đảng sa vào chủ nghĩa cá nhân, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…
điều này đã và đang đe dọa sự tồn vong của Đảng, làm lung lay vai trò lãnh đạo của Đảng, vô
hình chung trở thành cái cớ để các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền tìm mọi cách xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” và thúc đẩy “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Trong khi đó, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó dự báo; yêu cầu ngày
càng cao của công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế; âm mưu, thủ đoạn chống phá của
các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn, nhất là thủ đoạn dùng chiêu bài đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập, hòng từng bước hạn chế, đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội... Vì vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu, làm sâu sắc, cụ thể hóa và vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí