-
Thông tin
-
Hỏi đáp
CHƯƠNG 2: SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN | Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học| Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
Thách thức mà giai cấp công nhân đối mặt trong môi trường kinh tế toàn cầu hóa và thay đổi công nghệ. Triển vọng của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong việc xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ.
Chủ nghĩa xã hội khoa học (ĐHQGHCM) 16 tài liệu
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 0.9 K tài liệu
CHƯƠNG 2: SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN | Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học| Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
Thách thức mà giai cấp công nhân đối mặt trong môi trường kinh tế toàn cầu hóa và thay đổi công nghệ. Triển vọng của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong việc xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ.
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (ĐHQGHCM) 16 tài liệu
Trường: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 0.9 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
lOMoAR cPSD| 15962736
CHƯƠNG 2: SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh) lOMoAR cPSD| 15962736
CHƯƠNG 2: SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN I.
Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân và sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân là một trong những chủ thể nắm vai trò trọng tâm trong chủ nghĩa Mác-
Lênin và có vai trò quan trọng trong sản xuất và là nền tảng của xã hội chủ nghĩa. Từ những
đặc điểm của giai cấp công nhân, họ được đảm nhiệm những sứ mệnh lịch sử có ý nghĩa
đối với đời sống và bối cảnh lịch sử, xã hội, kinh tế, chính trị,...
1. Khái niệm và đặc điểm của giai cấp công nhân:
a. Khái niệm giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân là kết tinh của các sự vận động khác nhau của nền đại công nghiệp, theo
quan điểm của Mác-Lênin là “sản phẩm” của nền đại công nghiệp. Có hai khía cạnh được
Mác-Lênin cho là yếu tố định hình nên giai cấp công nhân, đó là: kinh tế-xã hội và chính trị-xã hội.
Về khía cạnh kinh tế-xã hội: Trong phương thức sản xuất: phương thức sản xuất công nghiệp
với con người đóng vai trò là bộ phận gián tiếp hoặc trực tiếp vận hành ; Trong công cụ sản
xuất: các phương tiện sản xuất có sự gắn bó chặt chẽ với các loại máy móc, hệ thống sản xuất theo dây truyền;
Theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, vì là giai cấp được sinh ra trong chính nội hàm của nền đại công
nghiệp nên giai cấp công nhất sẽ luôn vận động cùng chiều với sự phát triển của nền công
nghiệp chứ không bị rơi vào tình trạng “suy tàn”, hay “tiêu vong” theo cách diễn tả trong
cuốn “C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập” ( t.23, tr. 605). Từ chính điều kiện làm việc và sản
xuất vật chất của giai cấp công nhân vừa đề cập như trên, giai cấp công nhân được tiếp nhận
những phẩm chất của một giai cấp tiến tiến, đóng góp cho vai trò chính trị-xã hội.
Về khía cạnh chính trị-xã hội: Hiện thức của Chủ nghĩa tư bản nằm ở một số vấn đề và
nghịch lý chưa được giải quyết. Điển hình về vấn đề công cụ lao động, ta được trực tiếp
thấy rằng dù là tầng lớp đóng góp nhiều sức lực và hiệu suất lao động nhất cho toàn xã hội
nhưng nhân tố sở hữu công cụ lao động là các nhà tư bản. Một ví dụ điển hình cần được
nghiệm ra về lợi ích của giai cấp lao động, khi giá trị thặng dư sức lao động của họ bị lợi
dụng và trở thành nguồn cơn cho sự giàu có của người chủ tư bản.
Chính hai khía cạnh mang tính định hình giai cấp công nhân này đã tạo trong tập thể giai
cấp công nhân những đặc điểm mang tính quan trọng để tạo ra các bước chuyển trong lịch
sử về giai cấp và xã hội.
b. Đặc điểm của giai cấp công nhân:
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chỉ có GCCN là giai cấp tiên tiến, cách mạng nhất, luôn đi đầu
trong đấu tranh và xứng đáng là người lãnh đạo cách mạng.” Bước ra từ nền đại công nghiệp
và sự bóc lột, cầm quyền của chế độ tư bản, hiển nhiên, giai cấp công nhân có những phẩm
chất khác với các giai cấp khác. Sự chuyển biến về phương thức sản xuất từ thủ công nghiệp
lên đại công nghiệp, về phương pháp lao động từ kém hiệu quả đến tự động hoặc bán tự động
và yêu cầu về tính kỷ luật của người lao động đã tạo ra những sự khác biệt rõ rệt giữa giai cấp
công nhân và các giai cấp khác. Trên thực tế, không chỉ có tính kỷ luật được xây dựng nên do
yêu cầu giờ làm việc và tính tập trung vào thao tác làm việc, tính tổ chức và tinh thần hợp tác
cũng được thúc đẩy trong suốt quá trình lao động của giai cấp công nhân. Giai cấp công
nhân, từ đó, chính là đại diện tiêu biểu cho lực lượng ưu tú, sản xuất tiến bộ và có bản chất
quốc tế bởi giữa họ có sự thống nhất về lợi ích, thống nhất về tư tưởng, thống nhất về mục lOMoAR cPSD| 15962736
tiêu, thống nhất về tổ chức và thống nhất trong hành động. Vì vậy, giai cấp công nhân có sứ
mệnh quan trọng cho đời sống của chính họ và cho thế giới.
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: giai cấp công nhân với những đặc điểm và tính chất
lao động của mình cần đóng vai trò chủ lực, thực hiện sứ mệnh lịch sử. Cụ thể, nội dung sứ
mệnh lịch sử mà giai cấp công nhân cần hoàn thành là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá
bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn
thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu; xây dựng xã hội mới thực sự
tốt đẹp chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Về kinh tế: Giai cấp công nhân trở thành lực lượng sản xuất cơ bản và là giai cấp quyết định
sự tồn tại xã hội hiện đại và tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
Về chính trị: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân cùng với nhân dân
lao động tiến hành đấu tranh giành chính quyền, xác lập và bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ cho nhân dân.
Về văn hóa tư tưởng: Giai cấp công nhân đấu tranh với hệ tư tưởng phi vô sản, xác lập địa
vị thống trị của hệ tư tưởng giai cấp công nhân xây dựng nền văn hóa và con người mới XHCN.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, có hai bước cần giai cấp công nhân trải qua. Hai
bước này có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời. Bước thứ nhất: giai cấp công nhân
biến thành giai cấp thống trị và giành lấy chính quyền nhà nước vào tay giai cấp mình. Bước
thứ hai: giai cấp công nhân dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản
trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước từ
đó tiến hành tổ chức xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
3. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân:
Sứ mệnh lịch sử là nhiệm vụ quan trọng, thiêng liêng buộc phải thực hiện trong một điều
kiện, hoàn cảnh nhất định. Cũng như vậy, sứ mệnh lịch sử của một giai cấp là nhiệm vụ
thiêng liêng, quan trọng buộc một giai cấp phải thực hiện trong cuộc đấu tranh giai cấp để
làm cho xã hội phát triển từ thấp đến cao
a, Điều kiện khách quan:
Địa vị kinh tế của giai cấp công nhân: Trong xã hội TBCN, giai cấp công nhân là một bộ
phận và là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất trong những bộ phận hợp thành của
LLSX. Họ đại diện cho sự phát triển không ngừng của LLSX theo chiều hướng ngày càng
hiện đại, với trình độ xã hội hóa, quốc tế hóa ngày càng cao. Do đó, giai cấp công nhân là lực
lượng quyết định nhất trong việc phá vỡ QHSX TBCN khi nó đã trở nên lỗi thời, lạc hậu hơn
so với sự phát triển của LLSX và mang nặng tính chất tư nhân TBCN ở cả ba mặt của nó.
Địa vị chính trị-xã hội của giai cấp công nhân: Trong xã hội TBCN, do giai cấp công nhân là
giai cấp không có hoặc về cơ bản là không có tư liệu sản xuất (hay không có đủ những tư liệu
sản xuất chủ yếu, cần thiết, quyết định). Nếu như người nông dân vẫn còn có sở hữu tư nhân
nhỏ về ruộng đất; người trí thức vẫn được giới chủ trọng dụng và gắn bó chặt chẽ với sự
thống trị của giai cấp tư sản, thì đại bộ phận giai cấp công nhân vẫn chỉ có thể kiếm sống
bằng việc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản, và bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột
nặng nề nhất. Do đó, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần triệt để cách mạng nhất trong
cuộc đấu tranh lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và thủ tiêu mọi chế độ áp bức, bóc lột lOMoAR cPSD| 15962736
con người. Vì vậy, C.Mác cho rằng: trong cuộc đấu tranh ấy, giai cấp công nhân không có gì
để mất ngoài xiềng xích nô lệ; nếu được, lại được cả thế giới về mình.
Hiện nay, giai cấp công nhân ở các nước TBCN đã có nhiều nét thay đổi khác trước: một bộ
phận đã được trung lưu hóa, có đời sống sung túc hơn; một bộ phận có sở hữu tư nhân về tư
liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất nhỏ lẻ… song một sự thật vẫn không thay đổi là: toàn bộ
những tư liệu sản xuất quan trọng nhất quyết định sự sống còn của nền kinh tế TBCN, những
tư liệu sản xuất đóng vai trò là huyết mạch kinh tế của nền sản xuất này vẫn nằm trong tay
giai cấp tư sản. Địa vị kinh tế-xã hội của giai cấp công nhân ở các nước này vẫn không thay
đổi, do đó, sứ mệnh lịch sử của họ vẫn không hề thay đổi… b, Yếu tố chủ quan:
● Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng
- Sự phát triển về số lượng phải gắn liền với sự phát triển về chất lượng giai cấp công nhân
hiện đại, đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình.
+ Chất lượng công nhân phải thể hiện ở trình độ trưởng thành về ý thức chính trị của một giai
cấp cách mạng, tức là tự giác nhận thức được vai trò và trọng trách của giai cấp mình đối với
lịch sử, do đó giai cấp công nhân phải được giác ngộ về lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Là giai cấp đại diện tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, chất lượng giai cấp công
nhân còn phải thể hiện ở năng lực và trình độ làm chủ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện
đại, nhất là trong điều kiện hiện nay.
● Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình
- Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời và đảm nhận vai trò lãnh đạo
cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.
- Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội và nguồn bổ sung lực lượng quan trọng nhất của Đảng,
làm cho Đảng mang bản chất giai cấp công nhân trở thành đội tiên phong, bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp.
+ Đảng Cộng sản đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc và xã hội.
- Đảng Cộng sản đề ra đường lối, tuyên truyền đưa đường lối vào thực tiễn cuộc sống; tổ
chức thực hiện và gương mẫu thực hiện đường lối.
● Sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động khác (trí thức, tiểu thương,. . . ) do giai cấp công nhân thông qua
đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo
→ Chỉ duy nhất giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, từng bước
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.Từ sự phân tích địa
vị kinh tế - xã hội, đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp và tầng lớp trung gian có thể kết
luận: chỉ duy nhất giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, từng bước
xây dựng CNXH, CSCN trên phạm vi toàn thế giới. Đảng Cộng sản là tổ chức cao nhất của lOMoAR cPSD| 15962736
giai cấp công nhân - nhân tố chủ quan cơ bản nhất để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
II. Giai cấp công nhân và việc thực hiện nhiệm vụ của giai cấp công nhân hiện nay:
Hiện nay, giai cấp công nhân vẫn đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và đóng góp vào sự
phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới.
Giai cấp công nhân hiện nay:
a. Những điểm tương đối ổn định so với thế kỉ XIX:
Giai cấp công nhân hiện nay vẫn giữ được vai trò là giai cấp nắm giữ nguồn lực lượng sản
xuất hàng đầu và gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp tương tự khi so với thể kỉ XIX. Ở
các nước trên thế giới, công nghiệp và con người sản xuất gắn với nó đóng vai trò quan trọng
trong việc phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, những vấn đề cơ bản như tình trạng bóc lột
giá trị thặng dư lao động của người lao động vẫn diễn ra. Mối quan hệ sản xuất và chế độ sở
hữu tư nhân vẫn còn. Dù ngày nay, giai cấp vô sản nói chung đã có thể sở hữu công cụ lao
động nhưng chỉ chiếm phần nhỏ, phần lớn các công cụ lao động vẫn nằm trong tay của giai
cấp tư bản. Các phong trào công nhân và cộng sản vẫn đóng vai trò mật thiết tới các cuộc đấu
tranh hướng tới các giá trị vị hoà bình, hợp tác và phát triển, vì dân sinh, dân chủ và vì tiến
bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội.
Từ chính hiện thực trên, ta có thể chứng minh và khẳng định giá trị bền bỉ theo thời gian,
tính khoa học và tính thực tiễn của lý luận về sứ mệnh của giai cấp công nhân trong chủ nghĩa Mác-Lênin.
b. Những biến đổi, khác biệt.
Xu hướng “trí tuệ hoá” tăng nhanh: gắn liền với cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
với sự phát triển kinh tế tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hoá.
Xu hướng “trung lưu hoá” gia tăng: trong bối cảnh toàn cầu hoá, chủ nghĩa tư bản có một số
điều chỉnh nhất định về phương thức quản lý, các biện pháp điều hoà mâu thuẫn xã hội. Một
bộ phận công nhân đã tham gia vào sở hữu một lượng tư liệu sản xuất của xã hội thông qua
chế độ cổ phần hoá. Về mặt hình thức họ không còn là “vô sản” nữa và có thể được “trung
lưu hoá” về mức sống, nhưng về thực chất, ở các nước tư bản, do không chiếm được tỷ lệ sở
hữu cao nên quá trình sản xuất và phân chia lợi nhuận vẫn phụ thuộc vào các cổ đông lớn.
Khi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất vẫn tồn tại thì những thành quả của
khoa học công nghệ, trình độ kinh tế tri thức và những điều chỉnh về thể chế quản lý kinh tế
xã hội… thì vẫn là công cụ để bóc lột giá trị thặng dư. Và Giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột
nặng nề bởi các chủ thế mới trong toàn cầu hoá như các tập đoàn xuyên quốc gia,nhà nước
của các nước tư bản phát triển…
Là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo đội tiên phong của giai cấp công nhân, giữ vai trò cầm quyền
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh
mới toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nhân hiện đại
cũng tăng nhanh về số lượng làm thay đổi lớn về cơ cấu trong nền sản xuất hiện đại.
2. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay là tiếp tục đấu tranh cho
quyền lợi của họ và đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Giai cấp công nhân vẫn là tầng
lớp chủ đạo trong sản xuất và có quyền lực thực sự trong việc quản lý và điều hành sản xuất. lOMoAR cPSD| 15962736
Nội dung kinh tế: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với sự phát triển xã hội ngày
càng thể hiện rõ, bởi sự phát triển sản xuất của chủ nghĩa tư bản trong thế giới ngày nay với
sự tham gia trực tiếp của giai cấp công nhân và các lực lượng lao động - dịch vụ trình độ lao
động cao là nhân tố kinh tế - xã hội thúc đẩy sự chín muồi các tiền đề của chủ nghĩa xã hội
trong lòng chủ nghĩa tư bản. Là điều kiện để phát huy vai trò của chủ thể giai cấp trong
cuộc đấu tranh vì dân sinh, tiến bộ xã hội => Vẫn giữ vai trò sản xuất chủ yếu, quyết định
sự tồn tại của xã hội.
Nội dung chính trị xã hội: Ở các nước tư bản chủ nghĩa, mục tiêu đấu tranh trực tiếp của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động là chống bất công và bất bình đẳng xã hội; mục tiêu lâu
dài là giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, được nêu rõ trong
Cương lĩnh chính trị của các Đảng Cộng sản trong các nước tư bản chủ nghĩa. Đối với các
nước xã hội chủ nghĩa, nơi các Đảng Cộng sản đã trở thành đảng cầm quyền, sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân là lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, giải quyết thành công các
nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là xây dựng Đảng cầm quyền
trong sạch, vững mạnh, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,đưa
đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Nội dung văn hoá tư tưởng: Đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng
sản,giáo dục nhận thức và củng cố niềm tin khoa học đối với lý tưởng, mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động; giáo dục và thực hiện chủ nghĩa
quốc tế chân chính của giai cấp công nhân trên cơ sở phát huy chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần dân tộc chính là nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay về văn hóa
tư tưởng. III. Sứ mệnh lịch sử của công nhân Việt Nam:
1. Đặc điểm của công nhân Việt Nam (khi so sánh với công nhân thế giới):
Điểm chung: Đại diện cho các phương thức sản xuất tiên tiến, sống tập trung ở các trung
tâm kinh tế, có ý thức tổ chức kỷ luật và đoàn kết cao, có tinh thần cách mạng triệt để. Điểm khác:
Thứ nhất (về sự ra đời): ra đời trong một nước thuộc địa nửa phong kiến và phải chịu 3 tầng
áp bức(phong kiến, thực dân, tư sản).
Thứ hai (về nguồn gốc xã hội): phần lớn xuất thân từ nông dân, điều này tạo cơ sở thuận lợi
cho việc hình thành khối liên minh công nông.
Thứ ba (về quan hệ với các giai tầng): Đối kháng với tư bản thực dân Pháp và bè lũ tay sai;
liên minh với nông dân và tri thức;
Thứ tư (về tư tưởng, chính trị): Là lực lượng chính trị tiên phong để lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc;
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của công nhân Việt Nam:
Nội dung về kinh tế: Giai cấp công nhân là nguồn nhân lực lao động; chủ yếu tham gia phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, làm cho nước ta trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa…
Nội dung về chính trị - xã hội: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giữ vững
bản chất giai cấp công nhân của Đảng, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản củng cố và hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa;
Nội dung về văn hóa tư tưởng: Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ sự trong
sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chống lại những quan điểm lOMoAR cPSD| 15962736
sai trái, sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
3. Phương hướng và một số biện pháp chủ yếu để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay:
Để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, cần có các phương hướng và biện pháp chủ yếu. *Phương hướng :
- Phát triển giai cấp công nhân Việt Nam về số lượng và chất lượng
- Nâng cao giác ngộ tư tưởng , bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tác
phong công nghiệp, xứng đáng là lực lượng công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước
- Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân
- Xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công nhân * Giải pháp :
- Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò của giai cấp nhân trong xã hội;
- Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh gắn với xây dựng khối liên minh Công-
Nông-Trí thức và doanh nhân . Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường
quan hệ đoàn kết quốc tế, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân trên toàn thế giới.
- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế. Xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân.
Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho giai cấp công nhân
- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng tri thức
hóa giai cấp công nhân. Đặc biệt quan tâm xây dựng thế hệ công nhân trẻ có học vấn
, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, có lập trường giai cấp và bản lĩnh vững
vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân;
- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị , của
toàn xã hội và sự vươn lên của bản thân mỗi người công nhân . Sự lãnh đạo của
Đảng và nhà nước có vai trò quyết định , công đoàn có vai trò quyết định trực tiếp
trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân.
Chương 3: Chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: I. Chủ nghĩa xã hội:
1. Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế- xã hội chủ nghĩa xã hội:
Vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử nghiên cứu xã hội loài người, C.Mác và Ph. Ăngghen
xây dựng nên học thuyết hình thái kinh tế xã hội. Chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã hội thấp
lên mức cao theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen là quá trình lịch sử-tự nhiên.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa, hình thái kinh tế xã hội đã chỉ ra tính tất yếu như: Sự thay thế
về hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội trải qua nhiều giai đoạn từ hình thái kinh
tế xã hội nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và mức cao nhất là cộng sản chủ
nghĩa. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ
thấp đến cao sẽ trải qua hai giai đoạn: lOMoAR cPSD| 15962736
- Giai đoạn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp;
- Giai đoạn chủ nghĩa cộng sản là giai đoạn cao.
Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS được hiểu theo hai nghĩa, cụ thể như sau:
- Đối với nước chưa từng trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, cần thiết có thời kỳ
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trong thời lâu dài và còn được gọi
với cụm “những cơn đau đẻ kéo dài”;
- Đối với nước đã trả qua, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản sẽ có một thời
kì cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia, thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản.
2. Điều kiện ra đời xã hội chủ nghĩa:
Để có thể đưa chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ra đời thì cần có sự kết hợp giữa các điều kiện
kinh tế và điều kiện chính trị-xã hội nhất định:
● Về điều kiện kinh tế: Trường khi đến phần phân tích, cần nhận thức được rằng các
nhà khoa học đã thừa nhận những đóng góp và vai trò của chủ nghĩa tư bản.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa
đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực
lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”
Đầu tiên, chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển mới của nhân loại và thứ hai,
nhờ có sự phát triển công nghiệp cơ khí đã tạo ra sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Tuy nhiên, nội hàm trong sự phát triển của tư bản bản chủ nghĩa có tồn tại điểm
bất hợp lý giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá cao, mâu thuẫn với quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân.
● Về chính trị-xã hội:
Những mâu thuẫn xảy ra chủ yếu tập chung vào hai chủ thể là giai cấp công nhân hiện
đại và giai cấp tư sản lỗi thời. Trong đó, mâu thuẫn càng gay gắt và có chiều hướng tăng
lên về mức độ. Từ đó, giai cấp tư sản phải điều chỉnh có lợi hơn cho người lao động, bắt
nguồn từ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, tránh sự sụp đổ và bị lật đổ
do công nhân, nhưng không vượt qua trật tự của chủ nghĩa tư bản.
- Ví dụ, phân phối lợi nhuận nhiều hơn từ thành công của cuộc cách mạng công
nghiệp, giúp cho đời sống giai cấp công nhân phát triển. Tuy nhiên, hành động
này không xuất phát từ lòng nhân đạo mà là sức ép đến từ chính chủ nghĩa xã hội hiện thực.
- Từ đây kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp
công nhân (Đảng cộng sản). Tạo tiền đề cho cách mạng tư sản và tạo ra hình thái kinh
tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời.
3. Những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội:
- Chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện;
- Chủ nghĩa xã hội có nền phát triển cao dựa trên năng lực sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu;
- Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội do dân lao động làm chủ;
- Chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đại
biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của người dân lao động; lOMoAR cPSD| 15962736
- Chủ nghĩa xã hội có nền văn hoá phát triển cao, kế thừa và phát huy những giá trị của
văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại;
- Chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan hệ hữu
nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới;
II. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS được hiểu
theo hai nghĩa, cụ thể như sau: Đối với nước chưa từng trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển,
cần thiết có thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trong thời lâu dài và
còn được gọi với cụm “những cơn đau đẻ kéo dài”. Đối với nước đã trả qua, từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản sẽ có một thời kì cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội
kia, thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
- Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản khác nhau về bản chất:
+ Chủ nghĩa xã hội: là chủ nghĩa mang các tính chất sau đây:
a. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất;
b. Không còn tính trạng áp bức và bóc lột;
c. Không còn đối kháng về giai cấp;
d. Nhà nước của đại đa số trấn áp thiểu số; + Chủ nghĩa tư bản:
a. Chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất;
b. Áp bức, bóc lột, bất công;
c. Có tồn tại đối kháng giai cấp;
d. Nhà nước của thiểu số trấn áp đại đa số.
- Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mới tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật nhất định cho
chủ nghĩa xã hội, để cơ sở vật chất-kỹ thuật đó phục vụ cho chủ nghĩa xã hội cần phải
có thời gian tổ chức, sắp xếp lại. Những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản tiến lên
chủ nghĩa xã hội, cần có một thời gian dài để tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
- Các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội (đặc biệt là quan hệ sản xuất không thể ra
đời một cách tự phát trong lòng chủ nghĩa tư bản, vậy nên cần phải có quá trình cải
tạo và xây dựng => thời kỳ quá độ.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới, khó khăn và phức tạp, cần có
thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quan. Vậy nên, cần thời kỳ quá độ.
2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Về thực chất: Thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa và
tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ chủ nghĩa. Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội có sự đan
xen của nhiều tàn dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và
những yếu tố mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới phát sinh.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải cách tạo cách mạng
sâu sắc, triệt để xã hội cũ trên tất cả các lĩnh vực. Thời kỳ lâu dài và đầy gian khổ bắt đầu
từ khi giành chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Nội dung kinh tế: tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó có những thành phần kinh tế đối
lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vậy nên, cần phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước
cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, kinh
tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng của sự phát triển. lOMoAR cPSD| 15962736
Nội dung chính trị: Thiết lập và tăng cường chuyên chính vô sản => Thực hiện dân chủ
với nhân dân, chuyên chính với thế lực thù địch chống lại nhân dân.
Nội dung tư tưởng-văn hoá: Tồn tài nhiều yếu tố tư tưởng văn hoá khác nhau. Yếu tố tư
tưởng, văn hoá cũ và mới chúng thường xuyên đấu tranh nhau. Vì vậy, Đảng cộng sản
từng bước xác lập và xây dựng hệ tư tưởng và nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Nội dung xã hội: Tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với
nhau; còn khác biệt thành thị và nông thôn, đấu tranh chống bất công, xóa bỏ tàn dư cũ,
thiết lập công bằng xã hội, nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.
III. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam:
1. Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa:
Việc thực hiện chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gặp phải nhiều khó khăn, nhất là trong giai đoạn
đầu sau khi đất nước mới giành được độc lập. Để đạt được chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nỗ lực, thực hiện nhiều chính sách và biện pháp để đạt được những thành tựu nhất
định với những đặc điểm riêng, biểu thị cho sự linh hoạt ứng dụng các tiền đề từ trước.
Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được nêu ra trong “Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được thông qua tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VII (1991) đã hoàn thiện, bổ sung vào Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI (2011). Cương lĩnh lúc bây giờ nêu ra 8 điều như sau:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh: thể hiện rõ bức tranh xã hội lý
tưởng của chủ nghĩa xã hội.
- Do dân làm chủ: Được mở rộng từ “nhân dân lao động làm chủ” của năm 1991. Ví
dụ, phạm trù được mở rộng tới cả những người Việt Nam trong và ngoài nước, của
những những người doanh nhân có đóng góp cho sự phát triển của đất nước, có tinh
thần dân tộc và thực hiện tốt theo đường lối chủ trương của Đảng và nhà nước.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Cần có lối ứng xử có chọn lọc với
các truyền thống văn hoá. Cần phát huy và bảo vệ các giá trị tinh hoa của truyền
thống. Sử dụng phép biện chứng duy vật đối với quá trình chọn lọc và tiếp thu, gạt bỏ
những yếu tố, phẩm chất tiêu cực hạn chế, kể cả đối với những văn hoá trong và
ngoài nước, giúp hoàn thiện và bảo vệ tính bản sắc dân tộc.
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau phát triển;
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do Đảng cộng sản lãnh đạo: Đề cao tính tối cao của pháp luận.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới: Nổi bật tính cách hữu hảo
của người dân Việt Nam với các chủ thể quốc gia khác. lOMoAR cPSD| 15962736
2. Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Hiện nay, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được phát triển dựa trên lộ
trình chuyển đổi kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời đẩy mạnh công tác đổi
mới, cải cách hành chính, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Nhiều biện pháp đã
được đưa ra để thúc đẩy sự phát triển của đất nước, bao gồm:
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức,
bảo vệ tài nguyên, môi trường;
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
- Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ hoà bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất;
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân;
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tóm lại, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là tiếp tục đẩy
mạnh cải cách, đổi mới và phát triển bền vững, với mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân,
bảo vệ môi trường và thúc đẩy quan hệ đối ngoại.
Nội dung thể hiện điển hình có thể nói và đề cập trong lĩnh vực ngoại giao. Ngoại giao là
một phần quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Để xây dựng và
phát triển chủ nghĩa xã hội, Việt Nam cần tăng cường hợp tác với các quốc gia trong khu vực
và trên thế giới, đồng thời tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế để đóng góp vào sự ổn
định và phát triển của khu vực và thế giới.
Thành tựu đối ngoại của Việt Nam trong thực tiễn 35 năm đổi mới có thể nhận thấy rõ nét
qua từng con số, dấu ấn tham gia của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế, sự nhìn
nhận và đánh giá vị thế, vai trò, tiếng nói và ảnh hưởng của Việt Nam từ các đối tác nước
ngoài trong các vấn đề khu vực và quốc tế. Sau 35 năm đổi mới, thực hiện chính sách đa
dạng hóa, đa phương hóa với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng quốc tế, bao gồm cả các nước có thể chế chính trị và chế độ kinh tế - xã hội khác
nhau, cho đến nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 nước/193 quốc gia thành
viên của Liên hợp quốc, có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 230 nước và vùng lãnh thổ.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 17 nước và đối tác toàn diện với 13
nước. Việt Nam đã xây dựng một mạng lưới quan hệ đa dạng với các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam đang chú trọng vào việc tăng cường quan hệ đối tác chiến lược với các đối tác
truyền thống như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ... Đồng thời, Việt
Nam cũng mở rộng quan hệ đối tác với các quốc gia có tiềm năng lớn như EU, ASEAN,
MERCOSUR, Na Uy, New Zealand, Canada...
Ngay từ tháng 7 - 1986, Bộ Chính trị khóa V đã ra nghị quyết điều chỉnh bước đầu chính sách
đối ngoại của Việt Nam, trong đó nhấn mạnh cần chủ động chuyển sang thời kỳ cùng tồn tại
hòa bình, góp phần xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác. lOMoAR cPSD| 15962736
Quán triệt đường lối từ Đại hội VI cho đến nay, hoạt động đối ngoại đã chủ động, tích cực
triển khai mạnh và hiệu quả chủ trương lớn về hội nhập khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế,
vai trò, tiếng nói và dẫn dắt của Việt Nam trong các tổ chức khu vực và quốc tế, các diễn đàn
đa phương. Điều này được thể hiện cụ thể qua việc Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN
(tháng 7-1995) và đến nay đã hai lần đảm nhiệm vai trò chủ tịch luân phiên của tổ chức này
(năm 2010 và 2020), chủ động và tích cực có những đóng góp trong quá trình xây dựng Cộng
đồng ASEAN, tăng cường đoàn kết nội khối và nâng cao vị thế, vai trò của ASEAN trên
phạm vi toàn cầu; trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
năm 2007; tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996; gia nhập Diễn đàn
Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1998. Đồng thời, Việt Nam vẫn
duy trì là thành viên tích cực của Cộng đồng Pháp ngữ và Phong trào không liên kết.
Quan hệ ngoại giao của Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, độc lập,
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào các công việc nội bộ của các quốc gia khác. Việt Nam
đang thúc đẩy quan hệ hợp tác với các quốc gia trên cơ sở lợi ích chung và sự đối xử công
bằng, tôn trọng các giá trị văn hóa và truyền thống của các dân tộc. Xây dựng CNXH và bảo
vệ Tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau. Ngoại giao có
vai trò và nhiệm vụ to lớn đóng góp vào cả hai nhiệm vụ này, đặc biệt là trong hơn 35 năm đổi mới.
Phát biểu tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng ngày 14-12-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có đánh giá tổng quát về vai trò
của đối ngoại trong công tác bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ: “đối ngoại
đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan
trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước”
Ngoại giao cũng hỗ trợ cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bằng cách giúp đỡ
Việt Nam trong việc tham gia các tổ chức quốc tế và tham gia vào các thỏa thuận quốc tế liên
quan đến phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường, giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học,
công nghệ… Việt Nam đóng góp vào gìn giữ hòa bình, ổn định và an ninh khu vực và trên thế giới
Các văn kiện đại hội Đảng từ Đại hội XI (năm 2011) cho đến nay đều khẳng định: “Việt
Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Điều này
cho thấy ý thức trách nhiệm của Việt Nam đối với tương lai của nhân loại. Tuy nhiên, cần
phải khẳng định rằng, thực hiện nghĩa vụ quốc tế, “chia ngọt sẻ bùi” với bạn bè thế giới ngay
cả khi Việt Nam ở giai đoạn khó khăn nhất, là truyền thống của nước ta trong suốt chặng
đường từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến nay.
Đóng góp thiết thực của Việt Nam vào duy trì hòa bình, ổn định và an ninh khu vực và trên
thế giới thể hiện qua lập trường của Việt Nam đối với các vấn đề an ninh và hòa bình ở khu
vực và trên thế giới, cách hành xử trong giải quyết tranh chấp chủ quyền và lãnh thổ trên
Biển Đông. Những đóng góp này đều được khẳng định, đặc biệt qua hai lần Việt Nam đảm
nhiệm vai trò chủ tịch luân phiên của ASEAN và ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Tóm lại, ngoại giao là một phần quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay. Việt Nam đang tăng cường hợp tác với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, tham gia
tích cực vào các tổ chức quốc tế để đóng góp vào sự ổn định và phát triển của khu vực và lOMoAR cPSD| 15962736
thế giới, đồng thời xây dựng quan hệ đối tác trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, độc lập, toàn
vẹn lãnh thổ và giá trị văn hóa của các dân tộc. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chúng
ta đang sống trong thời đại toàn cầu hóa, khu vực hóa, đó là xu thế không thể đảo ngược. Để
xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam không có nghĩa là chúng ta chỉ nghiên cứu thực tiễn của
Việt Nam, không có nghĩa là chúng ta đóng cửa, biệt lập, khép kín, vì thế giới này là phẳng
và chúng ta phải sẵn sàng học tập kinh nghiệm của các nước khác trên tinh thần chọn lọc,
khoa học. Trong bối cảnh đó, nguyên tắc và chủ trương đối ngoại của chúng ta như Đại hội
XIII khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao
nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc và luật
pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”
CHƯƠNG 6: Vấn đề dân tộc và tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. I.
Dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của dân tộc:
Dân tộc được coi là một đơn vị cơ bản và quan trọng trong xã hội. Theo đó, dân tộc không
chỉ là một khái niệm về ngôn ngữ và văn hóa mà còn là một đại diện cho các mối quan hệ
xã hội phức tạp giữa các tầng lớp và giai cấp khác nhau trong xã hội. - Khái niệm:
+ Nghĩa rộng (Dân tộc - quốc gia dân tộc): Dân tộc là một hình thức cộng đồng người
ổn định, hợp thành nhân dân của một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống nhất,
ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền
lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt
quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
+ Nghĩa hẹp (dân tộc - tộc người): Dân tộc để chỉ một cộng đồng người được hình thành
trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý thức tự giác tộc
người, ngôn ngữ và văn hoá.
- Đặc trưng của dân tộc (theo nghĩa rộng):
+ Có chung một vùng lãnh thổ ổn định;
+ Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế;
+ Có chung một ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp;
+ Có chung một nền văn hoá và tâm lý;
+ Có chung một nhà nước.
- Đặc trưng dân tộc (theo nghĩa hẹp):
+ Cộng đồng về ngôn ngữ;
+ Cộng đồng về văn hoá;
+ Ý thức tự giác tộc người.
2. Chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc:
● Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc được Lênin tìm ra là:
- Xu hướng thứ nhất: Cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành cộng đồng dân tộc độc lập; -
Xu hướng thứ hai: Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc
gia muốn liên hiệp lại với nhau.
● Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin: Cương lĩnh dân tộc Mác-Lênin (hay
còn gọi là chủ nghĩa dân tộc) là một phần trong tư tưởng chính trị của Mác-Lênin, nó
khẳng định quyền tự trị và quyền tự phát triển của các dân tộc, đồng thời đề cao tầm lOMoAR cPSD| 15962736
quan trọng của sự đoàn kết giữa các dân tộc trong việc đấu tranh chống lại sự áp bức và đàn áp. -
Hoàn cảnh ra đời (Cơ sở): Cương lĩnh dân tộc của Mác Lênin ra đời trong bối cảnh
châu Âu đang trải qua cuộc cách mạng công nghiệp và sự phát triển của các lực lượng
sản xuất tư bản, tập trung vào giải quyết vấn đề bất bình đẳng xã hội và khủng
hoảng kinh tế bằng cách tập trung vào quyền lợi của các giai cấp lao động và những
người bị áp bức trong xã hội. Cương lĩnh này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của sự
đoàn kết giữa các dân tộc trong việc đấu tranh chống lại sự áp bức và đàn áp.
+ Lý luận: Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp; mối quan hệ giữa hai hướng của sự phát triển các dân tộc;
+ Thực tiễn: Dựa vào phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX; thực tiễn phong
trào cách mạng của nước Nga cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX. - Nội dung:
+ Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
a. Là quyền thiêng liêng của các dân tộc, các dân tộc không phụ thuộc vào số
lượng, trình độ phát triển có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, các dân tộc không
có đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hoá, ngôn ngữ,... với dân tộc khác;
b. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc được pháp
luật bảo vệ và được thực hiện trong thực tế, trong đó việc khắc phục sự chênh lệch về
trình độ phát triển kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản;
c. Giữa các quốc gia dân tộc: Quyền bình đẳng dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp
bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. d. Ý nghĩa:
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công
nhân tất cả các dân tộc lại. → Ý nghĩa: Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng của
dân tộc và là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng. Nó là
cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc.
+ Các dân tộc được quyền tự quyết: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân
tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại” (V.I.Lênin,
“Về quyền dân tộc tự quyết”)
a. Là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền tự quyết định con đường phát triển kinh tế,
chính trị - xã hội của dân tộc mình;
b. Quyền tách ra thành một quốc gia, dân tộc độc lập đồng thời có quyền tự nguyện
liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng;
c. Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường
của giai cấp công nhân: ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên quyết đấu tranh,
chống lại những mưu toan lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm chiêu bài để can thiệp
vào công việc nội bộ các nước, đòi ly khai chia rẽ dân tộc.
d. Về Các dân tộc được quyền tự quyết: Quyền dân tộc tự quyết là một quyền cơ bản
của dân tộc. Nó là cơ sở để xóa bỏ sự hiềm khích, thù hằn giữa các dân tộc, phát
huy tiềm năng của các dân tộc vào sự phát triển chung của nhân loại. lOMoAR cPSD| 15962736
+ Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc: Theo quan điểm của V.I. Lênin :”Vô sản toàn
thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết kết lại” là sự bổ sung cho quan điểm của
Các-mác “Vô sản thế giới liên hợp lại”.
a. Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin, thể hiện bản chất
quốc tế của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và phản ánh tính thống nhất
giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp;
b. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc có vai trò quyết định đến việc xem xét,
thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết.
c. Là yếu tố tạo nên sức mạnh của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức
trong cuộc đấu tranh phòng lại chủ nghĩa đế quốc.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại tính hai mặt của việc liên hiệp công nhân các dân tộc. Cụ thể,
về mặt lợi ích, lực lượng công nhân đông đảo được tạo thành một khối, tính đồng
bộ được giữ trong lực lượng và tạo được sự đa dạng thành phần. Khi nhìn ở một
góc độ khác, lỗ hổng về sự dễ độc quyền, dễ bị độc đoán và lạm dụng có thể cần
được xem xét như một mặt tiêu cực.
Ý nghĩa: Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc: Liên hiệp công nhân tất cả các dân
tộc là nội dung cơ bản nhất trong cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tại sao đây là nội dung quan trọng nhất?:
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới;quy định đường lối,
phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Đồng
thời nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến
thắng kẻ thù của mình. Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn
kết các tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp công nhân các
dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể
*Ý nghĩa chung của cả cương linh:
+ Phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân.
+ Phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
+ Đảm bảo cho phong trào giải phóng dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
+ Do đó, là cơ sở để giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giải phòng dân tộc bị áp bức.
+ Cương lĩnh dân tộc là cơ sở lý luận khoa học để giai cấp công nhân, Đảng cộng
sản trên thế giới xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc;
+ Cương lĩnh dân tộc là cơ sở lý luận để Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề ra
đường lối, chính sách, pháp luận trong giải quyết vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc. - Vận dụng chung:
Cương lĩnh dân tộc là một khái niệm mô tả quan điểm và chiến lược của một số phong
trào cách mạng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức và đối phó với sự chia rẽ
trong các cộng đồng dân tộc. Vận dụng của cương lĩnh dân tộc có thể được thấy trong
nhiều phong trào cách mạng trên thế giới. Một số ví dụ điển hình bao gồm: Phong trào
đấu tranh giành độc lập của Ấn Độ: Mahatma Gandhi đã sử dụng cương lĩnh dân tộc để
đưa ra chiến lược phi bạo để đấu tranh chống lại chế độ thực dân Anh. Ông khuyến khích
người Ấn Độ không sử dụng bạo lực mà thay vào đó sử dụng phương thức không bạo
động để đưa ra yêu cầu độc lập cho Ấn Độ. Phong trào đấu tranh giành độc lập của Nam
Phi: Nelson Mandela đã sử dụng cương lĩnh dân tộc để đưa ra chiến lược đấu tranh
chống lại chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi. Ông tập lOMoAR cPSD| 15962736
trung vào việc củng cố sự đoàn kết giữa các dân tộc và sử dụng phương thức
không bạo động để đạt được mục tiêu giải phóng cho các dân tộc bị áp bức.
Tóm lại, cương lĩnh dân tộc đã được vận dụng trong nhiều phong trào cách mạng trên
thế giới nhằm đối phó với sự áp bức và đàn áp của các chế độ thực dân và chủ nghĩa
phát xít, tăng cường sự đoàn kết giữa các dân tộc và đạt được mục tiêu giải phóng
cho các dân tộc bị áp bức
- Vận dụng cương lĩnh ở Việt Nam:
Những tư tưởng của V.I. Lê-nin đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng
đúng đắn, sáng tạo vào thực tế cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới,
Đảng ta đã nhận thức rõ luận điểm có tính phương pháp luận hết sức sâu sắc của V.I.
Lê-nin về mối quan hệ biện chứng giữa “tính phổ biến” và “tính đặc thù” của con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó
là điều không thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội
không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình
vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác
của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”
Trong thời kỳ đổi mới, luận điểm của V.I. Lê-nin về “phân tích cụ thể một tình hình
cụ thể, đó là bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác” đã luôn được Đảng ta quán
triệt như một nguyên lý phương pháp luận khoa học và cách mạng của Đảng trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên những phương diện chủ yếu sau:
Thứ nhất, tư tưởng của V.I. Lê-nin là cơ sở lý luận, được vận dụng kiên định và sáng
tạo, từng bước định hình con đường và bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với
điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng
12-1986) đã tạo ra bước ngoặt trong đổi mới tư duy về con đường lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”,
xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan là khởi nguồn cho những sáng tạo
của Đảng khi xác định mô hình và bước đi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Đại hội thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần trong buổi đầu thời kỳ quá độ. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Đảng
ta đã nhận thức lại, thấm nhuần quan điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể và phát triển nhằm
khắc phục những cách hiểu, cách nghĩ, cách làm giản đơn, siêu hình, giáo điều, duy ý
chí, trái quy luật khách quan về thời kỳ trước đổi mới, theo đúng tinh thần của V.I. Lê-
nin. Đổi mới, do đó, không phải là xa rời hay từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận
chủ nghĩa xã hội khoa học mà trái lại, là sự nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn, là sự phát
triển sáng tạo hơn nữa bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, của
chủ nghĩa xã hội khoa học để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách có căn cứ
khoa học và thực tiễn.
Thứ hai, tư tưởng của V.I. Lê-nin về Chính sách kinh tế mới (NEP) là cơ sở nền tảng để
Đảng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - sự phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới. Trong
“Chính sách kinh tế mới”, cơ chế thị trường được sử dụng để kích thích sản xuất, kêu gọi
đầu tư tư bản dưới sự định hướng, kiểm soát của Nhà nước; lợi ích của các chủ thể được
quan tâm đã có tác dụng phục hồi lực lượng sản xuất nhanh chóng, thúc đẩy kinh tế phát
triển, đời sống của công nhân, nông dân được cải thiện. Đảng lOMoAR cPSD| 15962736
Cộng sản Việt Nam đã có bước phát triển tư duy rất rõ nét về kinh tế thị trường khi
xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XII xác định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng
thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
đất nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Như vậy, từ sự thúc
bách của cuộc sống, từ nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong quá trình đổi mới
cũng như nghiên cứu kế thừa tư tưởng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
Đảng ta đã thực hiện đổi mới, sáng tạo thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, chấp nhận
cơ chế thị trường và khẳng định nó không đối lập với chủ nghĩa xã hội, thực hiện phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính V.I. Lê-nin cũng đã
từng nhấn mạnh: “Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn
là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ
nghĩa tư bản đã thu được”(6).
Thứ ba, các nguyên lý của chủ nghĩa Mác, đặc biệt là tư tưởng của V.I. Lê-nin được
Đảng ta vận dụng, phát triển vào xây dựng, củng cố liên minh giai cấp và đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. V.I. Lê-nin còn nhiều lần nhấn mạnh tới vai trò của trí thức và khẳng định, muốn
thu hút họ vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cần phải “đảm bảo cho các
người trí thức những điều kiện lao động tốt nhất”.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2001) không chỉ tiếp tục khẳng định tính tất
yếu của liên minh công - nông - trí thức trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà còn đặc biệt coi trọng vấn đề này, coi đây là động lực
quan trọng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội
chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”(8).
Thứ tư, tư tưởng của V.I. Lê-nin về Đảng Cộng sản kiểu mới đã được vận dụng sáng
tạo, đem lại những thành tựu trong xây dựng và củng cố vai trò Đảng Cộng sản cầm
quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam - nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đi đến thắng lợi. Theo V.I.Lê-nin,
có ba kẻ thù chính mà người cộng sản của đảng cầm quyền phải kiên quyết đấu tranh là
“tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; nạn mù chữ, sự ngu dốt, cản trở việc giáo dục chính
trị và nạn hối lộ, tham nhũng”. Thấm nhuần sâu sắc những tư tưởng này của V.I. Lê-nin,
kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng.
Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là cơ sở,
tiền đề vững chắc bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình.Đảng ta đã thực hiện lời di huấn của V.I. Lê-nin là phải dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội; đó phải là những tổ chức bộ
máy phục vụ chính trị chứ chính trị không phục vụ bộ máy. Theo V.I. Lê-nin, chính trị
được đề cập ở đây chính là cuộc sống của nhân dân, lợi ích của nhân dân, là số phận của
hàng triệu triệu con người.
Thứ năm, Đảng ta vận dụng tư tưởng của V.I. Lê-nin trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong nhận diện và xử lý mối quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Thực hiện nguyên tắc bảo đảm sự tham gia
quản lý nhà nước của toàn thể nhân dân lao động và nguyên tắc pháp chế lOMoAR cPSD| 15962736
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, V.I. Lê-nin khẳng định: “Cần phải
xây dựng ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản thân quần
chúng, với sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước,
không có “sự giám sát” từ trên, không có quan lại”(10). Trở thành đảng cầm quyền,
lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam không
ngừng bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, tăng cường
phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa để phát triển đất nước trong điều
kiện mới, sớm đưa Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Bác Hồ./.
Tóm lại, Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng để Đảng Cộng sản Việt Nam
vận dụng, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt
được qua hơn 30 năm đổi mới thể hiện sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng;
đồng thời, cũng góp phần bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện mới.
3. Dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam:
a. Đặc điểm của dân tộc Việt Nam:
- Có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người;
- Các dân tộc cư trú xen kẽ lẫn nhau;
- Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng;
- Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển không đều;
- Các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đoàn kết, gắn bó lâu đời trong công cộng
đồng dân tộc- quốc gia thống nhất.
- Mối dân tộc có bản sắc văn hoá riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của
nền văn hoá Việt nam thống nhất.
b. Quan điểm và chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Việt Nam:
- Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời
là vấn đề cấp bách hiện nay của Cách mạng Việt Nam;
- Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển và xây
dựng, bảo vệ tổ quốc… Kiên quyết đấu tranh với âm mưu chia rẽ dân tộc;
- Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh-quốc phòng ở địa
bàn dân tộc, gắn tăng cường kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc…
- Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi;
- Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị. Các chính sách
trải dài ở các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh. II.
Tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo:
Tôn giáo là một hệ thống tín ngưỡng, tập quán, và nghi lễ dựa trên niềm tin vào các thực thể
siêu nhiên hoặc siêu hình, thường được gọi là thần linh, và thường được coi là nguồn gốc và
quyền lực cao nhất trong vũ trụ. Tôn giáo thường cung cấp cho con người một khung nhìn lOMoAR cPSD| 15962736
tổng thể về cuộc sống và giúp họ đối mặt với các câu hỏi về tình người, tình thế giới, và ý nghĩa cuộc sống.
a. Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo: ● Bản chất:
- Tôn giáo khác biệt hoàn toàn với mê tín, dị đoan;
- Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hư ảo hiện thực khách quan; -
Tôn giáo là một thực thể xã hội: có niềm tin sâu sắc vào đấng tối cao; có hệ thống giáo
thuyết; có hệ thống cơ sở thờ tự; có tổ chức nhân sự, quản lý, có hệ thống tín đồ;
- Tôn giáo là sự phản ánh hư ảo hiện thực khách quan;
- Tôn giáo là một hiện tượng xã hội-văn hóa do con người sáng tạo ra. ● Nguồn gốc:
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Khi bàn về mối quan hệ giữa tôn giáo và kinh tế, C.Mác
và Ph.Ăngghen đặt tôn giáo trong mối quan hệ với hình thái kinh tế - xã hội, bị cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội quyết định. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối
quan hệ giữa tôn giáo và kinh tế thể hiện ở những nội dung chủ yếu. Theo Mác, sở dĩ
tôn giáo ra đời và tồn tại là do chính cơ sở kinh tế quyết định và do sự hạn chế trong
mối quan hệ giữa con người với con người và con người với tự nhiên. Trong bộ Tư
bản, C.Mác viết: “Các cơ cấu sản xuất xã hội đó được quyết định bởi trình độ phát
triển thấp kém của những sức sản xuất của lao động và tính chất hạn chế tương ứng
của các quan hệ của con người trong khuôn khổ quá trình sản xuất ra đời sống vật
chất, tức là tính chất hạn chế của tất cả các mối quan hệ giữa người với nhau và với
thiên nhiên. Và về mặt tư tưởng, tính chất hạn chế thực tế đó đã phản ánh vào trong
tôn giáo cổ đại, thần thánh hóa thiên nhiên, và vào trong tín ngưỡng của nhân dân
- Nguồn gốc nhận thức: Khi mà sự nhận thức về tự nhiên xã hội con người và ngay cả
bản thân họ đều có giới hạn nào đó.Cái giới hạn đó ở đây là những cái chưa biết. Khả
năng nhận thức chưa đầy đủ, khi những điều mà khoa học chưa giải thích được thì
điều đó thường được giải thích thông qua lăng kính các tôn giáo ( ngay cả khi khoa
học…). Cái cường điệu hóa nhận thức, thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện thực ,
rơi vào ảo tưởng thần thánh hóa đối tượng , biến cái khách quan. - Nguồn gốc tâm lý:
+ Tâm lý bi quan sợ sệt, yếu đuối , thiếu sức mạnh lý trí trước những hiện tượng tự
nhiên, xã hội ( Ví dụ những lúc ốm đau bệnh tật, gặp xui xẻo thất bại hoặc tâm
lý muốn bình yên khi làm một việc lớn cũng đều tìm tới tôn giáo)
+ Phản ánh tình cảm của nhân dân (thờ các anh hùng dân tộc, thờ các thần làng hoàng
làng,..) những cái đấy thể hiện nhu cầu tinh thần của quần chúng nhân dân ● Tính chất: - Tính lịch sử: - Tính quần chúng: - Tính chính trị:
b. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội:
- Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn
giáo của quần chúng nhân dân;
- Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn liền với quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới;
- Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo;
- Quan điểm lịch sử- cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. lOMoAR cPSD| 15962736
2. Tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay:
a. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam:
- Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo;
- Tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình, không có xung đột và chiến tranh tôn giáo;
- Tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc;
- Hàng ngũ chức sắc các tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng trong giáo hội, có uy tín,
ảnh hưởng với tín đồ;
- Các tôn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài.
b. Chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay:
- Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ
tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
- Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc;
- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng;
- Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị;
- Vấn đề theo đạo và truyền đạo tuân thủ pháp luận; III.
Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam:
1. Đặc điểm quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam:
- Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo; quan hệ dân tộc và tôn giáo
được thiết lập và củng cố trên cơ sở cộng đồng quốc gia- dân tộc thống nhất;
- Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi tín ngưỡng truyền thống;
- Các hiện tượng tôn giáo mới có xu hướng phát triển mạnh tác động đến đời sống cộng
đồng và khối đại đoàn kết dân tộc
2. Định hướng giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam hiện nay:
- Tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa dân tộc và tôn giáo, củng cố khối đại đoàn
kết dân tộc và đoàn kết tôn giáo là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài và cấp bách
của cách mạng Việt Nam;
- Giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo phải đặt trong mối quan hệ với cộng đồng
quốc gia- dân tộc thống nhất, theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo phải đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân; quyền của dân tộc thiểu số, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống
lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo vào mục đích chính trị.