Chương 2 vật chất và ý thức - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
13 trang 11 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Chương 2 vật chất và ý thức - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

597 299 lượt tải Tải xuống
CHƯƠNG 2
I. Vật chất và ý thức
1. Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất
a, Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm chủ nghĩa duy vật
trước Mác về phạm trù vật chất
- Vào thờicổ đại, đặc biệt là ở Hy Lạp – La Mã, Trung Quốc, Ấn
Độ, các nhà duy vật thời cổ đại đã đồng nhất vật chất với một hoặc
một số dạng cụ thể của nó, phải kể đến như: ở phương Tây, Thales
coi vật chất là nước, Heraclitus coi vật chất là lửa, Anaximenes coi
vật chất không khí, Democritos coi vật chất nguyên tử còn
phương Đông, phái Ngũ hành ở Trung Quốc quan niệm vật chất
5 yếu tố: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ; người Ấn Độ cổ đại cho rằng
vật chất là 4 yếu tố: đất, nước, lửa, gió.
- Bước sang thời kì cận đại, với các thành tựu của cơ học cổ điển đã
dẫn đến tính siêu hình của vật chất. Với sự phát triển của khoa học,
người ta đã đồng nhất vật chất với nguyên tử, với khối lượng
nguyên tử.
Như vậy, thời này các nhà duy vật không chỉ đồng nhất vật chất với
một dạng cụ thể của nó mà còn đồng nhất với một thuộc tính của nó (khối
lượng của nó). Nhờ vậy, các nhà duy vật thời cận đại đã đặt ra được tiêu
chuẩn phân biệt vật chất và ý thức.
b, Cuộc cách mạng trong KHTN cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XXvaf sự
phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
- Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khoa học kĩ thuật phát triển, các
thành tựu khoa học tự nhiên ra đời đã làm đảo lộn toàn bộ thế giới
quan trong khoa học tự nhiên triết học đã dẫn đến cuộc khủng
hoảng cùng lớn. Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X
nguồn gốc từ nguyên tử. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện
tượng phóng xạ của nguyên tố urani do hạt nhân của nguyên tử
không bền phân hủy ra (điều này cho thấy nguyên tử không phải
hạt nhỏ nhất). Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử chứng
minh được rằng điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên
nguyên tử. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng
của điện tử không phải bất biến thay đổi theo vận tốc của
nguyên tử. Năm 1905, thuyết tương đối hẹp năm 1916, thuyết
tương đối tổng quát của Anhxtanh đã chứng minh: Không gian,
thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật
chất.
- Tất cả những phát minh ấy đã đem lại cho con người những hiểu
biết mới mẻ hơn. Tuy nhiên, trước những phát hiện đó, không ít
nhà khoa học và triết học đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu
hình đã hoang mang, dao động, hoài nghi tính đúng đắn của chủ
nghĩa duy vật. Trước tình hình như vậy đã thôi thúc V.I. Lênin đưa
ra định nghĩa về vật chất.
c, Quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất
- V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất
một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
- Nhìn theo góc độ triết học, vật chất phải đảm bảo tính chung nhất
do đó V.I. Lênin đã chỉ ra được sai lầm của các nhà duy vật cũ khi
đem khái niệm vật chất trong các ngành khoa học tự nhiên cụ thể
(là những đối tượng vật chất có giới hạn) vào thành định nghĩa vật
chất trong triết học. Vì vậy, điều này đã không đảm bảo tính chung
nhất của một hệ thống triết học.
- Phương pháp định nghĩa vật chất của Lênin là đem đối lập vật chất
với ý thức, từ đó tìm ra ranh giới giữa vật chất và ý thức bởi vì vật
chất là phạm trù rộng nhất nên cần đối lập nó với 1 phạm trù tương
đương là ý thức.
- Định nghĩa vật chất của Lênin bao hàm những nội dung bản
sau:
+ Vật chất thực tại khách quan cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức
không lệ thuộc vào ý thức.
Nói vật chất một phạm trù triết học muốn nói phạm trù này sản
phẩm của sự trừu tượng hóa, không có sự tồn tại cảm tính. Tuy nhiên V.I. Lênin
nhấn mạnh rằng phạm trù triết học này chỉ ra tính chất duy nhất của vật chất
tính tồn tại với cách hiện thực khác quan, tồn tại bên ngoài ý thức của
con người. Nói như vậy, sự trừu tượng của vật chất bắt nguồn từ sở hiện
thực, do vậy không tách rời tính hiện thực cụ thể của nó. Nói đến vật chất là nói
đến tất cả những đã đang hiện hữu bên ngoài ý thức của con người, vật
chất là hiện thực chứ không phảivà hiện thực này mang tính khách quan
chứ không phải hiện thực chủ quan. Theo V.I. Lênin, đây cũng chính sự đối
lập giữa vật chất và ý thức là tuyệt đối. Như vậy, mọi sự vật, hiện tượng tồn
tại trong tự nhiên hay trong xã hội cũng chính là những đối tượng tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức con người, cũng nghĩa đều thuộc phạm trù vật
chất, đều là những dạng cụ thể của vật chất.
Khẳng định trên của V.I. Lênin đã giúp cho khoa học tự nhiên thoát khỏi
khủng hoảng, bác bỏ chủ nghĩa duy tâm, khắc phục triệt để những sai lầm của
những chủ nghĩa duy vật trước Mác đó đồng nhất vật chất với một dạng cụ
thể của nó đồng thời khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu về thế giới
vật chất để có thể khám phá ra những thuộc tính mới, kết cấu mới của nó, không
ngừng làm cho tri thức của con người về thế giới quan xung quanh phong phú
hơn, mở đường cho chủ nghĩa duy vật phát triển tiến đến duy vật về xã hội.
+ Vật chấtcái mà khi tác động vào các giác quan của con người thì đem
lại cho con người cảm giác.
Qua nội dung này, V.I. Lênin đã chứng minh được sự tồn tại khách quan
của vật chất thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật hiện
tượng các thực thể chính biểu hiện sự tồn tại hiện thực của vật chất. Vật
chất được con người nhân thức một cách trực tiếp hoặc gián tiếp bằng các giác
quan của mình. Như vậy ngoài việc vật chất tồn tại khách quan thì Lênin đã đưa
ra thêm một dấu hiệu khác giúp chúng ta nhận biết được cái nào là vật chất, cái
nào ý thức đó chính dấu hiệu con người dựa vào những cảm giác của các
giác quan nhận thức được về vật chất. Bằng việc khẳng định vật chất là cái được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, Lênin đã một lần nữa nhấn
mạnh rằng con người có thể nhận thức được vật chất. Tuy nhiên, không phải tất
cả sự vật hiện tượng trên thế giới khi tác động đến giác quan của con người đều
được nhân biết, do trình độ của con người hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế nên
cái phải dùng đến các dụng cụ khoa học mới thể được nhân biết, cái
dùng dụng cụ khoa học cũng chưa biết. Do vậy, nếu tồn tại khách quan bên
ngoài độc lập với ý thức thì vẫn vật chất, không vật chất nào không thể
nhận biết được, chỉ là trình độ của chúng ta vẫn chưa đạt đến mứcthể nhận
biết được chúng.
Với nội dung này, Lênin đã làm mối quan hệ giữa vật chất ý thức
trong chủ nghĩa duy vật biện chứng đó là: trên phương diện nhận thức luận thì
vật chất là cáitrước, là cội nguồn của ý thức, còn ý thứccái có sau,cái
phụ thuộc vào vật chất. Vật chất thứ nhất, ý thức thứ hai, vật chất quyết
định ý thức, còn ý thức sự phản ánh thế giới vật chất vào trong bộ não con
người.
+ Vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Quan điểm của Mác cho rằng chỉ một thế giới duy nhất thống nhất
đó thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, đến một thời điểm nào đó sẽ hai
hiện tượng tồn tại cùng lúc đó hiện tượng vật chất hiện tượng tinh thần.
Hiện tượng vật chất luôn tồn tai một cách khách quan, không hề phụ thuộc vào
các hiện tượng tinh thần. Các hiện tượng tinh thần thì nguồn gốc từ những
hiện tượng vật chất và luôn phản ánh lại hiện tượng vật chất bằng cách chụp lại,
chép lại, phản ánh lại những hiện tượng vật chất tồn tại xug quanh chúng ta. Do
vậy, về nguyên tắc thì trong thế giới vật chất ấy không không thể biết,
chỉ những cái đã biết chưa biết do hạn chế về trình độ hiểu biết của con
người cùng với giai đoạn lịch sử đó. Trình độ phát triển của con người càng
ngày được nâng cao, khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, giới hạn nhận thức
của con người được nâng lên vậy vật chất không bị mất đi do người duy tâm
vẫn quan niệm chẳng qua là nó đã bị vượt qua.
Nội dung trên đã bác bỏ thuyết “bất khả tri” (không thể biết), đồng thời
khuyến khích con người ngày càng đi sâu tìm hiểu về thế giới vật chất, khiến
cho tri thức của nhân loại ngày càng được phát triển. Ngày nay, khoa học ngày
càng phát triển, những khám phá, nhận thức mới của con người ngày nay càng
khẳng định tính đúng đắn của quan niệm duy vật biện cứng về vật chất, định
nghĩa vật chất của Lênin vẫn giữ nguyên giá trị, do đó chủ nghĩa duy vật biện
chứng càng khẳng định là hạt nhân của thế giới quan, là phương pháp luận đúng
đắn hiện nay.
- Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của triết học
Mác – Lênin:
+ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề
bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện
chứng; cung cấp nguyên tắc thế giới quan phương pháp luận
khoa học để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể
biết, chủ nghĩa duy vật siêu hìnhmọi biểu hiện của chúng trong
triết học tư sản hiện đại về phạm trù này.
+ Định nghĩa vật chất cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất
trong lĩnh vực hội, đó các điều kiện sinh hoạt vật chất, hoạt
động vật chất và các quan hệ vật chất xã hội giữa người với người;
tạo sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử thành một hệ thống lý luận thống nhất, góp phần tạo nên
nền tảng lý luận khoa học cho việc phân tích một cách duy vật biện
chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
d, Phương thức tồn tại của vật chất
* Vận động:
- Vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất:
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất: bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng
là một thể thống nhất có kết cấu nhất định giữa các nhân tố, các khuynh hướng,
các bộ phận khác nhau, đối lập nhau. Trong hệ thống ấy, chúng luôn tác động,
ảnh hưởng lẫn nhau và chính sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau ấy gây ra
sự biến đổi nói chung, tức là vận động. Như thế, vận động của vật chất là tự thân
vận động và mang tính phổ biến.
+ Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu
hiện sự tồn tại của nó: con người chỉ nhận thức được sâu sắc sự vật, hiện tượng
bằng cách xem xét chúng trong quá trình vận động => nhận thức sự vận động của
1 sự vật, 1 hiện tượng chính là nhận thức bản thân sự vật, hiện tượng đó.
Vận động là thuộc tính cố hữu và là phương thức tồn tại của vật chất; do
đó, nó tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và không bị tiêu diệt. Quan niệm
về tính không thể tạo ra và không bị tiêu diệt của vận động đã được các
nhà khoa học tự nhiên chứng minh bằng quy luật bảo toàn và chuyển hóa
năng lượng.
- Những hình thức vận động cơ bản của vật chất:
+ Có 5 hình thức: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học, xã hội.
+ Cơ sở của sự phân chia đó dựa trên các nguyên tắc: các hình thức vận
động phải tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật chất; các hình
thức vận động có mối liên hệ phát sinh, nghĩa là hình thức vận động cao
nảy sinh trên cơ sở của những hình thức vận động thấp và bao hàm hình
thức vận động thấp; hình thức vận động cao khác về chất so với hình thức
vận động thấp và không thể quy về hình thức vận động thấp.
Việc phân chia có ý nghĩa quan trọng đối với việc phân chia đối tượng và
xác định mối quan hệ giữa các ngành khoa học, đồng thời cũng cho phép
vạch ra các nguyên lý đặc trưng cho sự tương quan giữa các hình thức
vận động của vật chất.
+ Các hình thức vận động tồn tại trong mối liên hệ không thể tách
rời nhau. Giữa hai hình thức vận động cao và thấp có thể có hình
thức vận động trung gian, đó là những mắt khâu chuyển tiếp trong
quá trình chuyển hóa lẫn nhau của các hình thức vận động. Tuy
nhiên, những kết cấu vật chất đặc thù bao giờ cũng được đặc trưng
bởi một hình thức vận động cơ bản nhất định và khi đó các hình
thức vận động khác chỉ tồn tại như những nhân tố, những vệ tinh
của hình thức vận động cơ bản. Vì vậy, vừa phải thấy mối liên hệ
giữa các hình thức vận động, vừa phải phân biệt sự khác nhau về
chất của chúng.
- Vận động và đứng im:
+ Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng
thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ
và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự
vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật
chất.
+ Thếế gi i v t chấết luôn trong quá trình v n đ ng và phát tri n không ng ng.
Nh ng ư điều đó không loại trừ mà còn bao hàm trong đó hiện
tượng đứng im tương đối. Không có sự đứng im tương đối thì sẽ
không có sự vật và hiện tượng vật chất cụ thể nào tồn tại. Đứng
im chỉ xét trong một quan hệ nhất định của sự vật, còn khi xét
trong mọi quan hệ thì sự vật vận động chứ không phải đứng im.
Đứng im chỉ xét trong một hình thức vận động, nếu trong mọi
hình thức vận động thì sự vật không phải đứng im mà đang vận
động. Đứng im chỉ biểu hiện
của một trạng thái vận động trong sự “cân bằng”, trong sự ổn
định tương đối của sự vật và hiện tượng cụ thể. Bởi không có
đứng im tương đối thì cũng không có sự tồn tại của các sự vật
và hiện tượng khách quan nói chung.
- Không gian và thời gian:
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định nh khách quan của không
gian và thời gian, xem không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất
vận động; trong đó, không gian hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt
quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu sực động lẫn nhau. Thời gian
hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế
tiếp của các quá trình.
+ Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của
vật chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau. Tính chất của không gian
và sự biến đổi của nó bao giờ cũng gắn liền với tính chất và sự biến đổi của thời
gian và ngược lại.
+Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi lẫn
tính chất. Không gian và thời gian của một sự vật, hiện tượng cụ thể là có tận
cùng và hữu hạn.
đ, Tính thống nhất vật chất của thế giới
Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
Thế giới thống nhất ở tính vật chất
- Căn cứ vào đời sống thực tiễn và sự phát triển lâu dài của triết học
và khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất
của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó
được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
+ Chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con
người, được ý thức con người phản ánh.
+ Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là
sản phẩm của vật chất, cùng chịu sự chi phối của những quy luật
khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
+ Thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, tồn
tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng
luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng và chuyển hóa lẫn nhau, là
nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau, về thực chất, đều là
những quá trình vật chất.
- Sự phát triển của khoa học tự nhiên ngày nay đã ngày càng chứng
minh tính thống nhất của thế giới ở tính vật chất.
2. Nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức
a, Nguồn gốc của ý thức
Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: Các nhà triết học duy tâm cho
rằng, ý thức nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, nguyên nhân
sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất. Ý
thức của con người do cảm giác sinh ra, nhung cảm giác theo quan
niệm của họ không phảisự phản ánh thế giới khách quan mà chỉ
cái vốn của mỗi nhân tồn tại tách rời, biệt lập với thế giới bên
ngoài.
Đây là những quan điểm hết sức phiến diện, sai lầm của CNDT, cơ sở
luận của tôn giáo.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: Các nhà duy vật siêu hình
đã đồng nhất ý thức với vật chất. Họ coi ý thức cũng chỉ một dạng
vật chất đặc biệt, do vật chất sản sinh ra.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
- Nguồn gốc tự nhiên:
+ Ý thức hình thức phản ánh đặc trưng chỉ con người
hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất, ý thức là sự phản
ánh thế giới hiện thực bởi bộ óc con người.
+ Ý thức thuộc tính của 1 dạng vật chất tổ chức cao não
người.
+ Nguồn gốc tự nhiên là não người và thế giới khách quan.
+ Não người dạng vật chất có tổ chức cao nhất, dạng vật chất
duy nhất có thể tạo ra ý thức.
+ Khi não bị tổn thương thì ý thức của con người cũng bị tổn
thương.
Sự xuất hiện của con người hình thành bộ óc của con người năng
lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
- Nguồn gốc xã hội:
+ Ý thức hình thành không phải quá trình con người tiếp nhận
thụ động các tác động từ thế giới khách quan vào bộ óc của mình,
chủ yếu từ hoạt động thực tiễn: thông qua hoạt động lao động
cải tạo thế giới khách quan con người đã từng bước nhận thức
từ thế giới, ý thức ngày càng sâu sắc về thế giới; trải qua quá
trình hoạt động thực tiễn lâu dài, trong những điều kiện, hoàn cảnh
khác nhau, với nhiều loại đối tượng khác nhau; cùng với sự phát
triển của tri thức khoa học, các phương pháp tư duy khoa học cũng
dần được hình thành, phát triển giúp nhận thức tính của loài
người ngày càng sâu sắc.
+ Ngôn ngữ hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức:
trong quá trình lao động, con người nảy sinh nhu cầu truyền đạt
kinh nghiệm giao tiếp với nhau, vậy ngôn ngữ xuất hiện, ý
thức được bộc lộ ra ngoài, ngôn ngữ được coi là vỏ bọc của ý thức.
Xem xét nguồn gốc tự nhiên nguồn gốc xã hội của ý thức cho thấy, ý
thức xuất hiện kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên,
của lịch sử trái đất, đồng thời kết quả trực tiếp của thực tiễn hội
lịch sử của con người; trong đó, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, còn
nguồn gốc hội điều kiện đủ để ý thức hình thành, tồn tại phát
triển.
b, Bản chất của ý thức
- Ý thứchình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, tứcthông
qua lăng kính phản ánh của mọi người thu được các hình ảnh
khác nhau. Ý thức cái vật chất bên ngoài “di chuyển” vào
trong đầu óc của con người và được cải biến đi ở trong đó.
- Ý thức sự phản ánh sáng tạo, phản ánh thì mọi dạng vật
chất nhưng phản ánh sáng tạo thì chỉ ý thức con người. Sáng
tạo thể hiện ở chỗ nó chỉ phản ánh các bản chất, các thông tin từ đó
đưa ra các hình thuyết hoặc các dự báo => đặc trưng của ý
thức.
- Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây
là sự phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế
giới khách quan theo nhu cầu của con người.
- Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,
quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của
óc người.
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực
khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội – lịch sử.
c, Kết cấu của ý thức
Các lớp cấu trúc của ý thức:
- Tri thức: tri thức là những hiểu biết nhất định của con người về thế
giới.
- Tình cảm: hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, phản
ánh quan hệ giữa người với người quan hệ giữa người thế
giới khách quan, là những rung động biểu thị thái độ.
- Ý chí: là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng
trong mỗi con người vào hoạt động để thể vượt qua mọi trở
ngại, đạt mục đích đề ra.
Tri thức có vai trò quyết định ý thức và là phương thức tồn tại của ý thức
vì nhận thức của con người phải đạt đến 1 trình độ hiểu biết nhất định về
sự vật, hiện tượng thì mới thể giúp cho con người xác định mục tiêu,
phương pháp, cách thức tác động lên đối tượng đó. Ý thức mà không bao
hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì ý thức đó là 1 sự trừu tượng trống
rỗng, không giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn.
Các cấp độ của ý thức:
- Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối
quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Bằng việc tự ý thức, con
người xác định đúng vị trí, điểm mạnh, điểm yếu của mình, ý thức
về mình như một cá nhân - chủ thể có ý thức đầy đủ về hành động
của mình; luôn làm chủ bản thân, chủ động điều chỉnh hành vi của
mình trong tác động qua lại với thế giới khách quan.
- Tiềm thức những hoạt động m diễn ra bên ngoài sự kiểm
soát của ý thức.
- thức những hiện tượng tâm lý không phải do trí điều
khiển, nằm ngoài phạm vi của lý trí ý thức không kiểm soát
được trong một lúc nào đó.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a, Quan điểm của CNDT và CNDV siêu hình
- Theo CNDT, ý thức có trước, quyết định vật chất.
- Theo CNDV siêu hình, tuyệt đối hóa vật chất, tầm thường hóa ý
thức, cho rằng thế giới1 cỗ máy, ý thức do não tiết ra (như gan
tiết ra mật).
b, Quan điểm của CNDV biện chứng
- Theo quan điểm của triết học ML, xét đến cùng (tính xuyên suốt,
phổ biến, logic), vật chất ý thức mối quan hệ biện chứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tính độc lập
tương đối, tác động tích cực trở lại vật chất.
VD: Hai người chia tay do không hợp nhau, đây là về ý thức nhưng
xét đến cùng ý thức khác nhau do thế giới vật chất, thế giới sống
của 2 người khác nhau, đến từ nơi khác nhau, thói quen khác nhau,
sở thích khác nhau, quan niệm về giá trị sống khác nhau,…
- Trong một giới hạn nhất định (trong 1 số trường hợp giới hạn cụ
thể về không gian: mối liên hệ, thời gian: từng lúc, từng giai đoạn)
thì ý thức cũng có thể quyết định vật chất.
VD: 1 túp lều tranh 2 trái tim vàng.
- Vật chất quyết định ý thức:
+ Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức:
Nguồn gốc của ý thức: tự nhiên (bộ não người, thế giới khách
quan, thế giới v/c của con người), xã hội (lao động: v/c của con
người thuộc v/c, ngôn ngữ: tín hiệu v/c) => cả 4 yếu tố nguồn gốc
của ý thức đều từ vật chất cho nên vật chất quyết định nguồn gốc
của ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Bản chất của ý thức là
phản ánh hiện thực khách quan vì thế nên:
Khi thế giới vật chất biến đổi thì ý thức cũng thay đổi theo (hình
ảnh người trước kia: da nhăn nheo, lưng gù,… nhưng hình ảnh
người bà hiện nay thì khác).
Hình ảnh do con người tưởng tượng ra lấy chất liệu từ hiện thực
khách quan, thế giới khách quan (hình ảnh con rồng trong duy
của con người lấy hình dáng từ nhiều vật trong thế giới: vảy rồng
từ cá, râu rồng từ cá chép,bờm rồng từ sư tử, chân rồng từ đại bàng,
…; người dơi, người nhện,…).
Bản chất ý thức, nội dung của nó cũng là từ vật chất.
+ Điều kiện hiện thực hóa ý thức là cần có vật chất, thông qua vật chất =>
ý thức được hiện thực hóa, tồn tại trong hiện thực.
- Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất:
+ Kết cấu ý thức:
Tri thức: giúp con người từ hiểu biết đó xác định được mục tiêu,
phương pháp, cách thức trong hoạt động thực tiễn => nó quyết định
sự thành bại của mọi thực tiễn: hiểu đúng thì quyết định đúng,
hiểu sai thì quyết định sai. VD: trước khi gieo hạt cần ngâm hạt
giống để cho hạt được kích thích nảy mầm, các mầm bệnh được
diệt sạch, ngâm trong nước ấm (40-45 độ C), ngâm nước sôi
không được.
Tình cảm, ý chí, niềm tin: thúc đẩy hoặc ngăn chặn hđ thực tiễn.
Ý thức tác động lại vật chất.
c, Ý nghĩa phương pháp luận
- Khi nói về mqh giữa vật chất và ý thức:
+ Vật chất quyết định ý thức: khi con người muốn hiểu về sự vật,
muốn tác động lên sự vật thì cần phải xuất phát từ các yếu tố khách
quan, tôn trọng khách quan (điểm khởi đầu).
+ Ý thức tác động trở lại vật chất: phát huy tính năng động chủ
quan của ý thức.
(Phân biệt giữa tính năng động chủ quan và chủ quan duy ý chí:
+ Năng động chủ quan: căn cứ trên yếu tố khách quan.
+ Chủ quan duy ý chí: căn cứ trên yếu tố chủ quan, nguyện vọng
cá nhân, không quan tâm đến khách quan.
VD: Trong kháng chiến chống Mĩ, thiếu thốn vật chất nhưng
nhờ có ý chí vẫn chiến thắng được tuy nhiêngiới hạn bởi
năng động chư quan có giới hạn phụ thuộc vào cái khách quan).
- Hành động con người gồm các yếu tố: khách quan, chủ quan.
=> Theo CNDV biện chứng, yếu tố khách quan được ưu tiên hơn,
cả 2 yếu tố liên hệ lẫn nhau (căn cứ cả 2, trước hết là khách quan vì
đây là điểm khởi đầu).
+ Điểm khởi đầu:
Khách quan đủ: tìm ngay được, hoàn thiện luôn.
Khách quan không đủ: tìm cách khác làm xuất hiện các yếu tố
còn thiếu.
Cách giải quyết: B1: phân tích khách quan: nếu khách quan đủ thì tìm ra
điểm khởi đầu trong thế giới khách quan rồi giải quyết, nếu khách quan
thiếu thì tìm cách để làm xuất hiện thêm yếu tố khách quan còn thiếu rồi
giải quyết; B2: dùng chủ quan: năng lực thực tiễn của bản thân để giải
quyết => Vai trò của triết học tìm ra điểm khởi đầu giải quyết theo
từng bước.
| 1/13

Preview text:

CHƯƠNG 2 I. Vật chất và ý thức
1. Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất
a, Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật
trước Mác về phạm trù vật chất
- Vào thời kì cổ đại, đặc biệt là ở Hy Lạp – La Mã, Trung Quốc, Ấn
Độ, các nhà duy vật thời cổ đại đã đồng nhất vật chất với một hoặc
một số dạng cụ thể của nó, phải kể đến như: ở phương Tây, Thales
coi vật chất là nước, Heraclitus coi vật chất là lửa, Anaximenes coi
vật chất là không khí, Democritos coi vật chất là nguyên tử còn ở
phương Đông, phái Ngũ hành ở Trung Quốc quan niệm vật chất là
5 yếu tố: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ; người Ấn Độ cổ đại cho rằng
vật chất là 4 yếu tố: đất, nước, lửa, gió.
- Bước sang thời kì cận đại, với các thành tựu của cơ học cổ điển đã
dẫn đến tính siêu hình của vật chất. Với sự phát triển của khoa học,
người ta đã đồng nhất vật chất với nguyên tử, với khối lượng nguyên tử.
 Như vậy, ở thời kì này các nhà duy vật không chỉ đồng nhất vật chất với
một dạng cụ thể của nó mà còn đồng nhất với một thuộc tính của nó (khối
lượng của nó). Nhờ vậy, các nhà duy vật thời cận đại đã đặt ra được tiêu
chuẩn phân biệt vật chất và ý thức.
b, Cuộc cách mạng trong KHTN cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XXvaf sự
phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
- Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khoa học kĩ thuật phát triển, các
thành tựu khoa học tự nhiên ra đời đã làm đảo lộn toàn bộ thế giới
quan trong khoa học tự nhiên và triết học đã dẫn đến cuộc khủng
hoảng vô cùng lớn. Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X có
nguồn gốc từ nguyên tử. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện
tượng phóng xạ của nguyên tố urani do hạt nhân của nguyên tử
không bền phân hủy ra (điều này cho thấy nguyên tử không phải là
hạt nhỏ nhất). Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng
minh được rằng điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên
nguyên tử. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng
của điện tử không phải là bất biến mà thay đổi theo vận tốc của
nguyên tử. Năm 1905, thuyết tương đối hẹp và năm 1916, thuyết
tương đối tổng quát của Anhxtanh đã chứng minh: Không gian,
thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật chất.
- Tất cả những phát minh ấy đã đem lại cho con người những hiểu
biết mới mẻ hơn. Tuy nhiên, trước những phát hiện đó, không ít
nhà khoa học và triết học đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu
hình đã hoang mang, dao động, hoài nghi tính đúng đắn của chủ
nghĩa duy vật. Trước tình hình như vậy đã thôi thúc V.I. Lênin đưa
ra định nghĩa về vật chất.
c, Quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất
- V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là
một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
- Nhìn theo góc độ triết học, vật chất phải đảm bảo tính chung nhất
do đó V.I. Lênin đã chỉ ra được sai lầm của các nhà duy vật cũ khi
đem khái niệm vật chất trong các ngành khoa học tự nhiên cụ thể
(là những đối tượng vật chất có giới hạn) vào thành định nghĩa vật
chất trong triết học. Vì vậy, điều này đã không đảm bảo tính chung
nhất của một hệ thống triết học.
- Phương pháp định nghĩa vật chất của Lênin là đem đối lập vật chất
với ý thức, từ đó tìm ra ranh giới giữa vật chất và ý thức bởi vì vật
chất là phạm trù rộng nhất nên cần đối lập nó với 1 phạm trù tương đương là ý thức.
- Định nghĩa vật chất của Lênin bao hàm những nội dung cơ bản sau:
+ Vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và
không lệ thuộc vào ý thức.
Nói vật chất là một phạm trù triết học là muốn nói phạm trù này là sản
phẩm của sự trừu tượng hóa, không có sự tồn tại cảm tính. Tuy nhiên V.I. Lênin
nhấn mạnh rằng phạm trù triết học này chỉ ra tính chất duy nhất của vật chất là
tính tồn tại với tư cách là hiện thực khác quan, tồn tại ở bên ngoài ý thức của
con người. Nói như vậy, sự trừu tượng của vật chất bắt nguồn từ cơ sở hiện
thực, do vậy không tách rời tính hiện thực cụ thể của nó. Nói đến vật chất là nói
đến tất cả những gì đã và đang hiện hữu bên ngoài ý thức của con người, vật
chất là hiện thực chứ không phải hư vô và hiện thực này mang tính khách quan
chứ không phải hiện thực chủ quan. Theo V.I. Lênin, đây cũng chính là sự đối
lập giữa vật chất và ý thức là tuyệt đối. Như vậy, mọi sự vật, hiện tượng dù tồn
tại trong tự nhiên hay trong xã hội cũng chính là những đối tượng tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức con người, cũng có nghĩa là đều thuộc phạm trù vật
chất, đều là những dạng cụ thể của vật chất.
Khẳng định trên của V.I. Lênin đã giúp cho khoa học tự nhiên thoát khỏi
khủng hoảng, bác bỏ chủ nghĩa duy tâm, khắc phục triệt để những sai lầm của
những chủ nghĩa duy vật trước Mác đó là đồng nhất vật chất với một dạng cụ
thể của nó đồng thời khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu về thế giới
vật chất để có thể khám phá ra những thuộc tính mới, kết cấu mới của nó, không
ngừng làm cho tri thức của con người về thế giới quan xung quanh phong phú
hơn, mở đường cho chủ nghĩa duy vật phát triển tiến đến duy vật về xã hội.
+ Vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan của con người thì đem
lại cho con người cảm giác.
Qua nội dung này, V.I. Lênin đã chứng minh được sự tồn tại khách quan
của vật chất thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật hiện
tượng mà các thực thể chính là biểu hiện sự tồn tại hiện thực của vật chất. Vật
chất được con người nhân thức một cách trực tiếp hoặc gián tiếp bằng các giác
quan của mình. Như vậy ngoài việc vật chất tồn tại khách quan thì Lênin đã đưa
ra thêm một dấu hiệu khác giúp chúng ta nhận biết được cái nào là vật chất, cái
nào là ý thức đó chính là dấu hiệu con người dựa vào những cảm giác của các
giác quan nhận thức được về vật chất. Bằng việc khẳng định vật chất là cái được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, Lênin đã một lần nữa nhấn
mạnh rằng con người có thể nhận thức được vật chất. Tuy nhiên, không phải tất
cả sự vật hiện tượng trên thế giới khi tác động đến giác quan của con người đều
được nhân biết, do trình độ của con người hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế nên
có cái phải dùng đến các dụng cụ khoa học mới có thể được nhân biết, có cái
dùng dụng cụ khoa học cũng chưa biết. Do vậy, nếu nó tồn tại khách quan bên
ngoài độc lập với ý thức thì vẫn là vật chất, không có vật chất nào không thể
nhận biết được, chỉ là trình độ của chúng ta vẫn chưa đạt đến mức có thể nhận biết được chúng.
Với nội dung này, Lênin đã làm rõ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
trong chủ nghĩa duy vật biện chứng đó là: trên phương diện nhận thức luận thì
vật chất là cái có trước, là cội nguồn của ý thức, còn ý thức là cái có sau, là cái
phụ thuộc vào vật chất. Vật chất là thứ nhất, ý thức là thứ hai, vật chất quyết
định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong bộ não con người.
+ Vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Quan điểm của Mác cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất
đó là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, đến một thời điểm nào đó sẽ có hai
hiện tượng tồn tại cùng lúc đó là hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần.
Hiện tượng vật chất luôn tồn tai một cách khách quan, không hề phụ thuộc vào
các hiện tượng tinh thần. Các hiện tượng tinh thần thì có nguồn gốc từ những
hiện tượng vật chất và luôn phản ánh lại hiện tượng vật chất bằng cách chụp lại,
chép lại, phản ánh lại những hiện tượng vật chất tồn tại xug quanh chúng ta. Do
vậy, về nguyên tắc thì trong thế giới vật chất ấy không có gì là không thể biết,
chỉ có những cái đã biết và chưa biết do hạn chế về trình độ hiểu biết của con
người cùng với giai đoạn lịch sử đó. Trình độ phát triển của con người càng
ngày được nâng cao, khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, giới hạn nhận thức
của con người được nâng lên vì vậy vật chất không bị mất đi do người duy tâm
vẫn quan niệm chẳng qua là nó đã bị vượt qua.
Nội dung trên đã bác bỏ thuyết “bất khả tri” (không thể biết), đồng thời
khuyến khích con người ngày càng đi sâu tìm hiểu về thế giới vật chất, khiến
cho tri thức của nhân loại ngày càng được phát triển. Ngày nay, khoa học ngày
càng phát triển, những khám phá, nhận thức mới của con người ngày nay càng
khẳng định tính đúng đắn của quan niệm duy vật biện cứng về vật chất, định
nghĩa vật chất của Lênin vẫn giữ nguyên giá trị, do đó chủ nghĩa duy vật biện
chứng càng khẳng định là hạt nhân của thế giới quan, là phương pháp luận đúng đắn hiện nay.
- Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của triết học Mác – Lênin:
+ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề
cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện
chứng; cung cấp nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận
khoa học để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể
biết, chủ nghĩa duy vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong
triết học tư sản hiện đại về phạm trù này.
+ Định nghĩa vật chất là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất
trong lĩnh vực xã hội, đó là các điều kiện sinh hoạt vật chất, hoạt
động vật chất và các quan hệ vật chất xã hội giữa người với người;
tạo sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử thành một hệ thống lý luận thống nhất, góp phần tạo nên
nền tảng lý luận khoa học cho việc phân tích một cách duy vật biện
chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
d, Phương thức tồn tại của vật chất * Vận động:
- Vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất:
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất: bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng
là một thể thống nhất có kết cấu nhất định giữa các nhân tố, các khuynh hướng,
các bộ phận khác nhau, đối lập nhau. Trong hệ thống ấy, chúng luôn tác động,
ảnh hưởng lẫn nhau và chính sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau ấy gây ra
sự biến đổi nói chung, tức là vận động. Như thế, vận động của vật chất là tự thân
vận động và mang tính phổ biến.
+ Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu
hiện sự tồn tại của nó: con người chỉ nhận thức được sâu sắc sự vật, hiện tượng
bằng cách xem xét chúng trong quá trình vận động => nhận thức sự vận động của
1 sự vật, 1 hiện tượng chính là nhận thức bản thân sự vật, hiện tượng đó.
 Vận động là thuộc tính cố hữu và là phương thức tồn tại của vật chất; do
đó, nó tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và không bị tiêu diệt. Quan niệm
về tính không thể tạo ra và không bị tiêu diệt của vận động đã được các
nhà khoa học tự nhiên chứng minh bằng quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng.
- Những hình thức vận động cơ bản của vật chất:
+ Có 5 hình thức: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học, xã hội.
+ Cơ sở của sự phân chia đó dựa trên các nguyên tắc: các hình thức vận
động phải tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật chất; các hình
thức vận động có mối liên hệ phát sinh, nghĩa là hình thức vận động cao
nảy sinh trên cơ sở của những hình thức vận động thấp và bao hàm hình
thức vận động thấp; hình thức vận động cao khác về chất so với hình thức
vận động thấp và không thể quy về hình thức vận động thấp.
 Việc phân chia có ý nghĩa quan trọng đối với việc phân chia đối tượng và
xác định mối quan hệ giữa các ngành khoa học, đồng thời cũng cho phép
vạch ra các nguyên lý đặc trưng cho sự tương quan giữa các hình thức
vận động của vật chất.
+ Các hình thức vận động tồn tại trong mối liên hệ không thể tách
rời nhau. Giữa hai hình thức vận động cao và thấp có thể có hình
thức vận động trung gian, đó là những mắt khâu chuyển tiếp trong
quá trình chuyển hóa lẫn nhau của các hình thức vận động. Tuy
nhiên, những kết cấu vật chất đặc thù bao giờ cũng được đặc trưng
bởi một hình thức vận động cơ bản nhất định và khi đó các hình
thức vận động khác chỉ tồn tại như những nhân tố, những vệ tinh
của hình thức vận động cơ bản. Vì vậy, vừa phải thấy mối liên hệ
giữa các hình thức vận động, vừa phải phân biệt sự khác nhau về chất của chúng.
- Vận động và đứng im:
+ Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng
thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ
và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự
vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất. + Thếế gi i v ớ t chấết luôn ậ
ở trong quá trình vậ n độ ng và phát triể n không ngừ ng.
Nhưng điều đó không loại trừ mà còn bao hàm trong đó hiện
tượng đứng im tương đối. Không có sự đứng im tương đối thì sẽ
không có sự vật và hiện tượng vật chất cụ thể nào tồn tại. Đứng
im chỉ xét trong một quan hệ nhất định của sự vật, còn khi xét
trong mọi quan hệ thì sự vật vận động chứ không phải đứng im.
Đứng im chỉ xét trong một hình thức vận động, nếu trong mọi
hình thức vận động thì sự vật không phải đứng im mà đang vận
động. Đứng im chỉ biểu hiện
của một trạng thái vận động trong sự “cân bằng”, trong sự ổn
định tương đối của sự vật và hiện tượng cụ thể. Bởi không có
đứng im tương đối thì cũng không có sự tồn tại của các sự vật
và hiện tượng khách quan nói chung. - Không gian và thời gian:
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định tính khách quan của không
gian và thời gian, xem không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất
vận động; trong đó, không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt
quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau. Thời gian
là hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình.
+ Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của
vật chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau. Tính chất của không gian
và sự biến đổi của nó bao giờ cũng gắn liền với tính chất và sự biến đổi của thời gian và ngược lại.
+Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi lẫn
tính chất. Không gian và thời gian của một sự vật, hiện tượng cụ thể là có tận cùng và hữu hạn.
đ, Tính thống nhất vật chất của thế giới
 Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
 Thế giới thống nhất ở tính vật chất
- Căn cứ vào đời sống thực tiễn và sự phát triển lâu dài của triết học
và khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất
của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó
được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
+ Chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con
người, được ý thức con người phản ánh.
+ Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là
sản phẩm của vật chất, cùng chịu sự chi phối của những quy luật
khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
+ Thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, tồn
tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng
luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng và chuyển hóa lẫn nhau, là
nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau, về thực chất, đều là
những quá trình vật chất.
- Sự phát triển của khoa học tự nhiên ngày nay đã ngày càng chứng
minh tính thống nhất của thế giới ở tính vật chất.
2. Nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức
a, Nguồn gốc của ý thức
 Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: Các nhà triết học duy tâm cho
rằng, ý thức là nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân
sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất. Ý
thức của con người do cảm giác sinh ra, nhung cảm giác theo quan
niệm của họ không phải là sự phản ánh thế giới khách quan mà chỉ là
cái vốn có của mỗi cá nhân tồn tại tách rời, biệt lập với thế giới bên ngoài.
 Đây là những quan điểm hết sức phiến diện, sai lầm của CNDT, cơ sở lý luận của tôn giáo.
 Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: Các nhà duy vật siêu hình
đã đồng nhất ý thức với vật chất. Họ coi ý thức cũng chỉ là một dạng
vật chất đặc biệt, do vật chất sản sinh ra.
 Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: - Nguồn gốc tự nhiên:
+ Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là
hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất, ý thức là sự phản
ánh thế giới hiện thực bởi bộ óc con người.
+ Ý thức là thuộc tính của 1 dạng vật chất có tổ chức cao là não người.
+ Nguồn gốc tự nhiên là não người và thế giới khách quan.
+ Não người là dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là dạng vật chất
duy nhất có thể tạo ra ý thức.
+ Khi não bị tổn thương thì ý thức của con người cũng bị tổn thương.
 Sự xuất hiện của con người và hình thành bộ óc của con người có năng
lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. - Nguồn gốc xã hội:
+ Ý thức hình thành không phải là quá trình con người tiếp nhận
thụ động các tác động từ thế giới khách quan vào bộ óc của mình,
mà chủ yếu từ hoạt động thực tiễn: thông qua hoạt động lao động
cải tạo thế giới khách quan mà con người đã từng bước nhận thức
từ thế giới, có ý thức ngày càng sâu sắc về thế giới; trải qua quá
trình hoạt động thực tiễn lâu dài, trong những điều kiện, hoàn cảnh
khác nhau, với nhiều loại đối tượng khác nhau; cùng với sự phát
triển của tri thức khoa học, các phương pháp tư duy khoa học cũng
dần được hình thành, phát triển giúp nhận thức lý tính của loài
người ngày càng sâu sắc.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức:
trong quá trình lao động, con người nảy sinh nhu cầu truyền đạt
kinh nghiệm và giao tiếp với nhau, vì vậy ngôn ngữ xuất hiện, ý
thức được bộc lộ ra ngoài, ngôn ngữ được coi là vỏ bọc của ý thức.
 Xem xét nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức cho thấy, ý
thức xuất hiện là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên,
của lịch sử trái đất, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội –
lịch sử của con người; trong đó, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, còn
nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển.
b, Bản chất của ý thức
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, tức là thông
qua lăng kính phản ánh của mọi người mà thu được các hình ảnh
khác nhau. Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài “di chuyển” vào
trong đầu óc của con người và được cải biến đi ở trong đó.
- Ý thức là sự phản ánh sáng tạo, phản ánh thì có ở mọi dạng vật
chất nhưng phản ánh sáng tạo thì chỉ có ở ý thức con người. Sáng
tạo thể hiện ở chỗ nó chỉ phản ánh các bản chất, các thông tin từ đó
đưa ra các mô hình lý thuyết hoặc các dự báo => đặc trưng của ý thức.
- Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây
là sự phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế
giới khách quan theo nhu cầu của con người.
- Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,
là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
 Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực
khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội – lịch sử. c, Kết cấu của ý thức
 Các lớp cấu trúc của ý thức:
- Tri thức: tri thức là những hiểu biết nhất định của con người về thế giới.
- Tình cảm: là hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản
ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người và thế
giới khách quan, là những rung động biểu thị thái độ.
- Ý chí: là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng
trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở
ngại, đạt mục đích đề ra.
 Tri thức có vai trò quyết định ý thức và là phương thức tồn tại của ý thức
vì nhận thức của con người phải đạt đến 1 trình độ hiểu biết nhất định về
sự vật, hiện tượng thì mới có thể giúp cho con người xác định mục tiêu,
phương pháp, cách thức tác động lên đối tượng đó. Ý thức mà không bao
hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì ý thức đó là 1 sự trừu tượng trống
rỗng, không giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn.
 Các cấp độ của ý thức:
- Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối
quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Bằng việc tự ý thức, con
người xác định đúng vị trí, điểm mạnh, điểm yếu của mình, ý thức
về mình như một cá nhân - chủ thể có ý thức đầy đủ về hành động
của mình; luôn làm chủ bản thân, chủ động điều chỉnh hành vi của
mình trong tác động qua lại với thế giới khách quan.
- Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức.
- Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều
khiển, nằm ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát
được trong một lúc nào đó.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a, Quan điểm của CNDT và CNDV siêu hình
- Theo CNDT, ý thức có trước, quyết định vật chất.
- Theo CNDV siêu hình, tuyệt đối hóa vật chất, tầm thường hóa ý
thức, cho rằng thế giới là 1 cỗ máy, ý thức do não tiết ra (như gan tiết ra mật).
b, Quan điểm của CNDV biện chứng
- Theo quan điểm của triết học ML, xét đến cùng (tính xuyên suốt,
phổ biến, logic), vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức có tính độc lập
tương đối, tác động tích cực trở lại vật chất.
VD: Hai người chia tay do không hợp nhau, đây là về ý thức nhưng
xét đến cùng ý thức khác nhau do thế giới vật chất, thế giới sống
của 2 người khác nhau, đến từ nơi khác nhau, thói quen khác nhau,
sở thích khác nhau, quan niệm về giá trị sống khác nhau,…
- Trong một giới hạn nhất định (trong 1 số trường hợp giới hạn cụ
thể về không gian: mối liên hệ, thời gian: từng lúc, từng giai đoạn)
thì ý thức cũng có thể quyết định vật chất.
VD: 1 túp lều tranh 2 trái tim vàng.
- Vật chất quyết định ý thức:
+ Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức:
Nguồn gốc của ý thức: tự nhiên (bộ não người, thế giới khách
quan, thế giới v/c của con người), xã hội (lao động: hđ v/c của con
người thuộc v/c, ngôn ngữ: tín hiệu v/c) => cả 4 yếu tố nguồn gốc
của ý thức đều từ vật chất cho nên vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Bản chất của ý thức là
phản ánh hiện thực khách quan vì thế nên:
Khi thế giới vật chất biến đổi thì ý thức cũng thay đổi theo (hình
ảnh người bà trước kia: da nhăn nheo, lưng gù,… nhưng hình ảnh
người bà hiện nay thì khác).
Hình ảnh do con người tưởng tượng ra lấy chất liệu từ hiện thực
khách quan, thế giới khách quan (hình ảnh con rồng trong tư duy
của con người lấy hình dáng từ nhiều vật trong thế giới: vảy rồng
từ cá, râu rồng từ cá chép,bờm rồng từ sư tử, chân rồng từ đại bàng,
…; người dơi, người nhện,…).
 Bản chất ý thức, nội dung của nó cũng là từ vật chất.
+ Điều kiện hiện thực hóa ý thức là cần có vật chất, thông qua vật chất =>
ý thức được hiện thực hóa, tồn tại trong hiện thực.
- Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất: + Kết cấu ý thức:
Tri thức: giúp con người từ hiểu biết đó xác định được mục tiêu,
phương pháp, cách thức trong hoạt động thực tiễn => nó quyết định
sự thành bại của mọi hđ thực tiễn: hiểu đúng thì quyết định đúng,
hiểu sai thì quyết định sai. VD: trước khi gieo hạt cần ngâm hạt
giống để cho hạt được kích thích nảy mầm, các mầm bệnh được
diệt sạch, ngâm trong nước ấm (40-45 độ C), ngâm nước sôi là không được.
Tình cảm, ý chí, niềm tin: thúc đẩy hoặc ngăn chặn hđ thực tiễn.
 Ý thức tác động lại vật chất.
c, Ý nghĩa phương pháp luận
- Khi nói về mqh giữa vật chất và ý thức:
+ Vật chất quyết định ý thức: khi con người muốn hiểu về sự vật,
muốn tác động lên sự vật thì cần phải xuất phát từ các yếu tố khách
quan, tôn trọng khách quan (điểm khởi đầu).
+ Ý thức tác động trở lại vật chất: phát huy tính năng động chủ quan của ý thức.
(Phân biệt giữa tính năng động chủ quan và chủ quan duy ý chí:
+ Năng động chủ quan: căn cứ trên yếu tố khách quan.
+ Chủ quan duy ý chí: căn cứ trên yếu tố chủ quan, nguyện vọng
cá nhân, không quan tâm đến khách quan.
VD: Trong kháng chiến chống Mĩ, dù thiếu thốn vật chất nhưng
nhờ có ý chí vẫn chiến thắng được tuy nhiên nó có giới hạn bởi vì
năng động chư quan có giới hạn phụ thuộc vào cái khách quan).
- Hành động con người gồm các yếu tố: khách quan, chủ quan.
=> Theo CNDV biện chứng, yếu tố khách quan được ưu tiên hơn,
cả 2 yếu tố liên hệ lẫn nhau (căn cứ cả 2, trước hết là khách quan vì
đây là điểm khởi đầu). + Điểm khởi đầu:
Khách quan đủ: tìm ngay được, hoàn thiện luôn.
Khách quan không đủ: tìm cách khác làm xuất hiện các yếu tố còn thiếu.
 Cách giải quyết: B1: phân tích khách quan: nếu khách quan đủ thì tìm ra
điểm khởi đầu trong thế giới khách quan rồi giải quyết, nếu khách quan
thiếu thì tìm cách để làm xuất hiện thêm yếu tố khách quan còn thiếu rồi
giải quyết; B2: dùng chủ quan: năng lực thực tiễn của bản thân để giải
quyết => Vai trò của triết học là tìm ra điểm khởi đầu và giải quyết theo từng bước.