Chương 3: Chủ nghĩa duy vật lịch sử môn Triết học Mac-Lenin | Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Chương 3: Chủ nghĩa duy vật lịch sử môn Triết học Mac-Lenin | Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 77 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mac-Lenin (HN2)
Trường: Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CHƯƠNG III: CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
I. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI 1. Sản xuất vật chất A, Khái niệm
- Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin khẳng định rằng: sản xuất vật chất
là quá trình con người sử dụng công cụ lao động, tác động vào giới tự nhiên, nhằm
biến đổi giới tự nhiên theo nhu cầu – mục đích của con người. Và hơn cả là chúng ta
tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu bản năng sinh tồn của con người, sau đó là
cho xã hội để đảm bảo sự sinh tồn và phát triển.
=> Đặc trưng của SXVC:
- Hoạt động SXVC mang tính lịch sử xã hội, bởi hoạt động này mang tính chất
hoạt động của một tập đoàn người. Trong quá trình SXVC con người không thể tách
mình ra khỏi cộng đồng xã hội. Bởi vì con người chúng ta tồn tại theo tư cách là thực thể xã hội.
- Hoạt động SXVC là hoạt động có mục đích, đáp ứng nhu cầu bản năng sinh
tồn của con người, cũng như sự phát triển của xã hội. Và mang tính khách quan
b)Vai trò của sản xuất vật chất
- SXVC là cơ sở nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội bởi vì:
+. Đời sống xã hội loài người bao gồm nhiều mặt, nhiều hoạt động: kinh tế,
chính trị, văn hóa, nghệ thuật,…Xã hội càng phát triển thì các hoạt động này càng
phong phú. Các hoạt động này do con người tạo ra thông qua SXVC.
+.Con người muốn tồn tại trước hết phải đáp ứng nhu cầu: ăn, ở, mặc. Nhu cầu
này không có sẵn trong giới tự nhiên, mà phải thông qua hoạt động sản xuất. Chính
lao động sản xuất đã biến đổi các đối tượng trong giới tự nhiên thành sản phẩm thỏa
mãn nhu cầu hằng ngày của con người và xã hội.
+.Không có hoạt động SXVC thì không có sự tồn tại của con người và xã hội
loại người. Hoạt động SXVC là nền tảng làm nảy sinh các mối quan hệ trong đời
sống xã hội; là cơ sở hình thành, phát triển, biến đổi xã hội. Lịch sử phát triển của loài
người đã chứng minh, xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội do hoạt động SXVC quyết định.
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a) Khái niệm phương thức sản xuất,lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Phương thức sản xuất (PTSX) là cách thức con người thực hiện quá trình
SXVC ở những giai đoạn nhất định. PTSX chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản
xuất ở một trình độ nhất định và một quan hệ sản xuất tương ứng với trình độ.
- Lực lượng sản xuất chỉ sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất
nhằm tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định. LLSX bao gồm:
+. Người lao động: với sức khỏe, kỹ năng, kinh nghiệm. Người lao động có vai
trò quyết định đến sự hình thành và phát triển LLSX.
+. Tư liệu sản xuất (TLSX): gồm tư liệu lao động ( đất đai, nhà xưởng, các vật
liệu phục vụ cho quá trình sản xuất…) và công cụ lao động. Trong đó, công cụ lao
động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn để phân
biệt các thời đại kinh tế.
- Quan hệ sản xuất dùng để chỉ tổng thể mối quan hệ kinh tế (quan hệ giữa
người với người về mặt thực hiện lợi ích vật chất trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội).
*Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức của phương
thức sản xuất, nội dung quyết định hình thức vì vậy lực lượng sản xuất quyết định
quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng hay nhất, còn
quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn so với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Do vậy sự thay đổi của lực lượng sản xuất thường
xảy ra trước và kéo theo sự thay đổi của quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển của nó.
Lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất ấy, quan hệ sản xuất phải phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biến đổi thì quan hệ
sản xuất của biến đổi theo. Lực lượng sản xuất vận động phát triển không ngừng sẽ
mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất, đòi hỏi tất yếu của nền
sản xuất là xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất, có tính độc lập
tương đối với lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược
lại nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
3.Quy luật biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Cơ sở hạ tầng được hiểu là tất cả những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một xã hội nhất định.
- Kiến trúc thượng tầng được hiểu là tất cả những quan điểm về chính trị, pháp
quyền, đạo đức, triết học, tôn giáo,...cùng với các thiết chế của xã hội tương ứng như
nhà nước, đảng phái, giáo hội,...được tạo nên trên cơ sở hạ tầng nhất định.
* Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng.
Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với
nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng được quy định bởi tính chất của cơ sở hạ
tầng. Trong xã hội tồn tại giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng thống trị
chính trị và văn hóa. Những yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều trực tiếp hoặc gián
tiếp được quyết định bởi cơ sở hạ tầng.
Nếu cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng theo
đó thay đổi cho phù hợp. Quá trình thay đổi này không chỉ diễn ra trong sự thay đổi
từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác mà còn diễn ra
ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Sự thay đổi của kiến trúc thượng
tầng cũng gắn với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất: lực lượng sản xuất sẽ
trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và thông qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng tầng.
Quá trình thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra
rất phức tạp, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng theo cơ
sở hạ tầng, cũng có những yếu tố thay đổi chậm hoặc tồn tại yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới.
Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng tác động đến cơ sở hạ tầng theo hai chiều hướng.
Trường hợp kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách
quan thì sẽ trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhưng nếu kiến
trúc thượng tầng phát triển theo chiều hướng ngược lại sẽ trở thành nguyên nhân kìm
hãm kinh tế và xã hội. Mặc dù kiến trúc thượng tầng tác động mạnh mẽ đến sự phát
triển kinh tế nhưng không làm thay đổi được sự phát triển khách quan của xã hội. => Đổi mới
+. 1986: đổi mới về quan hệ sản xuất : quan liêu tập trung bao cấp => kinh tế
thị trường định hướng XNCH => do kph với sự phát triển llsx. +.
4.Phạm trù hình thái kinh tế -xã hội và ý nghĩa
A, .Phạm trù Hình thái kinh tế -xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng
để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và
với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó.
Hình thái kinh tế xã hội và một hệ thống hoàn chỉnh với cấu trúc phức tạp gồm
các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi
mặt trong đó có vị trí riêng biệt nhưng luôn tác động qua lại và thống nhất với nhau.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế -xã
hội, không giống nhau ở những hình thái kinh tế xã hội khác nhau, quyết định sự hình
thành, phát triển và thay thế giữa các hình thái kinh tế -xã hội.
Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định mọi
quan hệ xã hội khác. Tùy từng hình thái kinh tế- xã hội sẽ có một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng, phân biệt với các chế độ xã hội khác. Kiến trúc thượng tầng hình
thành và phát triển phải phù hợp với cơ sở hạ tầng, bằng công cụ bảo vệ duy trì và
phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Ngoài ra, các hình thái kinh tế- xã hội của có quan hệ về gia đình, dân tộc và
các quan hệ khác như thế nào gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng quan hệ sản xuất.
Ý nghĩa phương pháp luận của phạm trù hình thái kinh tế xã hội
Sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên
Xã hội loài người đã phát triển và trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối
tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã
hội, C.Mác đã đưa ra kết luận: "Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên".
Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội luôn tồn tại các mặt không ngừng tác động
qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.
Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy
luật xã hội khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái
kinh tế - xã hội vận động phát triển từ thấp đến cao.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là do trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ngày càng cao, phá vỡ tính thống nhất với quan hệ sản
xuất, yêu cầu quan hệ sản xuất phát triển theo, làm cho cơ sở thượng tầng thay đổi
kéo theo kiến trúc thượng tầng, dẫn đến hình thái kinh tế - xã hội cũ thay thế bằng
hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một cách
khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng
con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện
nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả sự thống nhất giữa logic và lịch
sử. Xu hướng chung của sự vận động và phát triển là do các quy luật khách quan chi
phối, xét đến cùng là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lịch sử phát triển của xã
hội loài người là sự kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Mỗi
hình thái kinh tế xã hội sẽ có những điều kiện không gian, thời gian với các tiêu chí
về phát triển lực lượng sản xuất, kiểu quan hệ sản xuất, kiểu kiến trúc thượng tầng cụ thể.
Sự thống nhất giữa logic và lịch sử trong tiến trình lịch sử tự nhiên của xã hội
loài người bao hàm cả sự phát triển tuần tự đối với lịch sử phát triển toàn thế giới và
sự phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế -xã hội đối với một quốc gia, dân
tộc cụ thể. Bản chất của việc bỏ qua một vài hình thái kinh tế xã hội là việc rút ngắn
giai đoạn, bước đi của nền văn minh loài người, thể hiện sự tăng vọt của lực lượng sản xuất.
Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đem đến những giá trị khoa học quan
trọng về những quy luật vận động và phát triển của xã hội.
Sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội, phương thức sản xuất
quyết định các mặt của đời sống xã hội. Do đó, để giải thích các hiện tượng trong đời
sống xã hội cần bắt đầu từ phương thức sản xuất chứ không phải từ ý chí chủ quan của con người.
Xã hội là một cơ thể sống sinh động gồm nhiều mặt thống nhất, gắn bó với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết
định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã
hội. Vì vậy, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội, phải nghiên cứu chuyên sâu các
mặt của đời sống xã hội trong mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng, đặc biệt là phân tích
về quan hệ sản xuất bởi quan hệ sản xuất cũng là tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ
lịch sử một cách đúng đắn, khoa học.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ
quan. Cho nên, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy
luật vận động phát triển của xã hội.
II.GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC
1. Giai cấp và đấu tranh giai cấp 1.1. Giai cấp 1.1.1. Định nghĩa
Giai cấp là tập đoàn người khác nhau về địa vị trong hệ thống sản xuất xã hội
nhất định ở một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, khác nhau về quan hệ với tư liệu sản xuất,
khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã hội, các lợi ích được hưởng thụ. Giai
cấp là tập đoàn người, mà tập đoàn người này có thể chiếm đoạt lao động của tập
đoàn khác do có địa vị kinh tế khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.
Trong xã hội gồm nhiều nhóm xã hội khác nhau, mỗi nhóm xã hội có những
đặc trưng riêng về giới tính, dân tộc, chủng tộc,...trong những giai cấp khác nhau sẽ
có những giai cấp có sự khác biệt về lợi ích dẫn đến xung đột xã hội mang tính đối
kháng. Sự phân chia giai cấp bao giờ cũng bắt đầu từ lợi ích kinh tế.
Nguồn gốc hình thành giai cấp là do chế độ tư hữu. Mỗi xã hội sẽ luôn tồn tại
một giai cấp có vai trò cầm quyền, nắm quyền chủ đạo.
1.1.2. Nguồn gốc giai cấp
- Theo Các Mác: ‘ Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn
phát triển lịch sử nhất định của sản xuất’. Sự phân chia xã hội thành giai cấp trước hết
là do nguyên nhân kinh tế’.
Cụ thể: trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất
lao động rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thủy. Để tồn tại
họ phải sống nương tựa vào nhau theo bầy đàn lệ thuộc nhiều vào tự nhiên,-> Giai
cấp chưa xuất hiện. Khi công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng
đá dẫn đến việc năng suất lao động tăng đáng kể, phân công lao động từng bước hình
thành, của cải dư thừa xuất hiện, những người có chức quyền trong các thị tộc bộ lạc
đã chiếm đoạt của cải làm của riêng, chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng nảy ra trong
nội bộ, công xã. Đó là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.
=> Giai cấp là một hiện tượng xã hội xuất hiện lâu dài trong lịch sử gắn với
những điều kiện sản xuất vật chất của xã hội.
-Nguồn gốc trực tiếp: là do sự ra đời và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
-Nguồn gốc sâu xa: do sự phát triển của lực lượng sản xuất mới trong hình thái
kinh tế – xã hội nguyên thủy, tuy nhiên vẫn chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao.
Sự xuất hiện giai cấp diễn ra theo hai con đường:
Thứ nhất, sự phân hóa trong nội bộ công xã thành kẻ giàu, người nghèo; kẻ
bóc lột - người bị bóc lột. Đó là do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động
phát triển. Sự phát triển của kinh tế dẫn đến xuất hiện của cải dư thừa trong xã hội.
Khi ấy, những người có chức, quyền trong bộ lạc, thị tộc có cơ hội lấy một phần của
dư thừa làm của riêng. Chế độ tư hữu ra đời, xuất hiện giai cấp có của và giai cấp
không có của, kẻ bóc lột và người bị bóc lột.
Thứ hai, những tù binh của các cuộc chiến tranh không bị giết như trước kia
nữa mà được giữ lại làm nô lệ để phục vụ những người giàu có.
1.1.3. Kết cấu xã hội- giai cấp
- Kết cấu xã hội giai cấp là khái niệm dùng để chỉ tổng thể các giai cấp và mối
quan hệ giữa các giai cấp, tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định, gắn với một phương thức sản xuất.
- Kết cấu xã hội - giai cấp được quy định bởi trình độ sản xuất của các phương
thức sản xuất xã hội. Và trong một xã hội có giai cấp, tính đa dạng của kết cấu xã hội-
giai cấp tỉ lệ thuận với tính đa dạng của chế độ kinh tế, cơ cấu kinh tế.
- Mỗi hình thái kinh tế – xã hội có một kết cấu giai cấp nhất định. Khi hình
thái kinh tế – xã hội này thay thế hình thái kinh tế – xã hội khác, kết cấu giai cấp cũng
thay đổi. Xét đến cùng, bản chất và tương quan của các giai cấp trong một kết cấu
giai cấp bị quy định bởi bản chất và tương quan của các phương thức sản xuất đương thời.
Trong một xã hội, kết cấu giai cấp thường đa dạng do tính đa dạng của chế độ
kinh tế và cơ cấu kinh tế quy định.
- Một xã hội cụ thể bao giờ cũng có giai cấp cơ bản và giai cấp không cơ bản:
+. Các giai cấp cơ bản là các giai cấp gắn với phương thức sản xuất thống trị
trong một xã hội nhất định. Nó là sản phẩm của chế độ kinh tế - xã hội cụ thể.
+. Các giai cấp không cơ bản là những giai cấp gắn với những phương thức sản xuất tàn dư.
Ngoài hai giai cấp cơ bản và các giai cấp không cơ bản còn có tầng lớp trung
gian. Ví dụ, tầng lớp bình dân trong xã hội chiếm hữu nô lệ; các tầng lớp tiểu tư sản
thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp cơ bản và không cơ bản có thể có sự chuyển hóa khi có một phương
thức sản xuất mới thay thế một phương thức sản xuất trước nó. Do vậy, kết cấu giai
cấp của xã hội luôn mang tính lịch sử, không phải là bất biến.
1.2. Đấu tranh giai cấp
1.2.1. Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp
- Đấu tranh giai cấp là tất yếu, do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều
hòa được giữa các giai cấp.
- Theo Lênin, đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng nhân
dân bị tước đoạt quyền, chịu áp bức, bóc lột nhầm đứng lên chống lại bọn áp bức,
những kẻ có đặc quyền, là cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê nói
riêng hai giai cấp vô sản nói chung nhằm chống lại giai cấp tư sản.
- Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích
căn bản đối lập nhau trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định.
- Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động
bị áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của
chúng. Cách mạng xã hội là phương thức tất yếu để lật đổ ách thống trị của giai cấp
thống trị bóc lột, xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới và mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Liên minh giai cấp là một tất yếu trong cuộc đấu tranh giai cấp. Những giai
cấp, tầng lớp có lợi ích cơ bản không đối lập nhau, phù hợp nhau liên minh với nhau
trong cuộc đấu tranh giai cấp. Thực hiện liên minh giai cấp cũng là đấu tranh giai cấp.
1.2.2. Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai cấp
- Đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp và quan trọng trong sự phát
triển của xã hội có giai cấp. Thông qua cuộc đấu tranh giai cấp, sự xung đột giữa lực
lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lạc hậu được giải quyết, thực hiện bước quá
độ từ một hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời sang một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn.
- Vai trò của các cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử không giống
nhau, được thể hiện trong những thời kỳ tiến hóa xã hội. Vì đấu tranh giai cấp còn
phụ thuộc vào quy mô, tính chất của các nhiệm vụ kinh tế,chính trị, xã hội mà cuộc
đấu tranh đó phải giải quyết.
- Đấu tranh giai cấp vô sản là “đòn bẩy vĩ đại nhất” trong lịch sử xã hội có giai
cấp. Vì đây là cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản - cuộc đấu tranh cuối cùng
trong lịch sử. Có tính chất, quy mô rộng lớn và triệt để nhiệm vụ mà nó phải giải quyết.
- Đấu tranh giai cấp có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực lượng xã hội
phản động, cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng. Vì thông qua thực tiễn đấu tranh
giai cấp, giai cấp cách mạng có sự trưởng thành về mọi mặt, họ cũng phải tự nâng
mình lên đáp ứng được yêu cầu của lịch sử
- Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội, nhưng không phải là
động lực duy nhất mà là một động lực trực tiếp và quan trọng.
1.3. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
1.3.1. Khi chưa có chính quyền
- Đấu tranh kinh tế là một trong những hình thức cơ bản trong đấu tranh giai
cấp của giai cấp vô sản. -> nhằm bảo vệ lợi ích giai cấp vô sản, tập hợp những lực
lưỡng, giác ngộ quần chúng trong cuộc đấu tranh giai cấp nói chung. Với hạn chế là
chỉ có thể hạn chế chứ không thể xóa bỏ quyền hạn của giai cấp thống trị.
- Đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất của giai cấp vô sản. Mục tiêu
của đấu tranh chính trị là đánh đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, phản động, giành
chính quyền về tay giai cấp vô sản -> nhằm nâng cao giáo ngộ và bảo vệ lợi ích của
giai cấp, phát triển lực lượng cách mạng.-> là hình thức đấu tranh cao nhất, có ý
nghĩa quyết định đến thắng lợi của giai cấp vô sản.
- Đấu tranh tư tưởng có mục đích đập tan hệ tư tưởng của giai cấp tư sản, khắc
phục những ảnh hưởng của tư tưởng, tâm lý, tập quán lạc hậu trong phong trào cách
mạng; vũ trang cho họ hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân -
chủ nghĩa Mác Lênin. Được diễn ra dưới hình thức rất đa dạng, phong phú: công khai
- bí mật, tuyên truyền cổ động, đấu tranh trên lĩnh vực báo chí, văn hóa nghệ thuật…
-> Ba hình thức đấu tranh trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau,
nhưng có vai trò không ngang bằng nhau. Chúng vừa là tiền đề, vừa là cơ sở của
nhau, thống nhất với nhau.
1.3.2. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
- Có nội dung mới với mục tiêu xây dựng thành công CNXH. Đây là mục tiêu
cuối cùng của giai cấp vô sản. Trong giai đoạn này tàn dư của giai cấp bóc lột vẫn
còn. Những tư tưởng tâm lý và tập quán của giai cấp này vẫn chưa bị quét sạch.
Chúng chỉ có thể bị thủ tiêu thông qua cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Tuy nhiên
vẫn còn không ít các khó khăn và thách thức đặt ra trên con đường đấu tranh giai cấp
này. Vì vậy tính chất của cuộc đấu tranh là hết sức gay go, quyết liệt và phức tạp.
- Thực chất là cuộc đấu tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN. Để GCVS
giành được thắng lợi trên con đường đấu tranh đó, họ phải xây dựng thành công
CNXH, tạo ra sức mạnh hiện thực để bảo vệ vững chắc thành quả của sự nghiệp cách
mạng. Đây cũng là nhiệm vụ phức tạp, khó khăn và lâu dài nhất trong cuộc đấu tranh của GCVS.
- Cuộc đấu tranh giai cấp của vô sản diễn ra trong những điều kiện mới, với nội
dung mới, với những hình thức mới. Trong cuộc đấu tranh này, GCVS phải sử dụng
tổng hợp và kết hợp các hình thức đa dạng và phong phú áp dụng vào đúng tình hình
KT, CT của mỗi nước, mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể quy định. Hình thức mới của
ĐTGC còn được biểu hiện ở việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của sự nghiệp cách
mạng về các lĩnh như vực như kinh tế, chính trị, tư tưởng và văn hóa.
1.3.3. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
- Có tính tất yếu khách quan, do chính các đặc điểm KT - XH của thời kỳ quá độ quy định.
- Đấu tranh trong điều kiện mới. GC công nhân là giai cấp lãnh đạo. Khối liên
minh công nhân - nông dân - tri thức được củng cố vững chắc và trở thành nền tảng
chế độ XH mới. Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được giữ vững và tăng
cường gắn với sự nghiệp Đổi mới đất nước hơn 30 năm; thế lực thù địch vẫn hăm he muốn phá hoại nước ta.
- Mục tiêu cuối cùng: là xây dựng thành công CNXH.
Cụ thể: xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà biểu
hiện cụ thể hiện nay là đấu tranh vì thắng lợi của sự nghiệp CNH-HĐH: thoát khỏi
tình trạng nước kém phát triển, xóa bỏ bất công, tiêu cực, lạc hậu và các thế lực phản động
+. Đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng, có vị thế xứng đáng ở khu vực và trên trường quốc tế
+. Thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, chống bất công, đấu tranh chống
tham nhũng, ngăn chặn,khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái
+. Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá Việt Nam của
các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng, Nhà nước. 2. DÂN TỘC
2.1. Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc *Thị tộc:
-Thị tộc là hình thức tồn tại cơ bản của xã hội nguyên thủy , gồm khoảng vài
trăm người có cùng huyết thống với nhau. Đây vừa là thiết chế xã hội đầu tiên , vừa là
hình thức cộng đồng người sớm nhất. -Đặc điểm:
+. Các thành viên trong thị tộc đều tiến hành lao động chung.
+Các thành viên trong thị tộc có chung tổ tiên, chung tiếng nói, chung tín
ngưỡng, đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
+.Về tổ chức xã hội thị tộc bầu ra tù trưởng, tộc trưởng, lãnh tụ quân sự để
điều hành công việc chung của thị tộc
+ Trong mỗi thị tộc có những yếu tố văn hóa nguyên thủy mang sắc thái của
cộng đồng sản sinh ra chúng. Mỗi thị tộc có tên gọi riêng. * Bộ lạc
- Bộ lạc là một tập hợp dân cư được tạo thành từ nhiều thị tộc do có quan hệ
huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau, trong đó có một thị tộc gốc tạo
thành bộ lạc gọi là bào tộc.
- Đặc điểm: Cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về đất đai và công cụ sản xuất;
có tên gọi riêng ở mỗi bộ lạc; Lãnh thổ ổn định hơn so với thị tộc; đứng đầu là hội
đồng các tù trưởng của các thị tộc tham gia bộ lạc, có 1 thủ lĩnh tối cao *Bộ tộc:
- Bộ tộc là hình thức cộng đồng người hình thành khi xã hội phân chia thành
giai cấp, là cộng đồng các bộ lạc không cùng huyết thống sống trên một lãnh thổ nhất
định. - Đặc điểm: có tên gọi riêng; Lãnh thổ riêng mang tính ổn định;Đứng đầu một
bộ tộc thường là một tộc trưởng hay tộc chủ; dùng một ngôn ngữ thống nhất,…
2.2. Dân tộc – hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay
2.2.1. Khái niệm dân tộc
- Dân tộc được khái niệm theo 2 nghĩa.
+ Nghĩa thứ nhất (nghĩa rộng) dùng để chỉ một quốc gia (ví dụ: dân tộc Việt
Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan,...)
+ Nghĩa thứ hai (nghĩa hẹp) dùng để chỉ các dân tộc (đa số và thiểu số) trong
một quốc gia (Kinh, Nùng, Tày, Mường, Thái, Dao,...)
- Dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng dân cư có những đặc điểm
chung thống nhất chặt chẽ với nhau. Dân tộc được hình thành từ một bộ tộc hoặc từ
sự liên kết giữa các bộ tộc trên cùng một lãnh thổ, gắn với xã hội có giai cấp, có thể
chế chính trị và cả nhà nước, có tính thống nhất và ổn định với các nguyên tắc pháp lý. - Đặc trưng:
+. Dân tộc là một cộng đồng người ổn định thống nhất trên một lãnh thổ.
+. Dân tộc là một cộng đồng thống nhất về ngôn ngữ
+. Dân tộc là một cộng đồng thống nhất về kinh tế
+. Dân tộc là một cộng đồng bền vững về văn hóa, tâm lý, tính cách
+. Dân tộc là một cộng đồng người có một nhà nước và pháp luật thống nhất.
2.2.2.Quá trình hình thành các dân tộc ở châu Âu và đặc thù sự hình thành dân tộc ở châu Á
A, Quá trình hình thành các dân tộc ở châu Âu
- Ở châu Âu dân tộc hình thành theo hai phương thức chủ yếu gắn liền với sự
hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản.
+. Phương thức thứ nhất: dân tộc hình thành từ nhiều bộ tộc khác nhau trong
một quốc gia. Quá trình hình thành dân tộc ở đây vừa là một quá trình thống nhất lãnh
thổ, thị trường. Đồng thời, cũng là một quá trình đồng hóa các bộ tộc khác nhau thành
một dân tộc duy nhất, một quốc gia dân tộc độc lập như ở các nước Pháp, Đức, Ý…
+. Phương thức thứ hai: dân tộc được hình thành từ một bộ tộc - do điều kiện
chế độ phong kiến chưa bị thủ tiêu, chủ nghĩa tư bản phát triển còn yếu. Ở đây không
có quá trình đồng hóa các bộ tộc mà chỉ có quá trình thống nhất các lãnh thổ phong
kiến thành lập một quốc gia gồm nhiều dân tộc, trong đó mỗi dân tộc hình thành từ
một bộ tộc riêng, như trường hợp ở các nước Nga, Áo, Hung…
=> Đa số trường hợp được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc người hợp nhất lại.
B, Đặc thù sự hình thành dân tộc ở châu Á
- Ở châu Á, dân tộc được hình thành từ rất sớm, không phải chờ đến khi xuất
hiện chủ nghĩa tư bản thế nên không gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Dựa
theo các điều kiện tự nhiên, văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt do chống lại
thế lực bên ngoài hình thành nên cố kết dẫn đến sự cố kết dân tộc rất sớm.
C, Tính đặc thù của sự hình thành dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam được hình thành từ rất sớm trong lịch sử gắn liền với nhu
cầu dựng nước và giữ nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm cần có sự cố kết dân tộc,
đấu tranh chống lại thiên tai, lũ lụt, hạn hán… cần có sự kết hợp giữa nhiều người,
nhiều dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Lịch sử đã chứng minh rằng từ hàng nghìn
năm trước dân tộc Việt Nam đã có một ngôn ngữ, một lãnh thổ, một nền kinh tế thống
nhất, một nhà nước, luật pháp và một nền văn hóa thống nhất.
3.Mối quan hệ giai cấp – dân tộc – nhân loại
3.1. Quan hệ giai cấp- dân tộc
- Giai cấp quyết định dân tộc:
+. Quan hệ giai cấp quyết định khuynh hướng phát triển và tính chất của dân
tộc: Giai cấp thống trị trong xã hội cũng là giai cấp thống trị đối với dân tộc
+. Khi giai cấp thống trị lỗi thời, phản động, lợi ích giai cấp mâu thuẫn gay gắt
với lợi ích dân tộc, chúng sẵn sàng từ bỏ lợi ích dân tộc để bảo vệ lợi ích của chính
mình, chúng trở thành lực lượng kìm hãm sự phát triển của xã hội và của dân tộc. ->
cần lật đổ giai cấp thống trị, phản động để giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc
và đây cũng là yêu cầu tất yếu phải làm cách mạng .
+. Áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản của áp bức dân tộc. Áp bức dân tộc
sẽ tác động sâu sắc đến áp bức giai cấp, nuôi dưỡng áp bức giai cấp và làm áp bức
giai cấp trở nên sâu sắc hơn.
- Vấn đề dân tộc có ảnh hưởng quan trọng đến vấn đề giai cấp:
+. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, dân tộc có vai trò quan trọng đối với vấn đề
giai cấp. Sự hình thành dân tộc mở ra những điều kiện thuận lợi hơn cho cuộc đấu tranh giai cấp.
+. Đấu tranh giải phóng dân tộc là điều kiện, tiền đề cho đấu tranh giải phóng giai cấp.
+. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc có
vai trò hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động.
+. Trong thời đại ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất
do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đem lại; xu thế toàn cầu hoá, khu
vực hoá tăng nhanh làm cho quan hệ giao lưu, hiểu biết giữa các dân tộc xích lại gần
nhau hơn. Đó là một trong những điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng
giai cấp và giải phóng dân tộc.
3.2. Mối quan hệ giai cấp, dân tộc với nhân loại
Nhân loại là khái niệm dùng để chỉ toàn thể cộng đồng người trên trái đất. Giai
cấp, dân tộc với nhân loại có mối quan hệ biện chứng với nhau. Là những cộng đồng
và tập đoàn người tồn tại và phát triển không tách rời nhân loại, nên giai cấp, dân tộc
và nhân loại luôn có tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Quan hệ biện chứng giữa giai cấp,
dân tộc và nhân loại được thể hiện trên các nội dung cơ bản sau:
- Trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại không tách rời với lợi ích giai cấp,
lợi ích dân tộc và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp và dân tộc:
+. Khi giai cấp thống trị trong phương thức sản xuất còn phù hợp với quy luật
vận động của lịch sử,là đại diện cho lợi ích chân chính của dân tộc, có vai trò to lớn
thúc đẩy sự tiến bộ của văn minh nhân loại.
+. Khi giai cấp thống trị trở nên lỗi thời, phản động, thì lợi ích về căn bản mâu
thuẫn với lợi ích chung của dân tộc và nhân loại.
- Vấn đề nhân loại không bị chi phối một cách thụ động bởi vấn đề dân tộc và
giai cấp mà có vai trò tác động trở lại.
+. Sự tồn tại của nhân loại là tiền đề, điều kiện tất yếu thường xuyên của sự tồn
tại dân tộc và giai cấp.
+. Sự phát triển lực lượng sản xuất của nhân loại đã tạo ra những tiền đề quan
trọng cho các giai cấp, dân tộc cải tạo tự nhiên và xã hội, phục vụ cho cuộc sống của mình.
+. Sự phát triển của nhân loại tạo ra những điều kiện thuận lợi về vật chất và
tinh thần cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
+. Sự phát triển sản xuất vật chất và cuộc cách mạng khoa học-công nghệ hiện
đại đang làm xuất hiện những vấn đề mang tính toàn cầu, là vấn đề chung của nhân loại. *Câu hỏi ôn tập:
1. Trình bày vấn đề về giai cấp và đấu tranh giai cấp? Vấn đề giai cấp ở Việt Nam
hiện nay? Theo bạn, Hiện nay Vn có đấu tranh giai cấp hay không?
2. Quan hệ giai cấp-dân tộc? Vấn đề quan hệ giai cấp -dân tộc ở VN hiện nay?
3. Mối quan hệ giai cấp, dân tộc với nhân loại?
III.NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI 1. Nhà nước
1.1. Nguồn gốc của Nhà nước
- Nhà nước là một phạm trù lịch sử, chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn
phát triển nhất định của xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự ra đời của chế độ tư hữu. Đó
là cơ sở kinh tế khách quan dẫn đến sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng
và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được xuất hiện. Để các giai cấp không
tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội thì một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra
đời. Đó là nhà nước do giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế lập ra. Nhà nước đầu
tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ.
- Theo quan điểm của Lênin, nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước
là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được; và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước
chứng tỏ những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được.
1.2. Bản chất của Nhà nước
- Về bản chất “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này
dùng để trấn áp một giai cấp khác.”.Nhà nước, về bản chất là một tổ chức chính trị
của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự
phản kháng của giai cấp khác. Không có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc nhà
nước chung cho mọi giai cấp.
- Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra
nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động.
Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức các giai cấp khác
trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị.
-Nhà nước không thể là lực lượng điều hòa sự xung đột giai cấp, mà trái lại nó
lại làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Nhà nước là bộ phận quan trọng
nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động chính
trị, văn hóa, xã hội do nhà nước tiến hành, xét đến cùng đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
1.4. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước
Bản chất của nhà nước thể hiện ở đặc trưng cơ bản của nó. Bất kỳ nhà nước
nào cũng gồm có 3 đặc trưng cơ bản sau:
- Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định, có quyền lực với
mọi thành viên không phân biệt huyết thống.
- Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp bao gồm bộ máy quản lý
hành chính và các đội vũ trang đặc biệt ( quân đội, cảnh sát, nhà tù...), mang tính
cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội.
- Nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.
1.5. Chức năng cơ bản của nhà nước:
Bản chất của nhà nước còn thể hiện ở chức năng của nó. Dưới góc độ tính chất
của quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng thống trị chính trị của giai cấp và
chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực, nhà nước có chức
năng đối nội và đối ngoại.
1.5.1. Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội
- Chức năng thống trị chính trị của giai cấp là chức năng nhà nước làm công cụ
chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội.
- Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý
những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của
cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Trong hai chức năng đó thì
chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chi phối chức năng xã hội và chỉ được
thực hiện thông qua chức năng xã hội.
1.5.2. Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
- Chức năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, chính trị, xã hội
và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị, thực hiện
thông qua sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, nhà nước còn sử dụng bộ
máy thông tin tuyên truyền, văn hóa, giáo dục... để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí
của giai cấp thống trị, làm cho nó trở thành chính thống trong xã hội.
- Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia
và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nước khác vì lợi ích
của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia khi lợi ích của quốc gia không mâu
thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị.
1.6. Các kiểu và hình thức nhà nước
* Khái niệm kiểu và hình thức nhà nước
- Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai
cấp nào, tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào.
- Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương
thức thực hiện quyền lực nhà nước, bị quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước,
bởi tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu giai cấp - xã hội và đặc điểm
truyền thống chính trị của đất nước..
*Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử
Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử là ba kiểu
nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản. Tuỳ
theo tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi quốc gia mà mỗi kiểu nhà nước có thể
được tổ chức theo những hình thức nhất định.
- Nhà nước chiếm hữu nô lệ có hình thức quân chủ và cộng hòa.
- Nhà nước phong kiến có hình thức phân quyền và tập quyền.
- Nhà nước tư sản có hình thức cộng hòa và quân chủ lập hiến.
1.7. Nhà nước vô sản
1.7.1. Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới
- Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ
quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền
chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
- Sự cần thiết xác lập chuyên chính vô sản để tiến tới chủ nghĩa cộng sản là vì
trong thời kỳ quá độ, xã hội còn tồn tại các giai cấp bóc lột chống lại sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội khiến cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải trấn
áp chúng bằng bạo lực. Đồng thời, sự tồn tại các giai cấp và tầng lớp trung gian khác
mà do địa vị kinh tế - xã hội của mình, họ dễ dao động giữa giai cấp tư sản và giai cấp
vô sản, họ không thể tự mình tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chuyên chính vô sản
đóng vai trò là thiết chế cần thiết để đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với
nhân dân. Chuyên chính vô sản là phương thức, phương tiện, là hình thức để bảo vệ
sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân.
- Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền thì giai cấp vô sản phải nắm vững công
cụ chuyên chính, kiên quyết trấn áp những thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân
để bảo vệ thành quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
- Mặt tổ chức, xây dựng là chức năng cơ bản nhất của chuyên chính vô sản.
Chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực với bọn bóc lột mà mặt cơ bản của nó
là tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
- Chuyên chính vô sản, là một loại liên minh đặc biệt giữa giai cấp công nhân
với quần chúng lao động không vô sản. Nhà nước vô sản là nhà nước của dân, do dân
và vì dân nên chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ
đó. Đó là nền dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, lấy dân
chủ trong lĩnh vực kinh tế làm cơ sở.
- Chuyên chính vô sản còn phải làm nghĩa vụ quốc tế của mình, bằng việc giúp
đỡ từ mọi phương diện có thể được cho cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Nhà nước vô sản là tổ chức thông qua đó, Đảng của giai cấp công nhân thực
hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Việc đảm bảo vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nước là nguyên tắc sống còn của chuyên chính vô sản.
1.7.2. Nhà nước CHXHCN Việt Nam
- Nhà nước CHXHCN Việt Nam là cột trụ của hệ thống chính trị, là công cụ
thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Nhà nước CHXHCN được tổ chức theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức làm nền tảng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN.
- Có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tổ chức và hoạt động của nhà nước
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân.
- Có sự thống nhất hữu cơ chức năng giai cấp và chức năng xã hội trên lập
trường giai cấp công nhân.
=> Để nhà nước ta thực sự là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân,
trong giai đoạn trước mắt chúng ta phải thực hiện đồng bộ một loạt nhiệm vụ: “ Đổi
mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối với
toàn bộ hoạt động của nhà nước; cải cách nền hành chính nhà nước, bao gồm cải cách
thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách
tổ chức và hoạt động tư pháp. Đồng thời, chúng ta phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh
chống bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Mặt khác, cũng cần phải
kết hợp những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược để vừa
hoàn thiện cơ chế, chính sách, vừa xử lý nghiêm, kịp thời mọi vi phạm, tội phạm. 2. Cách mạng xã hội
2.1. Bản chất và vai trò của cách mạng xã hội
* Khái niệm cách mạng xã hội:
- Là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, là phương thức thay thế hình thái kinh tế-xã hội lỗi thời bằng
hình thái kinh tế-xã hội cao hơn.
- Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi
thời, thiết lập một chế độ chính trị tốt đẹp hơn.
* Nguyên nhân của cách mạng xã hội.
- Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ
nhất định thì quan hệ sản xuất cũ trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất, dẫn đến cuộc cách mạng xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng, đại diện cho
lực lượng sản xuất mới với giai cấp thống trị dùng mọi thủ đoạn, đặc biệt là sử dụng
công cụ nhà nước có trong tay để bảo vệ, duy trì quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời. Để
thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, giai cấp cách mạng
phải tiến hành đấu tranh chống lại giai cấp thống trị, giành lấy chính quyền nhà nước.
Do đó, cách mạng xã hội là đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp, là bước nhảy vọt tất
yếu trong sự phát triển của xã hội có giai cấp.
*Vai trò của cách mạng xã hội
- Cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ đại trong đời sống xã hội về
kinh tế - chính trị - văn hóa - tư tưởng. Chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế được
quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển; mới thay thế được hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã
hội mới cao hơn. Trong các thời kỳ cách mạng xã hội, năng lực sáng tạo của quần
chúng nhân dân được phát huy một cách cao độ.
- Đưa xã hội phát triển qua 4 hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau, trong đó
cách mạng vô sản là một kiểu cách mạng xã hội mới về chất. Nếu các cuộc cách
mạng trước đây chỉ thay thế hình thức của chế độ chiếm hữu tư nhân và chế độ bóc
lột, thì cách mạng vô sản nhằm xây dựng xã hội mới không có giai cấp để giải phóng triệt để con người.
* Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội
- Tính chất của cách mạng xã hội được xác định bởi nhiệm vụ giải quyết mâu
thuẫn trong kinh tế và xã hội. Nó phải giải quyết mâu thuẫn giai cấp nào, xóa bỏ chế
độ xã hội nào, xác lập chế độ xã hội nào.
- Lực lượng của cách mạng xã hội là những giai cấp và tầng lớp nhân dân có
lợi ích ít hoặc nhiều gắn bó với cách mạng và thúc đẩy cách mạng phát triển.
- Động lực của cách mạng xã hội là những giai cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ
và lâu dài đối với cách mạng.
- Vai trò lãnh đạo trong cách mạng xã hội thuộc về giai cấp đứng ở vị trí trung
tâm của thời đại, đại biểu cho phương thức sản xuất mới, là giai cấp tiến bộ nhất trong
số các giai cấp đang tồn tại.
2.2. Quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội
* Điều kiện khách quan (Tình thế cách mạng)
- Là sự chín muồi của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
của mâu thuẫn giai cấp trong xã hội dẫn tới những đảo lộn trong nền tảng kinh tế - xã
hội, tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc khiến cho việc thay thế thể chế
chính trị đó bằng thể chế chính trị khác tiến bộ hơn là một thực tế không thể đảo ngược.
- Lênin đã nêu lên 3 đặc trưng chủ yếu của tình thế cách mạng như sau:
Thứ nhất, giai cấp thống trị lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị, bộ máy nhà
nước của chúng suy yếu nghiêm trọng.
Thứ hai, Nỗi cùng khổ và quẫn bách của các giai cấp bị áp bức trở nên nặng nề hơn mức bình thường.
Thứ ba, tính tích cực của quần chúng được nâng cao rõ rệt *Nhân tố chủ quan
- Nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội biểu hiện ở trình độ cao của tính tổ
chức, ở mức độ quyết tâm cao nhất của giai cấp cách mạng sẵn sàng tiến hành những
hoạt động cách mạng mạnh mẽ nhất, kiên quyết nhất để lật đổ chính quyền đương
thời, xác lập chính quyền cách mạng do giai cấp đó làm chủ thể.
Nhân tố chủ quan gắn liền với mỗi kiểu cách mạng xã hội và mức độ phát triển
của nó trong mỗi kiểu cách mạng cũng rất khác nhau. Trong cách mạng vô sản, nhân
tố chủ quan bao gồm trình độ trưởng thành của phong trào công nhân, phong trào
quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự sẵn sàng về tư
tưởng, về tổ chức và hành động của Đảng cộng sản, ý chí quật khởi của quần chúng
sẵn sàng đứng lên lật đổ nhà nước tư sản.
2.3. Hình thức và phương pháp cách mạng.
- Cách mạng xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều
không thể thành công nếu không sử dụng bạo lực cách mạng.
- Bạo lực cách mạng là hành động cách mạng của quần chúng nhân dân dưới
sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng vượt qua khỏi giới hạn pháp luật của giai cấp
thống trị đương thời nhằm lật đổ nhà nước lỗi thời, xác lập nhà nước của giai cấp vô sản.
- Bạo lực cách mạng là tất yếu, bởi vì giai cấp thống trị lỗi thời không bao giờ
tự nguyện từ bỏ địa vị thống trị của mình. Trái lại, nó sẵn sàng sử dụng quyền lực của
nhà nước với bộ máy bạo lực để đàn áp phong trào cách mạng. Vì vậy, để lật đổ giai
cấp thống trị và giành chính quyền, giai cấp cách mạng không có con đường nào khác
là phải dùng đến bạo lực cách mạng.
- Trong lịch sử nhân loại, chưa có giai cấp cách mạng nào giành được chính
quyền nhà nước bằng con đường phi bạo lực.
- Triết học Mác - Lênin không phủ nhận khả năng đưa cách mạng xã hội tiến
lên bằng phương pháp hòa bình, song nó chỉ được bảo đảm khi có sức mạnh của
phong trào quần chúng - bạo lực cách mạng - làm hậu thuẫn.
=> Ngày nay, xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại không hề bác bỏ quan
điểm mácxít về cách mạng bạo lực, bởi vì xu thế đó được tạo ra từ chính sự lớn mạnh
của các phong trào cách mạng và hòa bình, bởi tương quan giữa cách mạng và phản cách mạng.
2.4. Cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại làm cho tính chất xã hội hóa
của lực lượng sản xuất đạt trình độ cao khiến cho quan hệ sản xuất TBCN phải biến
đổi, tạo ra trạng thái của nền sản xuất xã hội - như Mác gọi - “những hình thái quá độ
từ phương thức sản xuất TBCN sang phương thức tập thể”. Nhưng sự chuyển hóa đó
diễn ra trong khuôn khổ chế độ TBCN nên nó không thể khắc phục được mâu thuẫn
giữa LLSX mang tính chất xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư
liệu sản xuất; nó chỉ làm cho mâu thuẫn đó phát triển thêm “ dưới một hình thái mới”.
Những xung đột xã hội biểu hiện mâu thuẫn nói trên đã không thể khắc phục
được trong điều kiện CNTB phát triển cao; đồng thời khi LLSX ngày càng mang tính
quốc tế hóa thì mâu thuẫn giữa lao động và tư bản ngày càng mở rộng trên phạm vi thế giới.
Sự phát triển của CNTB làm cho các tiền đề vật chất - kỹ thuật, kinh tế xã hội
và các tiền đề khác của CNXH từng bước chín muồi, trong đó phải kể đến việc nâng
cao trình độ hiểu biết và năng lực sáng tạo của quần chúng lao động. Vì thế, cuộc đấu
tranh cho dân sinh, dân chủ với mức độ ngày càng cao vẫn đang diễn ra trong xã hội tư bản hiện đại.
Trong tình hình đó, CNTB buộc phải có sự điều chỉnh trên một loạt vấn đề
như: cổ phần hóa đối với một bộ phận công nhân; hình thành một đội ngũ chuyên gia
quản lý; thực hiện chính sách điều tiết thu nhập... Tuy nhiên điều đó không làm mất đi
mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội.
Như vậy, những biến đổi của thời đại hiện nay chứng tỏ tính tất yếu khách
quan của cách mạng XHCN. Chỉ có cuộc cách mạng đó mới giải quyết được một cách
căn bản mâu thuẫn trong xã hội tư bản, thay thế nó bằng một xã hội mới cao hơn - xã
hội CSCN. Tuy nhiên, cuộc cách mạng đó diễn ra như thế nào còn phụ thuộc vào điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan, vào các điều kiện lịch sử cụ thể mà sự phát
triển của lịch sử sẽ đem lại cho chúng ta những lời giải đáp đúng đắn nhất. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích nguồn gốc, bản chất của nhà nước.
2. Những đặc trưng và chức năng cơ bản của nhà nước vô sản khác với các nhà
nước trong lịch sử như thế nào?
3. Tại sao nói cách mạng xã hội là phương thức thay thế của các hình thái kinh tế-xã hội?
4. Phân tích tính tất yếu khách quan của cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay.