lOMoARcPSD| 60776878
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ MT SỐ GIẢI PHÁP ĐY DỰNG
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam
Thực trạng người lao động hiện nay và những vấn đề nảy sinh trong đội ngũ công
nhân viên chức ớc ta đòi hỏi những chính sách chiến lược ràng, cụ thể, minh
bạch từ Đảng và Nhà nước. Đại hội toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh. Đối với GCCN,
cần phát triển về số ợng, chất lượng tchức, nâng cao hiểu biết bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn chất lượng nghề nghiệp, xứng đáng lực lượng đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. GCCN nước ta đã
sự phát triển ch cực mạnh mẽ, về sợng tăng nhanh, cấu ngày càng đa
dạng, chất lượng đội ngũ ngày càng được nâng cao và củng cố, vững mạnh cả về số
ợng chất lượng, đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp quốc gia. sự phát
triển đất nưc. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới hội nhập quốc tế, sự phát triển
của GCCN đã đặt ra hàng loạt vấn đề cấp bách đòi hỏi phải nghiên cứu, đề xuất các
giải pháp, phương pháp thực ễn nhằm nâng cao phát triển chất lượng nguồn
nhân lực hiện có của Việt Nam.
3.1.1 Số ợng và cơ cấu
GCCN vẫn lực ợng sản xuất chủ đạo trong hội hiện đại chủ thcủa
quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại ngày càng hội hóa. Sau nhiều năm đi
mới, GCCN nước ta đã từng bước được nâng cao về số ợng và chất lượng, với
cấu đa dạng, hiện đại hóa và theo xu hướng thông minh. Khi nền kinh tế mở rộng,
số ợng lao động Việt Nam có xu hướng tăng nhanh. Lực lượng lao động nước tôi
đang trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa khoảng 5 triệu người.
Tính đến cuối năm 2005, ở ớc ta có 11,3 triệu lao động trong các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế hạng nhất, chiếm 13,5% dân số
26,46% lực lượng lao động. sự di chuyển hội. Trong đó, 1,84 triệu lao động
trong doanh nghiệp nhà nước, 2,95 triệu lao động trong doanh nghiệp ngoài nhà
ớc, 1,21 triệu lao động trong doanh nghiệp vốn đầu trực ếp nước ngoài
5,29 triệu lao động trong các tổ chức kinh tế cá thể. Số ợng lao động trong các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài ngày
càng tăng nhanh, trong khi số ợng lao động trong các doanh nghiệp nhà nước
không ngừng giảm. Theo BKế hoạch Đầu tư, trước nh hình năng suất lao động
lOMoARcPSD| 60776878
không ngừng tăng trưởng như hiện nay, chúng ta cần những giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động
trong quá trình cạnh tranh hội nhập.
3.1.2 Chất lượng và năng suất của giai cấp công nhân
Ngày nay, nguồn nhân lực trong lĩnh vực sản xuất đang được nâng cao chất
ợng thông qua quá trình đào tạo chuẩn mực liên tục. Điều này giúp họ ếp cận
thích ứng với những ến bộ công nghệ nhanh chóng. Công nhân hiện đại, với
kiến thức sâu rộng kỹ năng chuyên môn cao, đang trở thành một yếu tố then
chốt trong nền kinh tế tri thức.Trong số công nhân, phần lớn là người trẻ, với 36,4%
trong độ tuổi từ 18 đến 30. Đặc biệt, trong các doanh nghiệp vốn đầu nước
ngoài, tỷ lệ công nhân dưới 25 tuổi chiếm 43,4%. Họ năng động và thích ứng nhanh
chóng với công nghệ hiện đại nhờ được ếp xúc với kinh tế thtrường.Về mặt học
vấn chuyên môn, 70,2% công nhân trình đtrung học phổ thông, 26,8%
trình độ trung học sở 3,1% có trình độ ểu học. Trong số đó, 17,9% trình
độ trung cấp, 6,6% trình độ cao đẳng, 17,4% trình đđại học 48% được
đào tạo tại chính doanh nghiệp mà họ đang làm việc.Tuy nhiên, so với yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa so với trình đcông nhân các nước
trong khu vực và thế giới, trình độ công nhân ở ớc ta còn thấp. Bên cạnh đó, lực
ợng công nhân trình đhọc vấn cao không được phân bố đồng đều, thường
tập trung ở một số thành phố lớn và một số ngành kinh tế mũi nhọn."
3.1.3 Ý thức chính trị, đạo đức, kĩ thuật và tác phong lao động
ới sự tác động của quá trình hội nhập quốc tế, công nhân Việt Nam ngày càng
chủ động năng động hơn, không ngừng nỗ lực để nâng cao năng lực và hiệu quả
công việc. Tuy nhiên, một scông nhân đã mất đi giá trị đạo đức truyền thống
ởng cách mạng.Theo một cuộc khảo sát về lối sống của công nhân, 27,9% s
người lối sống buông thả, thực dụng; 22% số người xu hướng ích kỷ, chnghĩa
cá nhân; 13,6% số người mất đi lý tưởng, giá trị sống; 18,7% số người có biểu hiện
suy thoái đạo đức, lối sống; 12,9% số người có thái độ bi quan, chán đời; 20,3% số
người cảm trước bất công; 25,5% sngười khả năng ứng xử, giao ếp kém;
8,1% số người trụy lạc; 29,4% số người đua đòi, lãng phí.Ngoài ra, nhiều công nhân
vi phạm kỷ luật lao động như: không sdụng thiết bị bảo hộ lao động (45,2%); đi
muộn, về sớm (24,8%); lấy đồ của công ty (11,8%); nghỉ làm không xin phép (25,6%);
lOMoARcPSD| 60776878
không hoàn thành định mức công việc (25,6%); không chấp nh kỷ luật lao động
(19,3%).Điều y đã tạo ra những ảnh hưởng êu cực đến doanh nghiệp hình
ảnh người công nhân Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Nhiều công nhân
chxem công việc tại nhà y, nghiệp như một cách kiếm sống, chưa coi đó
một nghề nghiệp hay sự nghiệp, và chưa nhận thức được vị trí và vai trò của mình
trong giai cấp. Theo khảo sát, chỉ 23,5% tự hào công nhân; 54,4% bằng ng
với vị trí hiện tại; 4,5% cảm thấy thân phận làm thbị coi rẻ; 9% không hài lòng
với thân phận của mình.
3.1.4 Tình hình chung về cuộc sống của công nhân lao động
Trong những năm gần đây, Đảng Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách và
giải pháp nhằm phát triển sản xuất và tạo việc làm cho người lao động. Tuy nhiên,
do kích thước nền kinh tế còn nhỏ và khả năng cạnh tranh còn yếu so với khu vực
thế giới, tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao. Theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
vào năm 2009, chỉ có 83% số công nhân có việc làm ổn định, trong khi 12% số công
nhân việc làm không ổn định 2,7% scông nhân thường xuyên thiếu việc
làm.Vthu nhập, mức lương hiện tại của người lao động chưa đáp ứng được nhu
cầu sinh hoạt tối thiểu. Nhà nước đã thực hiện các bước đtăng lương tối thiểu,
nhưng mức tăng lương không theo kịp tốc độ tăng giá trên thị trường.Điều kiện làm
việc của công nhân cũng còn nhiều hạn chế. Nhiều công nhân phải làm việc trong
môi trường ô nhiễm, với nhiệt đcao, bụi, ếng ồn và độ rung vượt quá mức cho
phép, y ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và gây ra các bệnh nghề nghiệp.Những vn
đề này đều cần được giải quyết đcải thiện đời sống điều kiện làm việc của
người lao động, đồng thời nâng cao hình ảnh người công nhân Việt Nam trong quá
trình hội nhập quốc tế.
3.1.5 Sự nhận thức về chính trị
Không sự khác biệt lớn giữa công nhân lao động trong doanh nghiệp nhà
ớc doanh nghiệp nhân. Điều này cho thấy rằng, làm vic đâu, người
lao động đều mong muốn có một công việc ổn định, thu nhập xứng đáng với công
sức mình bỏ ra.Họ cũng mong muốn có sức khỏe tốt, sống trong một đất nước n
định và phát triển, nơi an ninh chính trị và trật tự xã hội được đảm bảo. Hmong
muốn thấy sự dân chủ và công bằng xã hội được thực hiện, và doanh nghiệp hoạt
động thuận lợi để tạo ra việc làm.Ngoài ra, họ cũng mong muốn được học hỏi và
lOMoARcPSD| 60776878
nâng cao trình đchuyên môn của mình, được bảo vệ các quyền lợi ích hợp
pháp. Đây những mong muốn chính đáng hợp pháp của người lao động,
chúng ta cần phải tạo ra môi trường làm việc tốt nhất để đáp ứng những mong
muốn này.
3.1.6 Sự hiện đại và xu thế hóa GCCN
Lao động công nghiệp ngày nay đang trải qua một quá trình hội hóa sâu
rộng với nhiều biểu hiện mới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sản xuất công nghiệp
đã mở rộng thành chuỗi giá trị toàn cầu”, nơi mà quá trình sản xuất một sản phẩm
liên kết nhiều công đoạn từ nhiều vùng, miền, quốc gia, khu vực khác nhau.Khác
với truyền thống, trong nền sản xuất hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và công nghệ cao, đã xuất hiện những hình thức liên kết mới và những mô
hình lao động mới như “xuất khẩu lao động tại chỗ”, “làm việc tại nhà”, “nhóm
chuyên gia quốc tế”, quốc tế hóa các êu chuẩn sản xuất công nghiệp” (như ISO
9001, 9002).Tính chất xã hội hóa của lao động ngày càng mở rộng và nâng cao. Lực
ợng sản xuất hiện đại đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia-dân tộc mang nh chất
quc tế, trở thành sản xuất của thế giới toàn cầu.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60776878
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam
Thực trạng người lao động hiện nay và những vấn đề nảy sinh trong đội ngũ công
nhân viên chức ở nước ta đòi hỏi những chính sách chiến lược rõ ràng, cụ thể, minh
bạch từ Đảng và Nhà nước. Đại hội toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh. Đối với GCCN,
cần phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức, nâng cao hiểu biết và bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn và chất lượng nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. GCCN nước ta đã có
sự phát triển tích cực và mạnh mẽ, về số lượng tăng nhanh, cơ cấu ngày càng đa
dạng, chất lượng đội ngũ ngày càng được nâng cao và củng cố, vững mạnh cả về số
lượng và chất lượng, đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp quốc gia. sự phát
triển đất nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế, sự phát triển
của GCCN đã đặt ra hàng loạt vấn đề cấp bách đòi hỏi phải nghiên cứu, đề xuất các
giải pháp, phương pháp thực tiễn nhằm nâng cao và phát triển chất lượng nguồn
nhân lực hiện có của Việt Nam.
3.1.1 Số lượng và cơ cấu
GCCN vẫn là lực lượng sản xuất chủ đạo trong xã hội hiện đại và là chủ thể của
quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại ngày càng xã hội hóa. Sau nhiều năm đổi
mới, GCCN nước ta đã từng bước được nâng cao về số lượng và chất lượng, với cơ
cấu đa dạng, hiện đại hóa và theo xu hướng thông minh. Khi nền kinh tế mở rộng,
số lượng lao động Việt Nam có xu hướng tăng nhanh. Lực lượng lao động nước tôi
đang trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa khoảng 5 triệu người.
Tính đến cuối năm 2005, ở nước ta có 11,3 triệu lao động trong các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế hạng nhất, chiếm 13,5% dân số và
26,46% lực lượng lao động. sự di chuyển xã hội. Trong đó, có 1,84 triệu lao động
trong doanh nghiệp nhà nước, 2,95 triệu lao động trong doanh nghiệp ngoài nhà
nước, 1,21 triệu lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
và 5,29 triệu lao động trong các tổ chức kinh tế cá thể. Số lượng lao động trong các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày
càng tăng nhanh, trong khi số lượng lao động trong các doanh nghiệp nhà nước
không ngừng giảm. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trước tình hình năng suất lao động lOMoAR cPSD| 60776878
không ngừng tăng trưởng như hiện nay, chúng ta cần có những giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động
trong quá trình cạnh tranh hội nhập.
3.1.2 Chất lượng và năng suất của giai cấp công nhân
Ngày nay, nguồn nhân lực trong lĩnh vực sản xuất đang được nâng cao chất
lượng thông qua quá trình đào tạo chuẩn mực và liên tục. Điều này giúp họ tiếp cận
và thích ứng với những tiến bộ công nghệ nhanh chóng. Công nhân hiện đại, với
kiến thức sâu rộng và kỹ năng chuyên môn cao, đang trở thành một yếu tố then
chốt trong nền kinh tế tri thức.Trong số công nhân, phần lớn là người trẻ, với 36,4%
trong độ tuổi từ 18 đến 30. Đặc biệt, trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, tỷ lệ công nhân dưới 25 tuổi chiếm 43,4%. Họ năng động và thích ứng nhanh
chóng với công nghệ hiện đại nhờ được tiếp xúc với kinh tế thị trường.Về mặt học
vấn và chuyên môn, 70,2% công nhân có trình độ trung học phổ thông, 26,8% có
trình độ trung học cơ sở và 3,1% có trình độ tiểu học. Trong số đó, 17,9% có trình
độ trung cấp, 6,6% có trình độ cao đẳng, 17,4% có trình độ đại học và 48% được
đào tạo tại chính doanh nghiệp mà họ đang làm việc.Tuy nhiên, so với yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và so với trình độ công nhân ở các nước
trong khu vực và thế giới, trình độ công nhân ở nước ta còn thấp. Bên cạnh đó, lực
lượng công nhân có trình độ học vấn cao không được phân bố đồng đều, thường
tập trung ở một số thành phố lớn và một số ngành kinh tế mũi nhọn."
3.1.3 Ý thức chính trị, đạo đức, kĩ thuật và tác phong lao động
Dưới sự tác động của quá trình hội nhập quốc tế, công nhân Việt Nam ngày càng
chủ động và năng động hơn, không ngừng nỗ lực để nâng cao năng lực và hiệu quả
công việc. Tuy nhiên, một số công nhân đã mất đi giá trị đạo đức truyền thống và lý
tưởng cách mạng.Theo một cuộc khảo sát về lối sống của công nhân, có 27,9% số
người có lối sống buông thả, thực dụng; 22% số người có xu hướng ích kỷ, chủ nghĩa
cá nhân; 13,6% số người mất đi lý tưởng, giá trị sống; 18,7% số người có biểu hiện
suy thoái đạo đức, lối sống; 12,9% số người có thái độ bi quan, chán đời; 20,3% số
người vô cảm trước bất công; 25,5% số người có khả năng ứng xử, giao tiếp kém;
8,1% số người trụy lạc; 29,4% số người đua đòi, lãng phí.Ngoài ra, nhiều công nhân
vi phạm kỷ luật lao động như: không sử dụng thiết bị bảo hộ lao động (45,2%); đi
muộn, về sớm (24,8%); lấy đồ của công ty (11,8%); nghỉ làm không xin phép (25,6%); lOMoAR cPSD| 60776878
không hoàn thành định mức công việc (25,6%); không chấp hành kỷ luật lao động
(19,3%).Điều này đã tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến doanh nghiệp và hình
ảnh người công nhân Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Nhiều công nhân
chỉ xem công việc tại nhà máy, xí nghiệp như một cách kiếm sống, chưa coi đó là
một nghề nghiệp hay sự nghiệp, và chưa nhận thức được vị trí và vai trò của mình
trong giai cấp. Theo khảo sát, chỉ có 23,5% tự hào là công nhân; 54,4% bằng lòng
với vị trí hiện tại; 4,5% cảm thấy thân phận làm thuê bị coi rẻ; 9% không hài lòng
với thân phận của mình.
3.1.4 Tình hình chung về cuộc sống của công nhân lao động
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách và
giải pháp nhằm phát triển sản xuất và tạo việc làm cho người lao động. Tuy nhiên,
do kích thước nền kinh tế còn nhỏ và khả năng cạnh tranh còn yếu so với khu vực
và thế giới, tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao. Theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
vào năm 2009, chỉ có 83% số công nhân có việc làm ổn định, trong khi 12% số công
nhân có việc làm không ổn định và 2,7% số công nhân thường xuyên thiếu việc
làm.Về thu nhập, mức lương hiện tại của người lao động chưa đáp ứng được nhu
cầu sinh hoạt tối thiểu. Nhà nước đã thực hiện các bước để tăng lương tối thiểu,
nhưng mức tăng lương không theo kịp tốc độ tăng giá trên thị trường.Điều kiện làm
việc của công nhân cũng còn nhiều hạn chế. Nhiều công nhân phải làm việc trong
môi trường ô nhiễm, với nhiệt độ cao, bụi, tiếng ồn và độ rung vượt quá mức cho
phép, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và gây ra các bệnh nghề nghiệp.Những vấn
đề này đều cần được giải quyết để cải thiện đời sống và điều kiện làm việc của
người lao động, đồng thời nâng cao hình ảnh người công nhân Việt Nam trong quá
trình hội nhập quốc tế.
3.1.5 Sự nhận thức về chính trị
Không có sự khác biệt lớn giữa công nhân lao động trong doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp tư nhân. Điều này cho thấy rằng, dù làm việc ở đâu, người
lao động đều mong muốn có một công việc ổn định, thu nhập xứng đáng với công
sức mình bỏ ra.Họ cũng mong muốn có sức khỏe tốt, sống trong một đất nước ổn
định và phát triển, nơi an ninh chính trị và trật tự xã hội được đảm bảo. Họ mong
muốn thấy sự dân chủ và công bằng xã hội được thực hiện, và doanh nghiệp hoạt
động thuận lợi để tạo ra việc làm.Ngoài ra, họ cũng mong muốn được học hỏi và lOMoAR cPSD| 60776878
nâng cao trình độ chuyên môn của mình, được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp. Đây là những mong muốn chính đáng và hợp pháp của người lao động, và
chúng ta cần phải tạo ra môi trường làm việc tốt nhất để đáp ứng những mong muốn này.
3.1.6 Sự hiện đại và xu thế hóa GCCN
Lao động công nghiệp ngày nay đang trải qua một quá trình xã hội hóa sâu
rộng với nhiều biểu hiện mới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sản xuất công nghiệp
đã mở rộng thành “chuỗi giá trị toàn cầu”, nơi mà quá trình sản xuất một sản phẩm
liên kết nhiều công đoạn từ nhiều vùng, miền, quốc gia, khu vực khác nhau.Khác
với truyền thống, trong nền sản xuất hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và công nghệ cao, đã xuất hiện những hình thức liên kết mới và những mô
hình lao động mới như “xuất khẩu lao động tại chỗ”, “làm việc tại nhà”, “nhóm
chuyên gia quốc tế”, và “quốc tế hóa các tiêu chuẩn sản xuất công nghiệp” (như ISO
9001, 9002).Tính chất xã hội hóa của lao động ngày càng mở rộng và nâng cao. Lực
lượng sản xuất hiện đại đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia-dân tộc và mang tính chất
quốc tế, trở thành sản xuất của thế giới toàn cầu.