








Preview text:
lOMoAR cPSD| 60776878
5.2.GIÁ TRỊ MANG LẠI VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN GIÁ TRỊ MANG LẠI
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam đã mang lại nhiều giá trị quan
trọng, tạo ra những nền tảng quan trọng cho sự phát triển toàn diện của Việt Nam trong tương lai.
1.Phát triển kinh tế:
-Thời kỳ này đã chứng kiến sự chuyển mình của nền kinh tế từ tập trung sang đa dạng
hóa hình thức sở hữu và quản lý, thúc đẩy sản xuất và đầu tư, nâng cao chất lượng sống cho người dân.
-Giai đoạn 1986 - 1990: là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, mức tăng trường GDP tăng 4.4%/năm.
Trong giai đoạn này chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển đổi cơ bản cơ chế
quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống
kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
- Giai đoạn 1991 - 1995: các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức, GDP bình quân tăng 8,2%/năm.
Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. Đất nước
dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.
- Giai đoạn 1996 - 2000: GDP bình quân đạt 7%, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Giai đoạn 2001 - 2005 GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%;
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực,
Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam
đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà
phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
- Giai đoạn 2006 - 2010: GDP bình quân 5 năm đạt 7%.
Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng
lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập thấp đã trở
thành nước có thu nhập trung bình (thấp).
Trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 7,34%/năm,
thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới nói chung;
quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000 (thời
kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm). https://tapchicongsan.org.vn/en/chinh-tri- lOMoAR cPSD| 60776878
xay-dung-dang/-/2018/21694/nhung-thanhtuu-co-ban-ve-phat-trien-kinh-te---xa-hoi-
cua-viet-nam-tu-khi-doi-moi-den-nay.aspx
ThS. Đỗ Thị Thảo và ThS. Nguyễn Thị Phong Lan Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh (2013).
-Đến năm 2022, quy mô GDP Việt Nam đạt khoảng 406,45 tỷ USD, tăng khoảng 50
lần. Đặc biệt, giai đoạn 1986 – 2022, Việt Nam lọt top 5 nước có quy mô kinh tế tăng nhiều nhất thế giới.
-Theo Tổng cục Thống kê, năm 2022, Việt Nam đã vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển
kinh tế - xã hội, vừa xây dựng nền kinh tế tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả:
+GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành đạt 95,6 triệu đồng/người,
tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021. +Tổng sản phẩm trong lOMoAR cPSD| 60776878
nước (GDP) của Việt Nam tăng 8,02% so với năm trước, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2022.
+Về cơ cấu nền kinh tế năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ
trọng 11,88%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,26%; khu vực dịch vụ
chiếm 41,33%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,53%.
=>Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá, trong
đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo
đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng
và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng
cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở
rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới,
công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định.
https://kinhtetrunguong.vn/kinh-te/kinh-tet-vi-mo/sau-36-nam-doi-moi-gdp-viet-
namtang-gap-50-lan-lot-top-5-nuoc-co-quy-mo-kinh-te-tang-nhieu-nhat-the-gioi..html
Nhịp sống kinh tế, Trang thông tin điện tử tổng hợp Ban kinh tế trung ương (2023)
-Môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, thu hút được ngày càng nhiều vốn đầu tư:
+Vốn đầu tư thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài tăng 3,5 % so với năm trước.
+Tổng vốn đầu tư đăng ký tăng mạnh và đạt mức tăng cao nhất kể từ đầu năm, tăng
32,1% so với năm trước và tăng 17,3 điểm phần trăm so với 11 tháng. Vốn đầu tư
mới tăng mạnh cả về vốn đầu tư (tăng 62,2%) cũng như số dự án đầu tư mới (tăng 56,6%).
+Năm 2023 dòng vốn FDI thực hiện tại VN đạt 23,2 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm
trước nhưng về quy mô thì là năm có đạt quy mô vốn FDI thực hiện cao nhất từ trước đến nay.
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/tinh-hinh-thu-hut-
dautu-nuoc-ngoai-nam-2023/ Tổng cục thống kê (2024).
2.Cải cách xã hội:
-Tăng cường quyền lợi cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, cải thiện giáo dục và
y tế, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người. -
Chỉ số phát triển con người của Việt Nam tiếp tục tăng, từ 115 lên 107: lOMoAR cPSD| 60776878
+Từng nằm trong nhóm các nước nghèo nhất thế giới, nhưng Việt Nam đã vươn mình
trở thành một trong các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất. Trong giai đoạn từ 1989
tới 2023, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng 40 lần. Trong vòng 2 thập
kỉ kể từ năm 1993, hơn 40 triệu người đã thoát cảnh đói nghèo. Và trong vòng 15
năm kể từ năm 2005, tỉ lệ nghèo đa chiều đã giảm một nửa.
+Năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam chiếm hơn 58% thì đến năm 2021 giảm còn
2,23%. Thu nhập bình quân đầu người năm 1993 đạt 185 USD thì đến cuối năm 2023
tăng lên thành 4.284 USD. Nguồn lực Nhà nước dành cho xóa đói giảm nghèo tăng
từ 200 tỷ đồng năm 1993 lên 12.000 tỷ đồng năm 2020.
https://vov.vn/chinh-tri/giam-ngheo-o-viet-nam-duoc-vi-nhu-mot-cuoc-cach-
mangpost1094370.vov Báo VOV.VN 3.Văn hóa- xã hội
Các thành tựu và quy mô của nền giáo dục Việt Nam:
-Thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi (2010 - 2020), số trường mầm
non tăng hơn 2.600 trường. Tỷ lệ trẻ 5 tuổi hoàn thành chương trình giáo dục mầm non đạt 99,9%.
-Năm học 2020 - 2021, cả nước có hơn 5 triệu trẻ mầm non, hơn 8,8 triệu học sinh tiểu
học, hơn 5,9 triệu học sinh THCS, hơn 2,7 triệu học sinh THPT.
-Chất lượng giáo dục còn được các tổ chức quốc tế đánh giá cao
+Việt Nam hiện được xếp vào tốp 10 hệ thống giáo dục đổi mới hàng đầu của thế
giới, theo báo cáo “Tăng trưởng thông minh hơn: Học tập và Phát triển công bằng ở
Đông Á – Thái Bình Dương” năm 2018 của Ngân hàng Thế giới.
+Chương trình đánh giá học sinh quốc tế, lứa tuổi 15 (PISA), học sinh nước ta đều
đạt kết quả ấn tượng, vượt qua mức trung bình của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD).
+Các đội tuyển Olympic quốc tế đều đạt thứ hạng cao. Chẳng hạn năm 2019, với
15 huy chương vàng, 14 huy chương bạc, 7 huy chương đồng, Đoàn Học sinh Việt
Nam nằm ở tốp đầu tại kỳ thi Olympic Toán học và khoa học quốc tế; với thành tích
này, Việt Nam tiến 13 bậc so với kỳ thi lần thứ 59 năm 2018.
+Ở bậc đại học, năm 2018, hai đại học của Việt Nam, là Đại học Quốc gia Hà Nội
và Đại học Quốc gia TPHCM, lọt vào danh sách 1.000 trường hàng đầu thế giới của
Tổ chức Quacquarelli Symonds (Anh).
+Việt Nam cũng đứng thứ 49 thế giới về số lượng báo khoa học công bố trên các ấn
phẩm quốc tế có uy tín. Cả nước hiện có 172 trường đại học công lập, 65 trường
ngoài công lập, với gần 1,7 triệu sinh viên. lOMoAR cPSD| 60776878
Hệ thống cơ sở y tế :
-Ngành y tế Việt Nam đã có những khởi sắc về trình độ, chất lượng chăm sóc người
bệnh. Trong đó có sự thay đổi vượt bậc của y tế cơ sở (YTCS), áp dụng thành công
nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tế, tích cực ứng dụng thành tựu cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 vào điều trị, bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe người dân.
-Công nghệ thông minh hiện diện ở khắp các lĩnh vực của ngành y: Ứng dụng bệnh án
điện tử; bệnh viện không giấy tờ; bệnh viện không phim; tư vấn khám, chữa bệnh từ xa;
thu viện phí không dùng tiền mặt...
https://moh.gov.vn/chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia/-/asset_publisher/
7ng11fEWgASC/content/y-te-viet-nam-xay-dung-nen-tang-vung-chac-tu-co-so
Bộ Y Tế, Cổng thông tin và điện tử (2020) Công
tác an sinh xã hội:
-Số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn 9,5% (năm 2011); chỉ số phát triển
con người (HDI) tăng từ mức 0,683 (năm 2000) lên mức 0,728 (năm 2011), xếp thứ
128/187 nước, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới; năm 2011 nước ta đã hoàn thành
6/8 nhóm Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) do Liên hợp quốc đề ra cho các
nước đang phát triển đến năm 2015.
-Hệ thống bảo hiểm xã hội: Bảo hiểm xã hội được triển khai đồng bộ với 3 loại hình.
Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ 4,8 triệu (năm 2001) lên 9,7 triệu
(năm 2011).Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, một
số đối tượng chính sách, người nghèo và hỗ trợ bảo hiểm y tế cho các hộ cận nghèo, v.v..
-Hệ thống chính sách ưu đãi đối với người có công :mức trợ cấp ưu đãi năm 2010 tăng
2,2 lần so với năm 2006. Thực hiện chính sách ưu đãi thường xuyên cho hơn 1,4 triệu
người có công. Đến nay, hơn 90% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao
hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn.
-Các chính sách trợ giúp xã hội (thường xuyên và đột xuất) :kinh phí trợ giúp thường
xuyên từ ngân sách nhà nước và số người được thụ hưởng tăng nhanh, từ 113 tỉ đồng
cho hơn 180 nghìn người (năm 2001) tăng lên 4.500 tỉ đồng cho hơn 1,6 triệu người
(năm 2010). Hằng năm Nhà nước còn trợ cấp đột xuất hàng nghìn tỉ đồng và hàng chục
nghìn tấn lương thực, thuốc men, chủ yếu để trợ giúp khắc phục thiên tai.
-Các phong trào “Tương thân, tương ái”, “Quỹ vì người nghèo“, “Đền ơn đáp nghĩa”,
“Uống nước nhớ nguồn” được tổ chức thường xuyên và thu hút sự hưởng ứng của nhiều lOMoAR cPSD| 60776878
lực lượng xã hội, đóng góp đáng kể vào việc nâng cao an sinh xã hội cho mọi người,
nhất là những người nghèo, vùng nghèo.
https://www.molisa.gov.vn/baiviet/20941?tintucID=20941
PGS, TS Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, Bộ Lao động thương binh xã hội
Công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hội:
- Triển khai các phương án, kế hoạch đấu tranh, trấn áp tội phạm về ma túy trên các
tuyến, địa bàn trọng điểm; đẩy mạnh các biện pháp đấu tranh ngăn chặn ma túy từ xa.
-Thời gian qua, tình hình an ninh trật tự ở nước ta cơ bản đã được đảm bảo tốt. Các cấp
chính quyền, lực lượng chức năng đã phối hợp xử lý đồng bộ các vụ việc, bảo đảm giữ
gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và đời sống bình yên của nhân dân. Việt Nam
được thế giới đánh giá cao về tiềm năng phát triển kinh tế-xã hội một phần quan trọng
là bởi tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.Là tiền đề để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, du lịch và các lĩnh vực khác. Những số liệu ấn tượng về thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài, tăng trưởng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam thời gian qua,…
là những minh chứng rõ nét.
-Các cơ quan chức năng đã chủ động rà soát, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong
phòng, cháy, chữa cháy tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đẩy mạnh
các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn cháy lớn, kiên quyết đình chỉ công trình, dự án vi
phạm pháp luật về phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên, tình hình cháy, nổ trên toàn quốc
vẫn diễn biến phức tạp, số vụ cháy tăng 10,87%, số vụ nổ giảm 30%, trong đó có một
số vụ cháy gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về người và tài sản; nguy cơ mất an toàn
về cháy, nổ còn rất lớn.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/
2018/45620/bao-dam-trat-tu-an-toan-xa-hoi%2C-tao-moi-truong-cho-su-phat-trienon- dinh%2C-ben-vung.aspx
Kim Anh, Bài đăng trên Tạp chí cộng sản
4.Hội nhập quốc tế:
Thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng hợp tác và giao lưu văn hóa với
các quốc gia khác, giúp Việt Nam khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
-Ký kết và thực hiện các cam kết kinh tế quốc tế: một số hiệp định thương mại song
phương của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới được ký kết, như: Hiệp định Đối
tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA, năm 2009), Hiệp định thương mại tự do Việt
Nam - Chile (VCFTA, năm 2011), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc lOMoAR cPSD| 60776878
(VKFTA, năm 2015), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU, năm 2016).
-Hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015, CPTPP (năm
2016), EVFTA (năm 2020), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP, năm
2020), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam, Anh và Bắc Ireland (UKVFTA, năm 2020).
-Đến đầu năm 2022, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán 17 FTA, việc ký kết các
FTA chứng tỏ vai trò của Việt Nam trong việc thúc đẩy thương mại tự do và hội nhập
kinh tế, thương mại ở cả châu Á, châu Mỹ và châu Đại Dương.
-Đến năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện; có
quan hệ ngoại giao với 189/193 nước, có quan hệ kinh tế với 160 nước và 70 vùng lãnh
thổ.Đến năm 2022, tổng số quan hệ kinh tế - thương mại của Việt Nam đã nâng lên
thành 230 nước và vùng lãnh thổ.
-Trở thành một trong 20 nền thương mại lớn nhất thế giới: WTO ghi nhận việc Việt
Nam trở thành một nền kinh tế có độ mở cao, tới 200% GDP và cải thiện cán cân thương
mại hàng hóa, chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu trong giai đoạn 2016 - 2020.
-Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) cải thiện mạnh: 2019, Việt Nam được coi là
quốc gia có nền kinh tế ổn định, tăng trưởng nhanh, đứng tốp đầu khu vực và thế giới,
được Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đánh giá nằm trong số 20 nền kinh tế có đóng góp lớn
nhất vào tăng trưởng toàn cầu; Việt Nam lọt vào tốp 10/163 nước “đáng sống nhất thế
giới” trong bảng xếp hạng của HSBC Expat; đứng thứ 83/128 nước trong xếp hạng các
nước an toàn nhất; xếp thứ 94/156 nước trong Bảng xếp hạng quốc gia hạnh phúc.
-Năm 2020, quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam đứng thứ 44 thế giới,
đứng thứ 4 ở khu vực Đông Nam Á và bình quân GDP/đầu người đứng thứ 6 khu
vực(19). Đến năm 2022, tốc độ tăng GDP đạt 8,02% (cao nhất trong giai đoạn 2011 -
2022), GDP bình quân đầu người đạt 4.109 USD/người, tăng 392 USD so với năm 2021,
đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt.
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/827613/hoi-nhap-kinh-
tequoc-te-cua-viet-nam-giai-doan-2011---2022--nhin-tu-qua-trinh-trien-khai-doi- moitu-duy-cua-dang.aspx
Trần Quốc Việt, Học viện báo chí và tuyên truyền, Bài đăng trên Tạp chí cộng sản LIÊN HỆ BẢN THÂN
Sinh viên là lực lượng kế tục, phát huy nguồn trí tuệ nước nhà, là nguồn lực chủ yếu
trong thời đại kinh tế tri thức, khoa học công nghệ, đóng vai trò then chốt trong phát
triển đất nước, là lực lượng to lớn trong việc giữ gìn và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. lOMoAR cPSD| 60776878
Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, thanh niên, sinh viên cũng là lực lượng xã hội quan
trọng, một trong những nhân tố quyết định tương lai, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Kế
thừa những giá trị của Chủ nghĩa Mác – Lênin, trong quá trình tìm đường cứu nước và
lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí, vai trò của thanh niên trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.
-Chăm chỉ, sáng tạo, có mục đích và động cơ học tập đúng đắn. Tuổi trẻ Việt Nam nói
chung và sinh viên Việt Nam nói riêng đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành
nguồn nhân lực chất lượng cao, có đầy đủ kiến thức, kỹ năng để thích ứng với những
bước phát triển mới trong khoa học và công nghệ
- Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa
các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực dụng,
xa rời các giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống của dân tộc. Đây sẽ là một động lực
quan trọng để phát huy giá trị truyền thống của dân tộc, phát huy giá trị tốt đẹp của con
người Việt Nam nói chung và tuổi trẻ Việt Nam nói riêng để đóng góp vào sự phồn thịnh của đất nước.
-Luôn nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tránh nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính
trị. Hiện nay, các thiết bị công nghệ hiện đại và hệ thống mạng xã hội đang ngày càng
phát triển đã tạo ra nhiều ảnh hưởng lớn đến sinh viên, bao gồm cả những ảnh hưởng
tích cực và tiêu cực, một trong số đó là khiến giới trẻ nói chung, trong đó có sinh viên
sống tách biệt với xã hội, hình thành lối sống vô tâm, vô cảm, thờ ơ chính trị. Bên cạnh
đó, nhiều bạn trẻ chủ yếu đọc báo qua những bài được chia trẻ trên mạng xã hội chưa
được kiểm chứng cụ thể, thay vì chủ động tiếp cận tới các nguồn tin chính thức, tạo cơ
hội cho các thế lực thù địch truyền bá những thông tin xuyên tạc Đảng và Nhà nước mà
nếu không có những nhận thức chính trị đầy đủ, người đọc sẽ hình thành suy nghĩ sai
lệch, gây ra những hệ lụy khôn lường cho tình hình an ninh xã hội. Sinh viên Việt Nam
phải có nhiệm vụ tự mình nâng cao nhận thức trị, học và làm theo Bác, hỗ trợ Đảng và
Nhà nước trong việc loại bỏ các thông tin xuyên tạc, tiêu cực khỏi các nền tảng mạng
xã hội, tuyên truyền đến người thân, bạn bè có cách tiếp nhận thông tin đúng đắn, chính xác.
-Biết trau dồi các kỹ năng hội nhập trong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát triển của công
nghệ, phát triển bản thân phù hợp với hoàn cảnh gia đình và xã hội. Trong quá trình xây
dựng nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, ta không nên mù quáng phủ nhận tất cả những
sản phẩm Chủ nghĩa Tư bản đã tạo ra mà phải chắt lọc, kế thừa những thành tựu phù
hợp với điều kiện phát triển của đất nước. Trong đó, sinh viên với bản chất năng động,
sáng tạo, nhiệt huyết, nhanh nhạy là đối tượng lý tưởng để tiếp thu các công nghệ mới,
tham gia giao lưu, hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập phải luôn tỉnh
táo để không đánh mất bản sắc văn hóa của dân tộc, phải dung hòa được nếp sống hiện
đại với những giá trị truyền thống. Nhiệm vụ học tập khoa học, công nghệ và hội nhập
quốc tế đòi hỏi lớp sinh viên hiện nay phải nhanh chóng trang bị cho mình năng lực hội lOMoAR cPSD| 60776878
nhập, như bản lĩnh, kiến thức, trình độ ngoại ngữ, tin học, kỹ năng, tác phong công
nghiệp, hiểu biết văn hóa dân tộc, đất nước mình, đồng thời phải hiểu biết tình kinh tế,
chính trị, xã hội và văn hóa thế giới. 5.1.KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu về chủ đề “Phân tích thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Những
thời cơ và thách thức trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”,
nhóm đã hiểu được phần nào về quan điểm, bản chất của quá trình tiến lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một giai đoạn lịch sử có ý nghĩa
quan trọng, đánh dấu những nỗ lực chuyển mình từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu sang một nền kinh tế phát triển bền vững và hiện đại. Qua các chính sách cải cách,
đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế, xã hội và văn hóa,
nâng cao đời sống người dân và khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, quá trình này cũng đối diện với nhiều thách thức.Để vượt qua những khó
khăn này, cần một chiến lược tổng thể, đồng bộ, kết hợp giữa phát triển kinh tế và bảo
đảm công bằng xã hội, giữa hiện đại hóa và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.Cũng như
có cái nhìn toàn diện hơn về thuận lợi, khó khăn từ đó đưa ra quyết tâm để phấn đấu và
đặc biệt luôn trong tình trạng chủ động, quan sát thực trạng khách quan và hành động theo quy luật.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, Việt Nam cần tiếp tục cải cách, nâng
cao năng lực cạnh tranh, đồng thời duy trì các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội. Đây
là con đường dài và gian nan, nhưng với sự quyết tâm và đồng lòng của toàn dân, Việt
Nam hoàn toàn có thể xây dựng một xã hội công bằng, văn minh và giàu mạnh.