-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Chương 4: Các hệ thống thanh toán điện tử | Thương mại điện tử | Đại học Thương mại
Chương 4: Các hệ thống thanh toán điện tử | Thương mại điện tử | Đại học Thương mại được trình bày khoa học, chi tiết giúp cho các bạn sinh viên chuẩn bị bài một cách nhanh chóng và đầy đủ. Các bạn xem, tải về ở bên dưới.
Môn: Thương mại điện tử
37 tài liệu
Trường: Đại học Thương Mại
373 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|40534848
Chương 4 Các hệ thống thanh toán điện tử
1. Cuộc cách mạng trong thanh toán
Xem World payment report 2018
2. Khái niệm thanh toán điện tử & y/c của hệ thống thanh toán điện tử
Thanh toán điện tử (electronic payment) là việc thanh toán dựa trên nền tảng công nghệ
thông tin, trong đó sử dụng máy tính nối mạng để truyền các thông điệp điện tử, chứng từ điện tử
giúp cho quá trình thanh toán nhanh chóng an toàn và hiệu quả. Thanh toán điện tử là việc thanh
toán qua thông điệp điện tử thay việc thanh toán tiền mặt.
Quá trình thanh toán điện tử có sử dụng các phương tiện điện tử và công nghệ thanh toán tài
chính (ví dụ như mã hoá số thẻ tín dụng, séc điện tử, hoặc ví điện tử) giữa ngân hàng, trung gian
và các bên tham gia hợp pháp.
Việc thanh toán được thực hiện qua mạng máy tính kết nối với các đơn vị thành viên tham
gia thanh toán. Việc sử dụng mạng để chuyển những chứng từ điện tử, dữ liệu tài chính điện tử
giúp cho việc thực hiện thanh toán nhanh chóng, mở rộng khoảng cách và phạm vi thanh toán
giữa các ngân hàng, doanh nghiệp và người tiêu dùng trên phạm vi quốc gia và toàn thế giới.
Đặc điểm của thanh toán điện tử
Hệ thống thanh toán điện tử được thực hiện trên cơ sở kỹ thuật số, chúng được xây dựng và
phát triển để thực hiện các thanh toán trên mạng Internet. Về bản chất, các hệ thống thanh toán
điện tử là phiên bản điện tử của các hệ thống thanh toán truyền thống như tiền mặt, séc và các loại thẻ tín dụng.
Tuy nhiên, so với thanh toán truyền thống, các hệ thống thanh toán điện tử có hai điểm khác biệt:
Thứ nhất, các hệ thống thanh toán điện tử được thiết kế để có thể thực thi việc mua - bán điện
tử trên mạng Internet. Việc sử dụng công nghệ thông tin và các phương tiện điện tử với khai thác
mạng cho phép quá trình giao dịch và công cụ giao dịch được số hoá và được ảo hoá bằng những chuỗi bit;
Thứ hai, trong thanh toán truyền thống, chỉ ngân hàng mới có quyền phát hành tiền và các
giấy tờ có giá trị khác. Trong thanh toán điện tử, các công ty và các tập đoàn tài chính cũng được
phép phát triển các phần mềm đóng vai trò là các công cụ thanh toán. Vì vậy, trong thanh toán
điện tử, khách hàng có thể lựa chọn một trong nhiều cách thức thanh toán khác nhau trên cơ sở
phần mềm của các công ty và các tập đoàn tài chính. Về hình thức, các cách thức thanh toán này
cơ bản giống nhau, chúng chỉ khác về mặt lôgíc, về quy trình thanh toán và một số dịch vụ đi cùng.
Ưu thế của thanh toán điện tử 1 lOMoARcPSD|40534848
Thanh toán điện tử không bị hạn chế về không gian: Đặc điểm thứ nhất của thanh toán điện
tử cho phép các bên thanh toán vào bất kì thời điểm nào và trong điều kiện nào miễn là hoạt
động thanh toán hợp pháp, có sử dụng các phương tiện thanh toán hợp pháp. Một trong những
thành quả mà chúng ta đang hưởng thụ là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ thông
tin và việc khai thác, ứng dụng trong các lĩnh vực khác nhau. Việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong lĩnh vực thanh toán cho phép các bên trong thanh toán thu hẹp khoảng cách địa lí, mở rộng
phạm vi thanh toán trên toàn cầu. Đây cũng là một trong những điều kiện để đẩy mạnh sự phát
triển của thương mại quốc tế và thương mại điện tử. Thanh toán điện tử cũng là nhân tố cấu
thành của nền kinh tế số hóa.
Thanh toán điện tử không hạn chế về thời gian: Thanh toán điện tử là hệ thống thanh toán
thông qua mạng máy tính và viễn thông đạt được tốc độ thanh toán với thời gian thực. Thông
qua các mạng WAN, internet cho phép thực hiện thanh toán trên phạm vi toàn cầu, trong suốt
24/24 giờ trong ngày và 7 ngày/tuần.
Thanh toán điện tử là phương thức thanh toán có nhiều ưu việt: Kỉ nguyên 21 là kỉ nguyên
công nghệ thông tin và kinh tế tri thức. Các phương thức thanh toán điện tử ra đời đẩy mạnh xu
thế phát triển các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, hạn chế sử dụng tiền mặt trong
thanh toán truyền thống và sẽ chiếm ưu thế thể hiện xu hướng tất yếu của thời đại. Các quốc gia
văn minh, các nền kinh tế phát triển luôn coi trọng vấn đề này.
Thanh toán điện tử mở rộng sang các lĩnh vực mới: trao đổi dữ liệu tài chính điện tử, tiền
điện tử, ví tiền số hoá, séc điện tử, thẻ thông minh, các loại thẻ thanh toán
Các hệ thống thanh toán điện tử trong lĩnh vực ngân hàng được khai thác tối đa như: Hệ
thống chuyển tiền điện tử trong cùng hệ thống ngân hàng, hệ thống thanh toán điện tử đa ngân
hàng; hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc tế qua SWIFT.
Ngoài ra, các dịch vụ thanh toán điện tử mới được các ngân hàng đưa vào khai thác như: E-
Banking, Internet Banking, Phone Banking cũng đang phát triển rất nhanh.
Các yêu cầu của hệ thống thanh toán điện tử
Tính độc lập (Independence). Một số phương thức thanh toán điện tử đòi hỏi phần mềm hoặc
thiết bị đặc biệt để thanh toán. Hầu như tất cả các phương thức thanh toán điện tử đòi hỏi người
bán hàng phải trang bị (cài đặt phần mềm, phần cứng) để có thể thực hiện thanh toán. Yêu cầu là
các hệ thống thanh toán mang tính độc lập, không phụ thuộc vào phần cứng và phần mềm chuyên dụng.
Tính tương tác và dịch chuyển (Interoperability and Portability). Các hệ thống thương mại
điện tử phải được liên kết với nhau và liên kết với các hệ thống thanh toán. Phương thức thanh
toán điện tử phải phù hợp với hệ thống thương mại điện tử và hạ tầng công nghệ thông tin.
Tính an toàn và bảo mật. An toàn và bảo mật cho các giao dịch tài chính qua các mạng mở
như Internet là hết sức qun trọng vì đây sẽ là mục tiêu tấn công của các loại tội phạm công nghệ
cao, ăn cắp hoặc sử dụng thẻ tín dụng trái phép. Do các dịch vụ trên Internet hiện nay được cung
cấp toàn cầu với mọi tiện ích phục vụ cho mọi khách hàng, mọi thành phần trong xã hội, vì vậy
các hệ thống thanh toán điện tử phải đảm bảo tính khả dụng nhưng cũng chống lại được sự tấn
công đe dọa tính bí mật thông tin cá nhân, thông tin tài chính của các chủ thể tham gia giao dịch. 2 lOMoARcPSD|40534848
Tính ẩn danh. Không giống với thẻ tín dụng và séc, nếu người mua dùng tiền mặt, rất khó
truy tìm dấu tích người mua sau giao dịch, các hệ thống thanh toán điện tử nếu yêu cầu cung cấp
thông tin cá nhân, hình ảnh và những đặc điểm nhận dạng thì đặc điểm nhận dạng hoặc thông tin
cá nhân của các chủ thể phải được giữ kín. Phải đảm bảo không làm lộ các thông tin cá nhân của khách hàng.
Tính phân đoạn (Divisibility). Hầu như người bán chấp nhận thẻ tín dụng cho các giao dịch
có giá trị giới hạn (Min-Max). Nếu giá trị giao dịch quá nhỏ (một vài $) hoặc quá lớn (giá một
chiếc máy bay), thẻ tín dụng sẽ không là phương thức thanh toán khả thi.
Tính dễ sử dụng cho bất kỳ ai và trong mọi doanh nghiệp, khách hàng có thể sử dụng
Tính tiết kiệm/hiệu quả (phí giao dịch). Chi phí cho mỗi giao dịch nên chỉ là một con số rất
nhỏ (gần bằng 0), đặc biệt với những giao dịch giá trị thấp. Ví dụ với thẻ tín dụng có mức phí tối
thiểu + 3% giá trị giao dịch, với giao dịch giá trị nhỏ, mức phí là bao nhiêu cho phù hợp.
Tính thông dụng. Khả năng sử dụng rộng rãi và tối thiểu hóa hàng rào luật pháp, cạnh tranh -
cho phép – chấp nhận. Ví dụ: Paypal phải đấu tranh với những cáo buộc của hệ thống ngân hàng
là minh họa về tính thông dụng.
Tính hoán đổi, chuyển đổi từ hình thức này sang hình thức khác. Ví dụ: Tiền số có thể
chuyển thành các kiểu loại tiền khác. Có thể dễ dàng chuyển từ tiền điện tử sang tiền mặt hay
chuyển tiền từ tiền điện tử sang tài khoản cá nhân. Từ tiền điện tử có thể phát hành séc điện tử,
séc giấy. Tiền số bằng ngoại tệ này có thể dễ dàng chuyển sang ngoại tệ khác với tỷ giá tốt nhất.
Tính linh hoạt. Nên cung cấp nhiều phương thức thanh toán, tiện lợi cho mọi đối tượng.
Tính hợp nhất. Để hỗ trợ cho sự tồn tại của các ứng dụng này thì giao diện nên được tạo ra
theo sự thống nhất của từng ứng dụng. Khi mua hàng trên bất cứ trang web nào cũng cần có
những giao diện với những bước gần giống nhau.
Tính co dãn. Cho phép khách hàng và những nhà kinh doanh có thể tham gia vào hệ thống
mà không làm hỏng cơ cấu hạ tầng, đảm bảo xử lý tốt dù khi nhu cầu thanh toán trong thương mại điện tử tăng.
3. Các hệ thống thanh toán điện tử
Cuộc cách mạng trong lĩnh vực thanh toán đã cho gia đời các hệ thống thanh toán hiện đại,
tồn tại song hành với các hệ thống thanh toán truyền thống và hỗ trợ đắc lực vào phát triển
thương mại điện tử. Những hệ thống thanh toán điện tử đầu tiên như công nghệ chuyển tiền bằng
điện EFT (những dịch vụ của Western Union giúp một cá nhân có thể chuyển tiền cho người nào
đó ở tại hai địa điểm khác nhau thông qua lệnh chuyển tiền của họ từ một quầy cung cấp dịch vụ
của Western Union) đã phát triển từ những năm 1960-1970 và tiếp tục được khai thác trong
thương mại điện tử với cấp độ hoàn thiện hơn.
Chuyển tiền điện tử (EFT)
Chuyển tiền điện tử (chuyển khoản điện tử) là việc chuyển tiền trực tiếp giữa các tài khoản
ngân hàng áp dụng với các nghiệp vụ thanh toán trong ngày hoặc trong một vài ngày, thường
được sử dụng khi chuyển các khoản tiền lớn liên ngân hàng. 3 lOMoARcPSD|40534848
Hệ thống chuyển khoản điện tử là một trong các hệ thống thanh toán điện tử ra đời sớm nhất,
mặc dù lúc đầu chúng chỉ mới được thực hiện trên các mạng nội bộ.
Hình 6.1. Chuyển tiền điện tử truyền thống
Hình 6.2. Chuyển khoản điện tử trên Internet
Thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng cung cấp một khoản tín dụng cố định cho chủ thẻ để mua hàng hóa, dịch vụ
hoặc rút tiền mặt. Khoản tín dụng được đơn vị phát hành thẻ giới hạn phụ thuộc vào yêu cầu và
tài sản thế chấp hoặc tín chấp của chủ thẻ
Các đặc điểm của thẻ tín dụng:
Thẻ tín dụng có đặc điểm “chi tiêu trước trả tiền sau”: chủ thẻ sẽ trả những khoản tiền đã
thanh toán bằng thẻ tín dụng khi nhận được thông báo của ngân hàng; Chủ thẻ không phải trả bất
kỳ một khoản lãi nào nếu việc trả những khoản tiền trên được thực hiện đúng thời hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được sao kê; Các tài khoản hoặc tài sản thế chấp để phát hành thẻ tín dụng độc
lập với việc chi tiêu. Hạn mức tín dụng được xác định dựa trên tài khoản hoặc tài sản thế chấp,
nếu tài khoản thế chấp là tiền mặt, chủ thẻ sẽ được hưởng lãi suất ngân hàng với kỳ hạn phụ
thuộc vào thời hạn hiệu lực của thẻ; Thẻ tín dụng quốc tế có thể chi tiêu bằng tất cả các loại tiền;
Chủ thẻ có thể thanh toán toàn bộ số dư phát sinh trong hóa đơn hoặc một phần số dư trong hóa
đơn, tuy nhiên, phần số dư trả chậm sẽ phải chịu lãi suất và cộng dồn vào hóa đơn tháng tiếp
theo; Đối với thẻ tín dụng, người bán hàng sẽ phải thanh toán toàn bộ các chi phí thực hiện giao
dịch thanh toán. Các khoản phí này không giống nhau trong những trường hợp khác nhau. Nó 4 lOMoARcPSD|40534848
tuỳ thuộc vào quy định của từng ngân hàng, vào quy mô của người bán hàng, vào độ lớn của các
giao dịch, vào khối lượng các giao dịch thẻ tín dụng và từng loại hình kinh doanh cụ thể. Thí dụ,
các đơn đặt hàng qua thư tín (mail-order) thường phải thanh toán các khoản phí giao dịch thẻ tín
dụng cao hơn so với các đơn đặt hàng tại cửa hàng (mua hàng trực tiếp tại cửa hàng) bởi vì trong
trường hợp mua hàng qua thư tín, khách hàng không có mặt để ký nhận các hoá đơn thanh toán.
Các giao dịch loại này gọi là giao dịch "thẻ vắng mặt". Giao dịch này có độ rủi ro cao bởi vì nếu
thẻ tín dụng đó là thẻ bị người mua đánh cắp thì nó sẽ không được thanh toán.
Thanh toán thông qua thẻ tín dụng là hình thức phổ biến trong thanh toán trực tuyến áp dụng
với các giao dịch thương mại bán lẻ; đặc biệt là các giao dịch tương tự như giao dịch truyền
thống có sử dụng hình thức thanh toán thẻ tín dụng bao gồm các giao dịch như đặt mua báo, tạp
chí, bản tin hoặc thanh toán cho các dịch vụ thông tin trực tuyến... Và, vì khi tiến hành các giao
dịch thẻ tín dụng phải trả một số khoản phí nhất định nên nó không thích hợp với các giao dịch
nhỏ, riêng rẽ, những giao dịch mà phí phải trả cho giao dịch thanh toán thẻ tín dụng bằng, thậm
chí lớn hơn một nửa giá trị của toàn bộ giao dịch. Trong những trường hợp này, người ta thường
dùng các hình thức vi thanh toán khác sẽ được trình bày ở phần sau.
Thẻ tín dụng ảo
Mặc dù khối lượng hóa và lượng tiền mua sắm trực tuyến đang tăng đáng kể, một lượng lớn
khách hàng vẫn rất không trung thực trong việc sử dụng số thẻ tín dụng trực tuyến của họ. Thẻ
tín dụng ảo được thiết kế để giải quyết vấn đề này. Với một thẻ tín dụng ảo, người mua trực
tuyến được công ty phát hành thẻ cung cấp vào thời điểm mua một số thẻ phát hành ngẫu nhiên
được ràng buộc với số thẻ thực tế của người mua. Người mua nhập số này chứ không phải nhập
số thẻ thực tế để hoàn thành việc mua sắm. Nhìn chung, số này chỉ được dùng một lần. Đó là lý
do vì sao thẻ tín dụng ảo cũng được biết đến như số thẻ sử dụng một lần.
Mặc dù số thẻ sử dụng một lần ngăn chặn được một số gian lận nhất định, nhưng chúng vẫn
có những hạn chế. Việc mua sắm với những số thẻ sử dụng một lần không thể xác định được ở
ngày sau đó. Ví dụ, nếu một người đặt trước vé máy bay và khách sạn trực tuyến và cần số thẻ để
xác nhận nó vào ngày sau đó, không có cách nào để có thể lưu giữ được số cho những mục đích
này. Tương tự, nếu một người mua một món hàng, không có cách nào xác nhận được số thẻ sau
đó vì số này sẽ mất đi. Cuối cùng, không có cách nào để trả những hóa đơn định kỳ hoặc thuê
bao với những số chỉ sử dụng một lần.
Thẻ trả phí/mua chịu
Sự khác biệt giữa thẻ tín dụng và thẻ trả phí là ở chỗ số dư của thẻ trả phí luôn phải được
thanh toán toàn bộ hàng tháng, trong khi số dư của thẻ tín dụng có thể được chuyển từ tháng
trước sang tháng sau, tuy nhiên khoản tiền lãi của số dư đó sẽ bị cộng dồn lại Thẻ ghi nợ
Đối với thẻ ghi nợ, việc thanh toán liên quan đến loại thẻ này được kết nối với một tài khoản
tiền gửi không kỳ hạn, chẳng hạn như tài khoản séc (tài khoản tiền gửi phát hành séc) tại ngân
hàng. Các thẻ loại này thường mang biểu trưng (logo) của Visa hay MasterCard và được chấp
nhận ở bất cứ nơi nào mà Visa và MasterCard được chấp nhận. Thay vì được cấp một khoản tín
dụng như các loại thẻ trên, các giao dịch thanh toán đối với loại thẻ này sẽ rút ngay một khoản 5 lOMoARcPSD|40534848
tiền từ tài khoản được kết nối. Dưới góc độ người bán hàng, quá trình sử dụng loại thẻ này không
khác gì đối với các loại thẻ tín dụng. Và các loại thẻ ghi nợ như mô tả ở trên được gọi là thẻ ghi
nợ ngoại tuyến, bởi vì không cần bất cứ sự xin cấp phép nào tại thời điểm diễn ra các giao dịch
thanh toán. Ngược lại, đối với một thẻ ghi nợ trực tuyến, khi thanh toán đòi hỏi phải được cấp
phép tại thời điểm diễn ra giao dịch thông qua việc sử dụng mã số định danh cá nhân (PIN -
Personal Identification Number). Các thẻ như vậy thường là các thẻ giao dịch tự động (ATM
card - Automated Teller Machine card). Người bán hàng thường chấp nhận loại thẻ này từ các
ngân hàng địa phương đối với một vài loại giao dịch. Cũng giống như thẻ ghi nợ ngoại tuyến, khi
thanh toán bằng loại thẻ này, số tiền sẽ được chuyển ngay lập tức từ tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tương ứng.
Xử lý thẻ tín dụng trực tuyến
Xử lý các thẻ thanh toán có hai giai đoạn chính: cấp phép và thanh toán. Xin cấp phép xác
định liệu thẻ của người thanh toán còn hiệu lực hay không và liệu số tiền trong tài khoản có đủ
để thực hiện giao dịch hay không. Thanh toán liên quan đến việc chuyển tiền từ tài khoản của
người mua đến tài khoản của người bán. Những giai đoạn này được thực hiện theo cách thức
nào, ở chừng mực nhát định phụ thuộc vào loại thẻ thanh toán. Chúng cũng thay đổi tùy thuộc
vào cấu trúc của hệ thống mà người bán sử dụng để xử lý việc thanh toán.
Có ba cấu trúc cơ bản cho quá trình xử lý thanh toán trực tuyến. Người bán hàng trong TMĐT có thể sử dụng:
- Sở hữu phần mềm thanh toán riêng: Người bán có thể mua một mô đun xử lý thanh toán và
tích hợp phần mềm này với những phần mềm TMĐT khác. Mô đun này kết nối với một cổng
thanh toán khác của một ngân hàng chấp nhận thanh toán hoặc của bên thứ ba.
- Sử dụng hệ thống thiết bị đọc thẻ (POS: point of sale) được vận hành bởi một ngân hàng.
Người bán có thể chuyển hướng chủ thẻ tới một POS được vận hành bởi một ngân hàng chấp
nhận thanh toán. POS này xử lý toàn bộ quá trình thanh toán và sau đó đưa người chủ thẻ trở về
chỗ người bán khi mà quá trình thanh toán đã hoàn tất. Trong trường hợp này, hệ thống người
bán chỉ phải xử lý những thông tin đặt hàng. Trong mô hình này, rất quan trọng là tìm được một
ngân hàng thanh toán mà có thể xử lý nhiều loại thẻ và công cụ thanh toán. Nếu không, người
bán sẽ phải kết nối với nhiều ngân hàng thanh toán.
- Sử dụng POS được vận hành bởi nhà cung cấp dịch vụ thanh toán: Người bán có thể tin
tưởng vào một bên thứ ba - nhà cung cấp dịch vụ thanh toán (Payment Service Providers - PSPs).
Trong trường hợp này, một PSP sẽ kết nối với những ngân hàng thanh toán thích hợp. PSPs phải
đăng ký với các tổ chức thẻ mà họ hỗ trợ.
Đối với một loại thẻ thanh toán và hệ thống xử lý nhất định, các quá trình và những người
tham gia về bản chất là giống nhau giữa mua bán ngoại tuyến (phải trình thẻ- card present) và
trực tuyến (không trình thẻ - card not present). Ví dụ, Bảng 12.1 so sánh các bước liên quan đến
việc mua sắm bằng thẻ tín dụng trực tuyến và ngoại tuyến. Bảng 12.1 cho thấy có vài sự khác
nhau nhỏ giữa hai loại hình này
Bảng: So sánh thanh toán bằng thẻ tín dụng trong thương mại truyền thống với TMĐT 6 lOMoARcPSD|40534848 Mua hàng truyền thống Mua hàng trực tuyến
Khách hàng xuất trình thẻ tín dụng cho nhân Khách hàng thực hiện việc khai báo thông tin viên thu ngân/ bán hàng
về thẻ tín dụng trên trang web của người bán
Nhân viên thu ngân kiểm tra các thông tin Sau khi người bán nhận được thông tin của
trên thẻ, cà thẻ của khách hàng và truyền các khách hàng trên website, người bán gửi thông
thông tin về giao dịch trên thiết bị đọc thẻ tin về giao dịch đến nhà cung cấp dịch vụ POS (Point of Sale)
thanh toán (Payment processing transaction -
Thiết bị đọc thẻ gửi thông tin đến trung tâm PPS)
xử lý dữ liệu thẻ thông qua kết nối điện thoại Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán gửi thông tin (dial up)
đến trung tâm xử lý dữ liệu thẻ
Trung tâm xử lý dữ liệu thẻ gửi thông tin đến Trung tâm xử lý dữ liệu thẻ gửi thông tin đến ngân hàng phát hành thẻ ngân hàng phát hành thẻ
Ngân hàng phát hành thẻ sẽ khước từ hoặc Ngân hàng phát hành thẻ sẽ khước từ hoặc
chấp nhận giao dịch và chuyển kết quả/mã số chấp nhận giao dịch và chuyển kết quả/mã số
giao dịch hợp pháp ngược trở lại cho trung giao dịch hợp pháp ngược trở lại cho trung
tâm xử lý dữ liệu thẻ
tâm xử lý dữ liệu thẻ
Trung tâm xử lý dữ liệu thẻ gửi kết quả cấp Trung tâm xử lý dữ liệu thẻ gửi kết quả cấp
phép đến thiết bị đọc thẻ POS phép đến PPS
Thiết bị đọc thẻ cho người bán biết có được PPS chuyển kết quả cấp phép cho người bán
phép thực hiện giao dịch hay không
Người bán chấp nhận hoặc từ chối giao dịch.
Người bán thông báo với chủ thẻ về kết quả giao dịch
Những người tham gia chính trong xử lý thanh toán thẻ tín dụng trực tuyến bao gồm:
- Ngân hàng thanh toán: mở một tài khoản đặc biệt gọi là “Tài khoản người bán hàng
Internet” cho phép cấp phép thẻ và xử lý thanh toán.
- Hiệp hội thẻ tín dụng: Định chế tài chính cung cấp dịch vụ thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ cho
các ngân hàng (ví dụ như Visa và MasterCard).
- Khách hàng: Các cá nhân sở hữu thẻ thanh toán.
- Ngân hàng phát hành: Định chế tài chính cung cấp cho khách hàng thẻ thanh toán.
- Người bán hàng: Một công ty bán sản phẩm và dịch vụ.
- Dịch vụ xử lý thanh toán: Dịch vụ cung cấp kết nối người bán, khách hàng và mạng lưới tài
chính cấp phép và thanh toán. Dịch vụ này được vận hành bởi các công ty như CyberSource
(cybersource.com) và VeriSign (verisign.com).
- Bộ xử lý: Trung tâm dữ liệu xử lý các giao dịch thẻ tín dụng và thanh toán các khoản tiền cho người bán.
Các rủi ro trong thanh toán thẻ:
- Rủi ro đối với ngân hàng phát hành thẻ: 7 lOMoARcPSD|40534848
Rủi ro lớn nhất của ngân hàng phát hành thẻ xảy ra khi chủ thẻ có hành vi gian dối. Họ sử
dụng thẻ thanh toán ở những điểm tiếp nhận thẻ khác nhau với mức thanh toán thấp hơn hạn mức
thanh toán nhưng lại có tổng mức thanh toán cao hơn hạn mức thanh toán cho phép.
Thí dụ, một chủ thẻ tín dụng có hạn mức thanh toán ở cửa hàng là 200 USD/1 ngày. Anh ta
sử dụng thẻ của mình để mua hàng hoá và dịch vụ tại ba cửa hàng trong cùng một ngày như sau: Điểm bán hàng Hàng hoá và dịch vụ Giá trị giao dịch thanh chấp nhận thẻ được thực hiện toán (USD) 1 Mua mỹ phẩm 60 2 Mua quần áo 100 3 Mua đồ gia dụng 92 Tổng cộng 252
Tại điểm bán hàng chấp nhận thẻ thứ ba, khi chủ thẻ thực hiện giao dịch bằng thẻ, nhân viên
bán hàng cho rằng giao dịch có giá trị thanh toán là 92 USD, thấp hơn hạn mức cho phép nên
không cần xin cấp phép. Nhưng thực tế, nếu thực hiện giao dịch này, chủ thẻ đã chi vượt quá hạn
mức cho phép là 52 USD. Điều đó đã tạo cơ hội cho chủ thẻ thực hiện giao dịch quá khả năng
thanh toán, có thể gây ra rủi ro cho ngân hàng phát hành.
Rủi ro do vượt quá hạn mức thanh toán cho phép chỉ bị phát hiện khi ngân hàng phát hành
kiểm tra và tổng hợp các hoá đơn do các đại lý thanh toán gửi đến. Trong trường hợp nếu chủ thẻ
mất khả năng thanh toán thì ngân hàng phát hành phải chịu toàn bộ rủi ro này.
Một rủi ro nữa có thể xảy ra đối với loại thẻ tín dụng quốc tế là lợi dụng tính chất của thẻ để
lừa gạt ngân hàng phát hành thẻ.
Thẻ tín dụng quốc tế (như Visa hay MasterCard) là loại thẻ được sử dụng để thanh toán các
giao dịch ở nhiều nước, nơi có đại lý thanh toán thẻ tín dụng quốc tế. Vì tính chất này, chủ thẻ có
thể thông đồng với người khác, giao thẻ cho người đó sử dụng ở các cơ sở bán hàng chấp nhận
thẻ mà không phải là nơi chủ thẻ cư trú (thí dụ ở nước ngoài). Khi có các thương vụ diễn ra,
kiểm tra chữ ký trên hoá đơn và chữ ký trên thẻ khó có thể phát hiện sự giả mạo vì không ai có
thể đảm bảo rằng tất cả các chữ ký khi ký đều giống hệt như nhau. Khi ngân hàng phát hành đòi
tiền, chủ thẻ sẽ đưa ra căn cứ: hộ chiếu không có thị thực nhập cảnh, hoặc xác nhận của nơi chủ
thẻ làm việc rằng chủ thẻ hoàn toàn không vắng mặt trong thời điểm diễn ra thương vụ, và từ
chối thanh toán. Trước những bằng chứng hoàn toàn hợp lý, ngân hàng phát hành thẻ cũng
không thể quy trách nhiệm cho cơ sở chấp nhận thẻ bởi vì việc giao dịch bằng thẻ không đòi hỏi
chủ thẻ phải xuất trình giấy tờ để xác minh người sử dụng thẻ có phải là chủ thẻ hay không; Chỉ
có thể quy trách nhiệm cho cơ sở chấp nhận thẻ về việc kiểm tra chữ ký, nhưng vấn đề này
không đơn giản như đã nêu: không ai đảm bảo rằng các chữ ký đều giống hệt nhau mặc dù là
cùng một người ký. Như vậy, ngân hàng phát hành thẻ phải đền bù.
Chủ thẻ cũng có thể cố tình lấy tiền của ngân hàng bằng cách báo cho ngân hàng phát hành là
thẻ đã bị thất lạc, nhưng sau đó vẫn sử dụng thẻ đó để thanh toán trong thời gian thẻ chưa kịp
đưa vào danh sách "đen" (danh sách Bulletin). Chủ thẻ thay băng chữ ký bằng một băng chữ ký 8 lOMoARcPSD|40534848
trắng và ký lại chữ ký hoàn toàn khác so với chữ ký cũ, khi thanh toán, chủ thẻ sẽ ký vào hoá
đơn bằng chữ ký mới. Như vậy, chủ thẻ có thể thoái thác được trách nhiệm thanh toán các
thương vụ do chính mình thực hiện. Trường hợp này xảy ra khi cơ sở chấp nhận thẻ không phát
hiện ra hoặc thông đồng với chủ thẻ. Như vậy, rủi ro cũng hoàn toàn thuộc về ngân hàng phát hành.
Ngoài những nguyên nhân chủ quan nêu trên, còn có những nguyên nhân khách quan khác như:
+ Việc sử dụng thẻ giả mạo trùng với thẻ đang lưu hành của ngân hàng phát hành thẻ.
+ Chủ thẻ mất khả năng thanh toán bởi lý do khách quan như tai nạn bất ngờ, không còn khả
năng làm việc và mất thu nhập...
- Rủi ro tại ngân hàng thanh toán
Trong số các bên tham gia thanh toán thì ngân hàng thanh toán là nơi ít gặp rủi ro nhất vì họ
chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán giữa cơ sở chấp nhận thẻ và ngân hàng phát hành. Song,
cũng có thể xảy ra một số rủi ro:
+ Ngân hàng thanh toán có sai sót trong việc cấp phép, như chuẩn chi với giá trị thanh toán
lớn hơn trị giá cấp phép;
+ Ngân hàng thanh toán không cung cấp kịp thời danh sách Bulletin cho cơ sở tiếp nhận thẻ,
mà trong thời gian đó cơ sở chấp nhận thẻ lại thanh toán thẻ có trong danh sách này. Lúc đó,
ngân hàng thanh toán phải chịu rủi ro khi ngân hàng phát hành từ chối thanh toán.
- Rủi ro cho cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ:
Rủi ro đối với cơ sở chấp nhận thẻ là rủi ro khi họ bị ngân hàng phát hành từ chối thanh toán
toàn bộ số tiền hàng hoá hoặc dịch vụ đã cung ứng. Các rủi ro này hoàn toàn có thể khắc phục
nếu cơ sở chấp nhận thẻ kiểm tra kỹ và không chủ quan khi chấp nhận thẻ. Các rủi ro có thể xảy ra là:
+ Thẻ hết thời hạn hiệu lực mà cơ sở chấp nhận thẻ không phát hiện ra.
+ Cơ sở chấp nhận thẻ có quan niệm sai cho rằng, mình chỉ chịu rủi ro ở phần vượt hạn mức
cho phép nên đã thanh toán nhiều thương vụ vượt hạn mức ở một tỷ lệ nhỏ mà không xin cấp
phép hoặc xin cấp phép đã bị từ chối nhưng vẫn cứ chấp nhận thanh toán. Thực tế, ngân hàng
thanh toán sẽ từ chối toàn bộ số tiền của thương vụ chứ không chỉ từ chối phần vượt hạn mức.
+ Cơ sở chấp nhận thẻ cố tình tách thương vụ thành nhiều thương vụ nhỏ để không cần phải
xin phép, nếu ngân hàng phát hành phát hiện ra sẽ từ chối thanh toán.
+ Sửa chữa số tiền trên hoá đơn do ghi nhầm hoặc cố ý mà quên rằng phía chủ thẻ cũng giữ
một hoá đơn nguyên vẹn, ngân hàng phát hành có thể căn cứ vào sự sai phạm này để từ chối
thanh toán toàn bộ số tiền trên hoá đơn.
- Rủi ro đối với chủ thẻ:
Thông thường, các loại thẻ tín dụng quốc tế đều có hai công dụng là thanh toán tiền mua
hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt. Chủ thẻ là người duy nhất biết mã số định danh cá nhân (PIN).
Trong trường hợp chủ thẻ do vô tình để lộ mã số này và đồng thời bị mất thẻ mà chưa kịp báo
cho ngân hàng phát hành. Do một sự trùng hợp nào đó, người lấy được thẻ cũng biết được số 9 lOMoARcPSD|40534848
PIN và họ có thể dùng thẻ để rút tiền mặt tại máy giao dịch tự động (ATM). Do việc rút tiền qua
máy chỉ hoàn toàn dựa trên số PIN nên không thể kiểm tra được người rút tiền có phải là chủ thẻ
thực sự hay không. Trường hợp này chủ thẻ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về số tiền bị mất.
Ở một số quốc gia, như Mỹ, có quy định về trách nhiệm của chủ thẻ khi sử dụng thẻ tín dụng.
Cụ thể, khi chủ thẻ sử dụng thẻ hay mã số thẻ tín dụng của mình vào những hành vi gian lận, nếu
bị phát hiện sẽ phải chịu khoản tiền phạt lên tới 50 USD. Trường hợp chủ thẻ làm mất thẻ nhưng
chưa kịp báo với ngân hàng phát hành, trong thời gian đó, người lấy được thẻ sử dụng thẻ này
vào những mục đích gian lận thì trách nhiệm sẽ hoàn toàn thuộc về chủ thẻ.
Các biện pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán thẻ
Trong thanh toán trực tuyến, người bán vẫn có thể là nạn nhân của các giao dịch gian lận.
Bên cạnh việc mất hàng hóa và chi phí vận chuyển, người bán còn phải gánh chịu thêm phí và
tiền phạt của các tổ chức thẻ tín dụng. Tuy nhiên, không phải chỉ có những chi phí đó. Còn có
những chi phí liên quan đến việc đối phó với những giao dịch gian lận. Những chi phí này bao
gồm chi phí công cụ và hệ thống để xem xét lại những đơn đặt hàng, chi phí xem xét những đơn
đặt hàng một cách thủ công và doanh thu mất đi do từ chối những đơn đặt hàng còn hiệu lực.
Giao dịch thẻ tín dụng gian lận là một vấn đề ngày càng lớn đối với những người bán hàng trực
tuyến dù họ đã có những nỗ lực để ngăn chặn gian lận.
Các công cụ chủ yếu được sử đụng để ngăn chặn gian lận là:
- Hệ thống xác nhận địa chỉ (Address Verification Systemc- AVS): Phương pháp này được
82% người bán sử dụng. Dịch vụ này so sánh địa chỉ khách hàng nhập vào trang Web với thông
tin về địa chỉ của chủ thẻ trong cơ sở dữ liệu khách hàng lưu trữ tại ngân hàng phát hành.
Phương pháp này có thể dẫn đến một loạt các hệ quả không mong muốn, ví dụ người bán từ
chối các đơn đặt hàng đích thực. Chủ thẻ thường có những địa chỉ mới hoặc đơn giản chỉ là ghi
sai địa chỉ số hoặc mã số điện thoại. AVS chỉ thực sự hữu ích ở Mỹ và Canada.
- Rà soát thủ công: Phương pháp này được 73% người bán hàng sử dụng. Trong trường hợp
này, đội ngũ nhân viên rà soát thủ công những đơn đặt hàng nghi ngờ. Đối với những người bán
hàng nhỏ, với khối lượng đơn đặt hàng không lớn, phương pháp này là hợp lý. Đối với người bán
hàng lớn thì phương pháp này không phù hợp lắm, chi phí quá cao và ảnh hưởng đến sự thỏa
mãn của khách hàng. Mặc dù có những hạn chế như vậy, tỷ lệ phần trăm người bán hàng sử dụng
phương pháp này đang tăng lên cùng với tỷ lệ phần trăm các mặt hàng đang được rà soát lại.
- Số kiểm tra trên thẻ (Card Verification Number - CVN): Phương pháp này được 56% người
bán hàng dùng, được thực hiện dựa trên việc so sánh số kiểm tra trên thẻ đã được in ở dải chữ ký
phía sau của thẻ với thông tin trong cơ sở dữ liệu lưu trong hồ sơ tại ngân hàng phát hành thẻ.
Tuy nhiên, căn cứ vào những số này không cho phép phân biệt kẻ gian lận sử dụng thẻ bị đánh cắp.
- Kiểm tra gian lận và mô hình quyết định: Phương pháp này được 53% người bán hàng sử
dụng. Phương pháp dựa trên các quy tắc tự động xác định xem liệu một giao dịch có nên được
chấp nhận, từ chối hay nghi ngờ. Yếu tố chủ chốt của phương pháp này là người bán hàng có thể
thay đổi dễ dàng những quy tắc để phản ánh xu hướng thay đổi trong những gian lận chống lại công ty. 10 lOMoARcPSD|40534848
- Hồ sơ phủ định: Phương pháp này được 45% người bán hàng sử dụng. Dữ liệu phủ định
bao gồm những thông tin về khách hàng (địa chỉ IP, tên, địa chỉ gửi hàng, số điện thoại liên hệ,
v.v…) và trạng thái của khách hàng đó. Giao dịch của khách hàng được so sánh với dữ liệu này
trên cơ sở đó người bán hàng quyết định việc tiến hành giao dịch.
- Dịch vụ xác nhận người thanh toán của các hiệp hội thẻ: Dịch vụ này được 25% người bán
hàng sử dụng. Hai năm gần đây, các các hiệp hội thẻ đã triển khai một hệ thống mới các dịch vụ
xác nhận người thanh toán (ví dụ hệ thống Verified được Visa và MasterCard SecureCode triển
khai). Dịch vụ này đòi hỏi người chủ thẻ đăng ký với hệ thống và với người bán để chấp nhận và
hỗ trợ cả hệ thống đang tồn tại và hệ thống mới.
Tác động chung của những công cụ này là sẽ giúp người bán hàng loại bỏ được số lượng
đáng kể những đơn đặt hàng nghi ngờ là gian lận. Tuy nhiên, trong số các đơn đặt hàng bị từ
chối có một số lượng lớn các đơn đặt hàng thực sự, và như vậy làm giảm doanh thu.
Thẻ thông minh
Thẻ thông minh thường được sử dụng bên cạnh thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ truyền thống.
Chúng cũng được sử dụng rộng rãi để hỗ trợ các ứng dụng phi tài chính và phi bán lẻ. Một thẻ
thông minh trông như một thẻ thanh toán nhựa, nhưng được phân biệt ở chỗ là trên thẻ thông
minh có gắn vi mạch điện tử (microchip). Con chip được gắn có thể là mạch vi xử lý kết hợp với
con chip lưu giữ thông tin hoặc chỉ có con chip lưu giữ thông tin với logic phi chương trình.
Thông tin trong thẻ có thể được thêm, bớt hoặc chịu các xử lý khác. Thẻ có con chip lưu giữ
thông tin thường là thẻ “chỉ đọc” tương tự như thẻ tín dụng. Mặc dù bộ vi xử lý có khả năng
chạy chương trình giống như một máy tính, nhưng nó không phải là máy tính độc lập. Các
chương trình và dữ liệu phải được tải về và kích hoạt từ một số thiết bị khác (như một máy ATM). Hình 6.3: Thẻ thông minh
Phân loại thẻ thông minh: Có hai loại thẻ thông minh. Loại thứ nhất là thẻ tiếp xúc, loại thẻ
này sẽ được kích hoạt khi đưa thẻ này vào thiết bị đọc thẻ. Loaị thứ hai là thẻ phi tiếp xúc, có
nghĩa là thẻ chỉ phải đưa tới một khoảng cách nhất định so với thiết bị đọc thẻ để xử lý giao dịch.
Các thẻ lai là sự kết hợp của hai loại trên thành một. 11 lOMoARcPSD|40534848
Thẻ tiếp xúc có một tấm kim loại màu vàng có đường kính khoảng một inch rưỡi được bố trí
ở mặt trước. Khi đưa thẻ vào thiết bị đọc thẻ, tấm kim loại tạo ra sự tiếp xúc điện tử và dữ liệu
được truyền đến và lấy ra từ con chip. Thẻ tiếp xúc có thể có bộ nhớ chỉ đọc được (Electronically
Programmable Read-Only Memory –EPROM) hoặc bộ nhớ chỉ đọc có thể xóa bỏ điện tử
(Electronically Erasable Programmable Read-Only Memory –EEPROM). Thẻ EPROM có thể
không bao giờ bị xóa bỏ. Thay vào đó, dữ liệu được viết vào khoảng trống trong thẻ. Khi thẻ
đầy, nó sẽ bị bỏ đi. Thẻ EEPROM có thể xóa bỏ hoặc sửa đổi. Chúng có thể được sử dụng cho
đến khi quá cũ hoặc hư hỏng. Hầu hết thẻ tiếp xúc là EEPROM.
Bên cạnh con chip, thẻ không tiếp xúc còn có một ăng ten được gắn vào. Dữ liệu và các ứng
dụng được truyền vào và lấy ra khỏi thẻ thông qua ăng ten của thẻ tới một ăng ten khác rồi đến
thiết bị đọc thẻ hoặc thiết bị khác. Thẻ không tiếp xúc được sử dụng trong những ứng dụng mà
dữ liệu phải được xử lý thật nhanh (ví dụ như trả tiền xe buýt hoặc tàu) hoặc khi khó tiếp xúc (ví
dụ do cơ chế an ninh khi đi vào các toà nhà). Thẻ này hoạt động ở khoảng cách gần, chỉ vài inch.
Đối với một số ứng dụng như thanh toán ở trạm thu tiền trên đường cao tốc, những thẻ này có
thể hoạt động ở khoảng cách xa đáng kể.
Đối vác các thẻ thông minh hai giao diện hoặc lai thì hai loại giao diện thẻ được kết hợp
thành một. Thẻ thông minh lai có hai con chip tách rời nhau gắn ở trên thẻ. Ngược lại, thẻ kết
hợp hoặc thẻ hai giao diện có một con chip đơn hỗ trợ cho cả hai giao diện. Lợi ích của cả hai
loại thẻ này là loại bỏ sự cần thiết phải mang nhiều thẻ để hỗ trợ cho những ứng dụng và thiết bị đọc thẻ khác nhau.
Đối với tất cả các loại thẻ, thiết bị đọc thẻ là rất quan trọng trong sự hoạt động của hệ thống.
Thiết bị đọc thẻ bản chất là một thiết bị đọc và ghi. Mục đích chủ yếu của thiết bị đọc thẻ là hoạt
động như thiết bị liên kết giữa thẻ và hệ thống chủ lưu giữ dữ liệu ứng dụng và xử lý dữ liệu. Có
hai loại thẻ cơ bản nên có hai loại thiết bị đọc thẻ (tiếp xúc và phi tiếp xúc) phù hợp với các loại thẻ riêng.
Việc sử dụng rộng rãi các thẻ thông minh cho những ứng dụng phức tạp đòi hỏi sự tiêu chuẩn
hóa và khả năng tương tác của các loại thẻ và các công nghệ đọc thẻ khác nhau. Nếu không như
vậy, những người sử dụng cuối cùng sẽ phải mang những thẻ riêng cho mỗi thiết bị đọc thẻ và
ứng dụng. Global Platform (globalplatform.org) là một hiệp hội thẻ thông minh quốc tế và phi
lợi nhuận. Mục đích chính của Hiệp hội là tạo ra và thúc đẩy các ứng dụng kỹ thuật tương tác
cho thẻ tín dụng, thiết bị tiếp nhận và cơ sở hạ tầng của hệ thống. Nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật về
thẻ thông minh được thiết lập bởi tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO; iso.org). ISO/IEC 7816 và
ISO/IEC 14443 là những tiêu chuẩn chính liên quan đến thẻ tiếp xúc và phi tiếp xúc. Những tiêu
chuẩn này là cơ sở cho những tiêu chuẩn khác.
Giống như máy tính, thẻ thông minh có một hệ điều hành. Hệ điều hành thẻ thông minh tiến
hành quản lý các tệp tin, bảo mật, quản lý, nhập/xuất thông tin, thực thi các câu lệnh và cung cấp
giao diện chương trình ứng dụng (API) thẻ. Ban đầu, thẻ thông minh và hệ điều hành được thiết
kế để điều khiển con chip đặc biệt gắn trên thẻ. Ngày nay, thẻ thông minh đang chuyển sang hệ
điều hành ứng dụng mở và phức tạp như MULTOS (multos.com) và Java Card
(java.sun.com/products/javacard). Hệ điều hành mới này có khả năng đưa thêm những ứng dụng
mới vào trong quá trình hoạt động của thẻ. 12 lOMoARcPSD|40534848
Ứng dụng của thẻ thông minh
Sự thay đổi trong cách sử dụng thẻ thông minh được định hướng bởi những ứng dụng của nó.
Sau đây là những ứng dụng quan trọng nhất:
Thanh toán trong mua bán lẻ.
Các hiệp hội thẻ tín dụng và các tổ chức tài chính đang chuyển đổi các loại thẻ ghi nợ và thẻ
tín dụng truyền thống sang thẻ thông minh đa ứng dụng.
Thẻ thông minh an toàn hơn thẻ tín dụng truyền thống và có thể được mở rộng tới nhiều dịch
vụ thanh toán khác. Trong lĩnh vực bán lẻ, nhiều loại dịch vụ này hướng đến những thị trường
mà thanh toán thường được thực hiện bằng tiền mặt và tốc độ, sự tiện lợi là rất quan trọng, ví dụ
các cửa hàng tiện dụng, trạm xăng, nhà hàng dịch vụ nhanh và thức ăn nhanh, rạp chiếu phim. Ví
tiền điện tử và thanh toán phi tiếp xúc là ví dụ cho loại hình dịch vụ giá trị gia tăng này.
Với một ứng dụng thẻ thông minh ví tiền điện tử, tiền có thể được đưa vào thẻ, lấy ra từ tài
khoản ngân hàng của chủ thẻ. Tài khoản của chủ thẻ nhanh chóng được ghi nợ và số tiền được
chuyển tới một tài khoản trôi (float account) ở ngân hàng hoặc tới người vận hành hệ thống.
Giao dịch này được thực hiện trực tuyến và được mã số định dạng cá nhân (Personal
Identification Number –PIN) bảo vệ giống như tiền được rút ra khỏi máy ATM. Chủ thẻ có thể
sử dụng ví tiền điện tử ở bất cứ địa điểm bán hàng (Point of Sale - POS) nào mà ví tiền điện tử
được chấp nhận. Khi ví tiền điện tử được sử dụng, số tiền được chuyển từ ví tiền điện tử tới thiết
bị cuối và số tiền còn lại trong ví tiền sẽ được điều chỉnh. Sau khi giao dịch, hệ thống chủ ví tiền
số hóa ghi nợ cho tài khoản trôi của ngân hàng phát hành và ghi có cho tài khoản của người bán.
- Chuyển tiếp phí trong giao thông công cộng.
Trong những thành phố lớn ở Mỹ nhiều nước khác, người đi làm thường phải lái xe tới nơi
đậu xe, lên tàu và sau đó di chuyển qua một hoặc nhiều xe điện ngầm, xe buýt để tới nơi làm
việc. Nếu quá trình đó đòi hỏi sự kết hợp của tiền mặt và nhiều loại vé khác nhau thì nó sẽ rất
phức tạp và rắc rối. Sự bất tiện này đã không khuyến khích người đi làm sử dụng phương tiện
công cộng. Để loại bỏ sự bất tiện này, hầu hết người vận hành chuyển tiếp chính ở Mỹ đang thực
hiện những hệ thống vé phí thẻ thông minh. Chính phủ Liên bang Mỹ cũng cũng khuyến khích
những người chủ trợ cấp cho nhân viên sử dụng giao thông công cộng. Các nhà vận hành chuyển
tiếp của nhiều thành phố lớn trên thế giới đang chuyển từ hệ thống phí không hợp nhất, phức tạp
sang hệ thống đòi hỏi chỉ một thẻ phi tiếp xúc duy nhất, dù có bao nhiêu kiểu giao thông hoặc có
bao nhiêu hãng giao thông và các công ty liên quan tham gia.
Một số nhà vận hành chuyển tiếp ở Mỹ đang tìm kiếm đối tác là các đại lý bán lẻ và các tổ
chức tài chính để kết hợp thẻ chuyển tiếp của họ với thẻ thanh toán có thể được sử dụng để mua
hàng hóa và dịch vụ như bữa ăn nhỏ, phí qua cầu, phí đỗ xe, mua thức ăn trong nhà hàng hoặc
cửa hàng tạp phẩm gần trạm chuyển tiếp.
Bên cạnh việc giải quyết phí chuyển tiếp, thẻ thông minh và hệ thống thanh toán điện tử khác
được sử dụng cho những ứng dụng giao thông khác, ví dụ chấp nhận thanh toán từ thẻ thông
minh trả trước đối tới iền đỗ xe, phí giao thông.
- Định dạng điện tử (electronic identification – e-ID) 13 lOMoARcPSD|40534848
Bởi vì thẻ thông minh có khả năng lưu trữ thông tin cá nhân bao gồm ảnh, nhận dạng sinh
trắc học, chữ ký số hóa và chìa khóa an toàn cá nhân nên chúng được sử dụng trong nhiều loại
nhận dạng, kiếm soát truy cập và ứng dụng xác nhận. Ví dụ, một vài nước như Trung Quốc, Ấn
Độ, Bỉ đã lên kế hoạch hoặc thử nghiệm đưa ra chương trình thẻ thông minh định dạng quốc gia.
Thẻ được thiết kế để giảm thủ tục ID và người dân có thể di chuyển tự do hơn trong nước. Thẻ
ID có kích thước như thẻ ngân hàng tiêu chuẩn và sẽ sử dụng con chip phi tiếp xúc.
- Bảo vệ sức khỏe
Nói chung, thẻ thông minh được sử dụng để lưu trữ dữ liệu, định dạng và xác nhận chủ thẻ,
cho phép hoặc giới hạn khả năng truy cập tới các công trình vật lý hoặc nguồn thông tin. Trong
việc bảo vệ sức khỏe, thẻ thông minh có những khả năng khác nhau, bao gồm:
- Lưu trữ thông tin y khoa cần thiết trong các trường hợp khẩn cấp.
- Tránh cho bệnh nhân phải cầm nhiều đơn thuốc của các bác sĩ khác nhau.
- Kiểm tra định dạng của bệnh nhân và thông tin về bảo hiểm
- Rút ngắn thời gian làm thủ tục nhập viện và khi giải quyết các trường hợp khẩn cấp.
- Cung cấp cho các bác sĩ đa khoa sự truy cập an toàn vào bệnh án của một bệnh nhân.
- Đấy nhanh quá trình thanh toán và khiếu nại.
- Bệnh nhân có thể truy cập vào hồ sơ bệnh án qua Internet.
Mặc dù thẻ thông minh bảo vệ sức khỏe đã được xúc tiến đối với việc lưu kho dữ liệu (ví dụ
lưu giữ thông tin y khoa cần thiết), nhưng trên thực tế hầu hết những thẻ này chỉ được sử dụng
để kiểm tra quyền đối với các dịch vụ bảo vệ sức khỏe. Đây là lĩnh vực sử dụng trước hết của
chúng, ví dụ ở Đức và Pháp có hai chương trình thẻ thông minh bảo vệ sức khỏe lớn nhất thế giới.
Một trong những xu thế khác trong bảo vệ sức khỏe là sử dụng PKI để đảm bảo an toàn truy
cập vào dữ liệu bảo vệ sức khỏe được lưu giữ trên các mạng. Trong trường hợp này, thẻ thông
minh chứa đựng không chỉ mã khóa cần thiết đối với bác sĩ đa khoa bảo vệ sức khỏe truy cập
vào dữ liệu của bệnh nhân, mà còn truy cập tới dữ liệu được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của
những mạng khác. Ở Pháp, thế hệ tiếp theo của thẻ an toàn xã hội điện tử được sử dụng trong
thanh toán bảo vệ sức khỏe đang tích hợp hệ thống mật mã trên cơ sở PKI. Chương trình thẻ
thông minh cho bảo vệ sức khỏe đang được triển khai ở một số nước Châu Âu và Châu Á bao
gồm Úc, Bỉ, Cộng hòa Séc, Phần Lan, Đức, Ý, Hàn Quốc, Malaxia, Netherland, Na Uy, Rumani,
Slôvenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Đài Loan và Vương Quốc Anh. Trong tất cả các nước này,
vấn đề bảo vệ sức khỏe do nhà nước cấp ngân sách hoặc nhà nước thực hiện. Vì lý do này, nhiều
nước đã tiến hành hoặc đang trong quá trình triển khai thẻ thông minh ID ứng dụng đa năng bổ
sung thêm chức năng bảo vệ sức khỏe. Thẻ ID của Malaxia đã có thông tin bảo vệ sức khỏe. Do
lo lắng về quyền tự do công dân và bí mật riêng tư, nhiều người do dự về dữ liệu sức khỏe cá
nhân của họ bị lẫn lộn với dữ liệu khác trong một thẻ. Hầu hết mọi người thích mang thẻ riêng,
mặc dù thực tế là hệ điều hành thẻ thông minh có thể đảm bảo sự tách biệt an toàn ứng dụng này với ứng dụng khác.
Đảm bảo an toàn thẻ thông minh 14 lOMoARcPSD|40534848
Thẻ thông minh lưu trữ và cung cấp khả năng truy cập vào các tài sản có giá trị khác (ví dụ
tiền điện tử) hoặc thông tin nhạy cảm (ví dụ như bệnh án). Vì vậy, chúng phải được đảm bảo an
toàn chống lại những kẻ trộm, gian lận hoặc lạm dụng. Nói chung, thẻ thông minh an toàn hơn
các thẻ thanh toán thông thường trước đây. Nếu một số người lấy trộm được một thẻ thanh toán,
số thẻ cũng như chữ ký của người chủ thẻ nhìn thấy rõ ràng. Mặc dù khó có thể giả mạo chữ ký,
nhưng trong một số trường hợp người bán hàng chỉ đòi hỏi số thẻ để thực hiện thanh toán. Sự
bảo vệ duy nhất đối với người chủ thẻ là có sự giới hạn trong số tiền họ sẽ chịu trách nhiệm (ví
dụ ở Mỹ là 50$). Nếu như thẻ lưu trữ giá trị bị đánh cắp (hoặc chủ thẻ làm mất), người chủ thẻ
ban đầu có thể bị lạm dụng.
Mặt khác, nếu thẻ thông minh bị mất cắp, kẻ cắp khó có khả năng sử dụng thẻ. Một số thẻ
thông minh chỉ ra số tài khoản, nhưng nhiều thẻ không chỉ ra thông số này. Trước khi thẻ sử
dụng thẻ, người chủ thẻ có thể bị yêu cầu nhập số PIN kết nối với thẻ. Về mặt lý thuyết, khó có
thể “hack” vào một thẻ thông minh. Hơn nữa, hầu hết các thẻ hiện giờ lưu trữ thông tin ở dạng
mã hóa. Thẻ thông minh có thể cũng mã hóa và giải mã dữ liệu được tải về hoặc đọc từ thẻ. Do
những nhân tố này, khả năng hack một thẻ thông minh được xếp vào cuộc tấn công “loại 3”,
nghĩa là chi phí hack và sử dụng thẻ lớn hơn nhiều lợi ích thu được.
Thẻ lưu trữ giá trị (Stored value card)
Thẻ lưu trữ giá trị trông giống thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng, hoạt động giống thẻ ghi nợ và thẻ
tín dụng. Giá trị tiền tệ của thẻ lưu trữ giá trị được tải về trước trên thẻ. Xét từ góc độ kỹ thuật và
vật lý, thẻ lưu trữ giá trị khác biệt đối với thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng. Thẻ lưu trữ giá trị làm bằng
nhựa và có vạch từ tính ở mặt sau thẻ, có thể không có tên của chủ thẻ in trên thẻ. Giá trị tiền tệ
của thẻ được lưu trong vạch từ tính. Điều này phân biệt thẻ lưu trữ giá trị với thẻ thông minh.
Với thẻ thông minh, giá trị được lưu trong con chip. Thẻ lưu trữ giá trị cũng có thể được sử dụng
để thanh toán trực tuyến hoặc ngoại tuyến giống như cách thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng được sử
dụng- nhờ vào cùng mạng lưới, truyền thông mã hóa và giao thức ngân hàng điện tử. Sự khác
biệt về thẻ lưu trữ giá trị là mọi người có thể có thẻ mà không cần có điều kiện tài chính tiên
quyết hoặc một tài khoản ngân hàng hiện hành bên cạnh.
Thẻ lưu trữ giá trị có hai loại: thẻ mua hàng sử dụng với một mục đích và thẻ mua hàng sử
dụng với nhiều mục đích. Thẻ mua hàng sử dụng với một mục đích được phát hành bởi một
người bán đặc biệt hoặc nhóm người bán, và chỉ có thể được sử dụng để mua hàng từ người bán
hoặc nhóm người bán đó. Thẻ phố buôn bán (mall cards), thẻ lưu trữ, thẻ quà, thẻ điện thoại trả
trước là những ví dụ của thẻ mua hàng với một mục đích. Ngược lại, thẻ mua hàng sử dụng với
nhiều mục đích có thể được sử dụng để thực hiện giao dịch ghi nợ ở nhiều cửa hàng bán lẻ. Thẻ
mua hàng với nhiều mục đích cũng có thể sử dụng cho mục đích khác như nạp tiền trực tiếp hoặc
rút tiền từ máy ATM. Một số thẻ sử dụng với nhiều mục đích được phát hành bởi các định chế
tài chính và và các hiệp hội thẻ có danh tiếng như Visa hoặc MasterCard. Chúng có thể được sử
dụng ở mọi nơi mà loại thẻ này được chấp nhận. Thẻ trả lương (Payroll), thẻ phúc lợi chính phủ
và thẻ ghi nợ trả trước là ví dụ cho loại thẻ mua hàng sử dụng với nhiều mục đích.
Thẻ lưu giữ giá trị có thể có được bằng nhiều cách thức khác nhau. Người chủ hoặc cơ quan
chính phủ có thể phát hành thẻ như thẻ trả lương hoặc thẻ phúc lợi thay cho séc hoặc tiền gửi
trực tiếp. Thẻ quà được mua và tải về bởi người bán hoặc nhóm người bán. Thẻ ghi nợ trả trước 15 lOMoARcPSD|40534848
có thể được mua qua điện thoại, trực tuyến hoặc ở cá nhân nào đó tại các định chế tài chính và
đại lý phi tài chính. Thẻ ghi nợ trả trước có thể được cấp quỹ bởi tiền mặt, chuyển giao ngân
hàng hữu tuyến, lệnh chi tiền, séc tiền mặt, thẻ tín dụng khác, hoặc trực tiếp từ tiền trả lương và
các khoản chi trả của chính phủ.
Cùng với nhiều vấn đề khác, sự lựa chọn thẻ ghi nợ trả trước góp phần tạo nên một cách thức
tương đối ít rủi ro để giáo dục cho thanh thiếu niên tinh thần trách nhiệm về phương diện tài
chính. Các doanh nghiệp, tổ chức có xu hướng mở rộng chương trình chi trả tiền trực tiếp vào tài
khoản nhân viên, điều này góp phần tăng trưởng thị trường thẻ ghi nợ trả trước. Giống như chi
trả tiền trực tiếp vào tài khoản, thẻ tiền lương có thể giảm đáng kể sự quá tải về hành chính. Thẻ
tiền lương đặc biệt hữu ích đối với những công ty trong các ngành y tế, bán lẻ và những ngành
khác nơi mà lực lượng lao động là lao động bán thời gian hoặc lao động thời vụ, hầu như không có tài khoản ngân hàng. Vi thanh toán
Là hình thức thanh toán với những đơn hàng có giá trị thấp, thường dưới 10 USD. Một số
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ: BitPass (bitpass.com); Paystone (paystone.com); PayLoadz
(payloadz.com); Peppercoin (peppercoin.com). Như đã nói ở trên, thẻ tín dụng không hoạt động
tốt với những thanh toán nhỏ như vậy. Người bán chấp nhận thẻ tín dụng phải trả một phí giao
dịch tối thiểu từ 25 đến 35 cents, và trả thêm từ 2 đến 3 % trị giá món hàng. Phí này tương đối
không đáng kể đối với các giá trị thanh toán thẻ tín dụng trên 10$, nhưng là quá cao đối với
những giao dịch nhỏ. Thậm chí nếu phí giao dịch nhỏ hơn, phần lớn các thanh toán giá trị nhỏ
được thực hiện bởi những người dưới 18 tuổi mà nhiều người trong số đó không có thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ.
Nhiều công ty đã ra sức phát triển các hệ thống thanh toán điện tử giá trị nhỏ. Mặc dù mỗi
sản phẩm thanh toán dưới 10$, nhưng các công ty thực hiện thanh toán theo nhiều cách khác nhau:
- BitPass: Để sử dụng BitPass (bitpass.com), người tiêu dùng trước hết thiết lập một “tài
khoản người mua” và nhập tiền vào tài khoản thông qua PayPal hoặc thẻ tín dụng, giống như
việc làm với thẻ trả trước hoặc thẻ lưu trữ giá trị. Đối với người bán và người cung cấp, BitPass
có thể được lưu gửi hoặc thực hiện bằng thêm phần mềm cổng vào BitPass tới site TMĐT. Khi
người mua nhấp chuột vào nội dung kích hoạt BitPass, họ sẽ được phần mềm BitPass nhắc nhở
nhập mật khẩu. Một khi người mua được xác nhận và chấp nhận, tài khoản BitPass của người
mua được ghi nợ và người bán được thanh toán hoặc qua PayPal hoặc bằng chuyển tiền điện tử.
BitPass có khoảng 1000 người bán và cung cấp trong chương trình.
- Paystone: Với Paystone (paystone.com), người mua thiết lập một tài khoản trả trước sử
dụng dịch vụ thanh toán hóa đơn của ngân hàng người mua hoặc bằng cách chuyển mặt vào bất
kỳ tài khoản nào thuộc Ngân hàng Mỹ. Người bán hoặc người cung cấp thực hiện Paystone bằng
cách thêm đường dẫn đặc biệt tới hệ thống thanh toán điện tử giá trị nhỏ của Paystone. Khi
người mua nhấp chuột vào đường dẫn tới Paystone, người mua được đưa đến hệ thống Paystone,
nơi mà người mua nhập mật khẩu của họ. Tài khoản của người mua được ghi nợ và người mua
được dẫn trở lại nội dung mà họ đã mua. 16 lOMoARcPSD|40534848
- PayLoadz: PayLoadz (payloadz.com) hoạt động kết hợp với PayPal. Người mua thực sự
mua nội dung thông qua PayPal. Để sử dụng PayLoadz, người bán hoặc người cung cấp cần thiết
lập tài khoản ở cả PayPal và PayLoadz và thêm đường dẫn PayLoadz đặc biệt tới trang thanh
toán điện tử của họ. Khi việc mua được thực hiện, site của PayLoadz hoạt động đằng sau site của
PayPal để hoàn thành giao dịch và để báo cho người mua bằng thư điện tử nơi họ có thể lấy được nội dung họ đã mua.
- Peppercoin: Với Peppercoin (peppercoin.com) không có sự trả trước. Người sử dụng nhập
thông tin thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ khi họ muốn mua hàng. Để tránh phí giao dịch liên quan
đến việc mua bán bằng thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng, phần mềm Peppercoin hoạt động trên nền, tập
hợp những cuộc mua của nhiều người mua và người bán khác nhau thành một vài giao dịch lớn.
Theo cách này sẽ giảm được chi phí giao dịch cho người bán và người mua.
Hệ thống thanh toán séc điện tử
Việc sử dụng séc điện tử đang phát triển nhanh chóng. Người bán hàng trên Web hy vọng
rằng séc điện tử sẽ làm tăng doanh thu bằng cách tiếp cận khách hàng không có thẻ tín dụng hoặc
không sẵn sàng cung cấp số thẻ tín dụng trực tuyến.
Một séc điện tử là một phiên bản điện tử hoặc đại diện cho séc giấy. Séc điện tử chứa đựng
thông tin tương tự như séc giấy, có thể được sử dụng ở bất cứ chỗ nào mà séc giấy được sử dụng
và dựa trên khung pháp lý tương tự. Séc điện tử hoạt động về cơ bản là giống séc giấy, nhưng ở
hình thức thuần túy điện tử với ít các bước thủ công hơn. Với việc mua bằng séc điện tử trực
tuyến, người mua đơn giản cung cấp cho người bán số tài khoản của mình, số chỉ dẫn ngân hàng
chín ký tự, loại tài khoản ngân hàng, tên trong tài khoản ngân hàng, và số tiền thanh toán. Số tài
khoản và số chỉ dẫn được trình bày ở cuối tờ séc trong các ký tự và các số nhận dạng ký tự mực
từ tính (MICR –Magnetic Ink Character Recognition).
Séc điện tử dựa trên hoạt động ngân hàng và kinh doanh hiện hành và có thể được sử dụng
bởi bất kỳ doanh nghiệp nào có tài khoản séc, bao gồm cả các doanh nghiệp nhỏ và vừa không
thể áp dụng các hình thức thanh toán điện tử khác (như thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ). Séc điện tử
và những hình thức thanh toán tương đương cũng có thể được sử dụng đối với mua hàng giữa cá
nhân với nhau. Trong trường hợp này, người bán nhận một séc giấy từ người mua tại điểm bán
hàng, sử dụng thông tin MICR và kiểm tra số chỉ dẫn ngân hàng để hoàn thành giao dịch, sau đó
làm mất giá trị và trả nó về cho người mua.
Hầu hết các doanh nghiệp dựa vào phần mềm bên thứ ba để thực hiện thanh toán séc điện tử.
CheckFree, Telecheck, AmeriNet, Paymentech và Authorize.Net là một số hãng lớn bán phần
mềm và hệ thống cho phép người bán trực tuyến chấp nhận và xử lý séc điện tử trực tiếp từ một
website. Phần lớn những phần mềm được các hãng khác nhau cung ứng hoạt động theo cùng một cách thức. 17 lOMoARcPSD|40534848 Người mua Ngân hàng của Authorize.net Trung tâm Người bán thanh toán bù trừ tự động Tài khoản ngân Ngân hàng
hàng của người bán của người mua
Hình 6.4: Quy trình thanh toán séc điện tử của Authorize.Net
Hệ thống được chỉ ở hình 6.4 dựa trên Authorize.Net, là điển hình cho các quá trình cơ bản
thường được sử dụng để hỗ trợ cho séc điện tử. Về cơ bản, quá trình gồm bảy bước. Đầu tiên,
người bán nhận được sự cấp phép viết tay hoặc điện tử từ khách hàng nạp tiền vào tài khoản
ngân hàng của họ (bước 1). Tiếp theo, người bán truyền một cách an toàn các thông tin về giao
dịch đến máy chủ cổng thanh toán của Authorize.Net (bước 2). Giao dịch được chấp nhận hoặc
bị từ chối là dựa vào tiêu chí của cổng thanh toán. Nếu được chấp nhận, Authorize.Net định dạng
thông tin giao dịch và gửi chúng như một giao dịch thanh toán bù trừ tự động tới ngân hàng
ODFI (Originating Depository Financial Institution) của Authorize.Net với phần còn lại của giao
dịch được nhận ngày hôm đó. Ngân hàng của Authorize.Net tiếp nhận thông tin giao dịch và gửi
chúng đến Mạng trung tâm thanh toán bù trừ tự động để xử lý. Mạng trung tâm thanh toán bù trừ
tự động sử dụng thông tin tài khoản ngân hàng đã được cung cấp với giao dịch để xác định ngân
hàng nắm giữ tài khoản của khách hàng (bước 4). Mạng trung tâm thanh toán bù trừ tự động
hướng dẫn ngân hàng nắm giữ tài khoản của khách hàng thực hiện thanh toán hoặc hoàn trả lại
tài khoản khách hàng (khách hàng là người nhận). Ngân hàng nắm giữ tài khoản của khách hàng
chuyển tiền từ tài khoản của khách hàng sang Mạng trung tâm thanh toán bù trừ tự động (bước
5). Mạng trung tâm thanh toán bù trừ tự động chuyển tiếp tiền tới ngân hàng của Authorize.Net.
Ngân hàng của Authorize.Net gửi trả lại Authorize.Net (bước 6). Sau giai doạn xử lý ngân quỹ,
Authorize.Net thiết lập một giao dịch thanh toán bù trừ tự động riêng biệt để đưa tiền thu được
dạng séc điện tử tới tài khoản ngân hàng của người bán (bước 7).
Như hình 6.5 minh họa quá trình thanh toán bằng séc điện tử ở Mỹ dựa hoàn toàn vào Mạng
trung tâm thanh toán bù trừ tự động (Automated Clearing House – AHC). Mạng trung tâm thanh
toán bù trừ tự động là một hệ thống chuyển khoản điện tử định hướng khối toàn quốc cung cấp
dịch vụ bù trừ tự động thanh toán điện tử liên ngân hàng cho tất cả các định chế tài chính tham
gia. Hệ thống Dự trữ Liên bang và Mạng thanh toán điện tử hoạt động như các trung tâm thanh
toán bù trừ tự động. Chúng chuyển và nhận các dòng thanh toán ACH. Các dòng ACH có hai
loại: các dòng tín dụng hoặc các dòng ghi nợ. Một dòng tín dụng ACH ghi có vào tài khoản của
người nhận. Ví dụ, khi một khách hàng thanh toán một hóa đơn được một công ty gửi tới, công
ty là người nhận mà tài khoản của công ty được ghi có. Mặc khác, dòng ghi nợ ghi nợ cho tài 18 lOMoARcPSD|40534848
khoản của người nhận. Ví dụ, nếu một khách hàng cấp phép thanh toán trước cho một công ty,
sau đó, khách hàng là người nhận và tài khoản của khách hàng được ghi nợ.
Thanh toán bằng séc điện tử có rất nhiều lợi ích :
- Người bán cắt giảm được chi phí quản lý
- Người bán nhận được tiền từ người mua nhanh hơn, an toàn hơn và không mất thời gian xử lý giấy tờ
- Cải tiến hiệu quả quy trình chuyển tiền đối với cả người bán và tổ chức tài chính
- Cung cấp thông tin chi tiết về việc mua hàng trên tài khoản của người mua
- Không yêu cầu khách hàng tiết lộ các thông tin về tài khoản của mình cho các nhân khác trong quá trình giao dịch
- Không yêu cầu khách hàng phải thường xuyên gửi các thông tin tài chính nhạy cảm trên web
- Tiết kiệm so với thanh toán bằng thẻ tín dụng cho người bán
- Nhanh và tiện lợi hơn so với séc giấy
Phương pháp sử dụng séc điện tử
- Phương pháp in và thanh toán “Print & Pay”. Để sử dụng phương thức này khách hàng
phải mua một phần mềm cho phép mình in những tấm séc ra và chuyển séc đó đến ngân hàng
của mình để nhận tiền. Quá trình xử lý séc trực tuyến cũng giống như séc thông thường, khi phát
sinh thanh toán séc được chuyển đến ngân hàng và phải được ngân hàng chứng nhận thì séc đó mới có giá trị.
- Trung tâm giao dịch, giống như phương pháp “Print and Pay”, người sử dụng séc phải nhập
tất cả các thông tin trên séc vào form tại cửa hàng ảo. Những thông tin đó sẽ được mã hoá và
chuyển trực tiếp tới ngân hàng và sẽ được xử lý trong vòng 48 giờ. Sau đó, toàn bộ số tiền của
giao dịch sẽ được chuyển từ tài khoản của người mua sang tài khoản của người bán. Kèm theo
đó, là một “báo có” trực tuyến vào tài khoản của người bán và một “báo nợ” được gửi bằng
email cho người mua. Phương pháp này nhanh hơn phương pháp “print & pay” bởi vì tất cả các
thông tin cần thiết của khách hàng sẽ được nhập trực tiếp trên mạng ngay khi giao dịch đang
được thực hiện, và những tấm séc đó luôn được đảm bảo có giá trị.
Hệ thống xuất trình và thanh toán hóa đơn điện tử
Hóa đơn là một chứng từ yêu cầu thanh toán đối với một đơn hàng đã được thực hiện trước đó.
Hóa đơn điện tử cũng được nói tới như một hệ thống xuất trình và thanh toán hóa đơn điện
tử (Electronic Bill Presentment and Payment - EBPP). Xuất trình liên quan đến việc lấy thông tin
được in trên hóa đơn và lưu nó trong máy chủ web xuất trình hóa đơn. Khi hóa đơn có hiệu lực
trên máy chủ Web thì khách hàng có thể truy cập vào hóa đơn thông qua trình duyệt, xem lại và
thanh toán hóa đơn qua phương tiện điện tử. Sau khi đã nhận được thanh toán, hóa đơn phải
được đưa trở lại hệ thống báo thu tài khoản của chủ hóa đơn. Nói chung, thanh toán được chuyển
từ tài khoản sec của khách hàng thông qua ACH. Trong hệ thống hóa đơn điện tử, khách hàng có
thể là các cá nhân hoặc là công ty. 19 lOMoARcPSD|40534848
Cho đến nay, phần lớn khách hàng vẫn thanh toán hóa đơn theo cách truyền thống bằng cách
gửi séc giấy thông qua bưu điện, tuy nhiên hóa đơn điện tử ngày càng được sử dụng nhiều hơn.
Các phương thức thanh toán hóa đơn điện tử
Có 3 cách để thanh toán hóa đơn trên internet:
- Thanh toán thông qua một ngân hàng trực tuyến: Khách hàng đăng ký sử dụng dịch vụ
thanh toán hóa đơn trực tuyến của một ngân hàng và thực hiện tất cả việc thanh toán từ một
website duy nhất. Một số ngân hàng cho phép sử dụng miễn phí đối với tài khoản ký gửi, nhưng
có một số ngân hàng đề nghị miễn phí nếu chủ tài khoản duy trì một bản cân đối tối thiểu.
Những ngân hàng khác lại yêu cầu phí hàng tháng từ 5 đến 7$.
- Thanh toán trực tiếp tại site người lập hóa đơn: Khách hàng thực hiện việc thanh toán tại
website của người lập hối phiếu hoặc bằng thẻ tín dụng, hoặc cung cấp cho người lập hối phiếu
thông tin cần thiết để để hoàn thành việc rút tiền trực tiếp từ tài khoản của khách hàng. 1 Khách hàng 2 Người lập 3 4 Tổ chức tài chính 5
Nhà cung cấp dịch vụ tài của khách hàng
chính của người lập hóa đơn
Hình 6.5. Quy trình thanh toán bằng hối phiếu điện tử
Hình 6.5 chỉ ra những bước chung trong quá trình EBPP của người lập hóa đơn. Người lập
hóa đơn cung cấp những thông tin hóa đơn cần thiết cho khách hàng trên website của mình hoặc
ở trên những trang Web cung cấp dịch vụ thanh toán hóa đơn (bước 1). Khi khách hàng nhìn
thấy hóa đơn (bước 2), khách hàng sẽ cấp phép và bắt đầu việc thanh toán trên website đó (bước
3). Việc thanh toán có thể được thực hiện bởi thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ hoặc ghi nợ ACH. Sau đó,
người lập hóa đơn tiến hành một giao dịch thanh toán (bước 4), chuyển tiền thông qua hệ thống
thanh toán, ghi có cho người lập hóa đơn và ghi nợ cho khách hàng (bước 5).
- Người cung cấp dịch vụ hóa đơn: Khách hàng đăng ký để nhận và thanh toán hóa đơn cho
nhiều người lập hóa đơn (đăng ký dịch vụ). Thông tin đăng ký của khách hàng được chuyển tiếp
tới tất cả người lập hóa đơn. Đối với mỗi chu kỳ thanh toán hóa đơn, người lập hóa đơn gửi một
bản tổng hợp hóa đơn hoặc chi tiết hóa đơn cho người cung cấp dịch vụ hóa đơn (xuất trình).
Bản tổng hợp hóa đơn liên kết với chi tiết hóa đơn lưu cùng với người lập hóa đơn hoặc người
cung cấp dịch vụ hóa đơn được chuyển đến người tập hợp dữ liệu và sẵn sàng được khách hàng
sử dụng (xuất trình). Khách hàng xem xét hóa đơn và thực hiện theo lời chỉ dẫn thanh toán
(thanh toán). Người cung cấp dịch vụ khách hàng (CSP) hoặc người tập hợp dữ liệu thực hiện
một giao dịch thanh toán tín dụng chuyển tiền thông qua hệ thống thanh toán tới người lập hóa
đơn (thanh toán). Dữ liệu về số tiền chuyển được cung cấp cho người lập hóa đơn là người đưa
những thông tin này tới hệ thống báo thu tài khoản của chính mình (đưa thông tin lên).
* Lợi ích của hóa đơn điện tử 20 lOMoARcPSD|40534848
Trên quan điểm của một số hãng hóa đơn, hóa đơn điện tử có một số ưu việt. Lợi ích dễ
nhận thấy nhất là giảm chi phí liên quan tới lập hóa đơn và xử lý thanh toán. Con số ước tính cho
thấy chi phí đối với mỗi hóa đơn giấy là từ 0,75 đến 2,70 đô la, còn hóa đơn điện tử là từ 0,25
đến 0,30 đô la mỗi hóa đơn. Có những ngành cho biết trung bình tiết kiệm chi phí từ 1 đến 5 đô
la cho mỗi hóa đơn điện tử. Hóa đơn điện tử cũng làm cho dịch vụ khách hàng tốt hơn. Khách
hàng không những được các đại diện chăm sóc khách hàng phục vụ, có thể nhìn thấy trực tiếp
hóa đơn được xuất trình như thế nào, mà còn có thể truy cập tới Hệ thống các câu hỏi thường gặp và Hộp thư trợ giúp.
Một ưu việt khác liên quan đến quảng cáo. Một hóa đơn giấy có thể bao gồm cả phần quảng
cáo và marketing kèm thêm, tuy nhiên mọi khách hàng đều thường nhận được những quảng cáo
và tài liệu giống nhau. Với hóa đơn điện tử, phần nội dung gắn kèm có thể được cá biệt hóa đối
với từng khách hàn. Nếu như khách hàng trả lời phần phần nội dung gắn kèm thì rất dễ dàng
đánh giá được quảng cáo có kết quả như thế nào.
Hóa đơn điện tử cũng đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng. Hóa đơn điện tử giúp giảm
những chí phí khách hàng loại bỏ chi phí séc, bưu phẩm phí và phong bì. Hóa đơn điện tử làm
đơn giản hóa và tập trung hóa việc xử lý thanh toán và làm thuận lợi hóa quá trình hạch toán.
Khách hàng có thể xem lại và thanh toán hóa đơn gần như mọi lúc. Với cách này, khách hàng
kiểm soát trực tiếp thời gian thanh toán.
Đã từ lâu, CheckFree (checkfree.com) là nhà bán hóa đơn điện tử bên thứ ba hàng đầu.
CheckFree được thành lập vào năm 1981 và hiện giờ có trụ sở ở Atlanta, bang Georgia.
CheckFree là bên cung cấp dịch vụ hóa đơn, tập hợp tất cả những hóa đơn của một khách hàng
thành một xuất trình thanh toán đơn nhất. Nó có thể thực hiện thanh toán với những công ty
không thực hiện hóa đơn điện tử. CheckFree phục vụ khoảng 6 triệu khách trong hơn 1000
doanh nghiệp và trên 350 tổ chức tài chính (bao gồm hầu hết các ngân hàng Mỹ). Bên cạnh
những dịch vụ này, CheckFree còn quản lý doanh mục vốn đầu tư, các sản phẩm và dịch vụ điều
hòa, chuyển khoản sec, xử lý hóa đơn điện tử và thanh toán, phân phối báo cáo điện tử, TMĐT
khách hàng, và trong nhiều năm nó dẫn đầu trong xử lý các thanh toán ACH. Hiện nay, hơn hai
phần ba các thanh toán ACH toàn quốc được CheckFree thực hiện. CheckFree nhắc nhở người
sử dụng nếu có vấn đề nẩy sinh với bất kỳ vụ thanh toán nào, người sử dụng có thể gửi những
thông tin về giao dịch cho Quicken hoặc Microsoft Money.See để hỗ trợ.
4. Thanh toán điện tử trong giao dịch B2B
Thanh toán B2B thường rộng hơn và phức tạp hơn nhiều so với các thanh toán B2C. Giá trị
thanh toán lên đến hàng trăm nghìn đô la, việc mua sắm và thanh toán liên quan đến nhiều mặt
hàng và phương tiện vận chuyển, thường gây ra những cuộc tranh cãi cần những biện pháp đặc
biệt để giải quyết. Hóa đơn điện tử đơn giản và hệ thống EBPP thiếu tính nghiêm ngặt và an toàn
để thực hiện thanh toán B2B.
a) Thực trạng thanh toán B2B
Thanh toán B2B là một phần của chuỗi cung ứng tài chính rộng lớn bao gồm mua sắm, quản
lý hợp đồng, thực hiện, tài chính, bảo hiểm, phân loại tín dụng, xác nhận gửi hàng, theo dõi đơn
hàng, chấp nhận thanh toán, kết nối chuyển tiền, vào sổ cái chung. Đứng trên góc độ người mua, 21 lOMoARcPSD|40534848
chuỗi cung ứng bao gồm quá trình từ mua đến thanh toán. Trên phương diện người bán, chuỗi
cung ứng nói trên liên quan đến chu kỳ từ nhận đơn đặt hàng đến thu tiền. Không phụ thuộc vào
góc độ người bán hay người mua, trong quản lý chuỗi cung ứng tài chính, mục đích là tối ưu hóa
các tài khoản (A/P) và tài khoản nhận (A/R), quản lý tiền mặt, vốn luân chuyển, chi phí giao
dịch, rủi ro tài chính và quản lý tài chính.
Không giống như chuỗi cung ứng lớn (vật lý), chuỗi cung ứng tài chính của hầu hết công ty
còn phi hiệu quả tạo nên bởi các một loạt các nhân tố, bao gồm :
- Thời gian cần thiết để tạo lập, chuyển khoản và xử lý các thủ tục giấy tờ.
- Chi phí và lỗi liên quan đến việc tạo lập và chỉnh sửa thủ công các tài liệu.
- Thiếu tính minh bạch trong kiểm kê và tiền mặt khi hàng hóa đang vận động trong chuỗi cung ứng.
- Có nhiều tranh cãi do dữ liệu sai sót hoặc thiếu.
- Các giải pháp bị tách biệt, không chỉ ra cách xử lý đồng bộ cả chu kỳ kinh doanh.
Những nhân tố phi hiệu quả này đặc biệt dễ nhận thấy trong A/P và A/R, nơi mà việc thanh
toán vẫn được thực hiện trên giấy tờ.
Các cuộc khảo sát doanh nghiệp cho thấy phần lớn các thanh toán B2B cho đến nay vẫn
thực hiện bằng các phương pháp truyền thống. Đa số thanh toán B2B vẫn được thực hiện bằng
séc và những rào cản đối với thanh toán điện tử về bản chất vẫn như vậy. Tuy nhiên, nhiều tổ
chức tỏ ý sẵn sàng chuyển từ thanh toán bằng séc sang thanh toán điện tử trong tương lai.
Thanh toán điện tử dược sử dụng ngày càng rộng rãi để giải ngân và thu ngân khi mà các
doanh nghiệp là người cung ứng hoặc khách hàng lớn. Tuy nhiên, không phụ thuộc vào mối
quan hệ thương mại giữa các doanh nghiệp, tín dụng ACH là hình thức thanh toán điện tử được
sử dụng rộng rãi nhất, sau đó là chuyển khoản hữu tuyến. Thẻ mua sắm và ghi nợ ACH ít khi được sử dụng.
Có nhiều rào cản đối với thanh toán điện tử. Hầu hết các công ty đều có thể liệt kê hàng loạt
nhân tố kìm hãm việc chuyển sang thanh toán điện tử. Bốn rào cản chính là: thiếu đội ngũ nhân
viên tin học, chưa có sự tích hợp giữa thanh toán và hệ thống kế toán, thiếu định dạng tiêu chuẩn
hóa cho các thông tin chuyển tiền và sự thiếu khả năng của các đối tác thương mại trong việc gửi
hoặc nhận thanh toán điện tử với thông tin chuyển tiền đầy đủ.
b) Hệ thống xuất trình và thanh toán hóa đơn doanh nghiệp (Enterprise Invoice
Presentment and Payment - EIPP)
Quá trình mà trong đó các công ty xuất trình hóa đơn và thực hiện thanh toán đối với một
công ty khác qua Internet gọi là Xuất trình và thanh toán hóa đơn doanh nghiệp (Enterprise
Invoice Presentment and Payment - EIPP). Đối với nhiều doanh nghiệp, việc xuất trình và thanh
toán tốn nhiều chi phí và thời gian. Chi phí có thể lên đến 15$ để có một hóa đơn giấy rồi từ 25
đến 50$ để giải quyết một hóa đơn có tranh cãi. Còn về mặt thanh toán, có khi mất 3 đến 5 ngày
để gửi một séc bằng bưu điện. Điều này có nghĩa là hàng triệu đô la trong thanh toán B2B đang
bị lãng phí, đồng thời làm giảm dòng tiền của người nhận và tăng lượng tiền họ phải vay để bù
vào khoản đó. Cũng như vậy, xử lý hóa đơn và tiền trả hàng năm có thể dẫn đến các sai sót, và 22 lOMoARcPSD|40534848
tiếp đó gây nên các tranh cãi làm chậm việc thanh toán. Mỗi công ty hàng năm thực hiện hàng
ngàn hóa đơn và thanh toán, việc giảm thời gian, chi phí hoặc giảm sai sót có thể giúp tiết kiệm
hàng triệu đô la. Theo như cuộc khảo sát gần đây của Quỹ tài trợ nghiên cứu tín dụng, Mỹ
(Credit Research Foundation), nguyên nhân chính mà các công ty chuyển sang giải pháp EIPP là
để thúc đẩy dòng tiền, dịch vụ khách hàng trong quá trình xử lý hóa đơn, chuyển tiền và hoàn
thiện những dữ liệu có thể được sử dụng để giúp giảm chi phí xử lý hóa đơn.
* Các mô hình EIPP
EIPP tự động hóa dòng công việc liên quan đến xuất trình và thanh toán. Giống EBPP, có ba
mô hình EIPP: trực tiếp người bán, trực tiếp người mua và người cung cấp dịch vụ.
- Trực tiếp người bán: Giải pháp này liên kết một người bán với nhiều người mua về việc
xuất trình hóa đơn. Người mua truy cập vào website của người bán rồi đăng nhập chương trình
EIPP của người bán. Người bán khởi tạo hóa đơn trong hệ thống và thông báo cho người mua
tương ứng rằng họ đã sẵn sàng để xem xét. Người mua truy cập và website người bán để xem xét
và phân tích hóa đơn. Người mua có thể cho phép thanh toán hoá đơn hoặc tiến hành thương
lượng. Trên cơ sở các quy tắc đã định trước, thương lượng có thể được chấp nhận, từ chối hoặc
xem xét lại một cách tự động. Khi việc thanh toán đã được cho phép và thực hiện, tổ chức tài
chính của người bán sẽ xử lý giao dịch thanh toán.
Mô hình này được sử dụng điển hình khi có quan hệ đã được thiết lập từ trước giữa người
mua và người bán. Nếu một người bán phát hành nhiều hóa đơn hoặc hóa đơn có giá trị cao, thì
sau đó có thể nhận được khoản thưởng đáng kể khi thực hiện EIPP. Chính vì lý do này mà mô
hình thường được các công ty hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, viễn thông, ngành phục vụ công
cộng, chăm sóc sức khỏe, ngành dịch vụ tài chính áp dụng.
- Trực tiếp người mua: Trong mô hình này, có một người mua trong khi nhiều người bán.
Người bán đăng nhập vào hệ thống EIPP của người mua ở website của người mua. Người bán
gửi hóa đơn tới EIPP của người mua, sử dụng định dạng của người mua. Khi một hóa đơn được
gửi, người mua sẽ được thông báo. Người mua xem xét và phân tích hóa đơn trên hệ thống.
Người mua thông báo mọi bất đồng đến người bán tương ứng. Trên cơ sở các quy tắc đã được
quy định từ trước, tranh luận có thể được chấp nhận, từ chối hoặc xem xét lại một cách tự động.
Một khi hóa đơn được chấp nhận, người mua sẽ cho phép thanh toán và tổ chức tài chính của
người mua tiến hành xử lý giao dịch.
Đây là mô hình đang phát triển, dựa trên vị trí chi phối của người mua trong các giao dịch
B2B. Nó được sử dụng khi người mua thực hiện khối lượng lớn hóa đơn. Các công ty như Wal-
Mart đang tiến hành thiết lập EIPP trực tiếp người mua.
- Người cung cấp dịch vụ: Đây là mô hình nhiều người bán - nhiều người mua, trong đó
người cung cấp dịch vụ đóng vai trò là trung gian thu gom và tập hợp hóa đơn từ nhiều người
bán và thanh toán từ nhiều người mua khác nhau. Người cung cấp dịch vụ là bên thứ ba không
chỉ cung cấp dịch vụ EIPP mà còn các dịch vụ tài chính khác (ví dụ như bảo hiểm, giữ các bản
giao kèo). Trong mô hình này, người bán và người mua đăng ký với hệ thống EIPP của người
cung cấp dịch vụ. người bán thiết lập và chuyển thông tin hóa đơn cho hệ thống EIPP. Người
cung cấp dịch vụ thông báo cho tổ chức người mua tương ứng là hóa đơn đã sẵn sàng. Người 23 lOMoARcPSD|40534848
mua xem xét lại và phân tích hóa đơn. Thương lượng có thể được thực hiện thông qua người
cung cấp dịch vụ EIPP. Trên cơ sở các quy tắc đã được định trước, tranh luận có thể được chấp
nhận, từ chối hoặc xem xét lại một cách tự động. Khi ngươi mua cho phép thanh toán hóa đơn,
người cung cấp dịch vụ tiến hành việc thanh toán. Việc thanh toán có thể được thực hiện hoặc
bởi tổ chức ngân hàng của người mua hoặc bởi tổ chức ngân hàng của người bán.
Mô hình người cung cấp dịch vụ giúp tránh được nhiều phiền phức kéo theo khi thực hiện
và hoàn tất một EIPP. Mô hình này đã phát triển ổn định trong những ngành mà nhiều người
mua cùng tin tưởng vào những người bán. Mạng lưới dịch vụ thanh toán Xign (XPSN,
xing.com), dịch vụ trao đổi toàn cầu (GXS), TradeGid (gxs.com) và Mạng lưới các nhà cung cấp
thương mại mở hoàn hảo (OSN, perfect.com) là những nhà cung cấp dịch vụ bên thứ ba liên kết
hàng ngàn nhà cung ứng và người mua. XPSN có hơn 10000 nhà cung ứng hoạt động trong
mạng lưới của họ, thực hiện hơn 20 tỷ đô la trong các giao dịch. Trading Grid của GSX duy trì
thương mại trực tuyến giữa 30000 khách hàng trên hơn 60 nước, thực hiện hơn một tỷ giao dịch
điện tử trị giá một nghìn tỷ đô la hàng hóa và dịch vụ. OSN của Công ty Thương mại hoàn hảo
kết nối hơn 8000 nhà cung ứng. Mỗi mạng lưới này đều giúp loại trừ việc tiếp xúc điểm -điểm
giữa người bán và người mua, tự động hóa các chức năng cơ bản của quá trình A/P bao gồm
nhận hóa đơn, sự thông qua, gửi hoá đơn, quản lý tranh chấp, chấp thuận và thanh toán; và bổ
sung và tích hợp với hệ thống mua sắm hiện hành của người mua và người bán.
* Các phương án thực hiện thanh toán trong EIPP
Có nhiều phương án trực tuyến để thực hiện thanh toán trong hệ thống EIPP. Các phương án
khác nhau về chi phí, tốc độ, khả năng kiểm tra, mức độ tiếp cận và kiểm soát. Lựa chọn phương
án cụ thể nào phụ thuộc vào yêu cầu của người bán và người mua. Có một số phương án thanh
toán B2B thường xuyên được dùng như sau:
- Mạng ACH: Mạng ACH chính là mạng làm nền tảng cho quá trình xử lý séc điện tử (đã đề
cập ở mục 6.2.3). Sự khác nhau là thanh toán B2B bị giới hạn bởi ba loại thay đổi phụ thuộc vào
lượng thông tin chuyển tiền đi kèm theo các thanh toán. Thông tin chuyển tiền giúp người mua
và người bán kiểm tra chi tiết hóa đơn hoặc một thanh toán cụ thể. Ba loại dòng thanh toán ACH
trong các giao dịch B2B là: (1), Tập trung và giải ngân tiền mặt (CCD – Cash Concentration or
Disbursement) là hình thức thanh toán đơn giản sử dụng cho các hóa đơn đơn lẻ, không có các
dữ liệu chuyển tiền đi kèm, được người mua khởi tạo và ghi có cho tài khoản người bán; (2), Tập
trung và giải ngân tiền mặt với phụ lục (CCD+ – Cash Concentration or Disbursement with
Addenda), giống như hình thức thanh toán CCD ngoại trừ nó có lượng nhỏ dữ liệu (đến 80 ký tự)
về chuyển tiền kèm theo; (3), Trao đổi thương mại tập đoàn (CTX – Corprate Trade Exchange)
thường được sử dụng để thanh toán các hóa đơn khác nhau và có lượng dữ liệu chuyển tiền lớn
(đến 9.999 dòng ghi, mỗi dòng đến 80 ký tự) kèm theo.
Không yêu cầu phần cứng đặc biệt bắt buộc phải có để sử dụng mạng ACH. Chi phí của
phần mềm để khởi tạo các giao dịch ACH phụ thuộc vào khối lượng giao dịch CTX. Khối lượng
CTX lớn đòi hỏi đầu tư lớn hơn. Bên cạnh chi phí phần cứng và phần mềm, các tổ chức tài chính
của người mua và người bán cũng yêu cầu trả phí tổn về tài liệu, duy trì, giao dịch và phí thực
hiện ngoại lệ đối với các giao dịch ACH. 24 lOMoARcPSD|40534848
- Thẻ mua sắm: Mặc dù thẻ tín dụng là công cụ được lựa chọn trong thanh toán B2C, nhưng
không phải là công cụ trên thị trường B2B. Trên thị trường B2B, các công ty và tổ chức tín dụng
lớn khuyến khích các doanh nghiệp và cơ quan chính phủ sử dụng thẻ mua sắm thay vì séc cho
những giao dịch giá trị thấp và lặp đi lặp lại.
Thẻ mua sắm (p-card) là thẻ thanh toán với mục đích đặc biệt được cấp cho nhân viên công
ty. Chúng được sử dụng để thanh toán những nguyên liệu và dịch vụ phi chiến lược (như đồ
dùng văn phòng, nội thất văn phòng, máy tính, dịch vụ sửa chữa và bảo trì, dịch vụ đưa tin và
dịch vụ lao động tạm thời) tới một mức giới hạn (thường từ 1000 đến 2000 đô la). Những mua
sắm này thường chiếm đa số về mặt số lượng các cuộc thanh toán của công ty, nhưng chiếm tỷ lệ
phần trăm rất nhỏ số tiền mà công ty phải bỏ ra. Thẻ mua sắm hoạt động tương tự như các thẻ
nạp tiền khác và được sử dụng trong cả mua sắm trực tuyến và ngoại tuyến. Sự khác biệt chủ yếu
giữa thẻ tín dụng và thẻ mua sắm là thẻ mua sắm là tài khoản không tuần hoàn, nghĩa là cần phải
thanh toán đầy đủ vào mỗi tháng, thường là trong vòng 5 ngày cuối thời hạn hối phiếu.
Thẻ mua sắm giúp các công ty và cơ quan chính phủ thống nhất được việc mua sắm của các
chủ thẻ khác nhau trong một tài khoản duy nhất và vì vậy có thể đưa ra một hóa đơn riêng thanh
toán được qua EDI, EFT hoặc séc điện tử. Điều này giúp giải phóng bộ phận mua sắm khỏi các
hoạt động mua sắm liên miên, không phải tổng hợp lại những hóa đơn riêng biệt. Với một hóa
đơn đơn lẻ, việc hạch toán được thực hiện nhanh hơn và giúp công ty và tổ chức có được chiết
khấu do thanh toán nhanh hơn. Một hóa đơn đơn lẻ giúp công ty và tổ chức phân tích dễ dàng
hơn hành vi chi tiêu của các chủ thẻ. Cuối cùng, giới hạn chi tiêu giúp dễ dàng hơn trong việc
kiểm soát việc mua sắm không được lên kế hoạch trước. Một số dự đoán cho rằng hiệu quả từ
việc sử dụng thẻ mua sắm có thể giám chi phí giao dịch từ 50 đến 90%.
- Dịch vụ chuyển tiền điện tử trực tuyến: Trong các hình thức thanh toán B2B trực tuyến,
dịch vụ chuyển tiền điện tử là hình thức thứ hai trên phương diện tần suất sử dụng, sau ACH. Ở
Mỹ, dịch vụ chuyển tiền điện tử là một hệ thống chuyển tiền được phát triển và duy trì bởi Hệ
thống dự trữ Liên bang Mỹ. Hình thức này được sử dụng điển hình trong các dịch thanh toán lớn,
nơi mà thời gian là yếu tố thiết yếu. Thực hiện giao dịch nhà đất, mua chứng khoán và thanh toán
các khoản vay là các ví dụ về dịch vụ chuyển tiền điện tử thường hay được sử dụng. Khi dịch vụ
chuyển tiền điện tử được sử dụng, một Ngân hàng dự trữ Liên bang được chỉ định sẽ ghi nợ cho
tài khoản ngân hàng của người mua và gửi lệnh chuyển tiền tới Ngân hàng dự trữ Liên bang của
người bán và sau đó ghi có cho tài khoản của người bán. Tất cả thanh toán nhờ dịch vụ chuyển
tiền điện tử được thực hiện ngay lập tức và không thể hủy bỏ được.
- Thư tín dụng trong thanh toán toàn cầu: Thư tín dụng được sử dụng khi thanh toán toàn
cầu B2B cần được thực hiện, đặc biệt là khi có những rủi ro lớn trong thanh toán. Thư tín dụng
còn được gọi là L/C hay tín thư được ngân hàng đại diện cho người mua (người nhập khẩu) phát
hành. Nó đảm bảo cho người bán (người xuất khẩu) rằng việc thanh toán hàng hóa hoặc dịch vụ
sẽ được thực hiện miễn là mọi điều khoản của L/C phải khớp với nhau. Trước khi tín dụng được
sử dụng, người bán và người mua thỏa thuận mọi điều khoản và điều kiện trong hợp đồng mua
bán. Công ty-bên mua sau đó hướng dẫn ngân hàng của mình phát hành tín thư phù hợp với hợp
đồng. Tín dụng có thể trả ngay hoặc trả định kỳ. Trả ngay có nghĩa là tiến hành thanh toán ngay
khi xuất trình tài liệu sau khi hàng cập cảng hoặc khi dịch vụ đã được cung cấp. Trả định kỳ có 25 lOMoARcPSD|40534848
nghĩa là người bán gia hạn thanh toán cho người mua thêm một khoảng thời gian nhất định (30,
60, 90 ngày, v.v…) sau khi xuất trình giấy tờ.
Các thoả thuận L/C đòi hỏi nhiều bước mà nếu thực hiện trực tuyến sẽ nhanh hơn nhiều so
với ngoại tuyến. Ví dụ, ngân hàng Royal của Canada giơí thiệu tới khách hàng một chương trình
được gọi là Trade View. chương trình này cho phép chuẩn bị trực tuyến một đơn xin cấp L/C.
Một khi được hoàn tất, đơn xin cấp sẽ được chuyển đến ngân hàng Royal để xem xét và xử lý.
Tín thư có thể được đưa ra trong vòng 24 giờ, mặc dù L/C trực tuyến có thể vẫn đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí.
Đối với người bán, lợi ích chính đem lại là giảm được rủi ro - ngân hàng đảm bảo giá trị tín
dụng cho người mua. Đối với quốc gia, nơi có tình hình chính trị và tài chính không ổn định thì
rủi ro có thể giảm khi L/C được xác nhận bởi một ngân hàng ở nước người bán hàng. Giảm rủi
ro cũng là đem lại lợi ích với người mua vì họ có thể đàm phán để đưa ra giá thấp hơn.
5. Các hệ thống thanh toán mới nổi (xem slide) Câu hỏi ôn tập
1. Trình bày các yêu cầu đối với hệ thống thanh toán điện tử
2. Hãy so sánh sự khác nhau giữa thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ. Tại sao thẻ tín dụng phổ biến
tại các nước phát triển hơn các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
3. Điều kiện để ứng dụng hệ thống xuất trình hóa và thanh toán hóa đơn điện tử EIPP tại
Việt Nam là gì? Lợi ích của nó đối với các doanh nghiệp Việt Nam?
4. Tại sao các hệ thống thanh toán ngang hàng P2P sẽ có lợi thế hơn trong vi thanh toán điện tử.
5. Tìm hiểu các dịch vụ ngân hàng điện tử của một ngân hàng thương mại Việt Nam qua
truy cập website của ngân hàng. 26