Chương 4: Hội Hóa
MỤC LỤC
1. Khái niệm hội hóa.........................................................................................................1
1.1 Khái niệm bản chất con người.................................................................................1
1.2 Khái niệm hội hóa...................................................................................................1
2. Diễn tiến nguyên tắc của quá trình hội hóa..............................................................2
2.1 Diễn tiến của quá trình hội hóa...............................................................................2
2.2 Các nguyên tắc của quá trình hội hóa......................................................................3
3. Các môi trường hội hóa bản.....................................................................................3
3.1 Môi trường gia đình.....................................................................................................3
3.2 Môi trường giáo dục nhà trường...............................................................................4
3.3 Những nhóm bạn bè.....................................................................................................5
3.4 Truyền thông đại chúng...............................................................................................5
4. Các chu kỳ của quá trình hội hóa..................................................................................7
1. Vị trí hội........................................................................................................................9
2. Địa vị hội vị thế hội.............................................................................................9
3. Vai trò hội....................................................................................................................11
3.1 Khái niệm...................................................................................................................11
3.2 Các loại vai trò hội................................................................................................12
1. Khái niệm hội hóa
Con người đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, đặc biệt các khoa học hội
trong đó hội học. Xét cho cùng thì hội loài người được hình thành từ những con
người đơn lẻ. Các nhân liên kết lại với nhau tạo thành nhóm, cộng đồng hội, quốc gia,
dân tộc. Tuy vậy, quan niệm về con người vẫn nhiều chiều cạnh khác nhau:
Con người thần bí.
Con người bản năng, sinh học.
Con người cái máy biết suy.
Quan điểm khoa học: Con người vừa một thực thể tự nhiên vừa một thực thể
hội.
Quan điểm của hội học: Con người (cá nhân) với cách những thể riêng
biệt, độc lập, độc lập, hiện hữu đang hoạt động trong một khoảng thời gian không
gian xác định với những điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Quan niệm về bản chất con người:
Như đã nói trên, con người đối tượng nghiên cứu của nhiêu lĩnh vực, vậy bản chất con
người cũng được nhìn nhận nhiều góc độ:
Quan niệm Nho giáo cổ xưa cho rằng: Nhân chi tính bổn thiện (con người mới sinh
ra bản chất tốt). Tôn giáo cho bản chất con người vừa thiện vừa ác tôn giáo sẽ
giúp con người khắc chế cái ác, phát huy cái thiện. Quan điểm tiền định: Cha mẹ sinh
con, trời sinh tính. Quan điểm hoàn cảnh thì cho rằng: bầu thì tròn ống thì dài.
Quan điểm giáo dục vạn năng: Bản chất con người hoàn toàn do kết quả giáo dục,
Watson nhà hội học Mỹ từng nói: “Hãy giao cho tôi những đứa trẻ khỏe mạnh nh
thường cho phép tôi nuôi nấng dạy dỗ chúng theo cách riêng của mình thì bạn
muốn chúng trở thành kỹ sư, bác sĩ, tổng thống hay đi nữa, tôi cũng thể làm
cho chúng trở thành như vậy được”.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất con người: “Bản chất con người
không phải cái trừu tượng, bản chất con người sự tổng hòa c mối quan hệ
hội” (K.Marx).
hội học quan niệm con người đơn vị bản cấu thành hội, đơn vị nhỏ nhất
của hệ thống hội, sinh vật duy sáng tạo. Con người tồn tại trong nhiều mối
quan hệ hội, bằng hoạt động của mình con người đã tham gia vào các mối quan hệ
hội, chịu tác động tác động trở lại làm thay đổi, củng cố hay phát triển các mối
quan hệ hội đó.
1.2 Khái niệm hội hóa
Khái niệm hội hóa lúc mới ra đời được hiểu trong phạm vi hẹp cụ thể hơn so với bây
giờ. Nếu như hiện nay thuật ngữ hội hóa được dùng với nghĩa rộng hơn để diễn tmột
số lĩnh vực trong cuộc sống, những vấn đề trước đó chỉ một bộ phận hội quan
tâm nhưng giờ đây đã được cả hội quan tâm chia sẻ. Đó quá trình hội hóa về các
vấn đề hội như giáo dục, y tế hay truyền thông... thì lúc đầu hội hóa hướng đến
nhân, nghĩa dùng để chỉ quá trình thay đổi từ chỉnh thể sinh vật bản chất hội đến một
chỉnh thể khác con người hội. Đây được gọi quá trình hội hóa nhân.
Khi nói đến hội hóa nhân, rất nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng chúng ta tạm chia
thành hai quan niệm như sau:
Thứ nhất: Nói đến tính chủ động của nhân trong quá trình tích lũy, thu nhận kinh
nghiệm hội. Các nhân gần như bị đóng khung với các khuôn mẫu (hệ giá trị,
chuẩn mực hội hoặc các vai trò) sẵn không tránh được. gần giống như
chúng ta buộc phải mặc quân phục khi tham gia vào lực lượng trang, nhân
không quyền lựa chọn.
Thứ hai: Trái ngược với tính bị động trên thì quan niệm thứ hai hướng tới khẳng
định tính chủ động của nhân trong quá trình hội hóa, nghĩa nhân không chỉ
tiếp nhận kinh nghiệm hội còn tính tích cực tham gia sang tạo ra các kinh
nghiệm hội.
Thật ra không nên nhìn nhận như sự khác biệt cần khẳng định rằng: hội hóa quá
trình nhân bị động chủ động. Như vậy, bị động hay chủ động đều nằm trong một
quá trình chúng ta gọi quá trình hội hóa.
Một nhà hội học người Nga tên G.Andreeva đã định nghĩa: “Xã hội hóa quá trình hai
mặt. Một mặt, nhân tiếp nhận kinh nghiệm hội bằng cách thâm nhập vào môi trường, hệ
thống các quan hệ hội. Mặt khác, nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ thống các mối
quan hệ hội thông qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động thâm nhập vào các
mối quan hệ hội”.
hội hóa quá trình nhân gia nhập, hòa nhập vào hội nói chung những nhóm
hội cụ thể, ngược lại hội cùng tiếp nhận nhân đó như một thành viên của mình. Như
Fitcher một nhà hội học Mỹ đã viết: “Xã hội hóa một quá trình tương c giữa người
này với người khác, kết quả một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành động thích nghi
với những khuôn mẫu hành động đó”. Một định nghĩa khác của các nhà hội học thuộc
trường đại học Tennessee: “Xã hội hóa một quá trình học hỏi để cho một con người động
vật trở thành một con người hội”.
Từ những dẫn luận trên chúng ta khái niệm mang tính tổng hợp sau: hội hóa quá
trình qua đó nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hóa của hội như các khuôn mẫu hội.
Quá trình nhờ đó nhân đạt được những đặc trưng hội của bản thân, học được cách
suy nghĩ ứng xử phù hợp với vai trò hội của mình, qua đó nhằm giúp nhân thể
hòa nhập vào hội chung hay một nhóm hội cụ thể nào đó.
2. Diễn tiến nguyên tắc của quá trình hội hóa
2.1 Diễn tiến của quá trình hội hóa
Về mặt thời gian, quá trình hội hóa được xem như bắt đầu từ khi sinh ra cho đến khi chấm
dứt sự sống.
Về nội dung, quá trình hội hóa chính quá trình mỗi nhân học đóng các vai trò
hội diễn xuất chúng.
Về không gian thì quá trình hội hóa diễn ra trong gia đình, rồi tới nhà trường sau đó
ngoài hội.
Về lượng thì quá trình này diễn ra từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, tít tới nhiều.
Về chất thì quá trình hội hóa đi từ bắt chước nguyên xi đến bắt chước có học hỏi, chọn
lọc sáng tạo.
2.2 Các nguyên tắc của quá trình hội hóa
Nếu một nhân bị khiếm khuyết về mặt sinh học thì cần phải trải qua một quá trình hội
hóa đặc biệt.
Nếu nhân không tham gia vào giai đoạn đầu của quá trình hội hóa thì phải thực hiện lại.
Nếu nhân bị đứt đoạn quá trình hội hóa thì phải thực hiện chương trình tái hội hóa
hay tái hòa nhập.
Quá trình hội hóa bước đầu phải làm cho nhân khả năng hòa nhập vào trong các
nhóm cụ thể sau đó khả năng vào trong hội chung.
3. Các môi trường hội hóa bản
Môi trường hội hóa đó chính nơi nhân thu nhận kinh nghiệm cũng như tái tạo nó,
nơi làm nền tảng giúp nhân hoàn thiện nhân cách của mình. Trong rất nhiều môi trường
hội hóa thì những môi trường sau đây được xem như những môi trường bản nhất.
3.1 . Môi trường gia đình
Gia đình bối cảnh hội đầu tiên quan trọng nhất đối với quá trình hội hóa, hầu hết
với mọi nhân, gia đình một thế giới hội, trẻ sinh ra gần như cả giai đoạn đầu
sinh hoạt trong gia đình. Ngay cả khi trẻ đã nhập học thì việc đáp ứng nhu cầu của trẻ hầu
như cũng thuộc về gia đình.
Kinh nghiệm hội của nhân ngày càng tăng lên nhờ những tương tác bên trong gia
đình, nơi hình thành nền tảng nhân cách của con người, mặc cho sau này đời sống của
nhân đó thay đổi nhiều thì nhân cách đó thường vẫn độ ổn định cao. Gia đình không chỉ
nơi cho nhân cái ăn, cái trú ngụ, tình yêu thương còn i thực hiện quá trình
truyền dẫn văn hóa qua các giá trị chuẩn mực hội cho các thành viên mới. Đây một
tiểu văn hóa, tiểu văn hóa này được xây dựng trên nền văn hóa chung của hội, song lại
những đặc thù riêng của từng tiểu văn hóa thế cũng tạo nên những đặc điểm nhân
cách riêng biệt cho từng nhân hoặc các nhân.
Nhìn chung những trẻ nhận được gia đình đều không phải chỉ sự chủ đích còn
cả sự tình, bởi số giá trị hay vai trò phải nhận thì còn những thứ trẻ tự quan sát tự
lĩnh hội. Cho tình hay cố tình thì phần lớn những trẻ suy nghĩ đặt ra những u
hỏi với bản thân hoặc thế giới xung quanh đều do môi trường gia đình. Sự quan tâm của
người thân trong gia đình bằng việc tiếp xúc của thể của ngôn ngữ lời hoặc không lời sẽ
khuyến khích sự phát triển của trẻ về cả thể chất lẫn trí tuệ.
Thông qua gia đình trẻ sẽ những hiểu biết về thế giới rộng lớn xung quanh, thế giới tự
nhiên cả thế giới loài người. Với tầm quan trọng như vậy, đòi hỏi gia đình hay nói chính
xác hơn mọi thành viên trong gia đình phải ý thức được vai trò của mình đối với con trẻ.
Bởi một giai đoạn nhất định nào đó trẻ giống như một tờ giấy trắng, như một máy chụp
hình, máy thu âm kỹ thuật số, nghĩa chúng ta nói gì, làm thì sẽ làm thế y hay nói
cách khác những chúng chụp được, thu được xung quanh chúng sẽ phát ra nguyên xi như
vậy. ràng lúc này trẻ sẽ không biết đến đúng sai, cái nên làm hay không nên làm hoặc
được không được, cứ như thế khi thấy người xung quanh làm hay nói thì chúng sẽ làm
theo. nhiên đến lúc nào đó trẻ sẽ nhận thức được phần nào về vai trò giá trị, c chuẩn
mực hành động trong hội gia đình hay hội rộng lớn bên ngoài. Song những phía
trước cùng đã tạo nên nếp gấp trong tiềm thức của chúng hoặc nhiều thứ thành thói quen
của một giai đoạn thì thể được lặp lại trong đời sống một nh huống hội nào đó.
Tóm lại, hội hóa môi trường gia đình ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với mỗi nhân,
nhất từ khi sinh ra cho đến khi qua tuổi dậy thì một ít (khoảng tuổi 15, 16), giai đoạn
chuẩn bị cho đứa trẻ vào đời từ hội nhỏ gia đình bước ra hội rộng lớn xung quanh.
vậy, nền tảng văn hóa chung của gia đình tốt sẽ nền tảng tốt cho trẻ trong suốt quá trình
hội hóa về sau.
3.2 Môi trường giáo dục nhà trường
Nhà trường nơi cung cấp cho nhân trước tiên đó những kỹ năng bản như đọc, viết
số học. Sau đó sẽ kỹ năng chuyên môn hay kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên, trong
hội kém văn minh vấn đề này lại hoàn toàn khác, trường học chưa xuất hiện hoặc nếu có
xuất hiện thì vai trò của nhà trường chưa ràng. Như vậy, gia đình vẫn môi trường chủ
yếu cho quá trình hội hóa trẻ.
Trong hội tiến bộ, hội hiện đại hơn đòi hỏi các nhân phải sự hiểu biết sâu rộng,
cũng như các kỹ năng chuyên môn cao hơn thì ràng gia đình không thể đáp ứng được tất
cả các đòi hỏi đó vậy vai trò của các tổ chức hội chính thức sẽ chính yếu, trong đó
đặc biệt trường học. Như đã nói trên nhiệm vụ hội hóa chủ yếu của trường học
truyền đạt kiến thức kỹ năng chuyên môn.
Môi trường hội hóa này sẽ được bắt đầu từ vườn trẻ, nhà mẫu giáo khoảng 3, 4 tuổi
thường sẽ kết thúc bậc trung học hoặc cao hơn.
Môi trường hóa trường học nên chia làm hai giai đoạn, nhiên giai đoạn chỉ mang tính
ước lệ. Giai đoạn đầu giai đoạn nhà trường nhiệm vụ cung cấp tri thức nền, như việc
định hướng lựa chọn hành vi hội, các khuôn mẫu, chuẩn mực hội, như vậy một phần
giai đoạn này gần giống với vai trò của gia đình. Nghĩa những kiến thức này sẽ nền tảng
nhằm phục vụ cho việc thực hiện các vai trò hội sau này nhân đóng. Giai đoạn sau
trung học, về bản đây giai đoạn nhiệm vụ của nhà trường cung cấp cho nhân
những kỹ năng chuyên môn, nghề nghiệp, những kỹ năng gia đình không thể cung cấp
được như bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư... Nhờ vào đó, nhân khả năng theo kịp hòa
nhập thành công vào trong hội. Nói tóm lại, nhiệm vụ của nhà trường được tiến hành
tính tổ chức cao, tính qui phạm, nghĩa được trù liệu theo một kế hoạch chặt chẽ về cả
nội dung lẫn hình thức trong hệ thống giáo dục của một quốc gia, một khu vực.
3.3 Những nhóm bạn
Sau gia đình thì nhóm bạn đóng vai trò hội hóa hết sức quan trọng đối với nhân, nhất
giai đoạn vị thành niên lứa tuổi dậy thì. Nhóm bạn thường cùng hàng xóm (nhất
trong hội kém văn minh), về sau nhóm cùng học nhóm hoạt động trong hội.
Nhóm bạn sự khác biệt với gia đình nhà trường chỗ các thành viên trong nhóm
thường chỗ đứng trong thang bậc hội như nhau, nghĩa giữa họ quan hệ tương tác
tương đối bình đẳng. Đặc biệt các nhân khi tham gia vào nhóm sẽ thực hiện nhiều hoạt
động không sự giám sát của gia đình nhà trường, khi thoát khỏi sự áp đặt của bố m
sự ràng buộc của nhà trường, nhờ vào đó các nhân được sự độc lập đáng kể, như vậy sẽ
tạo điều kiện cho nhân được kinh nghiệm ngay trong gia đình nhà trường
không thể được.
Một hình dung ban đầu về nhóm chúng ta dễ nhận thấy nhất đó đảm nhận chức năng giải
trí, song trong hoạt động thực tế thì nhóm bạn không chỉ dừng lại chức năng đó. Tđây
sẽ tạo ra một hình ứng xử riêng hay nói cách khác đó một tiểu văn hóa với các giá trị,
chuẩn mực khác so với gia đình nhà trường hoặc văn hóa của người lớn. Điều này được
thể hiện qua phong cách ăn mặc, kiểu tóc, xe cộ, sở thích âm nhạc... thế, nhân tìm cách
tuân thủ các qui chuẩn của nhóm, nhằm đảm bảo rằng anh ta được chấp nhận hay ủng hộ.
ràng nhân luôn cố gắng thực hiện dúng những nhóm đã qui định chứ không phải
anh ta cố gắng để nhóm theo các giá trị anh ta đặt ra (trừ những trường hợp đặc biệt).
Điều này giải sao bố mẹ chúng ta luôn thể hiện sự quan tâm bằng cách cố gắng m hiểu
xem bạn của chúng ta ai? Mong muốn của họ chúng ta nhóm bạn chí ít cũng cùng
nền tảng giáo dục, với hy vọng con cái sự phát triển tốt hơn, hoàn thiện hơn, điều này
được thể hiện trong câu tục ngữ “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” mà cha ông ta đã đúc kết
qua trải nghiệm của cuộc sống.
3.4 Truyền thông đại chúng
Nếu như trong hội kém phát triển, khi hệ thống truyền thông (kỹ thuật công nghệ)
chưa xuất hiện hoặc chưa phát triển thì trong các tác nhân của quá trình hội hóa sẽ không
truyền thông đại chúng. Tuy nhiên trong hội hiện đại, khi hệ thống truyền thông
phát triển mạnh mẽ, với qui rộng lớn thì truyền thông đại chúng vai trò hết sức quan
trọng đối với quá trình hội hóa.
Truyền thông đại chúng những thiết chế sử dụng những phát kiến kỹ thuật ngày càng tinh
vi để phục vụ cho sự giao lưu tưởng, những mục đích thông tin, giải trí thuyết phục tới
đông đảo khán thính giả. những phát kiến kỹ thuật hiện nay đó truyền hình, truyền
thanh, báo chí internet.
Hệ thống truyền thông đưa đến cho con người một lượng lớn thuộc đủ loại thông tin gia
đình hay trường học không thể cung cấp được, do đó tác động đến thái độ, hành vi của các
nhân. Trong đó phải kể đến truyền hình, khi xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1938 Mỹ
sau đó không lâu nhanh chóng trở thành một phần trong cuộc sống của người Mỹ, đến
những năm 70 của thế kỷ XX số lượng gia đình xem truyền hình đạt 98%. Cục thống của
Mỹ năm 1987 đưa ra con số khá ấn tượng về thời lượng xem truyền hình trong các gia đình
7 giờ đồng hồ mỗi ngày.
Ngày hôm nay không riêng người Mỹ nhiều quốc gia trên thế giới, việc tìm nhận
thông tin nhu cầu tất yếu. vậy, thông tin hay phương tiện thông tin đã, đang sẽ trở
thành một thứ hàng hóa đặc biệt, chính truyền thông đã cung cấp cho các nhân những định
hướng các quan điểm đối với các vấn đề trong cuộc sống, giúp con người mở rộng tầm
nhìn, tăng tầm nhận thức, thỏa mãn các nhu cầu thẩm mỹ, giải trí hơn hết cả nhờ vào đó
nhân loại chúng ta ngày càng xích lại gần nhau hơn (văn minh quan hệ đa phương).
Bên cạnh những tác nhân đã nêu trên thì trong hội hiện đại chúng ta còn bắt gặp nhiều
yếu tố khác ít nhiều cũng tác động đến quá trình hội hóa của nhân như luận
hội, các tổ chức tôn giáo, quan nơi chúng ta tham gia lao động sản xuất hoặc c câu lạc
bộ bóng đá, bơi lội thể mọi nơi.
Tóm lại, khi nói đến môi trường hội hóa, chúng ta không nên nghĩ như một công việc
được phân công, nghĩa việc gia đình thì gia đình lo, việc nhà trường lo... nếu cho rằng như
vậy thì sẽ sai lầm lớn đối với tiến trình hội hóa, không sự quan tâm đồng bộ giữa
gia đình, nhà trường hội thì quá trình hội sẽ khó thể đạt được kết quả như mong
muốn.
Chúng ta hãy đọc bức thư sau, bức thư được xem của Abraham Lincoln (1809 - 1865),
Tổng thống Hoa Kỳ (1861 - 1865) gửi cho thầy hiệu trưởng nơi con trai nh theo học, được
viết cách đây trên dưới 150 năm đây bài học sâu sắc về triết giáo dục, chúng ta
cần noi theo.
Xin thầy hãy dạy cho con tôi!
(Trích thư của tổng thống Mỹ Abraham Lincoln gửi thầy hiệu trưởng nơi con trai ông theo
học)
... Con tôi phải học tất cả những điều này, rằng không phải tất cả mọi người đều công bằng,
tất cả mọi người đều chân thật. Nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết cứ mỗi một kẻ lại ta
gặp trên đường phố thì đâu đó sẽ một con người chính trực, cứ mỗi một chính trị gia ích
kỷ, ta sẽ một nhà lãnh đạo tận tâm. Xin hãy dạy cho cháu biết rằng cứ mỗi một kẻ thù ta
gặp nơi này thì nơi khác ta lại thấy một người bạn.
Bài học này sẽ mất rất nhiều thời gian, tôi biết, nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết rằng
một đồng đô la kiếm được do công sức lao động của mình bỏ ra còn quí giá hơn nhiều so với
năm đô la ta nhặt được trên phố...
Xin dạy cho cháu biết cách chấp nhận thất bại cách tận hưởng niềm vui chiến thắng. Xin
hãy dạy cháu đừng bao giờ đố kỵ. Dạy cháu biết được rằng, những kẻ hay bắt nạt người
khác nhất lại những kẻ dễ bị đánh bại nhất...
Xin hãy giúp cháu nhìn thấy thế giới kỳ diệu của sách... nhưng cũng cho cháu đủ thời gian
để lặng lẽ suy về sự ẩn muôn thửa của cuộc sống, đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn
ong bay lượn trong ánh nắng những bông hoa nở ngát bên đồi xanh.
trường xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi trượt còn vinh dự hơn gian lận trong
kỳ thi. Xin giúp cháu niềm tin vào ý kiến của bản thân, tất cả mọi người xung quanh
đều cho rằng ý kiến đó hoàn toàn sai lầm.
Xin hãy dạy cho cháu biết cách đối xử dịu dàng với những người hòa nhã cứng rắn với
những kẻ thô bạo. Xin tạo cho cháu sức mạnh để không chạy theo đám đông khi tất cả mọi
người chỉ biết chạy theo thời thế.
Xin hãy dạy cho cháu biết phải lắng nghe mọi người, nhưng cũng xin thầy hãy dạy cháu biết
cần phải sàng lọc những nghe được qua một tấm lưới chân để cháu chỉ đón nhận những
tươi đẹp...
Xin hãy dạy cho cháu biết cách mỉm cười khi buồn bã.... Xin hãy dạy cháu biết rằng không
sự xấu hổ trong những giọt nước mắt. Xin hãy dạy cho cháu biết cách chế diễu những kẻ
hèn hạ, che dấu những người khốn khổ, mở cho những kẻ cùng quẫn lối thoát cuộc đời
cẩn trọng trước sự ngọt ngào đầy cạm bẫy.
Xin hãy dạy cho cháu rằng bán bắp trí tuệ cho những người ra giá cao nhất, nhưng
không bao giờ cho phép ai ra giá mua trái tim tâm hồn mình.
Xin hãy dạy cho cháu ngoảnh tai làm ngơ trước một đám đông đang gào thét... đứng
thẳng người bảo vệ những cháu cho đúng.
Xin hãy đối xử dịu dàng với cháu nhưng đừng vuốt ve chiều chuộng bỏi chỉ sự thử thách
của lửa mới tôi luyện nên được những thanh sắt cứng rắn. Hãy giúp cháu can đảm biểu lộ
sự thiếu kiên nhẫn đủ kiên nhẫn để biểu lộ sự can đảm...
Xin hãy dạy cho cháu biết rằng cháu phải luôn niềm tin tuyệt đối vào bản thân, khi đó
cháu sẽ luôn niềm tin tuyệt đối vào nhân loại.
Đây quả một yêu cầu quá lớn, tôi biết, thưa thầy, nhưng xin thầy cố gắng hết sức
mình...Con trai tôi quả thật một cậu tuyệt vời.
Abraham Lincoln
4. Các chu kỳ của quá trình hội hóa
Quá trình hội hóa bắt đầu khi nào? kết thúc khi nào? Đây vấn đề đã được nhiều nhà
khoa học quan tâm. vậy, không quá ngạc nhiên khi khá nhiều quan điểm trái
ngược nhau xuất hiện. Cụ thể một vài quan điểm cho rằng quá trình hội hóa bắt đầu khi
đứa trẻ chào đời kết thúc tuổi trưởng thành, ý kiến khác thì khi con người bắt đầu nhận
thức được cho đến lúc mất khả năng ấy hay nghiêng về mặt hoàn thiện sinh Sigmund
Freud nhà phân tâm học người Áo lại cho rằng quá trình hội hóa kết thúc khi con người
trưởng thành về mặt tình dục (kết thúc giai đoạn dậy thì). Tuy nhiên, hiện nay người ta
nghiên cứu chỉ ra ràng quá trình hội hóa không chỉ chờ cho trẻ sinh ra cần phải
được thực hiện khi còn thai nhi, bắt đầu lúc thai nhi khoảng tháng thứ 6.
Còn quá trình hội hóa kết thúc khi nào? Như đã trình bày trên, ràng việc chấm dứt quá
trình này cũng nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, quan điểm được đại đa số c nhà khoa
học đồng thuận nhất hiện nay một quá trình mang tính liên tục kéo dài suốt cuộc đời của
mỗi nhân.
Như vậy, quá trình hội hóa sẽ được chia làm nhiều chiều cạnh. Điều đó được thể hiện trên
hai phương diện sau:
Thứ nhất, những nét khác biệt bản giữa trẻ em người lớn trong quá trình hội hóa:
Người lớn thường chủ động khi tiếp cận các giá trị, chuẩn mực, nghĩa họ khả
năng đánh giá, phán xét trong khi đó trẻ em lại thụ động.
Người lớn khả năng thay đổi các giá trị, chuẩn mực của nh trong tiến trình
hội hóa, còn trẻ em sẽ tạo lập thu nhận những giá trị, chuẩn mực ấy.
Quá trình hội hóa người lớn nhằm tạo lập những kỹ năng như của luật , bác sĩ,
nhà khoa học... còn trẻ em hướng đến các động hành động, nghĩa được dạy dỗ
để trở thành người lịch sự, người biết tuân theo các nguyên tắc hội.
Thứ hai, các giai đoạn của quá trình hội hóa:
Xung quanh vấn đề phân đoạn của quá trình hội hóa vẫn còn gây nhiêu tranh cãi.
Sau đây một vài quan điểm tiêu biểu của các phân đoạn:
Phân đoạn của George Herbert Mead, nhà hội học người Mỹ, ông cho rằng quá
trình hội hóa trải qua ba giai đoạn:
o Giai đoạn đầu, giai đoạn bắt chước. giai đoạn này đứa trẻ sẽ sao chụp những
thấy, nghe được từ những người xung quanh sẽ làm hoặc nói lại
tương tự như vậy. Tuy nhiên, chúng chưa thể hiểu được ý nghĩa của những lời
nói việc làm đó.
o Giai đoạn thứ hai, giai đoạn đóng vai. Giai đoạn này đứa trẻ đã hình dung
hiểu được phần nào những hành vi sự tương ứng của với các vai t
hội nhất định, chủ yếu những vai trò nam trong phạm vi quan sát của trẻ
như gia đình, trường học, nhóm trẻ... Nếu quan sát lúc trẻ chơi với búp ta
sẽ thấy những giọng nói hoặc cử chỉ của cha mẹ hoặc người thân khác được
diễn lại đồng thời diễn ra quá trình đổi vai.
o Giai đoạn thứ ba, giai đoạn trò chơi. Đây giai đoạn tầm hiểu biết của trẻ
đã rộng hơn vậy trẻ cũng hình dung được sự đòi hỏi của hội mình
khác trước, trẻ không chỉ biết cho riêng mình hoặc một nhân nào đó
phải còn phải hướng tới phạm vi rộng lớn hơn hay nói cách khác của cả
hội.
Phân đoạn của G.Andreeva (nhà hội người Nga), ông cũng phân ra ba giai đoạn,
song trong mỗi giai đoạn lại những đặc trưng riêng.
o Giai đoạn đầu giai đoạn trước lao động. Giai đoạn này được chia làm hai
giai đoạn nhỏ: Giai đoạn trẻ thơ giai đoạn thanh - thiếu niên. Giai đoạn trẻ
thơ, giai đoạn này chủ yếu của trẻ vui chơi, tập trung trong phạm vi gia đình
vườn trẻ, mẫu giáo. Giai đoạn thanh - thiếu niên. Giai đoạn này chủ yếu
nằm trong nhà trường, nơi nhân thu nhận được tri thức nền kỹ
năng nghề nghiệp, cũng như thiết lập các mối quan hệ hội.
o Giai đoạn lao động. giai đoạn nhân tham gia chính thức vào hoạt động
lao động (lao động trí óc lao động chân tay) cho đến kết thúc quá trình này
khi nghỉ hưu. Cần hiểu rằng, đây còn quá trình nhân thu nhận kinh
nghiệm hội tham gia sáng tạo chúng.
o Giai đoạn sau lao động. giai đoạn nhân kết thúc quá trình lao động
chính thức, nghĩa về hưu. Hiện nay hai quan điểm trái ngược nhau về
giai đoạn này. Ý kiến thứ nhất cho rằng, hội hóa hoàn toàn không giai
đoạn này, như vậy theo quan điểm này thì chỉ hai giai đoạn đầu. Đây một
hướng nhìn tiêu cực, đã không công nhận vai trò của người già trong cuộc
sống khi kinh nghiệm hội của họ cực kỳ quan trọng chúng ta thể
tận dụng (nhiều ngành khoa học nghiên cứu về người già như lão khoa, người
cao tuổi trong hội học).
Ý kiến thứ hai nhìn nhận vai trò quan trọng của hội hóa giai đoạn này. Người già có khả
năng tái tạo các kinh nghiệm hội, họ vẫn tiếp tục học hỏi, trau dồi để thích ứng với hội
ngày càng phát triển kinh nghiệm sống của họ thứ thể hệ trẻ không thể được,
vậy việc họ truyền đạt những giá trị, kinh nghiệm cho thế hệ con cháu điều không cần bàn
cãi.
Bài 2: Vị trí, địa vị vai trò hội
Khi bàn về quá trình hội chúng ta thường cho rằng, quá trình hội hóa quá trình trong
đó nhân tham gia học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm để đóng các vai trò hội khi nhân cần
hội đòi hỏi. Như vậy, về bản chất hội hóa quá trình tương tác giữa các nhân với
nhau với hội. Để thực hiện được những tương tác này, các nhân cần trải mình qua
các vị trí, vai trò địa vị hội khác nhau, chỉ như thể nhân mới thể hiện được mình
hội cũng dễ dàng nhận ra anh ta.
1..Vị trí.xã hội
Vị trí hội sự định vị của một nhân trong một đơn vị hội, tức trong đơn vị hay tổ
chức hội nào đó, anh ai? nhân viên, thư hay thủ trưởng hoặc giám đốc... Tuy
nhiên, vị trí hội của nhân chỉ mang tính tương đối trong cấu trúc hội hay trong hệ
thống hội. Bởi vị trí đó chỉ được xác định qua sự đối chiếu cũng như so sánh với vị trí
hội khác.
Các vị trí hội nhân được do nhân sự hiện diện hay nói cách khác đã
tham gia vào trong các đơn vị hội với cách một thành viên, đó thể người chồng,
người cha, người anh... trong gia đình. Như vậy, nếu một nhân nêu trên tham gia o nhiều
quan hệ hội, hay dựa vào những đặc điểm vốn của nhân như giới tính, chủng tộc,
nguồn gốc xuất cư... hoặc dựa vào nghề nghiệp, học vấn... thì nhân đó sẽ nhiều vị trí
hội.
Những vị trí hội đó chỉ tồn tại khi được đặt trong mổi quan hệ tương ứng như một
người đàn ông thầy giáo nếu so với học trò của anh ta chứ không phải một bác nông dân
hay với con anh ta thì anh ta lại một người cha...
Chúng ta cần lưu ý rằng, nói đến vị trí hội nói đến một sự lượng giá, nghĩa cao hay
thấp hay trung bình phụ thuộc vào sự so sánh trong nội bộ một thang. dụ: Trong gia
đình thì người cha quyền nhắc con cái về mặt thời gian khi đi chơi nhưng chỉ trong gia
đình anh ta, còn gia đình khác lại không được hoặc anh không thể nói giờ giấc với bệnh nhân
nếu anh không phải bác người phụ trách đó. N vậy, hai vị trí này hai môi trường
khác nhau. Cũng nghĩa rằng không thể so sánh sự cao hay thấp hay trung bình giữa người
cha trong gia đình bác bệnh viện.
2. Địa vị hội và vị thế hội
Hiện nay vẫn không ít người nhầm lẫn khi cho rằng, địa vị hội vị trí hội một.
Nhưng, như đã phân tích trên, vị trí hội để xác định chỗ đứng của một nhân trong
một đơn vị hội. dụ: Anh A giảng viên (giảng viên một vị trí hội). Vậy chỗ đứng
của anh ta sẽ xác định đãu? trường đại học, cao đẳng nơi anh ta đang công tác hoặc
chí ít thì anh ta cũng thỉnh giảng cho một trường nào đó, chứ không thể gọi anh ta giảng
viên khi anh ta chi một người làm nông hoặc một nhân viên văn phòng.
Vậy địa vị hội gì? Địa vị hội chính vị trí hội của nhân khi vị trí hội đó
được gắn với những trách nhiệm quyền lợi. Như thế, vị trí hội của nhân chỉ sở
để xác định địa vị hội (vị thế hội) của họ thôi.
Từ phân tích trên cho thấy, địa vị hội một khái niệm rộng bao hàm cả vị trí hội
cùng những quyền lợi nghĩa vụ tương ứng với vị trí đó. Nếu một người các quyền
nghĩa vụ cao thì nghĩa người đó địa vị hội cao, nhiên quyền nghĩa vụ cao hay
thấp, nhiều hay ít không sự đánh giá giống nhau giữa các nhóm hội, nền văn hóa
hoặc giữa các thể chế chính trị...
Tuy nhiên, khi bàn về địa vị hội chúng ta không nên chỉ xem xét hay dựa trên những tiêu
chí khách quan trên, địa vị hội hay không, cao hay thấp còn phụ thuộc vào sđánh
giá của một nhóm hay cộng đồng hội về tọa độ cúa nhân trong uy tín hội. Nghĩa là,
trong đó nhân hay không uy tín, uy tín cao hay thấp nói đến uy tín nhân
được trong hội nhiều hay ít, cao hay thấp không hoàn toàn phụ thuộc vào việc nhân
quyền lực, nghĩa vụ ít hay nhiều phụ thuộc vào những yếu tố như thâm niên nghề
nghiệp, tuổi tác, trình độ học vấn, đạo đức, sự cống hiến cho hội...
Tóm lại, địa vị hội vị trí hội hai khái niệm khác nhau cả về mặt thuật ngữ nội
hàm. Vị trí hội xác định nơi (gia đình, trường học, công ty...) nhân hoạt động tồn tại,
nơi đó nhân người cha, mẹ hoặc chồng, vợ hoặc giáo viên, nhân viên... Địa vị hội
nói đến một chồ đứng nào đó trong hội với những lợi ích kèm theo cũng như trách nhiệm.
Khi chúng ta một vị trí hội, kèm theo đó chúng ta được uy tín hội, quyền nghĩa
vụ cao hơn uy tín, quyền nghĩa vụ của người khác vị trí hội khác, thì điều đó nghĩa
chúng ta đang được địa vị hội cao hơn người khác (chủ thể nằm trong sự so sánh).
Như vậy, khi nghiên cứu về địa vị hội thì cần xem xét hai phương diện sau: Địa vị hội
chính thức địa vị hội không chính thức.
Thứ nhất, địa vị hội chính thức: loại địa vị hội nhân được do thể
chế hóa một cách ràng dựa trên những qui định của một quan, của một chính
phủ cùng đó sẽ luôn tính chế tài chỉ mang tính tương đối. dụ: Trưởng khoa
được bầu dựa trên những qui chuẩn mang tính tổ chức.
Thử hai, địa vị không chính thức hay còn gọi uy tín hội: loại địa vị hội
nhân được do sự đánh giá thừa nhận của nhóm hay tổ chức hội nào đó.
Dựa trên sự cống hiến, tuổi tác, nghề nghiệp, học vấn... Nghĩa địa vị này không
nam trong một qui định mang tính chính thức nào cả một điều dễ nhận thấy đây,
đó không quyền lực nhưng lợi ích thể có, tùy vào cách nhìn nhận, cách tiếp
cận của cả chủ thể hội.
Các loại địa vị hội: hai loại
Địa vị gán hay xuất thân: Dựa vào những yếu tố như giới tính, chủng tộc, nơi sinh...
nhân được địa vị hội. Nghĩa không thuộc vào chủ ý của nhân hay
nói cách khác, địa vị nhân không phải do nỗ lực của bản thân, sinh ra ngay
lập tức họ địa vị ấy.
dụ: Con vua sinh ra ngay lập tức được thần dân gọi hoàng tử.
Địa vị dành được: địa vị nhân được nhờ vào sự nỗ lực của bản thân như
học vấn, tài năng, đạo đức hoặc cả những yếu tố như sự may mắn, thủ đoạn mánh
khóe.
dụ: Nhờ năng lực nên giáo viên A được bầu làm hiệu trưởng.
3. Vai trò hội
3.1.Khái niệm
“Vai trò hội” một thuật ngữ của kịch học, nơi nghiên cứu các vai diễn của những diễn
viên đóng vai diễn trò trên sân khấu. hội học đã mượn trở thành thuật ngữ khoa
học trong hội học, được G.H.Mead nhà hội học người Mỹ đưa vào những năm 30 của
thế kỷ XX.
Con người với cách những nhân riêng lẻ, cùng những thuộc tính tâm riêng tạo
ra số hành vi mang nét riêng của từng nhân, nhưng sống hoạt động trong luôn
tính cộng đồng. Cho nên, thường thì các hành vi ấy vẫn bị giới hạn bới sự qui chiếu của
những địa vị, vai trò hội nhân có. Điều này nghĩa chúng ta sẽ cố gắng kiểm
soát điều chỉnh hành vi theo sự mong đợi của mọi người xung quanh.
Như vậy, vai trò hội hình hành vi nhân thực hiện nằm trong sự mong đợi của
hội. Những mong đợi này không hẳn dựa trên sự giống nhau giữa các nhân về mặt sinh
học, chủ yếu dựa trên địa vị hội nhân có. Tức là, ứng với từng địa vị hội sẽ
một hình hành vi hội tương ứng với nó. dụ: Giảng viên lên bục giảng phải trang
phục chỉnh tề (quần tây, áo sỞ mi đóng thùng hoặc áo vét, đi giày tây hoặc chí ít cũng san
đan), trong khi sinh viên cũng vào lớp học đó thề mặc áo pull quần jean, đi dép lê. Song,
điều này không hề sự giống nhau giữa các tổ chức hội, các nền văn hóa, v.v... bởi mỗi
một nhóm hay tổ chức hội lại những qui chuẩn riêng. Ngay trong một hội nhiều
tiểu văn hóa mỗi tiểu văn hóa cũng lại những giá trị, chuẩn mực của riêng mình.
Tóm lại, thể hiểu “vai trò hội” một khái niệm dùng để chỉ sự mong đợi của hội đối
với hành vi diễn xuất của một nhân trong một tình huống hội cụ thể trong một khung
cảnh hội nhất định.
nhân ngoài hội cũng giống như các diễn viên diễn vai trên sân khẩu, nghĩa họ cũng
phải diễn, song khác chỗ, diễn viên diễn trên sân khấu phải tuân theo một kịch bản đã được
định sẵn, còn ngoài đời các nhân diễn xuất theo một tình huống hội tự nhiên. nhiên
phái xem xét tính phù hợp giữa địa vị hội với hình mong đợi, tức vai diễn. Một
người đàn ông trong hội sẽ rất nhiều vai trò hội khác nhau, trường với sinh viên
anh ta thầy - người giảng bài, về nhà chơi với con anh ta đóng vai cha, chồng đối với
vợ,... Ngay trong một không gian hẹp thời gian ngắn anh ta cũng thể diễn rất nhiều vai.
dụ gia đình khi trò chuyện với con cha, với vợ chồng với ông cháu.... Như
vậy, vai trò sở để mỗi nhân thực hiện sự giao tiếp hay nói cách khác chỉ thông qua
các vai trò hội các nhân mới thực hiện dược cái gọi tương tác hội. Jean Stoetzel
nhà tâm hội học người Pháp đã viết: “Vai trò như tập hợp những ứng xử của mỗi
nhân mọi người khác chờ đợi”.
Qua đó, nếu nhân muốn diễn tốt vai trò hội của mình, nghĩa nằm trong sự mong đợi
của hội thì buộc lòng nhân phải hòa nhập vào hội, trong đó nhân luôn cố gắng
tìm tòi, học hỏi (quá trình hội hóa), cần lưu ý, không phải mọi thứ chúng ta học hiểu
được đều nằm trong sự mong đợi của tất cả các hội.
Một nhân thể nhiều địa vị hội, nhất trong hội ngày càng phát triển năng
động như hiện nay, do đó nhân cũng sẽ nhiều vai trò hội kèm theo. Đồng thời
nhân luôn đặt mình trong sự suy nghĩ, làm sao tránh khỏi những nhầm lẫn để thực hiện vai
trò cho phù hợp như thế các nhân thường rơi vào cái gọi “xung đột vai trò”. dụ:
Người vợ giám đốc của một công ty đó người chồng nhân viên, chị ta thể đập
bàn trong cuộc họp (dễ được chấp nhận hơn) nhưng không thể đập bàn khi nói chuyện với
chồng con nhà.
Sự xung đột vai trò một trong những nguyên nhân bản dẫn đến căn bệnh của thời đại
- sự căng thẳng, chúng ta gọi “Stress”.
3.2 Các loại vai trò hội
Như đã phân tích trên, nhân nhiều mối quan hệ hội, từ đó nhân cũng nhiều
địa vị hội mỗi một địa vị hội đó nhân lại những vai trò hội tương ứng. Tuy
trong cuộc sống nhân đóng nhiều vai trò hội, nhưng chúng ta tìm hiểu một vài loại vai
trò bản sau:
Vai trò thường nhật. loại vai trò mỗi nhân chúng ta tham gia đóng thường
xuyên thay đổi liên tục tùy thuộc vào mối quan hệ tương tác. chiếm đại đa số
trong tổng số các vai nhân đóng hàng ngày. dụ: Vai trò khách hàng, vai
anh đối với em trong gia đình, vai một người bạn, người hàng xóm... Đây vai trò
mỗi nhân chỉ cần học hỏi, bắt chước một cách đơn giản thể đóng được.
Vai trò định chế. loại vai trò nếu nhân muốn đóng phải trải qua một quá trình
đào tạo, huấn luyện theo một cách thức nhất định nào đó hoặc bởi những qui định do
một tổ chức nào đó đã thiết kế sẵn. Đóng loại vai trò này được xem như nhiệm vụ
phải đảm trách kèm theo đó những áp lực. đây, gần như nhân không nghĩ
đến tính sáng tạo, tất cả các vai trò đã trở thành khuôn mẫu, chuẩn, nghĩa đã
được định sẵn, nhập vào những vai này nhân chỉ cứ thế đóng, không cần suy
nghĩ. Lưu ý trong loại vai này luôn tính chế tài đối với những nhân tham gia
đóng.
Vai trò kỳ vọng. loại vai trò khi nhân tham gia đóng sẽ nhận được sự kỳ
vọng, sự mong đợi của rất nhiều người trong nhóm, tổ chức hoặc cả hội rộng lớn.
dụ: Lớp trưởng của một lớp, chủ tịch hội chất độc da cam Việt Nam... Ai đóng vai
trò kỳ vọng luôn phải ý thức trách nhiệm đáp lại sự mong đợi đó.
Vai trò gán. loại vai trò nhân được xuất phát từ một yếu tố nào đó như tài
năng, giới tính, yếu tố sinh học... được nhóm hoặc hội gán cho bởi stôn vinh hay
thành kiến thông qua một cuộc bình bầu chính thức hoặc không chính thức.
Vai trò tự chọn. Đây loại vai trò nhân đóng hay không đóng phụ thuộc vào ý
chủ quan của nhân. Tuy nhiên, chỉ mang tính tương đối, trong một số trường
hợp không phải cứ muốn nhân đóng được ngay.
dụ: anh A muốn đóng vai người cha, nhưng anh ta chưa con thì anh ta không thể đóng
được.
Qua đó, chúng ta thấy được một điều bản “vai trò hội” không bao giờ độc diễn
luôn ít nhất hai chủ thể hội.

Preview text:

Chương 4: Xã Hội Hóa MỤC LỤC
1. Khái niệm xã hội hóa.........................................................................................................1
1.1 Khái niệm và bản chất con người.................................................................................1
1.2 Khái niệm xã hội hóa...................................................................................................1
2. Diễn tiến và nguyên tắc của quá trình xã hội hóa..............................................................2
2.1 Diễn tiến của quá trình xã hội hóa...............................................................................2
2.2 Các nguyên tắc của quá trình xã hội hóa......................................................................3
3. Các môi trường xã hội hóa cơ bản.....................................................................................3
3.1 Môi trường gia đình.....................................................................................................3
3.2 Môi trường giáo dục ở nhà trường...............................................................................4
3.3 Những nhóm bạn bè.....................................................................................................5
3.4 Truyền thông đại chúng...............................................................................................5
4. Các chu kỳ của quá trình xã hội hóa..................................................................................7
1. Vị trí xã hội........................................................................................................................9
2. Địa vị xã hội và vị thế xã hội.............................................................................................9
3. Vai trò xã hội....................................................................................................................11
3.1 Khái niệm...................................................................................................................11
3.2 Các loại vai trò xã hội................................................................................................12 1. Khái niệm xã hội hóa
1.1 Khái niệm và bản chất con người
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, đặc biệt là các khoa học xã hội
và trong đó có xã hội học. Xét cho cùng thì xã hội loài người được hình thành từ những con
người đơn lẻ. Các cá nhân liên kết lại với nhau tạo thành nhóm, cộng đồng xã hội, quốc gia,
dân tộc. Tuy vậy, quan niệm về con người vẫn có nhiều chiều cạnh khác nhau:  Con người thần bí. 
Con người bản năng, sinh học. 
Con người là cái máy biết suy. 
Quan điểm khoa học: Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội. 
Quan điểm của xã hội học: Con người (cá nhân) với tư cách là những cá thể riêng
biệt, độc lập, độc lập, hiện hữu đang hoạt động trong một khoảng thời gian và không
gian xác định với những điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Quan niệm về bản chất con người:
Như đã nói ở trên, con người là đối tượng nghiên cứu của nhiêu lĩnh vực, vì vậy bản chất con
người cũng được nhìn nhận ở nhiều góc độ: 
Quan niệm Nho giáo cổ xưa cho rằng: Nhân chi sơ tính bổn thiện (con người mới sinh
ra có bản chất là tốt). Tôn giáo cho bản chất con người vừa thiện vừa ác và tôn giáo sẽ
giúp con người khắc chế cái ác, phát huy cái thiện. Quan điểm tiền định: Cha mẹ sinh
con, trời sinh tính. Quan điểm hoàn cảnh thì cho rằng: Ở bầu thì tròn ở ống thì dài.
Quan điểm giáo dục vạn năng: Bản chất con người hoàn toàn do kết quả giáo dục,
Watson nhà xã hội học Mỹ từng nói: “Hãy giao cho tôi những đứa trẻ khỏe mạnh bình
thường và cho phép tôi nuôi nấng dạy dỗ chúng theo cách riêng của mình thì bạn
muốn chúng trở thành kỹ sư, bác sĩ, tổng thống hay là gì đi nữa, tôi cũng có thể làm
cho chúng trở thành như vậy được”. 
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất con người: “Bản chất con người
không phải là cái gì trừu tượng, bản chất con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội” (K.Marx). 
Xã hội học quan niệm con người là đơn vị cơ bản cấu thành xã hội, là đơn vị nhỏ nhất
của hệ thống xã hội, là sinh vật có tư duy sáng tạo. Con người tồn tại trong nhiều mối
quan hệ xã hội, bằng hoạt động của mình con người đã tham gia vào các mối quan hệ
xã hội, chịu tác động và tác động trở lại làm thay đổi, củng cố hay phát triển các mối quan hệ xã hội đó.
1.2 Khái niệm xã hội hóa
Khái niệm xã hội hóa lúc mới ra đời được hiểu ở trong phạm vi hẹp và cụ thể hơn so với bây
giờ. Nếu như hiện nay thuật ngữ xã hội hóa được dùng với nghĩa rộng hơn để diễn tả ở một
số lĩnh vực trong cuộc sống, là những vấn đề mà trước đó chỉ có một bộ phận xã hội quan
tâm nhưng giờ đây nó đã được cả xã hội quan tâm chia sẻ. Đó là quá trình xã hội hóa về các
vấn đề xã hội như giáo dục, y tế hay truyền thông... thì lúc đầu xã hội hóa là hướng đến cá
nhân, nghĩa là dùng để chỉ quá trình thay đổi từ chỉnh thể sinh vật có bản chất xã hội đến một
chỉnh thể khác là con người xã hội. Đây được gọi là quá trình xã hội hóa cá nhân.
Khi nói đến xã hội hóa cá nhân, có rất nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng chúng ta tạm chia
thành hai quan niệm như sau: 
Thứ nhất: Nói đến tính chủ động của cá nhân trong quá trình tích lũy, thu nhận kinh
nghiệm xã hội. Các cá nhân gần như bị đóng khung với các khuôn mẫu (hệ giá trị,
chuẩn mực xã hội hoặc các vai trò) có sẵn mà không né tránh được. Nó gần giống như
chúng ta buộc phải mặc quân phục khi tham gia vào lực lượng vũ trang, cá nhân
không có quyền lựa chọn. 
Thứ hai: Trái ngược với tính bị động ở trên thì quan niệm thứ hai hướng tới khẳng
định tính chủ động của cá nhân trong quá trình xã hội hóa, nghĩa là cá nhân không chỉ
tiếp nhận kinh nghiệm xã hội mà còn có tính tích cực tham gia và sang tạo ra các kinh nghiệm xã hội.
Thật ra không nên nhìn nhận như là sự khác biệt mà cần khẳng định rằng: Xã hội hóa là quá
trình mà cá nhân có bị động và chủ động. Như vậy, bị động hay chủ động đều nằm trong một
quá trình mà chúng ta gọi là quá trình xã hội hóa.
Một nhà xã hội học người Nga tên là G.Andreeva đã định nghĩa: “Xã hội hóa là quá trình hai
mặt. Một mặt, cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường, hệ
thống các quan hệ xã hội. Mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ thống các mối
quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội”.
Xã hội hóa là quá trình cá nhân gia nhập, hòa nhập vào xã hội nói chung và những nhóm xã
hội cụ thể, ngược lại xã hội cùng tiếp nhận cá nhân đó như một thành viên của mình. Như
Fitcher một nhà xã hội học Mỹ đã viết: “Xã hội hóa là một quá trình tương tác giữa người
này với người khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành động và thích nghi
với những khuôn mẫu hành động đó”. Một định nghĩa khác của các nhà xã hội học thuộc
trường đại học Tennessee: “Xã hội hóa là một quá trình học hỏi để cho một con người động
vật trở thành một con người xã hội”.
Từ những dẫn luận trên chúng ta có khái niệm mang tính tổng hợp sau: Xã hội hóa là quá
trình mà qua đó cá nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hóa của xã hội như các khuôn mẫu xã hội.
Quá trình mà nhờ đó cá nhân đạt được những đặc trưng xã hội của bản thân, học được cách
suy nghĩ và ứng xử phù hợp với vai trò xã hội của mình, qua đó nhằm giúp cá nhân có thể
hòa nhập vào xã hội chung hay một nhóm xã hội cụ thể nào đó.
2. Diễn tiến và nguyên tắc của quá trình xã hội hóa
2.1 Diễn tiến của quá trình xã hội hóa
Về mặt thời gian, quá trình xã hội hóa được xem như bắt đầu từ khi sinh ra cho đến khi chấm dứt sự sống.
Về nội dung, quá trình xã hội hóa chính là quá trình mà mỗi cá nhân học đóng các vai trò xã
hội và diễn xuất chúng.
Về không gian thì quá trình xã hội hóa diễn ra trong gia đình, rồi tới nhà trường và sau đó là ngoài xã hội.
Về lượng thì quá trình này diễn ra từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít tới nhiều.
Về chất thì quá trình xã hội hóa đi từ bắt chước nguyên xi đến bắt chước có học hỏi, có chọn lọc và sáng tạo.
2.2 Các nguyên tắc của quá trình xã hội hóa
Nếu một cá nhân bị khiếm khuyết về mặt sinh học thì cần phải trải qua một quá trình xã hội hóa đặc biệt.
Nếu cá nhân không tham gia vào giai đoạn đầu của quá trình xã hội hóa thì phải thực hiện lại.
Nếu cá nhân bị đứt đoạn quá trình xã hội hóa thì phải thực hiện chương trình tái xã hội hóa hay tái hòa nhập.
Quá trình xã hội hóa bước đầu là phải làm cho cá nhân có khả năng hòa nhập vào trong các
nhóm xã cụ thể và sau đó có khả năng vào trong xã hội chung.
3. Các môi trường xã hội hóa cơ bản
Môi trường xã hội hóa đó chính là nơi mà cá nhân thu nhận kinh nghiệm cũng như tái tạo nó,
là nơi làm nền tảng giúp cá nhân hoàn thiện nhân cách của mình. Trong rất nhiều môi trường
xã hội hóa thì những môi trường sau đây được xem như là những môi trường cơ bản nhất. 3.1 . Môi trường gia đình
Gia đình là bối cảnh xã hội đầu tiên và quan trọng nhất đối với quá trình xã hội hóa, hầu hết
với mọi cá nhân, gia đình là một thế giới xã hội, trẻ sinh ra và gần như cả giai đoạn đầu là
sinh hoạt trong gia đình. Ngay cả khi trẻ đã nhập học thì việc đáp ứng nhu cầu của trẻ hầu
như cũng thuộc về gia đình.
Kinh nghiệm xã hội của cá nhân ngày càng tăng lên nhờ những tương tác ở bên trong gia
đình, là nơi hình thành nền tảng nhân cách của con người, mặc cho sau này đời sống của cá
nhân đó có thay đổi nhiều thì nhân cách đó thường vẫn có độ ổn định cao. Gia đình không chỉ
là nơi cho cá nhân cái ăn, cái trú ngụ, tình yêu thương mà còn là nơi thực hiện quá trình
truyền dẫn văn hóa qua các giá trị và chuẩn mực xã hội cho các thành viên mới. Đây là một
tiểu văn hóa, tiểu văn hóa này được xây dựng trên nền văn hóa chung của xã hội, song nó lại
có những đặc thù riêng của từng tiểu văn hóa và vì thế nó cũng tạo nên những đặc điểm nhân
cách riêng biệt cho từng cá nhân hoặc các cá nhân.
Nhìn chung những gì trẻ nhận được ở gia đình đều không phải chỉ có sự chủ đích mà còn có
cả sự vô tình, bởi số giá trị hay vai trò phải nhận thì còn có những thứ trẻ tự quan sát và tự
lĩnh hội. Cho dù là vô tình hay cố tình thì phần lớn những gì trẻ suy nghĩ và đặt ra những câu
hỏi với bản thân hoặc thế giới xung quanh đều do môi trường gia đình. Sự quan tâm của
người thân trong gia đình bằng việc tiếp xúc của cơ thể của ngôn ngữ có lời hoặc không lời sẽ
khuyến khích sự phát triển của trẻ về cả thể chất lẫn trí tuệ.
Thông qua gia đình trẻ sẽ có những hiểu biết về thế giới rộng lớn xung quanh, thế giới tự
nhiên và cả thế giới loài người. Với tầm quan trọng như vậy, đòi hỏi gia đình hay nói chính
xác hơn là mọi thành viên trong gia đình phải ý thức được vai trò của mình đối với con trẻ.
Bởi ở một giai đoạn nhất định nào đó trẻ giống như một tờ giấy trắng, như một máy chụp
hình, máy thu âm kỹ thuật số, nghĩa là chúng ta nói gì, làm gì thì nó sẽ làm thế ấy hay nói
cách khác những gì chúng chụp được, thu được xung quanh chúng sẽ phát ra nguyên xi như
vậy. Rõ ràng lúc này trẻ sẽ không biết đến đúng sai, cái gì nên làm hay không nên làm hoặc
được và không được, cứ như thế khi thấy người xung quanh làm hay nói thì chúng sẽ làm
theo. Dĩ nhiên đến lúc nào đó trẻ sẽ nhận thức được phần nào về vai trò và giá trị, các chuẩn
mực hành động trong xã hội gia đình hay xã hội rộng lớn bên ngoài. Song những gì ở phía
trước cùng đã tạo nên nếp gấp trong tiềm thức của chúng hoặc có nhiều thứ thành thói quen
của một giai đoạn thì có thể được lặp lại trong đời sống ở một tình huống xã hội nào đó.
Tóm lại, xã hội hóa ở môi trường gia đình có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với mỗi cá nhân,
nhất là từ khi sinh ra cho đến khi qua tuổi dậy thì một ít (khoảng tuổi 15, 16), là giai đoạn
chuẩn bị cho đứa trẻ vào đời từ xã hội nhỏ gia đình bước ra xã hội rộng lớn xung quanh. Vì
vậy, nền tảng văn hóa chung của gia đình tốt sẽ là nền tảng tốt cho trẻ trong suốt quá trình xã hội hóa về sau.
3.2 Môi trường giáo dục ở nhà trường
Nhà trường là nơi cung cấp cho cá nhân trước tiên đó là những kỹ năng cơ bản như đọc, viết
và số học. Sau đó sẽ là kỹ năng chuyên môn hay là kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên, trong xã
hội kém văn minh vấn đề này lại hoàn toàn khác, vì trường học chưa xuất hiện hoặc nếu có
xuất hiện thì vai trò của nhà trường chưa rõ ràng. Như vậy, gia đình vẫn là môi trường chủ
yếu cho quá trình xã hội hóa ở trẻ.
Trong xã hội tiến bộ, xã hội hiện đại hơn và đòi hỏi các cá nhân phải có sự hiểu biết sâu rộng,
cũng như các kỹ năng chuyên môn cao hơn thì rõ ràng gia đình không thể đáp ứng được tất
cả các đòi hỏi đó và vì vậy vai trò của các tổ chức xã hội chính thức sẽ là chính yếu, trong đó
đặc biệt là trường học. Như đã nói ở trên nhiệm vụ xã hội hóa chủ yếu của trường học là
truyền đạt kiến thức và kỹ năng chuyên môn.
Môi trường xã hội hóa này sẽ được bắt đầu từ vườn trẻ, nhà mẫu giáo khoảng 3, 4 tuổi và
thường sẽ kết thúc ở bậc trung học hoặc cao hơn.
Môi trường xã hóa ở trường học nên chia làm hai giai đoạn, dĩ nhiên giai đoạn chỉ mang tính
ước lệ. Giai đoạn đầu là giai đoạn nhà trường có nhiệm vụ cung cấp tri thức nền, như việc
định hướng lựa chọn hành vi xã hội, các khuôn mẫu, chuẩn mực xã hội, như vậy một phần ở
giai đoạn này gần giống với vai trò của gia đình. Nghĩa là những kiến thức này sẽ là nền tảng
nhằm phục vụ cho việc thực hiện các vai trò xã hội sau này cá nhân đóng. Giai đoạn sau
trung học, về cơ bản đây là giai đoạn mà nhiệm vụ của nhà trường là cung cấp cho cá nhân
những kỹ năng chuyên môn, nghề nghiệp, những kỹ năng mà gia đình không thể cung cấp
được như bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư... Nhờ vào đó, mà cá nhân có khả năng theo kịp và hòa
nhập thành công vào trong xã hội. Nói tóm lại, nhiệm vụ của nhà trường được tiến hành có
tính tổ chức cao, tính qui phạm, nghĩa là được trù liệu và theo một kế hoạch chặt chẽ về cả
nội dung lẫn hình thức trong hệ thống giáo dục của một quốc gia, một khu vực. 3.3 Những nhóm bạn bè
Sau gia đình thì nhóm bạn bè đóng vai trò xã hội hóa hết sức quan trọng đối với cá nhân, nhất
là giai đoạn vị thành niên và lứa tuổi dậy thì. Nhóm bạn bè thường là cùng hàng xóm (nhất là
trong xã hội kém văn minh), về sau có nhóm cùng học và nhóm hoạt động trong xã hội.
Nhóm bạn bè có sự khác biệt với gia đình và nhà trường ở chỗ là các thành viên trong nhóm
thường có chỗ đứng trong thang bậc xã hội như nhau, nghĩa là giữa họ có quan hệ tương tác
tương đối bình đẳng. Đặc biệt các cá nhân khi tham gia vào nhóm sẽ thực hiện nhiều hoạt
động không có sự giám sát của gia đình và nhà trường, khi thoát khỏi sự áp đặt của bố mẹ và
sự ràng buộc của nhà trường, nhờ vào đó các cá nhân có được sự độc lập đáng kể, như vậy sẽ
tạo điều kiện cho cá nhân có được kinh nghiệm mà ngay ở trong gia đình và nhà trường không thể có được.
Một hình dung ban đầu về nhóm chúng ta dễ nhận thấy nhất đó là đảm nhận chức năng giải
trí, song trong hoạt động thực tế thì nhóm bạn bè không chỉ dừng lại ở chức năng đó. Từ đây
sẽ tạo ra một mô hình ứng xử riêng hay nói cách khác đó là một tiểu văn hóa với các giá trị,
chuẩn mực khác so với gia đình và nhà trường hoặc văn hóa của người lớn. Điều này được
thể hiện qua phong cách ăn mặc, kiểu tóc, xe cộ, sở thích âm nhạc... vì thế, cá nhân tìm cách
tuân thủ các qui chuẩn của nhóm, nhằm đảm bảo rằng anh ta được chấp nhận hay ủng hộ.
Rõ ràng cá nhân luôn cố gắng thực hiện dúng những gì mà nhóm đã qui định chứ không phải
anh ta cố gắng để nhóm theo các giá trị mà anh ta đặt ra (trừ những trường hợp đặc biệt).
Điều này lý giải vì sao bố mẹ chúng ta luôn thể hiện sự quan tâm bằng cách cố gắng tìm hiểu
xem bạn của chúng ta là ai? Mong muốn của họ là chúng ta có nhóm bạn chí ít cũng có cùng
nền tảng giáo dục, với hy vọng con cái có sự phát triển tốt hơn, hoàn thiện hơn, điều này
được thể hiện trong câu tục ngữ “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” mà cha ông ta đã đúc kết
qua trải nghiệm của cuộc sống.
3.4 Truyền thông đại chúng
Nếu như trong xã hội kém phát triển, khi mà hệ thống truyền thông (kỹ thuật và công nghệ)
chưa xuất hiện hoặc chưa phát triển thì trong các tác nhân của quá trình xã hội hóa sẽ không
có truyền thông đại chúng. Tuy nhiên trong xã hội hiện đại, khi mà hệ thống truyền thông
phát triển mạnh mẽ, với qui mô rộng lớn thì truyền thông đại chúng có vai trò hết sức quan
trọng đối với quá trình xã hội hóa.
Truyền thông đại chúng là những thiết chế sử dụng những phát kiến kỹ thuật ngày càng tinh
vi để phục vụ cho sự giao lưu tư tưởng, những mục đích thông tin, giải trí và thuyết phục tới
đông đảo khán thính giả. Và những phát kiến kỹ thuật hiện nay đó là truyền hình, truyền thanh, báo chí và internet.
Hệ thống truyền thông đưa đến cho con người một lượng lớn thuộc đủ loại thông tin mà gia
đình hay trường học không thể cung cấp được, do đó có tác động đến thái độ, hành vi của các
cá nhân. Trong đó phải kể đến truyền hình, khi xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1938 ở Mỹ và
sau đó không lâu nó nhanh chóng trở thành một phần trong cuộc sống của người Mỹ, đến
những năm 70 của thế kỷ XX số lượng gia đình xem truyền hình đạt 98%. Cục thống kê của
Mỹ năm 1987 đưa ra con số khá ấn tượng về thời lượng xem truyền hình trong các gia đình là
7 giờ đồng hồ mỗi ngày.
Ngày hôm nay không riêng gì người Mỹ mà nhiều quốc gia trên thế giới, việc tìm và nhận
thông tin là nhu cầu tất yếu. Vì vậy, thông tin hay phương tiện thông tin đã, đang và sẽ trở
thành một thứ hàng hóa đặc biệt, chính truyền thông đã cung cấp cho các cá nhân những định
hướng và các quan điểm đối với các vấn đề trong cuộc sống, giúp con người mở rộng tầm
nhìn, tăng tầm nhận thức, thỏa mãn các nhu cầu thẩm mỹ, giải trí và hơn hết cả là nhờ vào đó
mà nhân loại chúng ta ngày càng xích lại gần nhau hơn (văn minh và quan hệ đa phương).
Bên cạnh những tác nhân đã nêu ở trên thì trong xã hội hiện đại chúng ta còn bắt gặp nhiều
yếu tố khác ít nhiều cũng có tác động đến quá trình xã hội hóa của cá nhân như dư luận xã
hội, các tổ chức tôn giáo, cơ quan nơi chúng ta tham gia lao động sản xuất hoặc các câu lạc
bộ bóng đá, bơi lội và có thể có ở mọi nơi.
Tóm lại, khi nói đến môi trường xã hội hóa, chúng ta không nên nghĩ nó như một công việc
được phân công, nghĩa là việc gia đình thì gia đình lo, việc nhà trường lo... nếu cho rằng như
vậy thì sẽ là sai lầm lớn đối với tiến trình xã hội hóa, vì không có sự quan tâm đồng bộ giữa
gia đình, nhà trường và xã hội thì quá trình xã hội sẽ khó có thể đạt được kết quả như mong muốn.
Chúng ta hãy đọc bức thư sau, bức thư được xem là của Abraham Lincoln (1809 - 1865),
Tổng thống Hoa Kỳ (1861 - 1865) gửi cho thầy hiệu trưởng nơi con trai mình theo học, được
viết cách đây trên dưới 150 năm và đây là bài học sâu sắc về triết lý giáo dục, mà chúng ta cần noi theo.
Xin thầy hãy dạy cho con tôi!
(Trích thư của tổng thống Mỹ Abraham Lincoln gửi thầy hiệu trưởng nơi con trai ông theo học)
... Con tôi phải học tất cả những điều này, rằng không phải tất cả mọi người đều công bằng,
tất cả mọi người đều chân thật. Nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết cứ mỗi một kẻ vô lại ta
gặp trên đường phố thì ở đâu đó sẽ có một con người chính trực, cứ mỗi một chính trị gia ích
kỷ, ta sẽ có một nhà lãnh đạo tận tâm. Xin hãy dạy cho cháu biết rằng cứ mỗi một kẻ thù ta
gặp ở nơi này thì ở nơi khác ta lại thấy một người bạn.

Bài học này sẽ mất rất nhiều thời gian, tôi biết, nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết rằng
một đồng đô la kiếm được do công sức lao động của mình bỏ ra còn quí giá hơn nhiều so với
năm đô la ta nhặt được trên hè phố...

Xin dạy cho cháu biết cách chấp nhận thất bại và cách tận hưởng niềm vui chiến thắng. Xin
hãy dạy cháu đừng bao giờ đố kỵ. Dạy cháu biết được rằng, những kẻ hay bắt nạt người

khác nhất lại là những kẻ dễ bị đánh bại nhất...
Xin hãy giúp cháu nhìn thấy thế giới kỳ diệu của sách... nhưng cũng cho cháu có đủ thời gian
để lặng lẽ suy tư về sự bí ẩn muôn thửa của cuộc sống, đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn
ong bay lượn trong ánh nắng và những bông hoa nở ngát bên đồi xanh.

Ở trường xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi trượt còn vinh dự hơn gian lận trong
kỳ thi. Xin giúp cháu có niềm tin vào ý kiến của bản thân, dù tất cả mọi người xung quanh
đều cho rằng ý kiến đó hoàn toàn là sai lầm.

Xin hãy dạy cho cháu biết cách đối xử dịu dàng với những người hòa nhã và cứng rắn với
những kẻ thô bạo. Xin tạo cho cháu sức mạnh để không chạy theo đám đông khi tất cả mọi
người chỉ biết chạy theo thời thế.

Xin hãy dạy cho cháu biết phải lắng nghe mọi người, nhưng cũng xin thầy hãy dạy cháu biết
cần phải sàng lọc những gì nghe được qua một tấm lưới chân lý để cháu chỉ đón nhận những gì tươi đẹp...

Xin hãy dạy cho cháu biết cách mỉm cười khi buồn bã.... Xin hãy dạy cháu biết rằng không
có sự xấu hổ trong những giọt nước mắt. Xin hãy dạy cho cháu biết cách chế diễu những kẻ

hèn hạ, che dấu những người khốn khổ, mở cho những kẻ cùng quẫn lối thoát cuộc đời và
cẩn trọng trước sự ngọt ngào đầy cạm bẫy.

Xin hãy dạy cho cháu rằng bán cơ bắp và trí tuệ cho những người ra giá cao nhất, nhưng
không bao giờ cho phép ai ra giá mua trái tim và tâm hồn mình.

Xin hãy dạy cho cháu ngoảnh tai làm ngơ trước một đám đông đang gào thét... và đứng
thẳng người bảo vệ những gì cháu cho là đúng.
Xin hãy đối xử dịu dàng với cháu nhưng đừng vuốt ve chiều chuộng bỏi chỉ có sự thử thách
của lửa mới tôi luyện nên được những thanh sắt cứng rắn. Hãy giúp cháu có can đảm biểu lộ
sự thiếu kiên nhẫn và có đủ kiên nhẫn để biểu lộ sự can đảm...

Xin hãy dạy cho cháu biết rằng cháu phải luôn có niềm tin tuyệt đối vào bản thân, và khi đó
cháu sẽ luôn có niềm tin tuyệt đối vào nhân loại.

Đây quả là một yêu cầu quá lớn, tôi biết, thưa thầy, nhưng xin thầy cố gắng hết sức
mình...Con trai tôi quả thật là một cậu bé tuyệt vời.
Abraham Lincoln
4. Các chu kỳ của quá trình xã hội hóa
Quá trình xã hội hóa bắt đầu khi nào? Và kết thúc khi nào? Đây là vấn đề đã được nhiều nhà
khoa học quan tâm. Vì vậy, không có gì quá ngạc nhiên khi có khá nhiều quan điểm trái
ngược nhau xuất hiện. Cụ thể một vài quan điểm cho rằng quá trình xã hội hóa bắt đầu khi
đứa trẻ chào đời và kết thúc ở tuổi trưởng thành, ý kiến khác thì khi con người bắt đầu nhận
thức được cho đến lúc mất khả năng ấy hay nghiêng về mặt hoàn thiện sinh lý mà Sigmund
Freud nhà phân tâm học người Áo lại cho rằng quá trình xã hội hóa kết thúc khi con người
trưởng thành về mặt tình dục (kết thúc giai đoạn dậy thì). Tuy nhiên, hiện nay người ta
nghiên cứu và chỉ ra ràng quá trình xã hội hóa không chỉ chờ cho trẻ sinh ra mà cần phải
được thực hiện khi còn là thai nhi, bắt đầu lúc thai nhi khoảng tháng thứ 6.
Còn quá trình xã hội hóa kết thúc khi nào? Như đã trình bày ở trên, rõ ràng việc chấm dứt quá
trình này cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, quan điểm được đại đa số các nhà khoa
học đồng thuận nhất hiện nay là một quá trình mang tính liên tục và kéo dài suốt cuộc đời của mỗi cá nhân.
Như vậy, quá trình xã hội hóa sẽ được chia làm nhiều chiều cạnh. Điều đó được thể hiện trên hai phương diện sau:
Thứ nhất, những nét khác biệt cơ bản giữa trẻ em và người lớn trong quá trình xã hội hóa: 
Người lớn thường chủ động khi tiếp cận các giá trị, chuẩn mực, nghĩa là họ có khả
năng đánh giá, phán xét trong khi đó trẻ em lại thụ động. 
Người lớn có khả năng thay đổi các giá trị, chuẩn mực của mình trong tiến trình xã
hội hóa, còn trẻ em sẽ tạo lập và thu nhận những giá trị, chuẩn mực ấy. 
Quá trình xã hội hóa ở người lớn nhằm tạo lập những kỹ năng như của luật sư, bác sĩ,
nhà khoa học... còn trẻ em hướng đến các động cơ hành động, nghĩa là được dạy dỗ
để trở thành người lịch sự, người biết tuân theo các nguyên tắc xã hội.
Thứ hai, các giai đoạn của quá trình xã hội hóa: 
Xung quanh vấn đề phân đoạn của quá trình xã hội hóa vẫn còn gây nhiêu tranh cãi.
Sau đây là một vài quan điểm tiêu biểu của các phân đoạn: 
Phân đoạn của George Herbert Mead, nhà xã hội học người Mỹ, ông cho rằng quá
trình xã hội hóa trải qua ba giai đoạn: o
Giai đoạn đầu, giai đoạn bắt chước. Ở giai đoạn này đứa trẻ sẽ sao chụp những
gì nó thấy, nó nghe được từ những người xung quanh và nó sẽ làm hoặc nói lại
tương tự như vậy. Tuy nhiên, chúng chưa thể hiểu được ý nghĩa của những lời nói và việc làm đó. o
Giai đoạn thứ hai, giai đoạn đóng vai. Giai đoạn này đứa trẻ đã hình dung và
hiểu được phần nào những hành vi và sự tương ứng của nó với các vai trò xã
hội nhất định, chủ yếu là những vai trò nam trong phạm vi quan sát của trẻ
như ở gia đình, trường học, nhóm trẻ... Nếu quan sát lúc trẻ chơi với búp bê ta
sẽ thấy có những giọng nói hoặc cử chỉ của cha mẹ hoặc người thân khác được
bé diễn lại và đồng thời diễn ra quá trình đổi vai. o
Giai đoạn thứ ba, giai đoạn trò chơi. Đây là giai đoạn mà tầm hiểu biết của trẻ
đã rộng hơn và vì vậy trẻ cũng hình dung được sự đòi hỏi của xã hội Ở mình là
khác trước, trẻ không chỉ biết cho riêng mình hoặc một cá nhân nào đó mà
phải còn phải hướng tới phạm vi rộng lớn hơn hay nói cách khác là của cả xã hội. 
Phân đoạn của G.Andreeva (nhà xã hội người Nga), ông cũng phân ra ba giai đoạn,
song trong mỗi giai đoạn lại có những đặc trưng riêng. o
Giai đoạn đầu là giai đoạn trước lao động. Giai đoạn này được chia làm hai
giai đoạn nhỏ: Giai đoạn trẻ thơ và giai đoạn thanh - thiếu niên. Giai đoạn trẻ
thơ, giai đoạn này chủ yếu của trẻ là vui chơi, tập trung trong phạm vi gia đình
và vườn trẻ, mẫu giáo. Giai đoạn thanh - thiếu niên. Giai đoạn này chủ yếu
nằm trong nhà trường, là nơi mà cá nhân thu nhận được tri thức nền và kỹ
năng nghề nghiệp, cũng như thiết lập các mối quan hệ xã hội. o
Giai đoạn lao động. Là giai đoạn cá nhân tham gia chính thức vào hoạt động
lao động (lao động trí óc và lao động chân tay) cho đến kết thúc quá trình này
là khi nghỉ hưu. Cần hiểu rằng, đây còn là quá trình cá nhân thu nhận kinh
nghiệm xã hội và tham gia sáng tạo chúng. o
Giai đoạn sau lao động. Là giai đoạn mà cá nhân kết thúc quá trình lao động
chính thức, nghĩa là về hưu. Hiện nay có hai quan điểm trái ngược nhau về
giai đoạn này. Ý kiến thứ nhất cho rằng, xã hội hóa hoàn toàn không có ở giai
đoạn này, như vậy theo quan điểm này thì chỉ có hai giai đoạn đầu. Đây là một
hướng nhìn tiêu cực, vì đã không công nhận vai trò của người già trong cuộc
sống khi kinh nghiệm xã hội của họ là cực kỳ quan trọng mà chúng ta có thể
tận dụng (nhiều ngành khoa học nghiên cứu về người già như lão khoa, người
cao tuổi trong xã hội học).
Ý kiến thứ hai nhìn nhận vai trò quan trọng của xã hội hóa ở giai đoạn này. Người già có khả
năng tái tạo các kinh nghiệm xã hội, họ vẫn tiếp tục học hỏi, trau dồi để thích ứng với xã hội
ngày càng phát triển và kinh nghiệm sống của họ là thứ mà thể hệ trẻ không thể có được, vì
vậy việc họ truyền đạt những giá trị, kinh nghiệm cho thế hệ con cháu là điều không cần bàn cãi.
Bài 2: Vị trí, địa vị và vai trò xã hội
Khi bàn về quá trình xã hội chúng ta thường cho rằng, quá trình xã hội hóa là quá trình trong
đó cá nhân tham gia học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm để đóng các vai trò xã hội khi cá nhân cần
và xã hội đòi hỏi. Như vậy, về bản chất xã hội hóa là quá trình tương tác giữa các cá nhân với
nhau và với xã hội. Để thực hiện được những tương tác này, các cá nhân cần trải mình qua
các vị trí, vai trò và địa vị xã hội khác nhau, chỉ có như thể cá nhân mới thể hiện được mình
và xã hội cũng dễ dàng nhận ra anh ta. 1..Vị trí.xã hội
Vị trí xã hội là sự định vị của một cá nhân trong một đơn vị xã hội, tức là trong đơn vị hay tổ
chức xã hội nào đó, anh là ai? Là nhân viên, là thư ký hay thủ trưởng hoặc là giám đốc... Tuy
nhiên, vị trí xã hội của cá nhân chỉ mang tính tương đối trong cấu trúc xã hội hay trong hệ
thống xã hội. Bởi vị trí đó chỉ được xác định qua sự đối chiếu cũng như so sánh với vị trí xã hội khác.
Các vị trí xã hội mà cá nhân có được là do cá nhân dã có sự hiện diện hay nói cách khác là đã
tham gia vào trong các đơn vị xã hội với tư cách là một thành viên, đó có thể là người chồng,
người cha, người anh... trong gia đình. Như vậy, nếu một cá nhân nêu trên tham gia vào nhiều
quan hệ xã hội, hay dựa vào những đặc điểm vốn có của cá nhân như giới tính, chủng tộc,
nguồn gốc xuất cư... hoặc dựa vào nghề nghiệp, học vấn... thì cá nhân đó sẽ có nhiều vị trí xã hội.
Những vị trí xã hội đó chỉ tồn tại khi nó được đặt trong mổi quan hệ tương ứng như một
người đàn ông là thầy giáo nếu so với học trò của anh ta chứ không phải là một bác nông dân
hay với con anh ta thì anh ta lại là một người cha...
Chúng ta cần lưu ý rằng, nói đến vị trí xã hội là nói đến một sự lượng giá, nghĩa là cao hay
thấp hay trung bình nó phụ thuộc vào sự so sánh trong nội bộ một thang. Ví dụ: Trong gia
đình thì người cha có quyền nhắc con cái về mặt thời gian khi đi chơi nhưng chỉ là trong gia
đình anh ta, còn gia đình khác lại không được hoặc anh không thể nói giờ giấc với bệnh nhân
nếu anh không phải là bác sĩ người phụ trách ở đó. Như vậy, hai vị trí này ở hai môi trường
khác nhau. Cũng có nghĩa rằng không thể so sánh sự cao hay thấp hay trung bình giữa người
cha trong gia đình và bác sĩ ở bệnh viện.
2. Địa vị xã hội và vị thế xã hội
Hiện nay vẫn không ít người nhầm lẫn khi cho rằng, địa vị xã hội và vị trí xã hội là một.
Nhưng, như đã phân tích ở trên, vị trí xã hội là để xác định chỗ đứng của một cá nhân trong
một đơn vị xã hội. Ví dụ: Anh A là giảng viên (giảng viên là một vị trí xã hội). Vậy chỗ đứng
của anh ta sẽ xác định ở đãu? Là ở trường đại học, cao đẳng nơi anh ta đang công tác hoặc
chí ít thì anh ta cũng là thỉnh giảng cho một trường nào đó, chứ không thể gọi anh ta là giảng
viên khi anh ta chi là một người làm nông hoặc một nhân viên văn phòng.
Vậy địa vị xã hội là gì? Địa vị xã hội chính là vị trí xã hội của cá nhân khi vị trí xã hội đó
được gắn với những trách nhiệm và quyền lợi. Như thế, vị trí xã hội của cá nhân chỉ là cơ sở
để xác định địa vị xã hội (vị thế xã hội) của họ mà thôi.
Từ phân tích trên cho thấy, địa vị xã hội là một khái niệm rộng nó bao hàm cả vị trí xã hội
cùng những quyền lợi và nghĩa vụ tương ứng với vị trí đó. Nếu một người có các quyền và
nghĩa vụ cao thì nghĩa là người đó có địa vị xã hội cao, dĩ nhiên quyền và nghĩa vụ cao hay
thấp, nhiều hay ít nó không có sự đánh giá giống nhau giữa các nhóm xã hội, nền văn hóa
hoặc giữa các thể chế chính trị...
Tuy nhiên, khi bàn về địa vị xã hội chúng ta không nên chỉ xem xét hay dựa trên những tiêu
chí khách quan trên, mà địa vị xã hội có hay không, cao hay thấp còn phụ thuộc vào sự đánh
giá của một nhóm hay cộng đồng xã hội về tọa độ cúa cá nhân trong uy tín xã hội. Nghĩa là,
trong đó cá nhân có hay không có uy tín, uy tín cao hay thấp và nói đến uy tín cá nhân có
được trong xã hội nhiều hay ít, cao hay thấp nó không hoàn toàn phụ thuộc vào việc cá nhân
có quyền lực, nghĩa vụ ít hay nhiều mà phụ thuộc vào những yếu tố như thâm niên nghề
nghiệp, tuổi tác, trình độ học vấn, đạo đức, sự cống hiến cho xã hội...
Tóm lại, địa vị xã hội và vị trí xã hội là hai khái niệm khác nhau cả về mặt thuật ngữ và nội
hàm. Vị trí xã hội xác định nơi (gia đình, trường học, công ty...) cá nhân hoạt động và tồn tại,
nơi đó cá nhân là người cha, mẹ hoặc chồng, vợ hoặc giáo viên, nhân viên... Địa vị xã hội là
nói đến một chồ đứng nào đó trong xã hội với những lợi ích kèm theo cũng như trách nhiệm.
Khi chúng ta ở một vị trí xã hội, kèm theo đó chúng ta có được uy tín xã hội, quyền và nghĩa
vụ cao hơn uy tín, quyền và nghĩa vụ của người khác ở vị trí xã hội khác, thì điều đó có nghĩa
là chúng ta đang có được địa vị xã hội cao hơn người khác (chủ thể nằm trong sự so sánh).
Như vậy, khi nghiên cứu về địa vị xã hội thì cần xem xét ở hai phương diện sau: Địa vị xã hội
chính thức và địa vị xã hội không chính thức. 
Thứ nhất, địa vị xã hội chính thức: Là loại địa vị xã hội mà cá nhân có được do thể
chế hóa một cách rõ ràng dựa trên những qui định của một cơ quan, của một chính
phủ và cùng đó sẽ có luôn tính chế tài chỉ mang tính tương đối. Ví dụ: Trưởng khoa
được bầu dựa trên những qui chuẩn mang tính tổ chức. 
Thử hai, địa vị không chính thức hay còn gọi là uy tín xã hội: Là loại địa vị xã hội mà
cá nhân có được là do sự đánh giá và thừa nhận của nhóm hay tổ chức xã hội nào đó.
Dựa trên sự cống hiến, tuổi tác, nghề nghiệp, học vấn... Nghĩa là địa vị này không
nam trong một qui định mang tính chính thức nào cả và một điều dễ nhận thấy ở đây,
đó là không có quyền lực nhưng lợi ích có thể có, tùy vào cách nhìn nhận, cách tiếp
cận của cả chủ thể và xã hội.
Các loại địa vị xã hội: có hai loại 
Địa vị gán hay xuất thân: Dựa vào những yếu tố như giới tính, chủng tộc, nơi sinh...
mà cá nhân có được địa vị xã hội. Nghĩa là không thuộc vào chủ ý của cá nhân hay
nói cách khác, địa vị mà cá nhân có không phải do nỗ lực của bản thân, sinh ra ngay
lập tức họ có địa vị ấy.
Ví dụ: Con vua sinh ra ngay lập tức được thần dân gọi là hoàng tử. 
Địa vị dành được: Là địa vị mà cá nhân có được nhờ vào sự nỗ lực của bản thân như
học vấn, tài năng, đạo đức hoặc cả những yếu tố như sự may mắn, thủ đoạn và mánh khóe.
Ví dụ: Nhờ năng lực nên giáo viên A được bầu làm hiệu trưởng. 3. Vai trò xã hội 3.1.Khái niệm
“Vai trò xã hội” là một thuật ngữ của kịch học, nơi nghiên cứu các vai diễn của những diễn
viên đóng vai và diễn trò trên sân khấu. Xã hội học đã mượn và nó trở thành thuật ngữ khoa
học trong xã hội học, được G.H.Mead nhà xã hội học người Mỹ đưa vào những năm 30 của thế kỷ XX.
Con người với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, cùng những thuộc tính tâm lý riêng và tạo
ra vô số hành vi mang nét riêng của từng cá nhân, nhưng sống và hoạt động trong xã luôn có
tính cộng đồng. Cho nên, thường thì các hành vi ấy vẫn bị giới hạn bới sự qui chiếu của
những địa vị, vai trò xã hội mà cá nhân có. Điều này có nghĩa là chúng ta sẽ cố gắng kiểm
soát và điều chỉnh hành vi theo sự mong đợi của mọi người xung quanh.
Như vậy, vai trò xã hội là mô hình hành vi mà cá nhân thực hiện nằm trong sự mong đợi của
xã hội. Những mong đợi này không hẳn dựa trên sự giống nhau giữa các cá nhân về mặt sinh
học, mà chủ yếu dựa trên địa vị xã hội cá nhân có. Tức là, ứng với từng địa vị xã hội sẽ có
một mô hình hành vi xã hội tương ứng với nó. Ví dụ: Giảng viên lên bục giảng phải trang
phục chỉnh tề (quần tây, áo sỞ mi đóng thùng hoặc áo vét, đi giày tây hoặc chí ít cũng là san
đan), trong khi sinh viên cũng vào lớp học đó có thề mặc áo pull quần jean, đi dép lê. Song,
điều này không hề có sự giống nhau giữa các tổ chức xã hội, các nền văn hóa, v.v... bởi mỗi
một nhóm hay tổ chức xã hội lại có những qui chuẩn riêng. Ngay trong một xã hội có nhiều
tiểu văn hóa và mỗi tiểu văn hóa cũng lại có những giá trị, chuẩn mực của riêng mình.
Tóm lại, có thể hiểu “vai trò xã hội” là một khái niệm dùng để chỉ sự mong đợi của xã hội đối
với hành vi diễn xuất của một cá nhân trong một tình huống xã hội cụ thể và trong một khung
cảnh xã hội nhất định.
Cá nhân ngoài xã hội cũng giống như các diễn viên diễn vai trên sân khẩu, nghĩa là họ cũng
phải diễn, song khác ở chỗ, diễn viên diễn trên sân khấu phải tuân theo một kịch bản đã được
định sẵn, còn ngoài đời các cá nhân diễn xuất theo một tình huống xã hội tự nhiên. Dĩ nhiên
phái xem xét ở tính phù hợp giữa địa vị xã hội với mô hình mong đợi, tức là vai diễn. Một
người đàn ông trong xã hội sẽ có rất nhiều vai trò xã hội khác nhau, ở trường với sinh viên
anh ta là thầy - người giảng bài, về nhà chơi với con anh ta đóng vai cha, là chồng đối với
vợ,... Ngay trong một không gian hẹp và thời gian ngắn anh ta cũng có thể diễn rất nhiều vai.
Ví dụ ở gia đình khi trò chuyện với con là cha, với vợ là chồng với ông bà là cháu.... Như
vậy, vai trò là cơ sở để mỗi cá nhân thực hiện sự giao tiếp hay nói cách khác chỉ thông qua
các vai trò xã hội các cá nhân mới thực hiện dược cái gọi là tương tác xã hội. Jean Stoetzel
nhà tâm lý xã hội học người Pháp đã viết: “Vai trò như là tập hợp những ứng xử của mỗi cá
nhân mà mọi người khác chờ đợi”.
Qua đó, nếu cá nhân muốn diễn tốt vai trò xã hội của mình, nghĩa là nằm trong sự mong đợi
của xã hội thì buộc lòng cá nhân phải hòa nhập vào xã hội, ở trong đó cá nhân luôn cố gắng
tìm tòi, học hỏi (quá trình xã hội hóa), cần lưu ý, không phải mọi thứ chúng ta học và hiểu
được đều nằm trong sự mong đợi của tất cả các xã hội.
Một cá nhân có thể có nhiều địa vị xã hội, nhất là trong xã hội ngày càng phát triển và năng
động như hiện nay, do đó cá nhân cũng sẽ có nhiều vai trò xã hội kèm theo. Đồng thời cá
nhân luôn đặt mình trong sự suy nghĩ, làm sao tránh khỏi những nhầm lẫn để thực hiện vai
trò cho phù hợp và như thế các cá nhân thường rơi vào cái gọi là “xung đột vai trò”. Ví dụ:
Người vợ là giám đốc của một công ty và ở đó người chồng là nhân viên, chị ta có thể đập
bàn trong cuộc họp (dễ được chấp nhận hơn) nhưng không thể đập bàn khi nói chuyện với chồng con ở nhà.
Sự xung đột vai trò nó là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến căn bệnh của thời đại
- sự căng thẳng, mà chúng ta gọi “Stress”.
3.2 Các loại vai trò xã hội
Như đã phân tích ở trên, cá nhân có nhiều mối quan hệ xã hội, từ đó cá nhân cũng có nhiều
địa vị xã hội và mỗi một địa vị xã hội đó cá nhân lại có những vai trò xã hội tương ứng. Tuy
trong cuộc sống cá nhân đóng nhiều vai trò xã hội, nhưng chúng ta tìm hiểu một vài loại vai trò cơ bản sau: 
Vai trò thường nhật. Là loại vai trò mà mỗi cá nhân chúng ta tham gia đóng thường
xuyên và thay đổi liên tục tùy thuộc vào mối quan hệ tương tác. Nó chiếm đại đa số
trong tổng số các vai mà cá nhân đóng hàng ngày. Ví dụ: Vai trò là khách hàng, là vai
anh đối với em trong gia đình, vai là một người bạn, người hàng xóm... Đây là vai trò
mà mỗi cá nhân chỉ cần học hỏi, bắt chước một cách đơn giản là có thể đóng được. 
Vai trò định chế. Là loại vai trò nếu cá nhân muốn đóng phải trải qua một quá trình
đào tạo, huấn luyện theo một cách thức nhất định nào đó hoặc bởi những qui định do
một tổ chức nào đó đã thiết kế sẵn. Đóng loại vai trò này được xem như là nhiệm vụ
phải đảm trách và kèm theo đó là những áp lực. Ở đây, gần như cá nhân không nghĩ
đến tính sáng tạo, vì tất cả các vai trò đã trở thành khuôn mẫu, chuẩn, nghĩa là đã
được định sẵn, nhập vào những vai này cá nhân chỉ cứ thế mà đóng, không cần suy
nghĩ. Lưu ý trong loại vai này luôn có tính chế tài đối với những cá nhân tham gia đóng. 
Vai trò kỳ vọng. Là loại vai trò mà khi cá nhân tham gia đóng sẽ nhận được sự kỳ
vọng, sự mong đợi của rất nhiều người trong nhóm, tổ chức hoặc cả xã hội rộng lớn.
Ví dụ: Lớp trưởng của một lớp, chủ tịch hội chất độc da cam Việt Nam... Ai đóng vai
trò kỳ vọng luôn phải ý thức và có trách nhiệm đáp lại sự mong đợi đó. 
Vai trò gán. Là loại vai trò mà cá nhân có được xuất phát từ một yếu tố nào đó như tài
năng, giới tính, yếu tố sinh học... được nhóm hoặc xã hội gán cho bởi sự tôn vinh hay
thành kiến thông qua một cuộc bình bầu chính thức hoặc không chính thức. 
Vai trò tự chọn. Đây là loại vai trò mà cá nhân đóng hay không đóng phụ thuộc vào ý
chủ quan của cá nhân. Tuy nhiên, nó chỉ mang tính tương đối, vì trong một số trường
hợp không phải cứ muốn là cá nhân đóng được ngay.
Ví dụ: anh A muốn đóng vai người cha, nhưng anh ta chưa có con thì anh ta không thể đóng được.
Qua đó, chúng ta thấy được một điều cơ bản là “vai trò xã hội” không bao giờ độc diễn và
luôn có ít nhất hai chủ thể xã hội.