




Preview text:
Chương 5.
CÁC HỆ THỐNG TÍN HIỆU
5.1. Khái niệm về hệ thống tín hiệu
- Một tác nhân nào đó đại diện cho một tác nhân kích thích khác để gây ra một phản
ứng nào đó của cơ thể được gọi là hệ thống tín hiệu.
- Hệ thống tín hiệu thứ nhất là tất cả những sự vật hiện tượng khách quan và những
thuộc tính của chúng được gọi là tín hiệu thứ nhất
Ví dụ: các tín hiệu giao thông, đèn xanh tín hiệu sự thông đường, đen đỏ tín hiệu
chướng ngại vật; tiếng trống trường buổi sáng là tín hiệu bắt đầu vào giờ học hay nhiệt độ
cơ thể tăng cao tín hiệu của cơ thể bị sốt…
+ Hệ thống tín hiệu thứ nhất bao gồm toàn bộ hoạt động của vỏ não nhằm biến các
kích thích thành các tín hiệu đặc trưng cho các dạng hoạt động khác nhau của cơ thể - là
toàn bộ các đường liên hệ thần kinh tạm thời được hình thành với các kích thích cụ thể.
Đối với động vật, hệ thống tín hiệu thứ nhất là hệ thống đường thông tin duy nhất về môi trường xung quanh.
+ Các tín hiệu khác nhau, các kích thích quang học, hóa học và vật lý sau khi trở
thành tín hiệu có điều kiện sẽ làm nhiệm vụ thông báo cho cơ thể biết trước những gì xảy
ra. Kết quả, các phản ứng thích nghi cần thiết hình thành được hình thành được kịp thời.
Đó là các phản xạ cso điều kiện thuộc các cấp độ khác nhau, là cơ sở sinh lý của quá trình
tư duy cụ thể. Hệ thống tín hiệu thứ nhất là hoạt động đặc trưng cho hệ thần kinh của người
và động vật. Nó biểu hiện rõ ở trẻ am trong sau tháng đầu tiên của thời kỳ phát triển phôi thai.
- Hệ thống tín hiệu thứ hai là toàn bộ hoạt động của vỏ não đặc trưng cho con người
do tiếng nói và chữ viết đảm nhiệm.
+ Con người đã quan hệ với nhau và thực hiện mọi nhiệm vụ theo mệnh lệnh của
tiếng nói. Nhờ tiếng nói mà hoạt động thần kinh cấp cao của con người nâng lên một bậc
so với các loài động vật bậc cao khác. Tiếng nói đã thay thế các kích thích thuộc hệ thống
tín hiệu thứ nhất nhằm tạo ra khả năng phản ứng không chỉ đối với vật cụ thể mà cả với tên
gọi của chúng. Mối liên hệ giữa tiếng nói và các kích thích cụ thể được thực hiện theo
nguyên tắc hình thành phản xạ có điều kiện – tạo ra các con đường liên hệ thần kinh tạm thời.
Hệ thống tín hiệu thứ hai là ngôn ngữ, chữ viết, lời nói, có thể nhìn thấy được, nghe
thấy được và tư duy được. Nó được hình thành và phát triển trong quá trình phát triển các
thể trong các môi trường xung quanh nhất định, điều này có thể quan sát được ở trẻ, nhờ
hoạt động phân tích của vỏ não đã hình thành mối liên hệ giữa các từ với nhau, nó đảm bảo
sự liên kết giữa các vần trong từ rồi giữa các từ trong câu đơn giản. Việc bắt chước cách
ăn nói của người lớn cũng giữ vai trò quan trọng đối với phát triển ngôn ngữ.
Đối với con người, ngôn ngữ đóng vai trò là một kích thích giống như các sự vật
hiện tượng của môi trường xung quanh vì bất kì tác nhân kích thích nào cũng liên quan với
ngôn ngữ. Các tín hiệu ngôn ngữ
5.2. Bản chất của hệ thống tín hiệu thứ hai
Hệ thống tín hiệu thứ hai là những tín hiệu của tín hiệu thứ nhất và nó phản ánh sự
vật hiện tượng một cách khái quát vì thế hệ thống tín hiệu thứ hai có những bản chất sau:
- Hệ thống tín hiệu thứ hai cũng là một loại tác nhân kích thích có điều kiện tương
đương với mọi tác nhân kích thích có điều kiện khác.
Tiếng nói được vỏ não tiếp nhận thông qua hoạt động của cáccơ quan phân tích như
cơ quan phân tích thính giác, thị giác và xúc giác. Khi nói và viết cần có sự tham gia của
cơ quan phân tích vận động
- Hệ thống tín hiệu thứ hai là loại tác nhân kích thích đặc biệt đặc trưng ở người.
Động vật có thể phản ứng lại tiếng nói của người nhưng tác dụng của tiếng nói đối với
động vật chỉ đơn thuần là âm thanh với các đặc điểm và tính chất vật lý của nó còn ở người,
tiếng nói và chữ viết có ý nghĩa chủ yếu là nội dung chứa đựng trong đó.
- Hệ thống tín hiệu thứ hai là tín hiệu loại hai, tín hiệu của tín hiệu, báo hiệu gián tiếp sự vật.
Ví dụ khi ta nói đến các loại quả như: chanh, mơ, mận, me, khế… ta sẽ quan sát
được hiện tượng tiết nước bọt ở người đối diện. Tiếng nói gây được tác dụng này là do nó
có mối liên hệ chặt chẽ với các đối tượng, hiện tượng nhất định. Các dấu vết của tiếng nói
và dấu vết của sự vật cụ thể được biểu thị bởi tiếng nói liên kết với nhau trong vỏ não thành
một cấu trúc động hình. Do đó, cũng như kích thích cụ thể, tiếng nói cũng có khả năng gây
hưng phấn trong cấu trúc động hình này. Nhờ khả năng thay thế tác dụng kích thích cụ thể
của tiếng nói mà sjw phản ánh hiện thực khách quan trong não không chỉ bằng con đường
vận dụng các cảm giác trực tiếp, mà bằng vận dụng tiếng nói. Chính nhờ khả năng này,
con người có khả năng tách rời các sự vật hiện tượng khỏi thực tiễn hay nói cách khác là
con người có khả năng tư duy trừu tượng. Quá trình tư duy trừ tượng giúp con người nhận
thức được thực tiễn mà không cần tiếp xúc với nó, tuy nhiên, nhận thức đó đạt đến mức độ
nào còn phụ thuộc vào sự phản ánh thực tiễn bằng tiếng nói đạt mức chính xác và đầy đủ đến đâu.
5.3. Đặc điểm của hệ thống tín hiệu thứ hai
- Hệ thống tín hiệu thứ hai có khả năng khái quát sự vật: từ những sự vật cụ thể, hệ
thống thứ hai khái quát chúng thành những khái niệm chung
Ví dụ: từ động vật biểu thị cho các sinh vật cử động được như: con giun, con sấu,
con chim, con thú, con người…, còn từ thực vật biểu thị cho các loài thực vật như cây cỏ,
cây bèo , cam cam, cây đa…. Như vậy, trong hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ hai, khả
năng phân tích và tổng hợp của vỏ não đạt đến mức cao nhất.
- Hệ thống tín hiệu thứ hai có khả năng trừu tượng hóa sự vật: từ những dấu vết của
tín hiệu thứ hai, vỏ não giúp cho tư duy trừu tượng phát huy tác dụng, nhờ đó mà vỏ não
có thể sản sinh ra những suy nghĩ mới, những phản xạ mới, những kiểu phản ứng mới chưa
có trong thực tiễn. Đó là cơ sở sinh học của sự sáng tạo trong tư duy và trong hành vi.
- Hệ thống tín hiệu thứ hai được hình thành sau hệ thống tín hiệu thứ nhất, nhưng
khi vỏ não bị ức chế lại bị mất trước hệ thống tín hiệu thứ nhất.
Trong quá trình chủng loại phát sinh ở động vật, ngôn ngữ xuất hiện sau cùng và
chỉ có ở người, do lao động tạo ra và cùng với lao động, tín hiệu thứ hai thúc đẩy quá trình
vượn biến thành người.
Trong quá trình phát triển cá thể của con người, hệ thống tín hiệu thứ hai cũng được
hình thành sau. Hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ hai có ngay từ khi trẻ vừa lọt long mẹ,
thậm chí còn sớm hơn, ngay từ giai đoạn sau của bào thai, nhưng hệ thống tín hiệu thứ hai
chỉ xuất hiện khi trẻ khoảng 2-3 tuổi sau khi sinh.
Ở người, khi ngủ say vẫn có thể nhận biết được thế giới khách quan tuy rằng khả
năng nhận biết bị hạn chế đến mức thấp nhất nhưng khi ngủ say thì ở người không nói
được, khi bị ngất hay hôn mê hay trước khi chết, ngôn ngữ đếu mất trước.
- Hệ thống tín hiệu thứ hai tác động mạnh hơn hệ thống tín hiệu thứ nhất vì nó có
khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa sự vật, mặt khác, nó làm tăng tính đa dạng cả về
mặt số lượngg của kích thích và số lượng của phản ứng trả lời qua lời nói và chữ viết
5.4. Mối quan hệ giữa hệ thống tín hiệu thứ nhất và hệ thống tín hiệu thứ hai.
- Hệ thống tín hiệu thứ hai được xây dựng trên hệ thống tín hiệu thứ nhất. Dựa trên
hệ thống tín hiệu thứ nhất, hệ thống tín hiệu thứ hai dần dần được hình thành và ngày càng phong phú.
- Sau khi được hình thành, hệ thống tín hiệu thứ hai có thể ảnh hưởng lên hệ thống tín hiệu thứ nhất.
Ví dụ: vẽ hai đoạn thẳng a, b có độ dài bằng nhau nhưng nằm lệch nhau, sau đó gọi
từng sinh viên lên yêu cầu họ quan sát nhận xét xem hai đoạn thẳng a và b có bằng nhau
không, nếu khi họ đang quan sát mà có một vài bạn gây rối bằng cách thì thầm a nhỏ hơn
b hay b nhỏ hơn a. Kết quá sinh viên đó trả lời sai tương đối cao.
Quá trình hệ thống tín hiệu thứ hai ảnh hưởng lên hệ thống tín hiệu thứ nhất là cơ
sở sinh lý học của tâm lý xã hội, của sự thành công trong nghệ thuật quảng cáo, thuyết
minh, giảng bài… Cảm giác âm thanh, ánh sáng, màu sắc khoảng cách, kích thước, sự cảm
nhận nghệ thuật một phần phụ thuộc vào những gợi ý của ngôn ngữ. Thậm chí đối với việc
chữa bệnh, đôi khi hiệu quá của thuốc và khả năng phục hồi của bệnh nhân cũng phụ thuộc
vào khá nhiều lời thầy thuốc
5.5. Sự hình thành ngôn ngữ ở người
Sự hình thành tiếng nói ở người giống quá trình hình thành phản xạ có điều kiện.
Tiếng nói không phải là bẩm sinh mà do trẻ học được từ người lớn
Các phản xạ hình thành tiếng nói trong giai đoạn trẻ gần được 1 tuổi. Trong thời
gian này trẻ được tiếp xúc với người lớn mà trẻ nhận được phức hợp tiếng nói với những
kích thích cụ thể nào đó hoặc với phức hợp nhiều kích thích cụ thể
Ví dụ: người lớn nói mẹ và đồng thời chỉ vào mẹ
Ở giai đoạn đầu tiếng nói chưa trở thành kích thích độc lập mà chỉ có tác dụng khi
xuất hiện với tác nhân cụ thể và tiếng nói lúc này chí có tác dụng phối hợp với các kích
thích cảm giác, vận động, với kích thích thính giác. Chính vì vậy, nếu thay đổi một trong
những yếu tố của phức hợp các kích thích thì tiếng nói không gây ra phản ứng
Nhờ sự lặp đi lặp lại giữa tiếng nói và kích thích cụ thể trong các hoàn cảnh khác
nhau, tiếng nói dần dần chiếm ưu thế vá các kích thích cụ thể sẽ giảm dần ý nghĩa của
chúng trong phức hợp kích thích. Lúc này hỏi mẹ đâu, dù không có người mẹ ở đó và hỏi
bất kỳ nơi nào trẻ cũng hiều và trả lời câu hói và có phản ứng nhất định. Cuối cùng, yếu tố
âm thanh cũng mất đi ý nghĩa của nó và bây giờ không phụ thuộc vào các yếu tố khác trong
phức hợp kích thích và có thể gây ra phản xạ có điều kiện